Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

đề tài lịch sử truyền hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (606.93 KB, 41 trang )

Luận văn
Đề tài: Lịch sử truyền hình
1
Luận văn 1
Đề tài: Lịch sử truyền hình 1
MỞ ĐẦU 3
Với hình ảnh và âm thanh sinh động cùng với sự hỗ trợ đắc lực của công
nghệ, truyền hình ngày càng khẳng định vị thế cũng như sức mạnh to lớn
của mình trong đời sống xã hội 3
Phần I - LỊCH SỬ TRUYỀN HÌNH 4
Phần II – SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG NGHỆ TRUYỀN HÌNH 9
I - SỰ RA ĐỜI CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG 9
II - Bước đột phá của công nghệ truyền hình 15
Tài liệu tham khảo 41
2
MỞ ĐẦU
Trong sự vận động lịch sử văn hoá nhân loại, báo chí ra đời khá muộn.
Phải đến cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, những tờ báo đầu tiên mới xuất
hiện ở một số nước châu Âu. Ở nước ta, báo in bằng chữ quốc ngữ xuất hiện
vào giữa thế kỷ XIX, khởi đầu là tờ Gia Định báo (ra số đầu tiên ngày 1-4-
1865).
Trong báo chí, có các thể loại báo chí như : báo in, báo phát thanh, báo
truyền hình, báo mạng điện tử. Truyền hình tuy ra đời sau so với báo in hay
phát thanh nhưng với thế mạnh về sự tích hợp các loại hình truyền thông và
sử dụng hình ảnh sống động, âm thanh, ngôn từ, tác động đến hàng triệu
người cùng một lúc…đã làm cho truyền hình nhanh chóng trở thành một loại
hình truyền thông có sức nặng và sự “công phá” rất lớn trong các vấn đề mà
báo chí đề cập. Đặc biệt, trong thời đại công nghệ số ngày nay, với sự biến
chuyển nhanh chóng của xã hội, nhiều vấn đề được đặt ra cần sự vào cuộc
của báo chí mà trong đó cần những bước đi tiên phong của truyền hình.
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều công nghệ mới được ứng


dụng vào trong truyền hình nh ư truy ền h ình
Với hình ảnh và âm thanh sinh động cùng với sự hỗ trợ đắc
lực của công nghệ, truyền hình ngày càng khẳng định vị
thế cũng như sức mạnh to lớn của mình trong đời sống
xã hội.
3
Phần I - LỊCH SỬ TRUYỀN HÌNH
Truyền hình, hay còn được gọi là TV hay vô tuyến là một loại máy thu
hình truyền tải nội dung chủ yếu bằng hình ảnh sống động và âm thanh kèm
theo
Năm 1920, hai nhà khoa
học Mỹ Charles Francis
Jenkins và nhà khoa học
Anh John Logie Baird đã
tạo ra vật mẫu thành công
đầu tiên của chiếc TV.
Năm 1927, một người Mỹ
trẻ tuổi là Philo Taylor
Farnsworth đã phát triển
thành công phiên bản thương
mại ống tia cực âm nhằm phát
tín hiệu truyền hình điện tử và
đây là bước đột phá trong
nghệ truyền hình của nhân
loại.
4
Năm 1930, một vài tiêu chuẩn của công nghệ TV cùng xuất hiện và
cạnh tranh để thống trị thị trường non trẻ này. Một trong những sản phẩm
chiếm ưu thế là chiếc EMI-Marconi. Năm 1950 có thể chạy 25 khung
hình trên một giây và khá phổ biến tại Anh. Một tiêu chuẩn TV khác có

thể chạy 30 khung hình trên giây và chủ yếu phát triển tại Mỹ.
Chiếc TV thương mại thành công đầu tiên bắt đầu xuất hiện tại các
showroom ở Mỹ vào đầu những năm 1950
5
Sự phát triển của truyền hình đã đưa các thần tượng nghệ thuật vào
tận các phòng khách nhiều gia đình khắp nước Mỹ, giúp các nam diễn
viên như Milton Berle, Jack Benny và Henny Youngman (trong TV của
bức ảnh) trở nên nổi tiếng.
Ngay khi nhận thấy
nội dung trên TV có giá
trị khai thác, các công
ty lập tức lao vào chạy
đua trong ngành truyền
hình. Thực tế này dẫn
đến sự cần thiết phải có
quy định về tần số phát
sóng của các kênh. Đây
là bức ảnh chụp năm
1952 tại Mỹ với các
kiểu cần antenna thu
phát sóng truyền hình
khác nhau.
6
Sức mạnh của TV là việc phát trực tiếp những bước đi lịch sử của nhà
du hành Mỹ Neil Amstrong trên mặt trăng, ngày 20/1/1969
Nỗ lực phát triển TV màu xuất hiện từ đầu những năm 1950 và chiếc
đầu tiên được hãng RCA giới thiệu năm 1954. Nhưng phải đến những
năm 1960 việc bán các TV màu mới bắt đầu sinh lợi. Tới năm 1974 thì
TV màu đã trở thành biểu tượng cho các gia đình giàu có tại Mỹ.
7

Khi TV đã phổ biến trong các gia
đình Mỹ, giới phát minh lại lao vào
tìm cách thu nhỏ chúng để khách
hàng có thể xem bất cứ đâu khi đang
đi trên đường. Năm 1959, hãng
Philco đưa vào thị trường chiếc TV
chỉ có màn hình rộng 2 inch và có
thể thu cả sóng radio.
Cho tới những
năm 1980, ngành
truyền hình Mỹ do 3
mạng lưới chính
thống trị, trong khi
khán giả tại các nước
châu Âu và châu Á bị
giới hạn trong các lựa
chọn chương trình.
Nhưng với sự xuất
hiện của công nghệ
truyền hình cáp và vệ
tinh đã khiến tình
hình thay đổi và khán
giả có nhiều lựa chọn
đa dạng hơn.
8
Phần II – SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG NGHỆ TRUYỀN
HÌNH
I - SỰ RA ĐỜI CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG
Những tiến bộ nhanh chóng của công nghệ đã buộc các đài phát thanh
truyền hình phải điều chỉnh việc phát sóng sau những làn sóng của sự thay

đổi. Ngành công nghiệp này hầu như đã biến đổi tất cả những khía cạnh
trong hoạt động của mình – cách thức các đài phát thanh truyền hình đưa ra
chương trình phát sóng và họ làm chương trình như thế nào, và những gì mà
khán giả cần và khi nào họ cần.
Michael Murrie là Giáo sư viễn thông của Đại học Pepperdine tại Malibu,
bang California. Ông cũng viết bài cho các tạp chí chuyên ngành và học
thuật về các phương tiện truyền thông điện tử.
Sự vinh quang của các đài phát thanh truyền hình Hoa Kỳ trong những câu
chuyện về đấu tranh để tồn tại và thành công.
Đài phát thanh tồn tại được qua thách thức do sự ra đời của truyền hình nửa
thế kỷ trước là nhờ nó đã trở thành một phương tiện xách tay và thay đổi nội
dung từ việc tập trung vào kịch nói sang âm nhạc dành cho khách đi lại bằng
xe buýt hay tàu hỏa. Đài phát sóng AM tồn tại được trước sự phát triển của
đài phát sóng FM nhờ việc đưa ra được các chương trình tin tức và thảo luận
mang tính kích thích suy nghĩ người nghe.
Trong một nửa thế kỷ, truyền hình đã trở thành công cụ giải trí trên cả nước
vào mỗi tối. Người dân Mỹ cùng ngồi với nhau để xem các nhân vật yêu
thích, các chương trình thể thao và thông tin về các sự kiện lịch sử. Truyền
hình vẫn là nguồn cung cấp tin tức và phương tiện quảng cáo chủ yếu có thể
thu hút sự chú ý nhiều nhất của người Mỹ.
Tuy nhiên, ngày nay những thay đổi trong công nghệ, trong cách hành xử
của khán giả và các mô hình kinh doanh đang liên tục thách thức hoạt động
phát sóng truyền thống.
9
Những đối thủ cạnh tranh cũ
Mặc dù những đĩa CD nhạc chất lượng cao xuất hiện, song đài phát thanh
vẫn thu được lợi nhuận nhiều hơn bao giờ hết trong thập kỷ 1990 sau khi có
những thay đổi về quy định của Chính phủ Hoa Kỳ cho phép sự hợp nhất và
sự phát sóng đồng thời cùng một chương trình của nhiều đài phát thanh khác
nhau trong cùng một khu vực đô thị, cũng như sang nhiều khu vực khác.

Tuy vậy, kết quả thường là các chương trình hay nhưng thiếu thông tin về
địa phương.
Hội đồng Truyền thông Liên bang đã cấp phép hoạt động cho 13.450 đài
phát thanh trong năm 2003, gấp hai lần số lượng đài được cấp phép năm
1970. Hoa Kỳ là một trong số ít quốc gia trên thế giới mà ở đó các đài
thương mại, với con số khoảng 10.000, lại lấn lướt đài phát thanh của chính
phủ.
Truyền hình gặp phải trở ngại đầu tiên của nó khi hệ thống ăng-ten dùng
chung hoặc hệ thống truyền hình cáp bắt đầu bắt được tín hiệu từ các đài
truyền hình khác và sau đó có thêm các kênh như CNN hoặc MTV. Những
đài nhỏ của cá nhân bắt đầu hợp nhau lại thành các nhóm khi truyền hình
cáp xuất hiện ở các khu vực đô thị trong những năm 1980. Các đài truyền
hình cố gắng giữ khán giả của mình bằng việc nhấn mạnh rằng các quy định
quốc gia yêu cầu các hệ thống cáp phải hỗ trợ các đài truyền hình địa
phương.
Sự cạnh tranh gia tăng trong những năm 1990 do sự xuất hiện của các vệ
tinh phát sóng trực tiếp, dịch vụ đầu tiên với tín hiệu kỹ thuật số. Truyền
hình cáp cũng đưa ra các dịch vụ kỹ thuật số, làm tăng số lượng kênh từ một
vài chục lên hàng trăm.
Theo thời gian, đặc biệt là khi những quy định về sở hữu được nới lỏng, các
đài truyền hình đối mặt với sự cạnh tranh về các quyền lợi thu được khi làm
chương trình phát sóng. Hiện nay, trong số năm tập đoàn truyền thông hàng
đầu của Hoa Kỳ, tất cả đều sở hữu các kênh truyền hình cáp và ít nhất cũng
sản xuất một số chương trình truyền hình. Bốn trong số chúng sở hữu các hệ
thống phát hình qua cáp, bốn sở hữu các đài và mạng lưới truyền hình phát
sóng, ba sản xuất phim truyện và hai sở hữu hàng trăm đài phát thanh. Mối
quan hệ qua lại giữa chúng và với những tập đoàn truyền thông hàng đầu
khác là phức tạp và khó theo dõi.
10
Trong khi đó, cả phát thanh và truyền hình đều phải đối mặt với việc khán

giả có thể xem qua lịch phát sóng và ghi lại các chương trình vào băng cát-
xét hoặc băng video rồi xem lại khi có thời gian. Đã hàng thập kỷ, quá trình
này thật rắc rối và phức tạp để được coi là một nhân tố quan trọng, cho đến
khi ra đời thiết bị TiVo (một thiết bị quay video kỹ thuật số dùng cho TV cá
nhân) và những thiết bị tương tự có thể sắp xếp chương trình, đơn giản hóa
việc ghi và loại bỏ các chương trình quảng cáo. Đó là lúc tầm quan trọng của
lịch phát sóng bắt đầu giảm đi và bắt đầu một xu hướng hướng tới sự kiểm
soát thuộc về người xem.
Sau đó, trong những năm 1990, số lượng các hộ gia đình sử dụng TV giảm
đi, có lẽ bởi vì người ta quá bận rộn để xem TV. Các bộ phim trên đĩa DVD,
mạng Internet, các trò chơi video và các phương tiện mới khác cũng vào
cuộc cạnh tranh. Theo ngân hàng đầu tư truyền thông Veronis Shuler, vào
năm 2000, tỉ lệ thời gian dùng để xem TV so với thời gian dùng Internet là
8/1, nhưng tỷ lệ này đã giảm còn 4/1 vào năm 2005.
Internet đặt ra những thách thức cạnh tranh song cũng mang đến những cơ
hội cho các đài phát thanh truyền hình. Các nghiên cứu cho thấy, có một số
người vừa vào Internet vừa xem TV cùng một lúc. Truyền hình có thể quảng
cáo cho các chương trình của mình với những tin tức và thông tin về lịch
phát sóng trực tuyến. Một đài phát thanh địa phương cũng có thể giới thiệu
các chương trình của mình ở bất cứ đâu trên thế giới với một đường kết nối
Internet. Các đài phát thanh truyền hình có thể hướng khán giả vào những
trang web của mình để có được thông tin chi tiết hơn, song họ cũng cảm
thấy khó khăn hơn trong việc hướng khán giả của các trang web tới các
chương trình tin tức.
Mặc dù tổng lượng tin tức được xem tăng lên song các nhà đưa tin đã phải
đối mặt với việc khán giả hay thay đổi và khó tính hơn. CNN và các đài
khác cung cấp tin tức, dự báo thời tiết và tin thể thao bất cứ khi nào mà
người xem cần chúng. Nhiều kênh khu vực chỉ phát toàn tin tức khác cũng
học theo cách làm đó. Các đài đưa tin địa phương và đưa tin qua mạng cũng
gia tăng số lượng các chương trình, đặc biệt là vào các buổi sáng.

Không còn những hạn chế về thời gian phát sóng nữa. Tin tức luôn có sẵn và
được cập nhật. Các phóng viên than phiền rằng họ không có thời gian để viết
các câu chuyện bởi vì họ luôn phải đưa được các tin tức mới và trực tiếp.
Việc đưa tin nhanh chóng 24 giờ mỗi ngày cũng như các thông điệp tức thì
từ Internet đã làm cho những người cung cấp tin, chẳng hạn như các nhà
11
chính trị và các chuyên gia quan hệ công chúng, có ít thời gian hơn để phản
ứng, đặc biệt là khi những kênh chỉ phát toàn tin tức làm cho cuộc khủng
hoảng này thêm trầm trọng với những cuộc phỏng vấn phát trực tiếp qua vệ
tinh. Nhiều người xem đã liên tục chuyển kênh từ tin tức sang thời tiết, tin
thể thao hoặc chương trình giải trí. Một số chương trình tin tức thậm chí còn
tăng số lần quảng cáo cho những tin sắp đưa của mình nhằm kéo những
người xem lướt qua các kênh quay trở lại với kênh tin của mình nếu họ
chuyển sang kênh khác.
Phần quan trọng nhất trong các chương trình tin tức của Hoa Kỳ, chương
trình tin tức buổi tối đã bị mất dần khán giả mặc dù đã có những cố gắng để
làm cho các chương trình tin tức trở nên độc đáo thông qua việc đưa thêm
thông tin về bối cảnh và giải thích nhiều hơn. Năm 2005, ba mạng lưới đã
mất đi người dẫn chương trình hàng đầu trong các chương trình tin tức hay
nhất của mình - những nhân vật đã xuất hiện trong hàng thập kỷ - do họ nghỉ
hưu hoặc chết.
Tuy nhiên, các đài phát thanh truyền hình đã tìm được những công nghệ tiên
tiến để cải thiện việc đưa tin của mình. Các chương trình tin tức sử dụng
những hình họa mang tính hiện thực, đặc biệt là những hoạt ảnh về thời tiết
mô tả hướng đi của các cơn bão. Các tin tức trực tiếp phát qua vệ tinh đến từ
khắp nơi - thậm chí là một tàu chở máy bay hay một đoàn xe quân sự đang
lăn bánh qua một sa mạc. Lần đầu tiên, những người dân thường được theo
dõi chiến tranh ở nước ngoài theo cách nó diễn ra. Những phóng viên theo
chân các binh lính trong cuộc chiến Iraq mới đây nhất cũng có các tài khoản
cá nhân trên các trang tin Internet, ngoài việc họ vẫn thường xuyên đưa tin

qua đài phát thanh truyền hình.Tin tức vẫn hấp dẫn đối với người xem và
vẫn sinh lời.
Xét chung, doanh thu của đài phát thanh (19,3 tỉ đô-la) và của truyền hình
(44,8 tỉ đô-la) đạt cao nhất vào năm 2000 và giảm dần trong những năm tiếp
theo. Truyền hình đã phục hồi, phát thanh vẫn chưa có dấu hiệu khả quan.
Truyền hình cáp thì vẫn tăng đều đặn.
Vấn đề của lĩnh vực phát thanh sâu xa hơn, với tỉ lệ giảm 13% lượng khán
giả trong giai đoạn 1995 – 2005. Doanh thu từ quảng cáo giảm, và do đó giá
trị của đài giảm – đã làm cho một số nhà sở hữu mất đi những khoản doanh
thu khổng lồ, chẳng hạn như tập đoàn phát thanh lớn nhất Clear Channel đã
mất 17 tỉ đô-la trong năm 2002 và 4,9 tỉ đô-la trong năm 2005. Năm 2004,
Clear Channel đã giảm thời gian dành cho quảng cáo khoảng 20% để giữ
12
chân những khán giả có vẻ như không thỏa mãn với quá nhiều chương trình
quảng cáo. Chiến lược là tăng giá và giảm thời gian dành cho quảng cáo.
Năm nay, có một số dấu hiệu cho thấy chiến lược này có vẻ hiệu quả, song
các đài phát thanh vẫn phải đối mặt với những vấn đề khác, trong đó có cuộc
điều tra về payola (trả tiền mặt hoặc tặng quà để được phát trên đài phát
thanh). Các đài phát thanh sử dụng vệ tinh liên tục tăng lên như một loại
hình thay thế cho các đài thương mại và ngoài ra, sự cạnh tranh còn đến từ
iPod (thiết bị nghe nhạc số) và các thiết bị kỹ thuật số tương tự vừa tiện
dụng vừa làm cho âm nhạc có thể đi theo người.
iPod và các thiết bị tương tự có thể lưu trữ các nội dung phát thanh để nghe
lại. Quy trình này, được goi là podcasting, cũng giống như thiết bị TiVo
dành cho đài phát thanh. Nội dung có thể thay đổi từ các chương trình phát
thanh quốc gia đến loại hình tin trên trang web hay tin tức được sản xuất tại
nhà.
Từ lâu, người nghe đã có thể ghi lại chương trình phát thanh và nghe lại
bằng thiết bị di động, song họ chưa bao giờ có nhiều nội dung, sự đa dạng,
sự kiểm soát và khả năng để quản lý thông tin nhiều đến vậy.

Từ nhiều năm, ngành công nghiệp truyền hình đã nhìn thấy trước được việc
tăng cường chất lượng – truyền hình với độ phân giải cao (HDTV). Bây giờ
thì cuối cùng nó đã đến, dù là muộn nhiều năm.
Các đài phát thanh sử dụng kỹ thuật số cũng đã được phát triển trong nhiều
năm, với cam kết đưa ra những thiết bị thu có chất lượng như nghe từ CD và
được cải thiện rất lớn, song ngành công nghiệp này vẫn thiếu sự táo bạo
nhằm tạo ra được sự đầu tư lớn cần thiết cho việc nâng cấp rộng lớn như
vậy. Công nghệ cho phép một đài phát thanh tiếp tục phát tín hiệu tương tự
thường xuyên của nó đồng thời tăng tín hiệu sử dụng kỹ thuật số.
Những đối thủ cạnh tranh mới
Có lẽ truyền hình phát sóng và truyền hình cáp đã bước vào thế kỷ 21 cùng
với HDTV, những kênh mới; và cũng không khác là mấy đối với những
bước nhảy vọt về công nghệ trong những năm 1990 là dịch vụ Internet băng
thông rộng phù hợp túi tiền và công nghệ nén phim video.
Dịch vụ băng thông rộng là DSL (đường truyền kỹ thuật số) do các công ty
điện thoại phát minh, và mô-đem cáp do truyền hình kỹ thuật số sáng tạo ra.
13
Những dịch vụ này đưa Internet tốc độ cao và phù hợp túi tiền tới các hộ gia
đình và các công ty nhỏ.
Công nghệ nén video kỹ thuật số mô tả mọi bit thông tin trong một cấu trúc
video kỹ thuật số, tìm kiếm những thông tin không cần thiết hoặc thông tin
mà con người không hiểu, thu gọn chúng và loại bỏ những gì không cần
thiết. Kết quả là tín hiệu được làm phù hợp với ổ cứng của máy tính và còn
có thể lưu hành được trên Internet. Hàng chục tín hiệu nén này được đưa vào
các ống hoặc đường dẫn điện tử mà mỗi lần chỉ có thể xử lý được một tín
hiệu video. Với bộ nhớ lớn hơn và tốc độ xử lý tốt hơn, các máy tính đặt bàn
có thể dễ dàng chạy hay thậm chí là chỉnh sửa phim video, nhanh chóng
giúp hạ bớt các rào cản đối với các nhà sản xuất nhỏ độc lập.
Công nghệ nén video kỹ thuật số giúp làm cho các tiêu chuẩn truyền hình kỹ
thuật số mới có thể thực hiện được thông qua sự ủng hộ của Chính phủ Liên

bang. Chính phủ yêu cầu các đài truyền hình chuyển được tất cả các kênh và
tín hiệu phát sóng analog sang kỹ thuật số vào năm 2009. Sau những năm
ngần ngại đầu tư vào việc chuyển đổi, hầu hết các đài cuối cùng đã phát
sóng theo các tiêu chuẩn kỹ thuật số mới, trong đó thường là HDTV. Các
máy thu hình kỹ thuật số đã trở nên phù hợp túi tiền và người tiêu dùng cuối
cùng đã mua chúng. Các màn hình HDTV lớn thậm chí đã lại có thể kéo mọi
người trong gia đình vào phòng khách để cùng xem TV, tất nhiên đi cùng
với nó là việc màn hình TV cũng ngày càng trở nên nhỏ hơn và có thể di
động cùng người xem cá nhân.
Với những thách thức đến từ iPod đối với các đài phát thanh thương mại,
các mạng truyền hình cũng đã nhân cơ hội sản xuất các chương trình vào giờ
cao điểm chỉ với giá 1,99 đô-la mỗi chương trình khi Apple cho ra đời loại
iPod mới có thể xem video được. Có dấu hiệu cho thấy động thái này có thể
giúp thu hút được khán giả.
Tuy nhiên, phương tiện truyền thông mới này đã đe dọa tương lai của loại
hình quảng cáo trên truyền hình truyền thống vốn có lợi nhuận cao. Hai biện
pháp cung cấp tài chính thay thế là phí đăng ký và phí trả cho mỗi chương
trình. Bất kỳ ai cũng có thể đưa phim video lên Google để lưu hành miễn phí
hoặc để mua bán. Các chương trình truyền hình trả tiền theo chương trình
cũng sẵn có trên đài truyền hình cáp hoặc đài phát thanh truyền hình trực
tiếp qua vệ tinh, cũng giống như việc xem và trả tiền theo từng phim. Hiện
nay, các công ty sản xuất, nhà viết kịch, diễn viên, các mạng lưới truyền
thanh và những đối tượng khác đang tranh chấp xem liệu doanh thu được
14
phân chia như thế nào.Các đài truyền hình có thể còn có thêm nhiều thách
thức, lớn và nhỏ khi mà Internet cho lưu hành nhiều phim hơn nữa. Các
công ty công nghệ thông tin và viễn thông đang cho ra đời IPTV (TV dùng
giao thức Internet).
II - Bước đột phá của công nghệ truyền hình
Trước đây, để thu sóng truyền hình, khán giả chỉ cần một tivi (TV) và

một anten xương cá. Ngày nay, khán giả có thể lựa chọn nhiều công
nghệ.
Theo kỹ sư Đặng Tấn Mầu, nguyên Trưởng phòng Kỹ thuật Đài Truyền
hình TPHCM, Chi hội trưởng Chi hội Vô tuyến điện - điện tử TPHCM,
tổng số kênh mà khán giả thu được qua các hệ thống kỹ thuật truyền
hình hiện nay có thể sử dụng tại TPHCM hiện lên đến gần 1.000 kênh
sóng.
Từ năm 1993, với sự xuất hiện của Công ty Truyền hình Cáp Sài Gòn
Tourist (SCTV), khán giả truyền hình TPHCM đã có thêm 2 công nghệ
truyền hình mới để lựa chọn, đó là MMDS (truyền hình viba) và truyền hình
dây dẫn (CATV). Ở thời điểm đó, khi CATV chỉ mới có một số tuyến
đường, thì công nghệ MMDS với ưu thế vượt trội của công nghệ vô tuyến đã
thu hút được một lượng khán giả đáng kể ở các quận trung tâm (như quận
1,3 5, 10…).
Không chỉ dừng lại đó, 5 năm sau đó, phát huy thành quả đã đạt được,
MMDS tiếp tục nâng cấp, mở rộng phục vụ khán giả không chỉ trên toàn địa
bàn TPHCM mà còn vươn ra nhiều tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương,
Long An và Bà Rịa - Vũng Tàu…
Trong khoảng thời gian đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, một số cơ quan,
đơn vị của TPHCM cũng bắt đầu sử dụng truyền hình vệ tinh. Những kiểu
anten thu hình rất mới lạ đã bắt đầu xuất hiện trên những mái nhà thành phố.
Đó là TVRO (công nghệ truyền hình vệ tinh). Công nghệ này cùng với
MMDS và CATV đã tạo nên bước đột phá trong quá trình phát triển công
nghệ thu sóng truyền hình ở TPHCM, đồng thời hình thành nên một cuộc
cạnh tranh khán giả giữa MMDS và TVRO.
Cũng theo kỹ sư Đặng Tấn Mầu, năm 1998, công nghệ truyền hình số DTH
đã bắt đầu xuất hiện ở thành phố với các anten parabol nhỏ gọn thu truyền
15
hình cáp vệ tinh. Đến năm 2001, công nghệ truyền hình số mặt đất được Đài
PTTH Bình Dương triển khai với vùng phủ sóng rộng, bao gồm cả TPHCM

và một vài tỉnh lân cận. Đến năm 2003, công nghệ truyền hình số mặt đất
tiến thêm một bước quan trọng với việc Đài Truyền hình TPHCM lên sóng
truyền hình số, còn truyền hình số Bình Dương thì nâng số chương trình
phát lên gấp đôi (16 chương trình).
Cuộc cạnh tranh của công nghệ truyền hình số bấy giờ đã bước vào giai
đoạn cao trào khi mà thời điểm tháng 10-2004, Đài Truyền hình Việt Nam
triển khai công nghệ truyền hình số qua vệ tinh - DTH phủ sóng toàn quốc,
trong đó TPHCM là một thị trường trọng điểm, nhiều tiềm năng. Tiếp đến,
chưa đầy một năm sau (tháng 5-2005), Đài Truyền hình TPHCM chính thức
đưa vào hoạt động hệ thống truyền hình CATV và truyền hình cáp vô tuyến
Hyper Cable, sau khi lần lượt cả 2 kênh 7 và 9 đã được phát qua vệ tinh với
công nghệ DVB-S.
Trước đó, tháng 4-2005, Công ty Đầu tư phát triển công nghệ truyền hình
Việt Nam (VTC) thuộc Bộ Bưu chính - Viễn thông cũng lên sóng đài phát
truyền hình số thứ 3 phủ sóng ở khu vực TPHCM, khiến cho cuộc cạnh
tranh công nghệ truyền hình càng trở nên gay gắt. Và như vậy, cho đến nay,
một số lớn công nghệ truyền hình hiện đại đã được triển khai ở TPHCM. Có
loại truyền hình trả phí, có loại truyền hình miễn phí (có thể chỉ thu phí qua
thiết bị), nhưng tất cả đã hình thành một cuộc cạnh tranh công nghệ truyền
hình nhằm thu hút tối đa số lượng khán giả về phía mình.

III - Công nghệ truyền hình Việt Nam
Nếu vẽ một biểu đồ về tốc độ thay đổi công nghệ trong truyền hình thì sẽ
thấy đường biểu diễn từ cuối thập niên 60 đến cuối thập niên 90 gần như rất
ít thay đổi.
LCD ra đời làm một cuộc cách mạng trong truyền hình
Phải nói kỹ thuật cấy những bóng bán dẫn phát sáng đã cho ra những tấm
LCD panel đã cải tiến đáng kể độ phân giải truyền hình. Tivi LCD ngày
càng sáng hơn và độ phân giải ngày càng cao hơn. Hình ảnh được tái tạo
không phải bằng kỹ thuật tương tự (analog) mà bằng kỹ thuật rời rạc từng

ảnh điểm (pixel), từ đó khái niệm TV số (digital) ra đời.
16
Những năm đầu thế kỷ 21, Tivi LCD phát triển mạnh mẽ và người ta chứng
kiến sự chuyển tiếp giữa analog và digital. Nếu đỉnh cao của truyền hình
analog là độ phân giải SD (độ nét bình thường) với chuẩn DVD 720x576 thì
đỉnh cao của truyền hình digital hoàn toàn chưa có điểm dừng. Chất lượng
DVD đã lùi về quá khứ, nhường bước cho HD (độ nét cao) ra đời. Hiện nay,
người ta còn có HD-ready và Full-HD.
Tại Việt Nam, thị trường đã có nhiều loại Tivi LCD đạt chuẩn độ nét Full-
HD 1920x1080. Tuy nhiên chưa có nguồn phát tín hiệu cho các Tivi này trừ
các kênh thử nghiệm trong truyền hình cáp. Muốn xem được độ phân giải
Full-HD, người ta phải mua các đầu máy thế hệ mới như Blu-ray nhưng việc
tìm kiếm đĩa phim cho các đầu máy này không dễ dàng gì.
Bởi độ nét cao tức nhiều ảnh điểm (pixel), mỗi frame hình chứa đến 2 triệu
pixel khiến lượng thông tin truyền đi trong mỗi giây vô cùng lớn, người ta
phải dùng nhiều giải thuật nén để tiết kiệm đường truyền và cả vật chứa
phim ảnh độ nét cao. Thông thường, phim được chứa trong đĩa quang học
(như blu-ray) hoặc đĩa cứng HDD. Thiết bị phát hình và truyền dẫn cho Full-
HD bởi vậy rất đắt tiền. Người tiêu dùng mua một chiếc Tivi thì dễ nhưng
nhà đài muốn phát truyền hình Full-HD thì sẽ trở ngại trong kính phí đầu
tư.
Truyền hình sẽ phát triển như thế nào?
Trong lãnh vực truyền hình, phim nhựa tuy vẫn còn ưu thế nhưng là mục
tiêu để các nhà khoa học truyền hình hướng đến. Cách đây 3 năm, người ta
đã giới thiệu chuẩn truyền hình Quad-HD (4 lần HD) 3840x2160. Độ nét
của chuẩn này gấp 4 lần Full-HD.
Chưa hết, chính phủ Nhật còn dự định đến năm 2015 sẽ phát hình Ultra-HD
có độ nét gấp 4 lần chuẩn Quad-HD tức 7680x4320 tương đương 33 mega
pixel, có độ nét có thể cạnh tranh với phim nhựa 35mm. Lúc đó, trong thí dụ
về sân bóng đá với 22 cầu thủ nêu trên, người xem có thể xem chi tiết đến

mức… thấy rõ ánh mắt cầu thủ liếc đi đâu trước khi chuyền bóng.
Truyền dẫn chương trình truyền hình ra sao?
Chất lượng hình ảnh có thể tiến đến chất lượng phim nhựa. Đó là mong
muốn của các nhà khoa hoạc công nghệ nhưng về mặt truyền dẫn chương
trình, sẽ có cuộc cạnh tranh gay gắt giữa hai trường phái:
17
1. Truyền hình số vệ tinh DTH, truyền hình số bằng cáp quang đến nhà
Trường phái cổ điển này cho phép người dùng có thể xem cả ngàn chương
trình. Tuỳ vào hoàn cảnh mỗi nước mà tỉ lệ các kênh HD trong đó sẽ nhiều
hay ít. Ở Mỹ, nhà nước chính thức bắt buộc phát sóng HD từ ngày 17-2-
2009. Nhà nào chưa kịp chuyển đổi TV sang HD phải mua một bộ chuyển
đổi giảm (down scale) từ HD đầu vào xuống analog phân giải thấp cho hợp
với TV CRT.
2. Truyền hình tương tác
Còn gọi là Video on Demand (VOD) bằng các giao thức mạng Internet, còn
gọi là truyền hình IP. Tuy có khuyết điểm là giới hạn số kênh HD nhưng ưu
điểm hấp dẫn là người xem có thể chọn xem từng chương trình vào bất kỳ
thời điểm nào mình mong muốn. Thí dụ 19g mỗi ngày sẽ là bản tin thời sự
của VTV nhưng nếu về nhà trễ, vẫn có thể xem trọn bản tin này lúc 7g20
hay bất kỳ lúc nào sau đó.
Tương lai truyền hình ở Việt Nam
Có thể tóm tắt ba xu thế truyền hình Việt Nam trong những năm sắp tới như
sau
1. Truyền hình cáp analog hiện nay với dung lượng 70 kênh sẽ phải thay thế
bằng truyền hình cáp kỹ thuật số để tăng số kênh lên vài trăm, trong đó có
nhiều kênh HD. Quan trọng là người xem truyền hình cáp lúc đó bắt buộc
phải có settopbox.
2. Truyền hình mặt đất sẽ thu hẹp dần dần mà thay bằng DTH với sự tham
gia của vệ tinh Vinasat. Mỗi gia đình sẽ có cái chảo nho nhỏ và đầu thu
settopbox để thu hàng trăm kênh truyền hình, trong đó vẫn có truyền hình

HD
3. Phân hoá giàu nghèo: truyền hình chỉ phát miễn phí những kênh đại
chúng, còn các kênh chất lượng cao sẽ phải tính tiền. Lúc đó mỗi hộp
settopbox sẽ đi kèm thẻ tính tiền và tùy vào mức chi trả nhiều hay ít, người
xem sẽ được xem nhiều hay ít các kênh chất lượng cao.
Theo Báo Tuổi Trẻ Online, 27/11/2008, 05:25 (GMT+7).
18
Phát sóng truyền hình độ nét cao
Ngày 6/1, Đài truyền hình kỹ thuật số VTC chính thức
đưa lên sóng tám kênh truyền độ nét cao nhất (full HD).
Những gia đình sở hữu tivi LCD hoặc Plasma sẽ được
xem hình ảnh sắc nét, khuôn hình vừa với màn hình
16:9 thay thế cho hình ảnh bị kéo giãn, nhòe hiện nay.
Theo ông Lê Đoàn Quân – Giám đốc VTC Mobile, đơn vị
thực hiện dự án truyền hình full HD của VTC, thiết bị thu sóng truyền hình
full HD sẽ được đồng loạt bán trên toàn quốc từ ngày 6/1, ngày chính thức
phát sóng truyền hình HD (HDTV).
Trước mắt, VTC sẽ phát tám kênh truyền hình HDTV, trong đó có ba kênh
do VTC sản xuất là VTC HD1, VTC HD2, VTC HD3. Ông Quân cho biết
ngoài kênh phim truyện với những bộ phim nước ngoài đặc sắc phát 24/24,
VTC sẽ tự sản xuất các chương trình bằng tiếng Việt, trước mắt là phim về
những vùng đất, phong cảnh đẹp. VTC cũng lên kế hoạch sản xuất phim
dạng ký sự quay ở nước ngoài.
“Với HDTV, những bộ phim phong cảnh đẹp sẽ làm nổi bật hiệu quả hình
ảnh. Chúng tôi cũng đã mua bản quyền hàng nghìn phim nước ngoài ăn
khách chất lượng đẹp hiện nay để chiếu trên VTC HD.
Những gia đình có tivi LCD hoặc Plasma full HD màn hình lớn sẽ có thể
thưởng thức phim chất lượng đẹp gần như phim nhựa chiếu ở rạp” – Ông Lê
Đoàn Quân khẳng định.
Năm kênh HDTV nước ngoài bên cạnh ba kênh tiếng Việt phát trên sóng

VTC gồm kênh thể thao ESPN HD, kênh địa lý quốc gia National
Geographic HD, Truyền hình Trung ương Trung Quốc CCTV-HD, kênh
thời trang Fashion TV HD, kênh Luxe TVHD.
Ông Quân cho hay, VTC sẽ phát sóng các kênh truyền hình HDTV qua vệ
tinh. Với dung lượng yêu cầu để phát sóng HDTV rất lớn nên VTC đã phải
mua tới hai bộ phát đáp trong tổng dung lượng 20 bộ phát đáp (bộ thu –
nhận tín hiệu) của vệ tinh VINASAT-1.
Các thiết bị thu
phát HDTV của
VTC.
19
Để xem được truyền hình HDTV, người sở hữu tivi LCD hoặc Plasma phải
mua bộ thu tích hợp giải mã truyền hình số vệ tinh độ nét cao chuẩn HD bao
gồm chảo thu có đường kính 60 – 80 cm và đầu giải mã tín hiệu.
Theo công bố của VTC, bộ thu có giá 3.530.000 đồng này ngoài thu được
tám kênh truyền hình HDTV còn thu được 30 kênh truyền hình chuẩn SDTV
thông thường mà các đài truyền hình đang phát hiện nay.
Nhà nào cũng được xem HDTV.
Đài truyền hình Việt Nam - VTV cũng
đang triển khai thực hiện hai dự án phát
truyền hình HDTV, một dự án phát mặt đất
(tín hiệu thu qua antena bình thường rồi
được giải mã qua đầu thu trước khi hình
ảnh phát qua tivi) và một phát qua cáp
quang.
Ông Ngô Thế Trị - Giám đốc Trung tâm
Tin học và Đo lường VTV, đơn vị thực
hiện dự án phát HDTV mặt đất - cho biết
ngoài mua các kênh truyền hình HDTV
của nước ngoài, VTV sẽ tự sản xuất các

chương trình truyền hình độ phân giải cao.
Ông Trị nhận định, HDTV sẽ thay thế hoàn toàn truyền hình truyền thống
hiện nay. “Chậm nhất là năm năm nữa, truyền hình HDTV sẽ thay thế hoàn
toàn chuẩn SDTV truyền thống hiện nay” – Ông Trị khẳng định.
Giám đốc VTC Mobile Lê Đoàn Quân cũng cho rằng xu thế HDTV là tất
yếu trong thời gian rất ngắn và nhà nhà sẽ xem truyền hình HDTV. Theo
ông Quân, có hai lý do cho thấy truyền hình HDTV sẽ phổ biến.
Trước hết là tivi LCD và Plasma ngày càng rẻ. Hiện đã có thể mua tivi LCD
32 inch với giá năm triệu đồng. Các hãng sản xuất đang chuyển hướng sang
sản xuất tivi bóng hình CRT thông thường sang tivi LCD với kích cỡ nhỏ
nhất là 32 inch.
Sony mới đây đã tuyên bố ngừng sản xuất tivi bóng hình CRT kích cỡ 4:3.
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ khuôn hình 16:9 của HDTV phù hợp hơn cho mắt
HDTV là một công nghệ truyền
hình ảnh với độ nét cao. Hình
ảnh phát từ đài truyền hình
được chia làm các ô nhỏ (hay
có thể gọi là điểm ảnh) rồi
truyền đến tivi của người xem.
Số lượng điểm ảnh trong
HDTV cao hơn đến năm lần
trong truyền hình tiêu chuẩn
SDTV hiện nay mà VTV các
đài truyền hình địa phương
đang phát sóng.
20
của người xem và cũng mang lại nhiều thông tin hơn so với khuôn hình 4:3
của SDTV.
Bên cạnh đó, các đài truyền hình lớn đang vào cuộc ráo riết để phát truyền
hình HDTV nên thiết bị thu ngày càng rẻ, nội dung chương trình phong phú

hơn.
“Với công nghệ được cập nhật liên tục hiện nay, vấn đề dung lượng quá lớn
của HDTV sẽ được giải quyết triệt để. Vấn đề hiện nay đầu tư mua máy thu
hình HDTV từ phía người xem” - Ông Ngô Thế Trị nói. Theo ông Trị, VTV
sẽ phát sóng theo chuẩn HDTV ở cả truyền hình quảng bá (không mất tiền)
và truyền hình trả tiền (cáp, mặt đất).
Theo Tienphong
IPTV 'đua' với truyền hình truyền thống tại Việt Nam
Internet qua cáp truyền hình
Nếu như trước đây, khách hàng thuê bao các kênh truyền hình qua cáp chỉ
có được một dịch vụ duy nhất thì nay mọi chuyện đã khác Ngoài xem
truyền hình với số kênh ngày càng phong phú, họ có thể lướt web với tốc độ
truy cập lên tới 10 Mbps.
Ngay tại Mỹ, quốc gia đi đầu thế giới về công nghệ thông tin, trong tổng số
90 triệu thuê bao truyền hình cáp thì cũng mới có hơn 30 triệu thuê bao truy
cập Internet qua mạng truyền hình cáp (cable modem).
Nhưng xu hướng tương lai cho thấy một thanh niên ghiền Internet sẽ bỏ bớt
thời gian giải trí với truyền hình mỗi ngày một hoặc hai tiếng đồng hồ để
lướt web, nơi anh ta tìm thấy những dịch vụ giải trí đa dạng, hấp dẫn và
hoàn toàn mang tính chất riêng tư.
Ngoài ra, cable modem tăng tốc lướt web cho người sử dụng lên đến hàng
chục megabit mỗi giây và nó trở thành hạ tầng lý tưởng để cung cấp dịch vụ
truyền hình theo yêu cầu (video-on-demand) trên Internet.
Sức quyến rũ của Internet càng lớn khi nó có khả năng thay thế được các
kênh truyền hình truyền thống, khi khán giả được thưởng thức những kỹ xảo
điện ảnh, truyền hình với âm thanh, màu sắc và hình ảnh hoành tráng sống
động.
21
Người ta đang chứng kiến sự xuất hiện của hàng loạt đài truyền hình trên
Internet và thậm chí có thể xuất hiện loại tivi mới, thay vì nối với ăngten hay

cáp đồng trục, chiếc tivi này có cổng vào là một card mạng LAN để nối với
những đài truyền hình trên Internet!
Lướt web sẽ không chỉ còn đơn thuần là đọc chữ, xem ảnh nữa, mà giờ đây
nó bao hàm cả việc xem truyền hình và chơi game trực tuyến.
Tốc độ, giá rẻ khuyến mãi thêm truyền hình
Tại Việt Nam, dịch vụ truy cập Internet trên mạng truyền hình cáp (cable
modem) đã bắt đầu xuất hiện. Đi tiên phong trong lĩnh vực này là dịch vụ
Cable Home và BizNet Cable của Trung tâm viễn thông Thế hệ mới Việt
Nam (VNGT) (//cable.vngt.vn) triển khai trên mạng truyền hình cáp của
công ty truyền hình cáp Hà Nội (BTS). Do vừa thử nghiệm vừa phát triển
nên số thuê bao của sử dụng dịch vụ này còn rất ít, chưa tới 1.000 thuê bao
và tập trung chủ yếu ở các quận trung tâm Hà Nội.
Hiện dịch vụ "cable modem" của VNGT được chia thành hai gói dịch vụ
chính:
- Cable Home - dịch vụ truy nhập Internet tốc độ cao dành cho đối tượng
khách hàng là hộ gia đình với mức giá cước được điều chỉnh để phù hợp với
thu nhập của khách hàng tại VN: mức cước thuê bao tháng khởi điểm từ
100.000 đồng/tháng kèm theo tám tiếng miễn cước download mỗi ngày.
- BizNet Cable - dịch vụ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trọn gói cho phép
các cơ quan doanh nghiệp truy cập Internet với tốc độ download tối đa 10
Mbps, upload tối đa 2 Mbps (cao hơn tốc độ tối đa 8 Mbps download và 600
kbps upload của ADSL), ngoài ra thuê bao BizNet Cable còn được sử dụng
không hạn chế 10 hộp thư điện tử email, một tên miền cấp ba và 5 MB web
hosting kèm theo, với mức chi phí ước lượng từ 230.000 - 1.300.000
đồng/tháng.
Trong khi đó, tuy ra đời sau nhưng với lợi thế có sẵn khách hàng, Công ty
truyền hình cáp Saigontourist (SCTV) cho biết khả năng đáp ứng của SCTV
là 10.000 khách hàng/tháng. Dự kiến ngày 15/8 tới đây, SCTV sẽ chính thức
khai trương dịch vụ MediaNet.
22

Khách hàng hiện đang sử dụng dịch vụ truyền hình cáp của SCTV chỉ cần
khai báo sử dụng thêm dịch vụ MediaNet và mua thêm một cable modem là
có thể sử dụng Internet.
Mức giá dịch vụ MediaNet trên cáp truyền hình dự kiến sẽ rẻ hơn hoặc bằng
với thuê bao ADSL được cung cấp hiện nay.
Truyền hình trực tuyến (IPTV) đang chiếm thị phần ngày một lớn ở các
nước có hạ tầng ADSL và cáp quang phát triển như Mỹ và châu Âu nhưng
vẫn còn là khái niệm tương đối mới ở Việt Nam.
IPTV (Internet Protocol Television) là hình thức sử dụng những tiến bộ công
nghệ mới nhất, cho phép các chương trình truyền hình được phát trên
Internet và người xem chỉ cần một máy tính kết nối mạng, hoặc bộ giải mã
tín hiệu (set-top box) để thưởng thức nội dung họ mong muốn.
Tại châu Á, mô hình này đang bắt đầu phá vỡ thế độc quyền của các kênh
truyền hình truyền thống. Trong năm 2008, thị trường IPTV tại Trung Quốc
đạt 36,3 triệu USD và giới phân tích ước đoán con số này sẽ tăng trưởng gấp
6 lần lên 201 triệu USD trong năm nay.
Ở Việt Nam, các kênh truyền hình cáp và analog chỉ có thể phủ sóng trong
nước còn truyền hình kỹ thuật số qua vệ tinh (DTH) cần có khoản đầu tư lớn
mới có thể phát triển ra thế giới. Do đó, lợi thế của IPTV là tận dụng hạ tầng
mạng Internet sẵn có và khả năng kết nối toàn cầu. Người dùng còn có thể
xem lại mọi chương trình họ thích mà không bị lệ thuộc vào thời gian phát
sóng của Đài.
Một số kênh truyền hình trực tuyến đang tìm lối đi riêng khi mà những dịch
vụ tiện ích của truyền hình truyền thống chưa đủ thỏa mãn nhu cầu của thời
đại công nghệ số. Song song với sự phát triển về dịch vụ ADSL, nhà nước
cũng đã có chính sách mở hơn, cho phép tư nhân tham gia vào lĩnh vực sản
xuất chương trình và sở hữu các kênh truyền hình riêng.
Hiện nay, iTV là dịch vụ truyền hình theo yêu cầu duy nhất tại Việt Nam do
FPT cung cấp. Tín hiệu được truyền qua hạ tầng mạng ADSL và thông qua
bộ giải mã truyền thẳng lên TV. Ngoài những tiện ích thông thường, iTV

còn cho phép xem lại các chương trình đã phát trong vòng 48 giờ của nhiều
kênh nổi tiếng.
23
Trong khi đó, chỉ có NetTV.vn, do công ty DINIL và Tổng công ty truyền
thông đa phương tiện Việt Nam (VTC) phát triển, là kênh truyền hình trực
tuyến thời gian thực trong nước đầu tiên. Những chuyên mục như Công
nghệ và cuộc sống, Thị trường tiêu dùng, Mua sắm, Ẩm thực đều được
NetTV tự dàn dựng và sản xuất độc lập chứ không mượn lại chương trình
của các kênh khác.
Theo bà Nguyễn Mai Anh, Giám đốc truyền thông của NetTV, một trong
những trở ngại cho sự phát triển IPTV tại Việt Nam là yêu cầu đường truyền
ADSL phải đạt trên 300 Kb/giây trong khi các hộ gia đình thường chọn gói
dịch vụ giá rẻ với tốc độ chỉ bằng 1/3. Tuy nhiên, Việt Nam nằm trong số
những quốc gia châu Á có mức tăng trưởng Internet cao, là cơ sở để giới
truyền thông tin tưởng vào tương lai của mô hình truyền hình này trong
khoảng 5 năm tới.
Hơn nữa, hãng nghiên cứu thị trường Infonetics (Mỹ) dự đoán doanh thu
IPTV sẽ đạt 44 tỷ USD trong năm 2009 còn công ty ABI Research cho rằng
sẽ có khoảng 120 triệu thuê bao vào 2010 với tốc độ phát triển mạnh nhất ở
châu Âu, Trung Đông và châu Á.
Truyền hình tương tác – Tăng tính chủ động của khán giả
Năm 2007 có hơn 1 tỉ chiếc điện thoại di động mới đã được bán ra, nâng
tổng số điện thoại di động của người sử dụng hiện nay lên gần 3 tỷ chiếc
– tương đương gần nửa số dân thế giới. Đây là một trong những phương
tiện góp phần không nhỏ gia tăng sự tương tác của khán giả với truyền
hình. Nhờ sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, sự tiếp nhận
thông tin, mức độ tương tác của khán giả với chương trình truyền hình
ngày càng chủ động và phong phú.
Một số mức độ tương tác giữa khán giả với truyền hình
Thứ nhất: tương tác đơn giản – có thể hiểu là sự tương tác với chiếc tivi.

Người xem hoàn toàn chủ động trong việc tiếp nhận, lựa chọn nội dung
thông tin. Chương trình phù hợp thoả mãn với nhu cầu của khán giả, họ tiếp
tục theo dõi còn không thì người xem sẽ nhanh chóng chuyển kênh.
Việc tương tác - chuyển đổi thường được thực hiện thông qua chiếc điều
khiển (remote). Hình thức tương tác này thể hiện sự quan tâm, tán thành
hoặc không tán thành; yêu thích hoặc không của khán giả đối với chương
trình. Chẳng hạn, khán giả đang theo dõi chương trình tin tức thời sự nhưng
24
một số thông tin trong bản tin chậm hơn so với các loại hình báo chí khác
đồng thời hình thức thể hiện lại không có gì sinh động, không hấp dẫn được
người xem, để không mất thời gian họ có thể chuyển kênh và vô số chương
trình, chuyên mục hấp dẫn khác đang chờ đón họ.
Thứ hai: Tương tác phức hợp - tương tác để mở rộng thông tin. So với
mức độ thứ nhất thì ở đây hình thức tiếp cận thông tin của khán giả phức tạp
hơn. Ngoài thông tin được cung cấp từ truyền hình, người xem có thể mở
rộng thông tin về vấn đề đó bằng việc tìm kiếm, trao đổi, thảo luận với bạn
bè, với những người làm chương trình qua mạng internet hay điện thoại di
động. Với mức độ này thông tin mà khán giả nhận được không còn bị bó hẹp
ở việc nhà đài cho “ăn” món gì được thưởng thức món đó nữa mà thông tin
của đài chỉ là những chấm phá, gợi mở từ đó khán giả chủ động khám phá
tận cùng của vấn đề.
Với hình thức này khán giả thực sự hiểu rất sâu vấn đề. Tuy nhiên để hình
thức tương tác này có thể thực hiện được thì khán giả phải có trong tay ít
nhất một phương tiện công nghệ đó có thể là một chiếc điện thoại di động
hoặc một máy vi tính nối mạng.
Thực tế điều kiện này đặt ra cũng không phải là khó đối với đối với đông
đảo bạn xem truyền hình sống trong thời đại công nghệ cao như hiện nay.
Theo thống kê của hãng IDC (Công ty chuyên nghiên cứu thị trường điện
thoại toàn cầu), năm 2007 có hơn 1 tỉ chiếc điện thoại di động mới đã được
bán ra, nâng số điện thoại di động của người sử dụng hiện nay lên gần 3 tỷ

chiếc – tương đương số dân nửa thế giới. Đây là một trong những phương
tiện góp phần tăng sự tương tác của khán giả với truyền hình.
Tin nhắn SMS đang phát triển với tốc độ chóng mặt. Trung bình mỗi
tháng trong năm vừa qua có hơn 5 tỷ tin nhắn đã được gửi đi trên toàn thế
giới so với con số gần 2,8 tỷ so với năm ngoái. Và việc số lượng máy tính
nối mạng toàn cầu để truy cập thông tin ở các trang web hay xem phim,
nghe nhạc xem tin tức truyền hình cũng ngày một gia tăng.
Như vậy, với sự hỗ trợ của công nghệ việc tham gia một cách chủ động
của khán giả vào chương trình là hoàn toàn có thể chỉ có điều mỗi đài truyền
hình tận dụng và phát huy những ưu thế của hình thức truyền hình mới này
như thế nào mà thôi.
25

×