Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

LUẬN VĂN:Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng cấp xó ở tỉnh Vĩnh Long docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.91 KB, 88 trang )





LUẬN VĂN:

Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở
Đảng cấp xó ở tỉnh Vĩnh Long
hiện nay










Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) cấp xã là cầu nối liền giữa Đảng với nhân dân, nơi
trực tiếp tổ chức, lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi nắm mọi tâm tư nguyện vọng và những yêu cầu
chính đáng của nhân dân, thực hiện đổi mới và phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội ở
nông thôn, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) xây dựng nông thôn mới.
Từ khi đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ
3 khóa VII và Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đến nay, chất lượng của tổ chức
cơ sở đảng nói chung - TCCSĐ ở nông thôn nói riêng được nâng lên về mọi mặt, TCCSĐ


trong sạch vững mạnh được củng cố và phát triển về số lượng và chất lượng.
Tuy nhiên, TCCSĐ ở nhiều nơi còn yếu kém, phương thức lãnh đạo và sinh hoạt
còn lúng túng, có tình trạng vừa thiếu dân chủ vừa thiếu kỷ luật, kỷ cương. Một số cán bộ
và cấp ủy chưa tôn trọng và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, bệnh quan liêu,
độc đoán chuyên quyền, cục bộ địa phương, kèn cựa địa vị, cá nhân chủ nghĩa còn nặng
nề. Không ít nơi nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng, nhiều nơi còn là "điểm nóng" chưa
được giải quyết dứt điểm. Sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của một bộ phận TCCSĐ
chưa theo kịp đòi hỏi của tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở. Số TCCSĐ và số
đảng viên yếu kém còn nhiều, công tác giáo dục rèn luyện, quản lý đảng viên chưa đáp
ứng được yêu cầu, sự chuyển biến giữa các loại hình TCCSĐ chưa đều.
Một số TCCSĐ khi đứng trước "điểm nóng" về tranh chấp ruộng đất, những mâu
thuẫn trong nội bộ nông dân không giải quyết được, TCCSĐ ở Vĩnh Long cũng nằm
trong tình trạng chung đó.
Vấn đề đặt ra nâng cao chất lượng TCCSĐ nói chung, TCCSĐ cấp xã ở Vĩnh
Long nói riêng, về lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách có hệ

thống và tìm ra những giải pháp thích hợp, cụ thể để nâng cao chất lượng TCCSĐ cấp xã
ở Vĩnh Long đáp ứng được trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, đặc biệt là CNH, HĐH
nông nghiệp và phát triển nông thôn mới. Vì vậy tác giả chọn vấn đề " Nâng cao chất
lượng tổ chức cơ sở Đảng cấp xó ở tỉnh Vĩnh Long hiện nay " làm luận văn cao học
chuyên ngành Xây dựng Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đảng ta đã đề ra Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII, Nghị quyết Trung ương 6
(lần 2) khóa VIII về đổi mới chỉnh đốn Đảng. Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước
như: Đồng chí Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Văn An có bài viết,
bài nói mang tính định hướng và chỉ đạo rất quan trọng trong việc xây dựng TCCSĐ nói
chung, TCCSĐ cấp xã nói riêng. Nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tác giả đã đi sâu nghiên
cứu nâng cao chất lượng TCCSĐ ở nông thôn như:
- Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng nông thôn đồng bằng sông Hồng,
Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng của Đỗ Ngọc Ninh, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1995.
- Khắc phục sự thoái hóa, biến chất của đảng viên trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng của Ngô Kim
Ngân, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1996.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các TCCSĐ nông thôn tỉnh
Long An hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng của Nguyễn
Văn Dũng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2000.
Các bài nói, bài viết đã tạo tiền đề cho tác giả kế thừa về tư tưởng, nội dung và
phương pháp.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ
thống về "Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long hiện nay".
Vì vậy, tác giả chọn vấn đề này làm đề tài luận văn của mình nhằm đáp ứng phần nhỏ sự
đòi hỏi đó.

3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Góp phần nâng cao chất lượng các Đảng bộ cấp xã tỉnh Vĩnh Long trong giai
đoạn cách mạng mới.
3.2. Nhiệm vụ
+ Làm rõ vị trí, vai trò của TCCSĐ nông thôn, từ đó khẳng định việc nâng cao
chất lượng TCCSĐ nông thôn là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, góp phần thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Phân tích thực trạng chất lượng của các Đảng bộ cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long, xác
định rõ nguyên nhân của mặt mạnh, thiếu sót tồn tại trong công tác lãnh đạo của các
Đảng bộ trong thời gian từ năm 1996 đến nay.
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để giải quyết một số vấn đề cấp thiết đang đặt ra
nhằm nâng cao chất lượng các Đảng bộ cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long.
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các Đảng bộ cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long. Thời gian nghiên cứu, khảo sát thực tế

chủ yếu từ năm 1996 đến năm nay.
4. Cơ sở lý luận - thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận - thực tiễn
+ Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng TCCSĐ.
+ Các văn bản nghị quyết, tổng kết chuyên đề, đề tài khoa học.
+ Thực tiễn xây dựng TCCSĐ ở tỉnh Vĩnh Long từ năm 1996 đến nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

Kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp lôgíc và phương pháp lịch sử, phương pháp
điều tra khảo sát thực tế, so sánh, thu thập số liệu thống kê, phân tích, tổng hợp, gắn lý
luận với thực tiễn.
5. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về xây dựng TCCSĐ.
- Làm rõ thực trạng của các Đảng bộ cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long.
- Cơ sở lý luận thực tiễn làm sáng tỏ yêu cầu mới về nâng cao chất lượng
TCCSĐ cấp xã ở Vĩnh Long trong tình hình mới.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu, đồng bộ có tính khả thi nhằm nâng cao chất
lượng của các Đảng bộ xã, góp phần xây dựng Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long vững mạnh.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Cung cấp cơ sở khoa học cho quá trình nâng cao chất lượng của Đảng bộ cấp xã
nói riêng và các loại hình TCCSĐ tỉnh Vĩnh Long nói chung đạt hiệu quả thiết thực.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết.

Chương 1
Sự cần thiết nâng cao chất lượng
các Đảng bộ cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long


1.1. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các Đảng bộ cấp xã ở tỉnh Vĩnh
Long
1.1.1. Vị trí, vai trò của các Đảng bộ cấp xã
Ngay từ những ngày đầu của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, vấn đề
TCCSĐ đã được C.Mác Ph.Ăngghen nhấn mạnh. C.Mác, Ph.Ăngghen là những người
đầu tiên đưa ra các tư tưởng, quan điểm về vị trí, vai trò của TCCSĐ; TCCSĐ là một bộ
phận cấu thành nên Đảng với vai trò là nền tảng của Đảng, bảo đảm cho Đảng là một
chỉnh thể thống nhất, không có TCCSĐ thì không có Đảng, sự vững chắc từ nền tảng của
Đảng để bảo đảm sự vững chắc của toàn Đảng.
Điều lệ Liên đoàn của những người Cộng sản xác định: "Về cơ cấu liên đoàn
gồm những chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, Ban chấp hành Trung ương và Đại hội" [36, tr.
132].
Từ những kinh nghiệm của cuộc cách mạng 1848-1849, C.Mác - Ph.Ăngghen kết
luận:
Để khỏi một lần nữa bị tụt xuống làm vai trò của kẻ vỗ tay hoan
nghênh bọn dân chủ tư sản, công nhân và trước hết là Liên đoàn phải cố gắng
thành lập song song với phái dân chủ chính thức một tổ chức đảng riêng biệt,
bí mật và công khai của công nhân và biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt
nhân của các hội Liên hiệp công nhân [37, tr. 348].
Như vậy, tuy C.Mác Ph.Ăngghen chưa dùng thuật ngữ TCCSĐ, song những tư
tưởng và quan điểm của hai ông về vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của TCCSĐ đã được
nêu ra.

V.I. Lênin trung thành kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác - Ph.Ăngghen về
Đảng trong quá trình xây dựng và lãnh đạo Đảng Bônsêvích Nga - Đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân. Khi chuẩn bị thành lập Đảng dân chủ - xã hội Nga. V.I. Lênin đã chỉ
rõ: "Xây dựng các tiểu tổ, các nhóm cộng tác trong công nhân công xưởng, nhà máy ở
thành thị là nhiệm vụ đầu tiên và cấp bách của những người dân chủ xã hội" [29, tr. 557].
V.I. Lênin coi trọng TCCSĐ là nơi giáo dục, rèn luyện; phân công công tác, quản

lý, sàng lọc đảng viên để họ luôn luôn là chiến sĩ tiên phong của giai cấp. V.I. Lênin đưa
ra nguyên tắc mỗi đảng viên phải liên hệ chặt chẽ với Đảng bằng việc tự mình tham gia
sinh hoạt và hoạt động trong một tổ chức của Đảng, là điều kiện cho mỗi đảng viên trau
dồi tính chiến đấu và chấp hành tốt điều lệ của Đảng.
Thuật ngữ TCCSĐ được V.I. Lênin chính thức dùng trong bài báo viết về "Cải tổ
Đảng" [29, tr. 108], Người chỉ rõ các chi bộ lúc ấy là TCCSĐ; V.I. Lênin coi các TCCSĐ là
nền tảng của Đảng, nơi liên hệ chặt chẽ với quần chúng lao động, là hạt nhân chính trị
của các tập thể lao động, giáo dục dẫn dắt quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng.
Sau Cách mạng tháng mười Nga, Đảng Bônsêvich Nga trở thành đảng cầm quyền,
lãnh đạo toàn diện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) vai trò của TCCSĐ càng
quan trọng trong thời kỳ Đảng tập trung lãnh đạo kinh tế, Người cho rằng: "Phải đem sức
lực, đem hết chú ý để tạo ra, để phát huy mọi tính chủ động lớn hơn ở cơ sở" [34, tr. 279].
Chỉ bằng con đường thực hiện nhiều biện pháp nâng cao vai trò của TCCSĐ thì những
nhiệm vụ, mục tiêu của công cuộc xây dựng kinh tế mới thực hiện có hiệu quả trong thực tế.
Những tư tưởng, quan điểm của học thuyết Mác - Lênin về xây dựng Đảng được
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng và phát triển; đặc biệt về xây dựng TCCSĐ
trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong hoạt động bí mật, Đảng ta chú trọng tổ chức
và phát triển các chi bộ cộng sản ở các khu công nghiệp tập trung đông công nhân và
trong học sinh, sinh viên, trí thức, để nhằm giáo dục, tuyên truyền quần chúng đứng lên
cùng với Đảng đấu tranh giành chính quyền và TCCSĐ đã làm được điều ấy trong các
thời kỳ cách mạng, xứng đáng với vai trò, vị trí đối với cách mạng Việt Nam. Trong Đại

hội lần thứ III của Đảng đã khẳng định: "Tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng của Đảng" [7,
tr. 140]. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập, tổ chức, giáo dục rèn luyện Đảng ta đã
phân tích vai trò, vị trí nền tảng của TCCSĐ ở những mặt chủ yếu như quan hệ giữa xây
dựng nội bộ và nâng cao chất lượng của Đảng và chất lượng lãnh đạo thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở, với quan hệ mật thiết giữa
Đảng với quần chúng. Người khẳng định: "Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì
mọi việc sẽ tốt" [39, tr. 210]. Luận điểm đó của Người đã trở thành phương châm hành

động của mỗi cán bộ đảng viên và tổ chức Đảng trong lãnh đạo và xây dựng nội bộ.
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về TCCSĐ, Đảng ta khẳng định:
TCCSĐ là khâu nối liền giữa Đảng với nhân dân, là nơi trực tiếp đưa đường lối, chính
sách của Đảng vào quần chúng, tuyên truyền, vận động, tập hợp, giáo dục, thuyết phục
quần chúng thấu hiểu sự đúng đắn của đường lối, chính sách ấy; chủ động tìm giải pháp
lãnh đạo, tổ chức quần chúng thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật
Nhà nước, chủ trương kế hoạch công tác của cấp trên, nhằm phát triển sản xuất, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo,
Đảng ta chỉ rõ: "Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng được khai thác, những
kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở mà
hạt nhân lãnh đạo là TCCSĐ. Nhưng mặt khác, sự yếu kém của nhiều TCCSĐ đã hạn chế
những thành tựu của cách mạng" [8, tr. 141]. Như vậy, rõ ràng chất lượng của TCCSĐ là
yếu tố quan trọng tạo nên chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với quá trình lãnh đạo cách
mạng. Trong mối quan hệ này, chất lượng của TCCSĐ là nguyên nhân quan trọng trực
tiếp, còn chất lượng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng tại cơ sở là kết quả và cũng
là chuẩn mực, thước đo để đánh giá chất lượng của TCCSĐ. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt
Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: "Tổ chức cơ sở Đảng (chi bộ
cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở" [23, tr. 31].
Khi cách mạng đã chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với TCCSĐ. Những quan điểm,

chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trên mọi lĩnh vực đời sống của xã hội, theo
hướng dân chủ hóa mở rộng phát huy vai trò sáng tạo, chủ động của đơn vị cơ sở, để khai
thác tốt mọi tiềm năng, lao động nhằm nâng cao đời sống nhân dân. Đồng thời tiếp tục
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân
ta đã lựa chọn. Sự nghiệp đó càng đề cao vị trí, nền tảng của TCCSĐ trong hệ thống tổ
chức và trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi TCCSĐ phải thật sự là hạt nhân lãnh
đạo ở cơ sở. Với vị trí vai trò đó, TCCSĐ phải được nâng cao chất lượng trong hoạt động
của mình, bảo đảm cho công cuộc đổi mới được thực hiện trên thực tế ở đơn vị cơ sở;

trên cơ sở đó, qua thực tế cuộc sống đóng góp ý kiến với Đảng và Nhà nước để nhằm tiếp
tục bổ sung đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ngày càng hoàn
thiện, góp phần vào công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu to lớn hơn.
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng: Dù ở giai đoạn cách
mạng nào dưới sự lãnh đạo của Đảng, với vị trí nền tảng của mình các TCCSĐ luôn có vai
trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được tổ
chức thực hiện trôi chảy và đạt kết quả ở đơn vị cơ sở và là cấp tổ chức trực tiếp tiến
hành xây dựng nội bộ Đảng.
Ra đời và trưởng thành ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc
hậu, nông dân chiếm số đông trong dân cư, Đảng ta luôn quan tâm đến vấn đề nông dân, do
đó, ở nước ta các TCCSĐ ở nông thôn có vị trí vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi thời kỳ
cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng; trên 20% tổng số cơ sở Đảng của toàn Đảng là
TCCSĐ ở nông thôn với số lượng đảng viên chiếm hơn 48% tổng số đảng viên của Đảng
[47, tr. 13]. Khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng ta lãnh đạo đưa đất nước từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN), thì vị
trí, vai trò của TCCSĐ nông thôn càng có tầm quan trọng đặc biệt, trong việc lãnh đạo,
chỉ đạo hoạt động sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống của nông dân, thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong xây dựng CNXH Đảng ta
chủ trương nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, coi CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là
nhiệm vụ quan trọng. Vì vậy, thời gian qua Đảng ta luôn có đường lối, chủ trương cho
nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời Đảng ta luôn coi trọng việc đổi mới phương thức lãnh

đạo của TCCSĐ nói chung và TCCSĐ nông thôn nói riêng, nhằm nâng cao chất lượng
các TCCSĐ nông thôn trong giai đoạn cách mạng mới. Bởi lẽ, TCCSĐ nông thôn là nơi
tiến hành trực tiếp xây dựng nội bộ Đảng trên địa bàn nông thôn. TCCSĐ là nơi đại diện
cho lập trường giai cấp công nhân ở nông thôn, là hạt nhân khối đại đoàn kết trong nông
dân và khối liên minh công - nông - trí ở nông thôn, là pháo đài chiến đấu cơ bản, là tế
bào của Đảng trên mặt trận nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, đưa nông thôn xích
lại gần nhau với thành thị về mọi mặt.
Cùng với các TCCSĐ nông thôn trong cả nước, các TCCSĐ cấp xã ở tỉnh Vĩnh

Long là cấp trực tiếp hàng giờ, hàng ngày và thường xuyên, liên tục gắn bó với quần
chúng nhân dân, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Chất lượng của TCCSĐ cơ sở ở tỉnh Vĩnh
Long không chỉ đảm bảo cho các Đảng bộ đạt được sự lãnh đạo của mình ở cơ sở mà còn
góp phần xây dựng tổ chức Đảng cấp trên vững mạnh. Song, hiệu quả lãnh đạo của các
TCCSĐ cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội góp phần rất quan
trọng đến sự phát triển đồng bộ về mọi mặt ở tỉnh Vĩnh Long. Bởi vì, Vĩnh Long là tỉnh
nông nghiệp chiếm hơn 80%, có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội. Do Vĩnh Long có sản lượng lương thực đứng thứ ba so với các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long, có nhiều tiềm năng trong nuôi trồng thủy sản, gia súc, gia cầm,
vườn cây ăn trái, cây màu, cây công nghiệp ngắn ngày. Những tiềm năng sẵn có của Vĩnh
Long có được khai thác hiệu quả và giữ vững sự ổn định chính trị, xây dựng cuộc sống
mới hay không, điều ấy phụ thuộc vào chất lượng các TCCSĐ cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long.
Do vậy, việc nâng cao chất lượng các TCCSĐ cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long là nhằm bảo đảm
sự lãnh đạo của các TCCSĐ là cần thiết, cấp bách trong giai đoạn cách mạng mới về
trước mắt cũng như lâu dài trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc trên địa
bàn, góp phần thắng lợi vào công cuộc đổi mới ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả
nước.
1.1.2. Đặc điểm của các tổ chức cơ sở đảng cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long
Vĩnh Long là tỉnh nằm trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, dân số 1.010.555
người, trong đó, người Kinh 978.893 người, người Khơ-me 20.204 người, còn lại là các

dân tộc khác. Tỉnh có 5 tôn giáo với 252.498 tín đồ sống xen kẽ ở các vùng nông thôn và
thành thị. Đảng viên là người dân tộc Khơ-me và có đạo chiếm khoảng 0,2% so với tổng
số đảng viên toàn tỉnh.
Hiện nay trình độ năng lực của đảng viên cấp xã đều được nâng cao lên về mọi
mặt, nhưng so với yêu cầu và nhiệm vụ mới chưa đáp ứng ngang tầm; đảng viên người
dân tộc, đảng viên có đạo trình độ năng lực, hiểu biết về chính trị còn nhiều hạn chế so
với đảng viên người Kinh, nhưng đảng viên người dân tộc và đảng viên có đạo là những
người đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục người dân tộc, tín đồ
hiểu và làm theo chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước dễ hơn

đảng viên người Kinh trong thực tế thời gian qua.
Do điều kiện lịch sử, tự nhiên của từng vùng trong tỉnh mà các đảng bộ cấp xã ở
Vĩnh Long xác định nhiệm vụ chính trị khác nhau. Đối với các đảng bộ cấp xã vùng sâu,
vùng xa thì lãnh đạo chuyển đổi giống, cây trồng, vật nuôi các loại, gắn với các ngành nghề
thủ công truyền thống; đối với các đảng bộ cấp xã ở vùng ven đô thị chủ yếu vừa phát
triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng của
nhân dân.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức cơ sở đảng cấp xã ở tỉnh Vĩnh
Long
Quy định số 50/QĐ-TW ngày 19/11/1992 đã chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ của các
đảng bộ cấp xã. Tuy có nhiều loại hình TCCSĐ khác nhau, nhưng các TCCSĐ nói chung
đều thực hiện chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở và tiến
hành hoạt động xây dựng nội bộ Đảng.
Đối với các đảng bộ, chi bộ nông thôn có chức năng "là hạt nhân chính trị lãnh
đạo thực hiện đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ở nông thôn, xây
dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên
nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước" [15, tr. 1].

Trong giai đoạn cách mạng mới, muốn thực hiện tốt chức năng lãnh đạo chính trị
ở cơ sở, các đảng bộ cấp xã cần nắm vững, thông hiểu và chấp hành, quán triệt, vận dụng
đúng đắn, sáng tạo Nghị quyết, chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà
nước và các cơ quan cấp trên cho phù hợp với điều kiện thực tế ở nông thôn, trên cơ sở
đó đề ra chủ trương, đề án, giải pháp cho đảng bộ. Đồng thời, Đảng bộ lãnh đạo xây dựng
các tổ chức chính quyền, các tổ chức quần chúng, các tổ chức kinh tế, xã hội khác. Mặt
khác, có kế hoạch tiến hành kiểm tra thường xuyên các hoạt động trong hệ thống chính trị ở
cơ sở, nhằm kịp thời biểu dương những nơi làm tốt, và phê phán, uốn nắn những nơi làm
chưa tốt, ngăn chặn tiêu cực, để bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng, Nhà nước, của cấp trên và của Đảng bộ thực hiện đem lại nhiều thành tựu
thiết thực.
Nội dung của toàn bộ các hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ nhằm phát triển nông

nghiệp toàn diện, xây dựng đời sống văn hóa mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, khơi dậy các phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân thực hiện tốt
quyền lợi và nghĩa vụ đối với công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc tại địa
phương cơ sở. Mặt khác, hoạt động lãnh đạo của các đảng bộ cấp xã còn phải tiến hành
các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng để nhằm nâng cao chất lượng chính bản thân mình,
góp phần nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Do đó, công tác xây
dựng chính bản thân của các Đảng bộ cấp xã là khâu quan trọng trong công tác xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và các mặt công tác khác.
Trên cơ sở chức năng cơ bản và căn cứ vào yêu cầu lãnh đạo của Đảng bộ trong
tình hình mới, các Đảng bộ cấp xã cần thực hiện đúng các nhiệm vụ mà Đảng ta đã xác
định trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: "Tất cả
các Đảng bộ, chi bộ đều phải phấn đấu thực hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo
chính trị ở cơ sở" [22, tr. 55], vì vậy các TCCSĐ cần thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Xác định chủ trương, nhiệm vụ về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, an ninh quốc phòng và lãnh đạo các chủ trương nhiệm vụ đó ở nông thôn.

Lãnh đạo xây dựng và thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đẩy mạnh CNH,
HĐH; phát triển nông thôn, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Chuyển
đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho thích hợp với tiềm năng, thế mạnh của
từng địa bàn cơ sở, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sự nghiệp văn hóa,
giáo dục, y tế, thông tin, dân số kế hoạch hóa gia đình; thực hiện tốt các chính sách xã
hội, tăng hộ giàu, xóa hộ đói, giảm hộ nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân; động viên nhân dân hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước, xây dựng nông thôn
giàu đẹp, văn minh.
Lãnh đạo xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn, nhằm phát
huy vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, thực hiện công khai về tài
chính và phân phối, chống tham nhũng, hà lạm công quỹ, ức hiếp nhân dân, lấn chiếm
ruộng đất, cho vay nặng lãi
Lãnh đạo xây dựng và thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ quốc phòng an toàn xã

hội, đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản nhà nước, của tập
thể, tính mạng và tài sản của nhân dân.
Đây là nhiệm vụ trọng tâm, là nội dung chủ yếu trong quá trình thực hiện vai trò
lãnh đạo ở các Đảng bộ cấp xã trong tình hình hiện nay.
Thứ hai: Lãnh đạo công tác tư tưởng.
Làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền vận động trong các tầng lớp nhân dân,
phát huy truyền thống yêu nước, yêu CNXH, tin tưởng vào con đường đi lên CNXH mà
Đảng và nhân dân ta đã chọn, xây dựng tinh thần làm chủ, đoàn kết trong nhân dân, gắn
bó tình làng nghĩa xóm, đùm bọc lẫn nhau; đoàn kết các dân tộc, đoàn kết các tôn giáo.
Làm cho nhân dân hiểu và chấp hành đúng đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của cơ sở. Hiểu được tâm tư nguyện
vọng của nhân dân để kịp thời giải quyết và báo cáo lên cấp trên. Chống tư tưởng và việc
làm trái với đường lối chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; chống tư tưởng cục bộ,

bè phái, gia trưởng và các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan; chống âm mưu "diễn biến hòa
bình" của chủ nghĩa đế quốc.
Thứ ba: Lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ.
Lãnh đạo xây dựng tổ chức chính quyền, các đoàn thể nhân dân, đơn vị kinh tế,
các đơn vị sự nghiệp ở cơ sở. Xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Theo phân cấp của cấp trên, cấp ủy quyết định các vấn đề về tổ chức và quản lý
cán bộ, giới thiệu người vào cơ quan lãnh đạo của chính quyền, đoàn thể nhân dân, đơn
vị kinh tế và lãnh đạo thực hiện các chủ trương đó.
Cấp ủy nhận xét, đánh giá, quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật, khen
thưởng, đãi ngộ đối với cán bộ thuộc thẩm quyền quản lý của cơ sở; kiểm tra việc thực
hiện chính sách cán bộ ở cơ sở.
Đối với việc chọn cán bộ, cấp ủy đề xuất ý kiến, giới thiệu cán bộ tham gia vào
các cơ quan lãnh đạo của Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cấp trên và cán bộ
chủ chốt ở cơ sở do cấp trên quản lý.
Thứ tư: Lãnh đạo các đoàn thể nhân dân.

Lãnh đạo các đoàn thể nhân dân là thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo điều lệ
của mỗi đoàn thể, phát huy quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân thi đua thực hiện có
hiệu quả các nhiệm vụ được giao.
Lãnh đạo các đoàn thể đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, mở rộng các
hình thức tập hợp quần chúng. Lãnh đạo các đoàn thể và tầng lớp nhân dân tham gia xây
dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, trước
hết là những chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Thứ năm: Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh.
Đề ra những chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong
sạch vững mạnh; sắp xếp các tổ chức Đảng, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và

sinh hoạt Đảng, duy trì thường xuyên nề nếp sinh hoạt Đảng, tự phê và phê bình, thực
hiện tốt các nội dung của công tác đảng viên, tổ chức và kiểm tra việc học tập nâng cao
trình độ của đảng viên, chăm lo tạo nguồn phát triển Đảng, xây dựng cấp ủy và bí thư cấp
ủy có đủ phẩm chất, năng lực, là người tiêu biểu của Đảng bộ, được đảng viên và nhân
dân tín nhiệm. Kiểm tra các chi bộ và đảng viên thực hiện đường lối của Đảng, nghị
quyết của cấp trên và của TCCSĐ, chấp hành điều lệ Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước.
Các nhiệm vụ nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ và không mâu thuẫn với nhau,
thể hiện đầy đủ chức năng của các Đảng bộ cấp xã; đòi hỏi các Đảng bộ nói chung, các
Đảng bộ cấp xã ở Vĩnh Long nói riêng cần thực hiện đầy đủ những nhiệm vụ trên.
1.1.4. Quan niệm và những tiêu chí để đánh giá chất lượng các tổ chức cơ sở
đảng cấp xã
1.1.4.1. Quan niệm về chất lượng của các TCCSĐ cấp xã
Trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau, ở từng loại hình TCCSĐ
có những đặc điểm khác nhau, song khi nói đến chất lượng TCCSĐ cần phải đề cập một
cách đồng bộ, toàn diện trên hai lĩnh vực là vai trò lãnh đạo và công tác xây dựng nội bộ
Đảng của TCCSĐ. Bởi lẽ, trong hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở thì
các TCCSĐ có vai trò đặc biệt quan trọng, vì chất lượng của TCCSĐ là yếu tố tạo nên
chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng và uy tín của Đảng với nhân

dân. Vì vậy, nâng cao chất lượng của TCCSĐ không thể thiếu được trong quá trình lãnh
đạo của Đảng. Sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN, xây dựng đất nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng XHCN
là việc làm khó khăn, phức tạp, lâu dài, trải qua nhiều thử thách đòi hỏi sự lãnh đạo của
Đảng phải ngang tầm với thời kỳ mới. Do đó, Đảng cần phải nâng cao chất lượng hoạt
động lãnh đạo của mình.
Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về xây dựng
Đảng đánh giá: "Nhiều TCCSĐ giảm sút năng lực lãnh đạo, lúng túng về nội dung và

phương thức lãnh đạo, không đáp ứng được yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới
Không ít TCCSĐ buông lỏng lãnh đạo, có nơi mất phương hướng và tê liệt vai trò lãnh
đạo " [14, tr. 49]; "ở nhiều cơ sở công tác giáo dục, kiểm tra, quản lý đảng viên bị buông
lỏng. Sinh hoạt Đảng không đều và chất lượng kém" [14, tr. 50].
Chất lượng của TCCSĐ chính là năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức Đảng ở cơ sở.
Năng lực lãnh đạo của các TCCSĐ phải được thể hiện ở phẩm chất chính trị,
phẩm chất đạo đức, trình độ lý luận, trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, có vốn sống
và kinh nghiệm thực tiễn, có điều kiện cần và đủ để đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo khi
cách mạng chuyển sang giai đoạn mới mà TCCSĐ đã đáp ứng được nhiệm vụ lãnh đạo
của mình.
Sức chiến đấu của TCCSĐ thể hiện TCCSĐ luôn xây dựng tổ chức mình vững
vàng về chính trị, thông suốt về tư tưởng và vững mạnh về tổ chức; luôn thống nhất về ý
chí và hành động, lạc quan, vượt mọi khó khăn, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị mọi lúc,
mọi nơi; có bản lĩnh đấu tranh chống lại sự chống phá của các thế lực thù địch trên mọi
lĩnh vực đời sống xã hội, thể hiện vai trò tiên phong của đảng viên, thực hiện mối quan hệ
máu thịt giữa tổ chức Đảng với quần chúng nhân dân ở cơ sở, là nhịp cầu nối liền giữa
Đảng và nhân dân.
Từ quan niệm chung của Đảng ta về chất lượng TCCSĐ, có thể quan niệm về
chất lượng của các TCCSĐ xã như sau: chất lượng của TCCSĐ cấp xã là chất lượng lãnh
đạo xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, chống quan liêu, cửa quyền, ức hiếp

nhân dân, tham nhũng, buôn lậu, xa hoa lãng phí trên cơ sở đó phải lãnh đạo hoàn
thành các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng đã được đề ra của từng
Đảng bộ và thực hiện có hiệu quả, thiết thực công tác xây dựng Đảng theo điều lệ Đảng
quy định.
Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã đề ra phương
châm chỉ đạo đổi mới và chỉnh đốn Đảng ở cơ sở: "Lấy yêu cầu chất lượng là chính, lấy
kết quả phát triển kinh tế, xã hội làm mục tiêu và thước đo chủ yếu" [14, tr. 54].

1.1.4.2. Những tiêu chí để đánh giá việc nâng cao chất lượng các TCCSĐ cấp

Từ cơ sở quan niệm về chất lượng các TCCSĐ cấp xã nêu trên, những tiêu chí
đánh giá việc nâng cao chất lượng các TCCSĐ cấp xã có thể đưa ra các nội dung sau:
- Lãnh đạo hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế, xã hội.
Quán triệt và thực hiện đường lối CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn của
Đảng, lãnh đạo và thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng CNH, HĐH: Phát triển nông nghiệp toàn diện, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để tăng trưởng kinh tế đạt và vượt hàng năm theo
chỉ tiêu đề ra, thu nhập đầu người ngày càng tăng, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn,
phục vụ cho sản xuất và đời sống, phát huy vai trò kinh tế hợp tác ở nông thôn.
Hoàn thành nghĩa vụ của cơ sở đối với nhà nước, các chỉ tiêu thu thuế, trả nợ và
các nghĩa vụ khác.
Thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, tạo thêm ngành nghề, giải quyết việc
làm cho người lao động theo kế hoạch của Đảng bộ. Phát triển sự nghiệp văn hóa, xây
dựng đời sống văn hóa mới, dân chủ công bằng, văn minh, gia đình hạnh phúc; giáo dục
đấu tranh ngăn chặn và bài trừ có hiệu quả các tệ nạn xã hội, thực hiện các chỉ tiêu về kế
hoạch hóa gia đình.
Thực hiện xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học theo quy định của Nhà nước.
Có nhà trẻ, lớp mẫu giáo, có đủ trường học bảo đảm cho các cháu đến độ tuổi đều được
đến trường học.
Cơ sở y tế, thực hiện các chương trình y tế cộng đồng, bảo đảm phòng, chống

bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân.
- Lãnh đạo tốt các nhiệm vụ an ninh quốc phòng.
Làm tốt việc giáo dục nhân dân thi hành đúng pháp luật; hoàn thành tốt các chỉ
tiêu tuyển quân, làm tốt các chính sách hậu phương quân đội và các nhiệm vụ quân sự địa
phương, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn ở cơ sở.

- Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các đoàn thể chính trị, xã hội vững mạnh, xây
dựng Hội đồng nhân dân (HĐND), ủy ban nhân dân (UBND) hoạt động có hiệu quả,
đúng pháp luật.
Lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội làm tốt công tác tập hợp, giáo dục quần
chúng tham gia thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở địa phương cơ sở. Thực hiện
đúng chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, bảo đảm đoàn kết các tầng lớp
nhân dân ở cơ sở.
- Lãnh đạo đấu tranh đẩy lùi các tệ nạn tham nhũng, buôn lậu và các hiện tượng
tiêu cực khác, xử lý đúng pháp luật những người vi phạm, thực hành tiết kiệm chống xa
hoa lãng phí trong sinh hoạt và trong đời sống.
- Thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng Đảng.
Thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng và ngoài nhân
dân, đấu tranh có hiệu quả chống các quan điểm, tư tưởng và hành động trái với đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Trong nội bộ Đảng phải đoàn kết, các
Đảng bộ cần xây dựng được quy chế lãnh đạo và hoạt động, chấp hành nguyên tắc tập
trung dân chủ, sinh hoạt Đảng đúng kỳ, có nội dung thiết thực, tự phê bình và phê bình có
lý, có tình, trung thực, thẳng thắn.
Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt của TCCSĐ,
chính quyền, tổ chức kinh tế, các đoàn thể chính trị - xã hội của cơ sở, bảo đảm hoàn
thành nhiệm vụ được phân công.
Thực hiện có hiệu quả việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; có chương
trình tổ chức cho đảng viên học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ
thuật, chuyên môn nghiệp vụ; làm tốt công tác quản lý, phân công đảng viên, bảo đảm
100% đảng viên được phân công công tác. Nâng cao chất lượng, phân tích đảng viên bảo

đảm khách quan, chính xác; kiểm tra đảng viên chấp hành điều lệ Đảng và pháp luật của
Nhà nước, xử lý nghiêm minh những đảng viên vi phạm, đưa những người không đủ tư

cách đảng viên ra khỏi Đảng; chủ động tạo nguồn và làm tốt công tác kết nạp đảng viên
mới có chất lượng tốt.
1.2. Thực trạng - nguyên nhân - những kinh nghiệm và yêu cầu mới đặt ra
đối với các tổ chức cơ sở Đảng cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long
1.2.1. Khái quát đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh Long
Vĩnh Long là một trong 12 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, nằm giữa hai
nhánh chính của sông Cửu Long (sông Tiền và sông Hậu); phía Bắc giáp sông Tiền, phía
Đông giáp hai tỉnh Bến Tre và Trà Vinh, phía Nam giáp tỉnh Cần Thơ, phía Tây giáp tỉnh
Đồng Tháp.
Vĩnh Long không có biển và núi đồi, địa hình chia cắt bởi nhiều sông rạch, có cù
lao An Bình, Bình Hòa Phước, Đông Phú, Quới Thiện.
Tên Vĩnh Long ra đời khá sớm trong lịch sử khẩn hoang Nam Bộ (năm 1698).
Hiện nay Vĩnh Long có 6 huyện, 1 thị xã, 6 thị trấn, 7 phường, 94 xã, 734 ấp, khóm. Diện
tích tự nhiên 148.738 ha, dân số 1.010.555 người, trong đó số người sống ở nông thôn
chiếm 85,33%, số người ở thành thị 14,67%, mật độ dân số 764 người/km
2
. Các thành
phần dân tộc sinh sống: dân tộc Kinh 978.893 người, chiếm tỷ lệ 97,40%; dân tộc Khơ-
me 20.204 người, chiếm tỷ lệ 2,01%, dân tộc Hoa 5.710 người chiếm tỷ lệ 0,56%, số còn
lại các dân tộc khác 223 người chiếm 0,3%; các tín đồ tôn giáo có 252.498 người, chủ
yếu tín đồ Phật giáo có 167.973 người; tín đồ Công giáo 36.752 người, tín đồ Tin lành
3.028 người, còn lại các tôn giáo khác; không tôn giáo 752.299 người.
Vĩnh Long là tỉnh sản xuất nông nghiệp, lao động trong độ tuổi chiếm 59% trên
tổng số dân trong đó lao động nông nghiệp chiếm 71%, và mới đạt khoảng 60% quỹ thời
gian lao động, lao động thất nghiệp chiếm 5,8%; trình độ của nhân dân nông thôn phổ
biến còn thấp (tiểu học có 72%, phổ thông cơ sở có 16%, trung học phổ thông có 10%)
và có khoảng 10% lao động ở nông thôn được qua đào tạo tay nghề; tỷ lệ tăng dân số ở

nông thôn cao hơn thành thị.

Năm 2000 tổng sản phẩm trong tỉnh tăng 6,6%, GDP đầu người tăng 1,65 lần so
với năm 1995 [53, tr. 12], cây lúa năng suất bình quân đạt 4,4 tấn/ha/vụ, kinh tế vườn tốc
độ tăng trưởng bình quân hàng năm 10,41%/năm, chăn nuôi gia súc, gia cầm tăng bình
quân 8,67%/năm [53, tr. 13].
Kinh tế hợp tác được củng cố và phát triển, hiện có 48 hợp tác xã, một hiệp hội
ngành nghề và 2.789 tổ hợp tác, trong đó có 2.746 tổ hợp tác trong sản xuất nông nghiệp.
Điện lưới quốc gia về đến trung tâm các xã, có 80% hộ dân có điện sử dụng; 83%
ấp có xe hai bánh chạy thông suốt, 58/94 xã có đường ô tô đi tới trung tâm xã, có 70%
diện tích đất nông nghiệp được khép kín thủy lợi; năm 1997 xóa xong phòng học 3 ca,
đến năm 2000 có 99% trường phổ thông được xây dựng kiên cố và bán kiên cố; có
104/107 trạm y tế cơ sở được xây dựng kiên cố. Đời sống nhân dân được cải thiện, thu
nhập bình quân đầu người năm 2000 là 4,468 triệu đồng (năm 1995 là 2,7 triệu đồng); tỷ
lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,24, giảm 0,32% so với năm 1995, giải quyết việc làm hàng
năm 20.000 lao động; tỷ lệ hộ nghèo năm 2000 còn 4,7%, giảm 8,3% so với năm 1995,
không còn hộ đói, đời sống văn hóa ở cơ sở được nâng lên, mức hưởng thụ cao gấp 5 lần
so với năm 1995.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều biến động phức tạp và chiến lược "diễn
biến hòa bình" của các thế lực thù địch luôn chống phá, nhưng tình hình an ninh trật tự xã
hội trong những năm qua vẫn ổn định và ngày càng được củng cố, công tác xây dựng
Đảng, chính quyền, đoàn thể luôn được quan tâm, các cấp ủy và TCCSĐ đã thực hiện tốt
Nghị quyết Đại hội VI của tỉnh Đảng bộ và các Nghị quyết của Trung ương, nhất là Nghị
quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII của Đảng. Kiện toàn tổ chức bộ máy, quy hoạch
đào tạo cán bộ chủ chốt từ tỉnh đến cơ sở. Trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, trình
độ lý luận của đảng viên trong tỉnh được nâng lên về số lượng và chất lượng; số TCCSĐ đạt
trong sạch vững mạnh toàn diện 73,53%, vững mạnh từng mặt 24%; công tác phát triển đảng
viên mới được quan tâm, trong 5 năm 1996-2000 phát triển 3.922 đảng viên mới, so với
nhiệm vụ kỳ trước tăng 78,67%, nâng tổng số đảng viên toàn tỉnh lên 14.788 người [53,
tr. 21].


Bên cạnh những thành tựu kinh tế - xã hội nêu trên, nông thôn Vĩnh Long còn
một số yếu kém khuyết điểm, nền kinh tế vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, chuyển
hướng sản xuất hàng hóa chậm, hiệu quả chưa cao, nền kinh tế tăng trưởng thiếu vững
chắc, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế chưa cao, chất lượng cạnh tranh kém; hầu
hết các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế không đạt so với Nghị quyết Đại hội VI, GDP bình
quân đầu người thấp hơn so với mức bình quân cả nước [53, tr. 14].
Lao động xã hội có nguồn năng lực dồi dào nhưng phần lớn chưa qua đào tạo tay
nghề, chất lượng lao động thấp, lao động thiếu việc làm còn nhiều, nhất là ở nông thôn.
Văn hóa phẩm độc hại, các tệ nạn xã hội còn xảy ra một số nơi, phong trào thực hiện nếp
sống văn minh, gia đình văn hóa chưa đồng đều; thực hiện các chính sách xã hội, chính
sách đào tạo và sử dụng nhân lực chưa đồng bộ [53, tr. 14].
Về quốc phòng an ninh và thực thi pháp luật, việc thực hiện kế hoạch sẵn sàng
chiến đấu ở cơ sở có nơi bổ sung chậm, giáo dục ý thức quốc phòng chống tội phạm chưa
mạnh; công tác điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn sai sót [53, tr. 16].
Về công tác quần chúng còn một số cấp ủy và cơ quan chính quyền nhận thức
chưa đầy đủ quan điểm quần chúng và công tác vận động quần chúng của Đảng, thực hiện
"quy chế dân chủ ở cơ sở" còn nhiều hạn chế. Việc đổi mới nội dung và hình thức hoạt
động vẫn chưa theo kịp yêu cầu [53, tr. 17].
Công tác xây dựng Đảng, chính quyền còn một số đảng viên sa sút ý chí, phai
nhạt lý tưởng, một ít nơi nội bộ mất đoàn kết, trong 5 năm 1996-2000 xử lý kỷ luật 724
đảng viên. Công tác cải cách hành chính chậm, chất lượng sinh hoạt ở nhiều Đảng bộ
chưa cao; công tác quy hoạch cán bộ và kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ còn nhiều
vướng mắc về cơ chế chính sách và thiếu đồng bộ; cơ chế hoạt động giữa Đảng, chính
quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị, xã hội còn một vài đơn vị chưa xác định rõ về
chức năng, nhiệm vụ, nên công tác có lúc còn chồng chéo [53, tr. 18].
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VI tỉnh Đảng bộ Vĩnh Long đề ra, đòi
hỏi phải có sự phấn đấu nỗ lực của toàn hệ thống chính trị và nhân dân trong tỉnh, nhưng
các TCCSĐ nông thôn có vai trò vị trí quan trọng trong việc thực hiện Nghị quyết của


tỉnh Đảng bộ, để nhằm phát huy mặt làm được, khắc phục những mặt còn hạn chế, từng
bước nâng cao chất lượng lãnh đạo của các TCCSĐ nói chung và các TCCSĐ cấp xã ở
Vĩnh Long trong thời gian tới nói riêng.
1.2.2. Thực trạng chất lượng của các tổ chức cơ sở Đảng cấp xã ở tỉnh Vĩnh
Long
Bước vào giai đoạn mới Vĩnh Long có những thuận lợi:
- Trung ương đã có định hướng dài hạn đối với việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh
tế - xã hội nông thôn đồng bằng sông Cửu Long.
- Tiềm năng về lao động, đất đai phong phú, đa dạng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
mở ra nhiều triển vọng phát triển công nghiệp, khai thác tốt các lĩnh vực thuộc về nông
nghiệp, nền kinh tế tăng trưởng khá.
- Trung ương định ra việc hình thành vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã tạo
lợi thế so sánh rất lớn đối với tỉnh, tạo nhiều tiềm năng rất lớn để phát triển công nghiệp,
thương mại, dịch vụ, du lịch miệt vườn và thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế
trong nước cũng như nước ngoài.
- Hòa cùng với cả nước và khu vực đồng bằng sông Cửu Long, sự hội nhập với
quốc tế là nhân tố quan trọng để Vĩnh Long phát triển kinh tế đối ngoại, mở rộng hợp tác
đầu tư, thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khơi dậy và động viên mọi nguồn
lực để phát triển kinh tế - xã hội.
- Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Long có truyền thống đoàn kết, sáng tạo trong lao
động sản xuất; hệ thống chính trị được kiện toàn, kỷ cương phép nước được tăng cường.
- Đường lối, chủ trương của Đảng từng bước được thể chế hóa bằng pháp luật
ngày càng đồng bộ và sát hợp với tình hình địa phương.
Song, tỉnh Vĩnh Long cũng còn nhiều khó khăn. Ngoài bốn nguy cơ được Hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) đã nêu ra và Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định, Vĩnh Long còn những khó khăn riêng:

- Quá trình hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và thế giới vừa là lợi thế
nhưng đồng thời cũng là thách thức lớn đối với Vĩnh Long.
- Nền kinh tế của tỉnh quy mô còn nhỏ, tăng trưởng thấp và chưa ổn định. Cơ cấu

kinh tế chuyển dịch chậm, tỷ trọng nông nghiệp còn lớn, công nghiệp chưa thật sự trở
thành động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Công nghệ sản xuất phần lớn
lạc hậu; chất lượng, tính cạnh tranh và thị trường tiêu thụ hàng hóa, nhất là hàng nông sản
còn nhiều khó khăn.
- Đất hẹp, người đông, tài nguyên, khoáng sản ít. Lực lượng lao động dồi dào
nhưng phần lớn chưa qua đào tạo nghề, tỷ lệ lao động thiếu việc làm còn cao. Khả năng
tích lũy của nền kinh tế kém; thu nhập bình quân đầu người đang tiếp tục giảm dần so với
bình quân của cả nước, hạn chế cho quá trình tích lũy và đầu tư cho sản xuất.
- Cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH và khả năng đối tác với các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
- Trong những năm qua các Đảng bộ cấp xã ở Vĩnh Long đã kiên định mục tiêu,
con đường đi lên CNXH mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, nhất quán với
đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Các Đảng bộ đã quán triệt các
quan điểm, nguyên tắc của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước, từng bước khắc phục
khó khăn, năng động, sáng tạo, từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo của các Đảng
bộ đối với chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở, đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; đồng thời làm tốt công tác vận động nhân dân, đoàn
kết dân tộc, lương, giáo, đẩy mạnh phát triển kinh tế, ổn định và nâng cao đời sống nhân
dân. Thực hiện tốt phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) về đổi mới chỉnh đốn Đảng và kế
hoạch 02/KH-TU của Tỉnh ủy về xây dựng xã, phường vững mạnh, trong những năm
qua, các TCCSĐ nông thôn Vĩnh Long, đã được tỉnh ủy và các huyện ủy tập trung củng
cố các TCCSĐ, nhất là các Đảng bộ yếu kém kéo dài, đồng thời khen thưởng các Đảng
bộ trong sạch vững mạnh toàn diện để làm gương cho các Đảng bộ khác học tập trong

quá trình lãnh đạo của mình. Các huyện ủy đã triển khai cho các Đảng bộ xây dựng và
thực hiện quy chế làm việc, đổi mới phương pháp làm việc của cấp ủy, phân tích chất
lượng các TCCSĐ và cán bộ, đảng viên, kiện toàn tổ chức từ tỉnh đến cơ sở. Với cách
làm đó mà chất lượng của các Đảng bộ xã được nâng lên, lãnh đạo hoàn thành các nhiệm

vụ chính trị tại cơ sở. Uy tín các Đảng bộ đối với nhân dân được củng cố. Qua việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII: "Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách
trong công tác xây dựng Đảng hiện nay", Tỉnh ủy đã chỉ đạo tiến hành tự phê bình và phê
bình trong toàn Đảng bộ. Nhờ có sự chỉ đạo chặt chẽ của Tỉnh ủy các Đảng bộ huyện, thị
và chi, Đảng bộ cơ sở xã, phường, thị trấn và các loại hình TCCSĐ khác đã đẩy mạnh
cuộc vận động tự phê bình và phê bình, qua đó mà dân chủ trong sinh hoạt Đảng tiếp tục
được mở rộng, đoàn kết nhất trí trong Đảng được tăng cường, tạo không khí phấn khởi ở
cơ sở, động viên nhân dân thực hiện tốt và đạt nhiều thành tựu các nhiệm vụ kinh tế - xã
hội đã đề ra. Qua đó Đảng càng gắn bó với nhân dân, lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước được nâng lên. Kết quả phân loại TCCSĐ trong toàn tỉnh trong ba năm 1998-
2000 (xem phụ lục 10).
- 1998: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 278, chiếm 67,64%; trong sạch vững
mạnh từng mặt có 107, chiếm 26,03%; yếu kém 19, chiếm 4,62%; còn lại 7 không xét và
mới thành lập.
- 1999: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 296, chiếm 72,9%; trong sạch vững mạnh
từng mặt 107, chiếm 26,03%; yếu kém 19, chiếm 4,62%, còn lại 2 mới không xét.
- 2000: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 291, chiếm 70,97%; trong sạch vững mạnh
từng mặt 94, chiếm 23,15%; yếu kém 14, chiếm 3,45%; còn lại 10 không xét (mới, sắp
xếp lại, giải thể, có vi phạm).
Riêng việc phân loại TCCSĐ 94/94 xã từ năm 1997 - 2000 (xem phụ lục 4).
-1997: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 39,31%; khá 55,52%; yếu kém 5,17.
- 1998: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 57,15%; khá 41,12%; yếu kém 4,70%.
- 1999: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 60; 82%; khá 34,25%; yếu kém 4,93%.

- 2000: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 69,41%; khá 27,12%; yếu kém 3,47%. Trong
đó được phân chia ra từng huyện, thị như sau: (xem phụ lục 5).
+ Thị xã Vĩnh Long:
 1997: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 1; khá 3; yếu kém 0.
1998: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 1; khá 2; yếu kém 1.
 1999: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 1; khá 3; yếu kém 0.

 2000: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 1; khá 3; yếu kém 0.
+ Huyện Vũng Liêm:
 1997: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 7; khá 11; yếu kém 1.
1998: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 9; khá 10; yếu kém 0.
 1999: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 10; khá 9; yếu kém 0.
 2000: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 9; khá 10; yếu kém 0.
+ Huyện Tam Bình:
 1997: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 7; khá 9; yếu kém 0.
1998: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 8; khá 8; yếu kém 0.
 1999: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 10; khá 6; yếu kém 0.
 2000: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 11; khá 5; yếu kém 0.
+ Huyện Bình Minh:
 1997: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 8; khá 8; yếu kém 0.
1998: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 9; khá 7; yếu kém 0.
 1999: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 9; khá 7; yếu kém 0.
 2000: TCCSĐ trong sạch vững mạnh 12; khá 4; yếu kém 0.

×