Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

LUẬN VĂN: Kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam hiện nay pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.3 MB, 90 trang )






LUẬN VĂN:

Kế thừa và phát huy những giá trị
đạo đức truyền thống của phụ nữ
Việt Nam hiện nay










mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ chiếm trên 50% dân số và lao động xã hội, là lực lượng to lớn, đóng góp quan
trọng vào sự nghiệp cách mạng của nước ta. Họ với tư cách là người mẹ sinh thành nuôi
dưỡng cho đất nước các thế hệ công dân tiếp nối thực hiện sự nghiệp cách mạng của dân
tộc ta. Ngoài ra phụ nữ Việt Nam còn tham gia tích cực vào các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội Phụ nữ Việt Nam có truyền thống vẻ vang, nguyên Tổng Bí thư Đỗ
Mười đã nêu trong bài phát biểu tại Đại hội đại biểu Phụ nữ Việt Nam lần thứ VIII: "Từ
xưa đến nay, phụ nữ Việt Nam luôn luôn giữ vị trí quan trọng trong quá trình hình thành
cộng đồng dân tộc, trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước cũng như


trong cuộc đời thường. Truyền thống và phẩm giá của phụ nữ nước ta được hình thành
qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là lòng yêu nước, tính nhân ái, đức hy sinh, trí thông
minh. Tám chữ vàng "Anh hùng bất khuất, trung hậu, đảm đang" mà Bác Hồ kính yêu
và nhân dân ta trao tặng phụ nữ nước ta chính là sự đúc kết một cách sâu sắc truyền
thống vẻ vang và phẩm giá cao đẹp đó" [93, 90-91].
Trong quá trình xây dựng CNXH, nhất là trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước
theo định hướng XHCN hiện nay việc xây dựng đạo đức lành mạnh của xã hội là một
trong những nhiệm vụ quan trọng. Điều đó đòi hỏi phải nhận thức đúng đắn vấn đề kế
thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc nói chung và của người phụ
nữ Việt Nam nói riêng, tạo điều kiện cho việc xây dựng chuẩn mực đạo đức mới phù
hợp yêu cầu phát triển của xã hội. Đồng thời đó cũng là một nội dung quan trọng trong
việc góp phần "xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc".
Trong những năm đổi mới vừa qua vai trò của phụ nữ càng được khẳng định trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Song, do tác động của cơ chế thị trường, những giá trị
đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam bị giảm sút, bị xói mòn. Không ít chị em
chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ, thiếu tính nhân ái, sự thủy chung.


Vì vậy, việc làm rõ vấn đề kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống
của phụ nữ Việt Nam hiện nay vừa cần thiết vừa cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn đối với sự nghiệp đổi mới đất nước và của Kiên Giang nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài về truyền thống phụ nữ đã được đề cập đến dưới nhiều hình thức và mức độ khác
nhau như:
Một số bài đăng trên các tạp chí: Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Xây dựng Đảng, Tạp chí
Khoa học về phụ nữ.
Một số tài liệu viết về truyền thống phụ nữ của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam biên
soạn và truyền thống phụ nữ của một số tỉnh như: Truyền thống của phụ nữ tỉnh Kiên
Giang qua hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ

Một số sách như: "Phụ nữ miền Nam" của Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ biên soạn; "Mười
năm tiến bộ của phụ nữ Việt Nam" (1985-1995) của Trung tâm khoa học xã hội và nhân
văn quốc gia, Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ biên soạn (Nhà
xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 1997); "Phát huy tiềm năng kinh doanh của phụ nữ Việt Nam"
do GS Lê Thi chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997); "Vấn đề phụ
nữ trong gia đình ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp" (Luận án PTS của
Đặng Thị Linh, 1996).
Tuy nhiên, vấn đề kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt
Nam trong tình hình hiện nay cần có những công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu
và có hệ thống hơn nữa.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
a) Mục đích của đề tài
Trên cơ sở phân tích thực trạng của việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của
người phụ nữ (qua thực tế Kiên Giang), đề xuất một số giải pháp có tính định hướng
nhằm phát huy có hiệu quả các giá trị đạo đức truyền thống ở người phụ nữ Kiên Giang
hiện nay.
b) Nhiệm vụ của đề tài
Để thực hiện mục đích trên luận văn phải thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản sau:


- Làm rõ các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam và tầm quan trọng, nội
dung, yêu cầu của việc phát huy chúng trong tình hình hiện nay.
- Phân tích thực trạng của việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống ở phụ nữ Kiên
Giang; phân tích những nguyên nhân của thực trạng đó; từ đó rút ra những vấn đề cần
giải quyết để thực hiện kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống ở phụ
nữ.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả các giá trị đạo đức
truyền thống ở phụ nữ Kiên Giang.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
a) Đối tượng

- Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ trong đề tài này muốn đề cập đến mặt tích
cực.
- Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ trong luận văn này được hiểu là giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc nhưng được biểu hiện đặc thù ở phụ nữ, do đó nó trở
thành truyền thống của phụ nữ.
b) Phạm vi
Đề tài này nghiên cứu chủ yếu là thực tế Kiên Giang, đồng thời có nghiên cứu tài liệu
của những công trình nghiên cứu khác.
5. Đóng góp của đề tài
- Khái quát nêu lên những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam cần được
kế thừa và phát huy.
- Đề xuất những và giải pháp có tính định hướng để kế thừa và phát huy những giá trị
đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong việc xây dựng người phụ nữ mới ở
Kiên Giang ngày nay.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng, Nhà nước về
con người, đạo đức nhất là về những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ở phụ nữ cùng


việc kế thừa, phát huy những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ở phụ nữ là cơ sở lý luận
trực tiếp của luận văn này.
- Luận văn sử dụng những phương pháp: lôgíc và lịch sử, trừu trượng và cụ thể, phân
tích và tổng hợp; trong đó những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về kế
thừa, phát huy đạo đức là tư tưởng quán xuyến toàn bộ luận văn này. Ngoài ra, luận văn
còn sử dụng những phương pháp điều tra xã hội học, những số liệu của Đảng và Nhà
nước đã được công bố.
7. ý nghĩa của luận văn
- Với kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cấp ủy
đảng, chính quyền địa phương của tỉnh Kiên Giang trong việc xây dựng chiến lược, kế
hoạch phát huy đạo đức truyền thống dân tộc ở phụ nữ địa phương.

- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy và học tập
về đạo đức truyền thống dân tộc ở phụ nữ.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 2 chương, 4
tiết.
Chương 1
những Giá trị đạo đức truyền thống
của phụ nữ Việt Nam và yêu cầu kế thừa,
phát huy chúng trong giai đoạn hiện nay

1.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc của phụ nữ Việt Nam
1.1.1. Truyền thống đạo đức dân tộc
Trong truyền thống của dân tộc có những truyền thống tốt và những truyền thống không
tốt. Những truyền thống tốt phù hợp với sự phát triển của lịch sử dân tộc được gọi là
những giá trị truyền thống. Trong đó những giá trị đạo đức truyền thống (GTĐĐTT)
đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Giá trị có thể được hiểu là: "Những thành


tựu của con người góp vào sự phát triển đi lên của lịch sử xã hội, phục vụ cho lợi ích và
hạnh phúc của con người xã hội. Giá trị vì thế được xác định bởi sự đánh giá đúng đắn
của con người, xuất phát từ thực tiễn và được kiểm nghiệm qua thực tiễn" [25, 16].
Giá trị đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó là cái con người
dựa vào để xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của mình, là cái mà con
người mong muốn được theo đuổi. Giá trị là cơ sở đánh giá thái độ, hành vi đúng, sai,
nên có và không nên có của con người. Giá trị là cơ sở của các chuẩn mực, quy tắc xác
định cách thức hành động của con người. Cách thức và hành động xã hội được chỉ đạo
bởi các giá trị - Người ta dựa vào giá trị được xã hội chấp nhận để lựa chọn cách thức
suy nghĩ và hành động phù hợp nhất. Các giá trị, nhất là các giá trị chung, phổ biến được
coi như phương tiện cơ bản để tạo nên sự liên kết, hợp tác mọi thành viên trong nhóm,
cộng đồng. Bất kỳ một chế độ xã hội nào cũng được tổ chức trên cơ sở những giá trị và

chuẩn mực xã hội nhất định.
Trong việc nghiên cứu giá trị, do những mục đích cụ thể khác nhau người ta thường
phân loại giá trị theo cách khác nhau.
ở cấp độ chung nhất, người ta phân biệt: giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị tinh
thần được chia thành các loại giá trị cơ bản như: giá trị khoa học, giá trị đạo đức
(GTĐĐ), giá trị thẩm mỹ, giá trị chính trị. Trong đó GTĐĐ gắn với nhu cầu điều chỉnh
quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo hướng tạo nên sự thống nhất hài hòa giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội. Có thể nói: "Giá trị đạo đức là những thái độ và hành vi được
con người lựa chọn, được đánh giá là có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được
lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương. GTĐĐ vì thế có ý nghĩa thiết yếu đối với
đời sống xã hội" [25, 51].
Mỗi dân tộc đều có truyền thống của mình do lịch sử để lại. Truyền thống là điều kiện
để duy trì và phát triển cuộc sống. Nó là sản phẩm của quá trình phát triển lịch sử của
mỗi dân tộc. Từng dân tộc khác nhau có truyền thống khác nhau, cùng một dân tộc qua
từng giai đoạn lịch sử khác nhau truyền thống cũng biểu hiện và có cách lý giải khác
nhau. Nói đến GTĐĐTT của dân tộc ta là nói đến đặc thù của đạo đức Việt Nam với
những phẩm chất tốt đẹp đã hình thành và được bảo tồn cho đến thời điểm hiện đại. Đó


là các giá trị nhân văn mang tính cộng đồng, tính ổn định tương đối, được lưu truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác, thể hiện trong các chuẩn mực mang tính phổ biến có tác
dụng điều chỉnh hành vi cá nhân, giữa cá nhân và xã hội.
GTĐĐTT là bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc ta. Trong hệ giá trị tinh thần
truyền thống Việt Nam, các GTĐĐ chiếm vị trí nổi bật, tạo nên cốt lõi của nó. Khi bàn
về giá trị truyền thống giáo sư Trần Văn Giàu định nghĩa: "Giá trị truyền thống của một
dân tộc là những nguyên lý đạo đức lớn (người trích nhấn mạnh) mà con người trong
nước thuộc các thời đại, các giai đoạn lịch sử đều dựa vào để phân biệt phải trái để nhận
định nên chăng nhằm xây dựng độc lập, tự do và tiến bộ của dân tộc đó. Cũng là những
nguyên lý đạo đức sâu xa của mỗi người trong nước khiến họ tự nhiên phản ứng đúng
với lẽ phải; đúng với quyền lợi và danh dự dân tộc khi phải đụng chạm đến một sự cố

nào đấy" [14, 61]. Và ông cho rằng, GTĐĐTT của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu
nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa [14, 108].
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng: Trong những truyền thống quý báu của dân tộc, nổi bật
nhất là truyền thống đạo đức (Người trích nhấn mạnh) và khẳng định truyền thống đạo
đức cao đẹp của dân tộc ta bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần
cù và sáng tạo; tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người, trong đó
yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc [14, 74-86].
Theo Giáo sư Nguyễn Hồng Phong thì tính cách dân tộc gần như là tất cả nội dung của
GTĐĐTT bao gồm: tính tập thể - cộng đồng; trọng đạo đức; cần kiệm, giản dị, thực
tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu chuộng hòa bình, nhân đạo, lạc quan
[62].
Kết quả nghiên cứu của chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước: con người Việt
Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội (KX. 07) cũng đã khẳng
định: cốt lõi của các giá trị truyền thống là đạo đức, phẩm chất, nhân cách con người
Việt Nam bao gồm: tinh thần yêu nước, vì nghĩa, lòng thương người [58, 32-34].
Những GTĐĐ tinh thần truyền thống dân tộc được nói đến khá nhiều trong các văn kiện
của Đảng. Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về: "Một số định hướng lớn trong công tác tư
tưởng hiện nay" ghi rõ: "Những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của dân tộc Việt


Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như
thể thương thân", đức tính cần cù, vượt khó sáng tạo trong lao động" [57, 19]. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã khẳng định:
"Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết,
ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan
dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong
ứng xử, tính giản dị trong lối sống" [92, 56].

Qua các tư liệu nêu trên có thể rút ra một số nhận xét:
- Trong hệ thống giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, GTĐĐ chiếm vị
trí ưu trội so với các giá trị truyền thống dân tộc ta nói chung.
Dù có những kết luận khác nhau nhưng trong các GTĐĐTT, chủ nghĩa yêu nước được
khẳng định là giá trị cốt lõi, giá định hướng các giá trị khác.
- Một số phẩm chất đạo đức phổ biến của con người Việt Nam như: đức tính cần cù,
thông minh sáng tạo, lòng nhân ái, tinh thần lạc quan, ý thức cộng đồng sâu sắc đã
được đề cập và coi đó là những GTĐĐTT quý báu của dân tộc ta.
Dựa vào cách tiếp cận giá trị, GTĐĐ và quan điểm của Đảng ta cũng như các nhà khoa
học có thể khẳng định các GTĐĐTT cơ bản của dân tộc ta bao gồm:
. Chủ nghĩa yêu nước.
. Lòng nhân ái.
. Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng sâu sắc.
. Cần cù và tiết kiệm.
. Tính khiêm tốn, trung thực, giản dị, lạc quan, thủy chung.
Trong những giá trị truyền thống ấy, chủ nghĩa yêu nước là "động lực tình cảm lớn nhất
của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống GTĐĐ của dân tộc
ta" [25, 74].


Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của nhân dân ta từ xưa đến nay. Truyền thống yêu
nước được hình thành và phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc
và thể hiện nổi bật trong đấu tranh giữ nước chống giặc ngoại xâm. Chính lòng yêu
nước nồng nàn, tinh thần dân tộc sâu sắc đã giúp nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn,
chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước" [46, 171].
Chủ nghĩa yêu nước là "sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến

hiện đại". Hình thành sớm, được thử thách và khẳng định qua bao thăng trầm của lịch
sử, được bổ sung và phát triển qua từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của dân tộc và
thời đại, chủ nghĩa yêu nước là một trong những giá trị cao quý bền vững nhất của dân
tộc ta.
Truyền thống yêu nước của dân tộc ta bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với lòng thương yêu
và quý trọng con người, nhất là người lao động.
Lòng thương người của ông cha ta có nguồn gốc sâu xa từ trong sinh hoạt công xã, nông
thôn, chế độ ruộng công, làng cùng họ từ đời cộng đồng nguyên thủy và được củng cố,
phát triển qua quá trình chung lưng khai phá giang sơn, giữ gìn đất nước.
Lòng thương người là một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta. Nó gắn liền
với tinh thần chiến đấu anh dũng chống ngoại xâm cứu dân, cứu nước, chống lại mọi bất
công, chà đạp lên cuộc sống con người. Nó thấm nhuần tình thương yêu đùm bọc lẫn
nhau giữa người và người trong sản xuất, chiến đấu, trong sinh hoạt thường ngày và
lòng yêu chuộng hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc, lạc quan tin tưởng vào sức mạnh
của nhân dân và tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Đúng như Đại hội lần thứ V Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định: "Người Việt Nam vốn có lòng yêu nước thiết tha, có tinh
thần dân chủ bình đẳng trong quan hệ giữa người với người, "thương nước - thương nhà,
thương người - thương mình" là truyền thống đậm đà của nhân dân ta" [89].


Truyền thống thương người của dân tộc Việt Nam được kết tinh cao đẹp trong con
người, cuộc đời và đạo đức Hồ Chí Minh. Người là biểu tượng sáng chói về lòng nhân
ái cho dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới noi theo. Vì thương nước, thương dân,
thương mình mà Bác đi tìm đường cứu nước, trải qua bao gian truân thử thách, vào tù ra
tội cũng vì yêu thương con người. Bác nói: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột
bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta
ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" [44, 161]. Từ ngày có Đảng đến nay,
truyền thống yêu nước và dân chủ của nhân dân ta được nâng lên một trình độ mới và
phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Lòng yêu nước, thương người là cơ sở sâu xa và
bền vững của chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay.

ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết là một xu thế chủ đạo hợp thành động lực thúc đẩy
quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Nhờ đoàn kết cha ông ta tạo nên sức mạnh của
cộng đồng dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng
đồng gắn bó chặt chẽ với nhau, vừa là nhân vừa là quả của nhau, kết thành một khối
thống nhất bền vững, nó cũng là một trong những chuẩn mực đạo lý của người Việt
Nam.
ý thức cộng đồng, tinh thần dân tộc của nhân dân ta là một điểm tựa tinh thần vững
chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong sự
nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta. Bác Hồ đã khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công" [47, 350]. Trước lúc đi xa Người
còn khẳng định: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân
ta" và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên" cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình" [49, 510].
Cần cù và tiết kiệm là một GTĐĐTT có từ bao đời của nhân dân ta. Nó là một nhân tố
cơ bản vừa là điều kiện đảm bảo nhu cầu sống của con người, vừa là sự thể hiện ý thức
trách nhiệm của người Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của mình, tất
cả những thành quả vật chất và tinh thần mà cha ông ta để lại cho đến ngày nay đều gắn
liền với truyền thống cần kiệm đó.


Ngoài những giá trị đã nêu trên còn những đức tính phổ biến hợp thành hệ thống GTĐĐ dân
tộc: khiêm tốn, giản dị, trung thực, lạc quan và chung thủy.
Người Việt Nam khiêm tốn nhưng không hạ thấp mình; giản dị nên ghét thói xa hoa, cầu
kỳ; trung thực nên ghét người "đâm bị thóc, thọc bị gạo", ăn nói hai lời; lạc quan nên
không chùn bước trước mọi khó khăn thử thách của lịch sử; thủy chung nên ghét kẻ "lá
mặt, lá trái", "xa mặt cách lòng".
Khiêm tốn, giản dị, trung thực, lạc quan và thủy chung là những phẩm chất đạo đức cần
phải có, là một trong những GTĐĐ của dân tộc và con người Việt Nam, một trong
những định hướng giá trị thuộc về lối sống nếu ai làm trái sẽ bị xã hội lên án và phê
phán.

Thật vậy, Bác Hồ của chúng ta đã dẫn lời của Dơ pu Puốc vin trong "Đây công lý" của thực
dân Pháp ở Đông Dương như sau: "Yêu mến quê hương, quyến luyến gia đình, thờ kính
tổ tiên, yêu chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, ham thích khoa học, thương yêu
giống nòi, tôn trọng lẽ phải, ghét xa hoa, không ham tiền tài, khinh vũ lực, không sợ gian
khổ hy sinh đó là đặc điểm về bản tính của người Việt Nam được hình thành từ bao thế
hệ, những thế hệ luôn cố gắng thực hiện đạo đức ấy một cách thành kính. Người Việt
Nam bình thường mà ta gặp ở bất kỳ ở đâu cũng đều như vậy cả" [29, 265].
1.1.2. Những nhân tố quy định đặc điểm đạo đức của người phụ nữ Việt Nam
Đạo đức phụ nữ Việt Nam không tách rời những GTĐĐTT của dân tộc Việt Nam.
Nhưng đạo đức truyền thống của dân tộc được biểu hiện đặc thù ở người phụ nữ; điều
đó được cắt nghĩa bởi toàn bộ điều kiện sinh hoạt xã hội của họ.
* Vai trò của phụ nữ trong sản xuất
Sản xuất vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người; trong
đó phụ nữ đóng vai trò to lớn.
Thuở sơ khai ban đầu, người ta cùng lao động chung: cùng sản xuất, hái lượm; nhưng
săn bắt với kỹ thuật nguyên thủy không phù hợp với phụ nữ. Sự phân công lao động
theo giới tính phát sinh và phát triển dần trong bày người nguyên thủy. Đó là một cơ sở
để xuất hiện và tồn tại chế độ mẫu quyền.


Kinh tế hái lượm do những người phụ nữ phụ trách, đảm nhiệm một nguồn thức ăn
thường xuyên và quan trọng về số lượng cho các tập đoàn người nguyên thủy. Đồng
thời họ còn có vai trò quan trọng trong việc phát sinh nghề đánh cá, nghề chăn nuôi,
nghề gốm và nghề nông nguyên thủy. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh Việt
Nam là một trong những nơi có nghề trồng lúa nước sớm nhất. Khác với hái lượm, nền
nông nghiệp nguyên thủy là một nền kinh tế sản xuất, cung cấp nguồn thức ăn thường
xuyên và ổn định cho con người. Dưới con mắt và bàn tay chăm sóc, đảm nhiệm của
người phụ nữ nguyên thủy nông nghiệp dần dần phát triển. Và trong khi nâng cao toàn
bộ nền kinh tế nguyên thủy, văn hóa nguyên thủy, con người nguyên thủy, nó cũng nâng
cao vai trò, địa vị của người phụ nữ lên. ở thời đại đá mới, cùng với sự xuất hiện và phát

triển nông nghiệp, chế độ mẫu quyền đi tới giai đoạn phát triển cực thịnh.
Trong thời đại phong kiến vai trò của người phụ nữ Việt Nam càng quan trọng hơn
trong nền kinh tế nông nghiệp. Trồng lúa nước là một hoạt động sản xuất bao gồm nhiều
lao động liên hoàn, phức tạp, đòi hỏi nhiều nhân công, nhân lực, trong đó có những
công việc đòi hỏi sự mềm mại, dẻo dai cần cù, tỉ mỉ đặc biệt. Thể chất và thiên tính của
người phụ nữ có thể đáp ứng với những khâu lao động nông nghiệp trồng lúa đó. Những
hoạt động sản xuất và trồng trọt, từ việc vỡ đất đến việc đặt cây, gieo, tỉa, chăm sóc và
thu hoạch cũng có thể thích hợp với những bản năng về mặt lao động của phụ nữ. Thêm
vào đó, đất nước luôn luôn bị giặc ngoại xâm, phần lớn đàn ông đi đánh giặc bỏ ruộng
đất, cày bừa lại cho phụ nữ. Sức lao động tập trung vào các công trình quốc phòng và
dân dụng, hoặc vào các công trình xa xỉ của bọn thống trị liên tục trong bốn nghìn năm
cũ, đều khiến cho xã hội nông thôn mất đi một nguồn nhân công nông nghiệp lớn của
nam giới.
Ngoài ra, cũng phải kể đến hiện tượng, từ thế kỷ XI trở đi, xuất hiện ngày càng đông
đảo những học trò, nho sĩ, quan lại nói chung có tư tưởng coi khinh việc chân lấm tay
bùn. Trong hoàn cảnh rất đông những người thân thuộc trở nên xa rời sản xuất như thế,
tất nhiên, người phụ nữ phải đảm đang gánh vác công việc sản xuất.
Như thế là trong điều kiện của lịch sử hàng nghìn năm cũ, ngoài nhu cầu lớn về nhân
công mà bản thân việc trồng lúa nước yêu cầu, còn có những nguyên nhân xã hội đòi


hỏi người phụ nữ phải tích cực tham gia vào những khâu quan trọng, chủ yếu của nền
sản xuất nông nghiệp. Sẵn có truyền thống cần cù, đảm đang sáng tạo trong sản xuất
thời nguyên thủy - một truyền thống không đứt đoạn, do đặc điểm kéo dài thời gian quá
độ từ chế độ mẫu quyền sang xã hội phụ quyền ở buổi đầu lịch sử có giai cấp - người
phụ nữ Việt Nam trong thời đại các xã hội có giai cấp cũ đã kế thừa và phát huy truyền
thống của mình, để liên tục đảm đang việc sản xuất nông nghiệp trong những điều kiện
và hoàn cảnh mới, trên những nhu cầu và đòi hỏi mới của lịch sử.
Sự tham gia tích cực của người phụ nữ vào nền kinh tế nông nghiệp cũng đồng thời biểu
lộ và chứng minh những phẩm chất tinh thần của họ. Sẵn sàng gánh vác công việc

chung, sẵn sàng vì mọi người mà làm việc, đây là điểm nhận thấy đầu tiên trong đức
tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, vì họ tham gia tích cực vào lao động sản
xuất trong các xã hội cũ. Chính vì tinh thần làm chủ và ý thức cộng đồng như thế, mà
các thế hệ phụ nữ Việt Nam xưa đã biểu lộ một tinh thần dũng cảm tuyệt vời trong khi
đảm nhiệm những công việc lao động sản xuất của mình. Dũng cảm trong ý thức quyết
vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp, hoàn cảnh chật hẹp, mà lễ giáo xã hội có giai cấp
trước đây đã quy định cho chức phận chủ yếu của họ. Dũng cảm ở chỗ năm này qua
năm khác, ngày này qua ngày khác, đương đầu với nắng mưa, sương giá, nóng nực, bùn
lầy, biến khó khăn vất vả thành niềm vui.
Bên cạnh tinh thần dũng cảm đó là tinh thần cần cù nhẫn nại được hình thành từ trong
những điều kiện sản xuất khó nhọc. Chính nhờ tinh thần cần cù nhẫn nại đó mà người
phụ nữ có vai trò quan trọng đặc biệt trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Như vậy, qua việc thực hiện vai trò quan trọng của người phụ nữ Việt Nam trong nền
sản xuất nông nghiệp theo chiều dài lịch sử, hình thành ở họ những đức tính truyền
thống quý báu: Dũng cảm, đảm đang, sáng tạo và cần cù nhẫn nại.
* Vai trò của phụ nữ trong việc gánh vác công việc gia đình.
Ngoài vai trò quan trọng của phụ nữ trong sản xuất, phụ nữ còn có vai trò thiêng liêng
không thể thiếu được đó là vai trò gánh vác công việc gia đình.
Bất luận trước khi có sự phân công giữa nam giới và nữ giới về mặt kinh tế, trước khi có
sự phân công lao động theo giới tính thì đã có sự phân công giữa nam giới và nữ giới về


mặt sinh con đẻ cái, điều mà Mác và Ăngghen đã gọi là "sự phân công đầu tiên". "Sự
phân công đầu tiên là sự phân công giữa đàn ông và đàn bà trong việc sinh con đẻ cái"
[38, 94]. Chức năng sinh đẻ và nuôi dạy con cái là chức năng mà người phụ nữ đã đảm
nhiệm trong những điều kiện sinh tồn hết sức gay go, căng thẳng của người nguyên
thủy. Họ vẫn phải thường xuyên lao động sản xuất, đảm nhiệm chức năng kinh tế ở
những lĩnh vực quan trọng nhất, đồng thời gánh vác cả chức năng sinh đẻ và nuôi dạy
con cái. Người phụ nữ nguyên thủy đã làm nhiệm vụ sinh đẻ và nuôi dạy con cái, trong
điều kiện của xã hội nguyên thủy, với một tinh thần tận tụy khôn cùng và lòng yêu thương

vô hạn, chăm sóc trẻ nhỏ là nhiệm vụ của tập thể phụ nữ trong xã hội nguyên thủy.
Cùng với việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái, phụ nữ nguyên thủy cũng cáng đáng luôn cả
những công việc trong nhà. Trước hết là sửa sang nơi ăn chốn ở, chế biến, phân chia và
dự trữ thức ăn. Công việc trong nhà mà người phụ nữ nguyên thủy phải chăm lo, còn
gồm nhiều hình thức lao động sản xuất, gộp lại thành một ngành kinh tế riêng, gọi là
kinh tế gia đình. Đó là các nghề đan lát tre mây, chế biến vỏ cây và đồ da, khâu vá may
mặc, chế tạo đồ gốm và về sau này kéo sợi, dệt vải Những nghề sản xuất trong nhà
này có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nguyên thủy. Nó cung cấp những nhu cầu vật
dụng quan trọng cho xã hội nguyên thủy, và làm cho đời sống con người nguyên thủy
thêm phong phú, nền văn minh đầu tiên của loài người dần dần tiến bộ.
Chức năng sinh đẻ và nuôi dạy con cái cùng những công việc trong nhà của người phụ
nữ nguyên thủy rõ ràng là mang tính chất xã hội. Nó là một trong những cơ sở quan
trọng để nâng cao vai trò và địa vị của người phụ nữ trong xã hội mẫu quyền.
Trong xã hội phong kiến, các gia đình Việt Nam xưa, thời gian từ tấm bé đến khi trưởng
thành người phụ nữ phải thực hiện những nghĩa vụ và trách nhiệm của con người. ở đây
có những nghĩa vụ và trách nhiệm đối với cha mẹ - và họ hàng thân thuộc.
Ngay từ thời gian rất sớm, đứa con gái đã được giao phó những công việc theo hướng
chức nghiệp chủ yếu của cả một đời người phụ nữ "gái thì giữ việc trong nhà": lên năm,
lên bảy - quét nhà, rửa bát; lên bảy lên tám - đun nước, trông em; lên chín lên mười -
nấu cơm, thổi cám Lớn lên chút nữa, các cô gái nhỏ bắt đầu được giao phó những
công việc quan trọng hơn. Ngoài việc tập tành quán xuyến tất cả mọi việc trong nhà, còn


phải tham gia sản xuất: hoặc làm ruộng, hoặc làm một nghề thủ công, chủ yếu là nghề
dệt, hoặc là buôn bán nhỏ. Đây là thời kỳ cô gái dốc sức "làm giàu cho cha" và sửa soạn
"làm dâu nhà người". Rời nhà cha mẹ để về ở nhà chồng, thời gian này người phụ nữ
phải vừa tiếp tục làm nghĩa vụ và trách nhiệm của người con trong gia đình mới, vừa
nhận thêm nghĩa vụ và trách nhiệm của người vợ. Vì vậy, người phụ nữ phải có rất
nhiều nghị lực và khả năng mới làm tròn được nghĩa vụ và trách nhiệm nặng nề. Người
phụ nữ phải quán xuyến toàn bộ công việc trong nhà của gia đình chồng, vừa tham gia

sản xuất vừa phải kín đáo chăm sóc và phục vụ người chồng của mình.
Khi đã sinh con đẻ cái ra "ở riêng", người phụ nữ có một gia đình của mình. Từ đây,
cho đến lúc về già, nhắm mắt, người phụ nữ chủ yếu làm nghĩa vụ và trách nhiệm của
người vợ, người mẹ. Vai trò của người phụ nữ bấy giờ chính thức là vai trò của một
người "nội tướng". Ngoài việc cùng với chồng lao động sản xuất để bảo đảm kinh kế
cho gia đình, người phụ nữ còn phải quán xuyến hầu hết công việc trong nhà mình: cơm
nước, chợ búa, tiền nong, củi lửa, dầu đèn, quần áo, gà lợn, vườn tược
Là mẹ của một đàn con, việc sinh đẻ, nuôi dạy, gây dựng cho con cái tới khi trưởng
thành là việc mà người phụ nữ xưa độc lực đảm nhiệm. Nên dân gian có câu "con hư tại
mẹ cháu hư tại bà".
Là một người vợ, gắn bó chữ tình với chữ nghĩa, người phụ nữ xưa, ngoài nghĩa vụ đối
với bản thân người chồng, còn gánh vác luôn cả phần nghĩa vụ của người chồng đối với
gia đình và xã hội.
"Lấy gì đóng góp cho chồng
Lấy gì giỗ chạp thổ công, ông bà
Lấy gì nuôi mẹ nuôi cha
Lấy gì thu xếp việc nhà chàng ơi
Lấy gì cho ngựa cho voi
Lấy gì đóng góp như đôi láng giềng".
Đây là nỗi lo toan quán xuyến trong suốt đời làm vợ của người phụ nữ xưa.
Nghĩa vụ và trách nhiệm làm con, làm vợ, làm mẹ qua suốt một đời người phụ nữ trong
gia đình xưa, thật nặng nề, người phụ nữ giữ một vai trò rõ ràng là trung tâm, là linh hồn chủ


đạo của các gia đình. Nguyên nhân đưa đến thực tế đó là do những mầm mống tốt đẹp gây
dựng được từ thuở nguyên sơ, khi những người phụ nữ đảm đang quán xuyến những
"việc trong nhà" ở xã hội thị tộc, vẫn tiếp nối sang thời đại các xã hội có giai cấp. Mặt
khác, ở các xã hội này, như đã thấy, sự vắng nhà của người đàn ông đi chiến đấu, đi làm
công việc xã hội v.v là hiện tượng thường xuyên. Trong hoàn cảnh đặc biệt nhưng lại phổ
biến của lịch sử ấy, nếu không muốn quỵ xuống vì yếu đuối, bất lực, thì phải mạnh mẽ

vươn lên. Chính vì đã chọn lấy con đường thứ hai mà các thế hệ phụ nữ xưa, sẵn cái nền
móng thuận lợi từ thuở ban đầu, đã đứng ra gánh vác lấy gia đình của mình. Trong khi
làm nhiệm vụ đó, họ đã kế thừa và làm nảy sinh, phát triển những đức tính truyền thống
tốt đẹp.
Đức tính quí báu đầu tiên, quán xuyến trong suốt các thế kỷ gánh vác gia đình của người
phụ nữ xưa là tinh thần đảm đang tuyệt với của họ. Đảm đang trước hết bởi khối lượng
công việc rất lớn và vô cùng phức tạp mà người phụ nữ xưa phải tự lo toan, định liệu.
Đảm đang còn bởi cái khối lượng "công việc trong nhà" bề bộn phức tạp đó lại đã được
người phụ nữ Việt Nam xưa gánh vác trong hoàn cảnh rất khó khăn. Trong tình hình
nghèo khó chung của các xã hội có giai cấp cũ, "cái khó bó cái khôn", người phụ nữ đã
phải rất tích cực "giật gấu vá vai" để đảm nhiệm chức năng "nội tướng" của mình.
Có nguồn gốc từ một nền kinh tế hái lượm xa xưa, sự "tần tảo" rất nhanh chóng trở
thành quen thuộc đối với người phụ nữ Việt Nam. Tần tảo là đức tính đi kèm với tinh
thần đảm đang của các thế hệ phụ nữ Việt Nam xưa, chịu thương chịu khó, sớm tối lam
làm, suốt đời cần kiệm để gánh vác gia đình.
Để có thể đảm đang một khối lượng công việc lớn và phức tạp, người phụ nữ xưa còn
rất khéo léo và thông minh, có đầu óc thực tiễn, biết tính toán căn cơ, khéo chân khéo
tay.
Trong suốt các thế kỷ của các xã hội có giai cấp ngày xưa, các thế hệ phụ nữ Việt Nam
còn biểu lộ rất rõ đức tính trung hậu cao quý. Người phụ nữ Việt Nam là những người
vốn sẵn có những tình cảm trong sáng và thắm thiết: Đó là lòng trung thành trọn vẹn,
thủy chung như nhất.
"Yêu anh cốt rũ xương mòn


Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh
Đặc biệt là tinh thần quên mình vì những người thân yêu.
"Có con phải khổ vì con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng".
Trong khi nêu tấm gương sáng về lòng vị tha, tinh thần hy sinh như thế người phụ nữ

Việt Nam xưa cũng biểu lộ những đức tính khiêm tốn, giản dị. Người phụ nữ có mặt ở
khắp mọi nơi, mọi việc trong gia đình, nhưng về mặt quyền lợi lại dường như vắng mặt,
không tồn tại trong gia đình, không bao giờ đòi hỏi cho mình điều gì.
Tính khiêm nhường, lòng vị tha, đức hy sinh và lòng yêu thương rộng lớn của người phụ
nữ xưa có một vị trí rất đặc biệt giữa chồng con họ. Người chồng gọi vợ là "nội tướng".
Người ngoài khẳng định "lệnh ông không bằng cồng bà". Và dân tộc thì trong khi xây
dựng hình tượng anh hùng đầu tiên của mình về Thánh Gióng, cũng kèm ngay hình
tượng của bà mẹ Gióng; bà mẹ biết bao tháng ngày mang nặng đẻ đau, chịu đựng biết
bao khổ nhọc, cho đến lúc tự tay mình mở đường cho con đi cứu nước.
Chịu đựng biết bao vất vả, khó nhọc, gian truân, để thực hiện vai trò, nhiệm vụ thiêng
liêng của người phụ nữ trong gia đình qua các thời đại, đã hình thành ở người phụ nữ
Việt Nam xưa những đức tính truyền thống cao đẹp: Trung hậu, đảm đang, tần tảo,
khiêm tốn, giản dị, giàu lòng vị tha, đức hy sinh.
* Vai trò đảm nhiệm công việc xã hội:
Ngoài vai trò lao động sản xuất, gánh vác công việc gia đình, phụ nữ Việt Nam xưa còn
có vai trò đảm nhiệm công việc xã hội.
Địa vị xã hội của người phụ nữ ở thời đại chế độ mẫu quyền thể hiện ở địa vị của họ
trong các gia tộc và thị tộc mẫu hệ - tế bào cơ bản và tổ chức phổ biến của xã hội mẫu
quyền.
Một người đàn bà cao tuổi nhất đứng đầu một gia tộc mẫu hệ. Người nữ tộc trưởng này
điều khiển mọi việc sản xuất trong gia tộc. Và thường cũng là người giữ ngọn lửa bếp
chính và trông nom việc chuẩn bị thức ăn chung cho cả gia tộc, tập trung sản phẩm lao
động của mọi người trong gia tộc rồi phân chia cho họ theo nguyên tắc tập thể.


Người nữ tộc trưởng còn đứng ra phân xử hoặc hòa giải các vấn đề trong gia tộc, đứng
đầu các lễ nghi tôn giáo, tổ chức các hội vui
Truyền thống đảm nhiệm công việc xã hội của phụ nữ ở chế độ mẫu quyền, qua nhiều
thời đại vẫn được phát huy, nhất là trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Cho nên, khi
đất nước bị nạn ngoại xâm đe dọa, khi đất nước đứng lên chống bọn thống trị giành lấy

quyền sống, người phụ nữ xưa đã dứt khoát biểu thị thái độ của mình: "Giặc đến nhà
đàn bà cũng đánh".
Trong thời gian đô hộ nước ta, giặc Minh cũng đã mổ bụng đàn bà có thai, giết chết cả
mẹ lẫn con, cắt tai đem nộp chủ tướng (năm 1409). Tướng giặc Trương Phụ đã bắt phụ
nữ Việt Nam đưa về nước (năm 1414). Đấy là những tội ác "trời không dung đất không
tha, thần và người đều căm giận" như lời dạy của Nguyễn Trãi đã viết ngày xưa. Trước
tai họa trực tiếp đó, nếu không muốn cho giặc tiếp tục hoành hành, người phụ nữ xưa
chỉ có con đường quyết liệt đấu tranh.
Truyền thống đánh giặc của phụ nữ Việt Nam được khơi dậy từ rất sớm bởi những phụ
nữ kiệt xuất hai Bà Trưng, Bà Triệu và sau này vẫn được phụ nữ trong hàng ngũ quý tộc
cùng những phụ nữ bình thường từ thế hệ này qua thế hệ khác tiếp tục góp phần kế thừa
làm cho truyền thống đánh giặc giữ nước quý báu đó được phát triển mạnh mẽ và liên
tục.
Trong truyền thống đánh giặc của người phụ nữ xưa, khí phách anh hùng cũng được
biểu lộ ở tinh thần dũng cảm và ý chí bất khuất rất kiên cường trong chiến đấu. Những
người vẫn bị coi là "chân yếu tay mềm" trang bị bằng những vũ khí tinh thần không gì
sánh nổi là lòng yêu nước, chí anh hùng, đã trở nên mạnh mẽ để lập nên những kỳ tích
làm rạng rỡ non sông.
Qua hàng nghìn năm lịch sử, vai trò của phụ nữ trong sản xuất, trong gia đình và xã hội
đã hun đúc nên những đức tính truyền thống cao đẹp: tinh thần yêu nước, ý thức dân
tộc, trung hậu đảm đang, anh hùng bất khuất kiên cường, tần tảo cần cù thông minh
sáng tạo, nhẫn nại, khiêm tốn giản dị, giàu lòng vị tha, đức hy sinh Những truyền
thống quý báu đó là sức mạnh, là điểm tựa tinh thần để phụ nữ hiện đại vươn lên đáp
ứng yêu cầu của lịch sử dân tộc.


1.1.3. Những giá trị đạo đức cơ bản của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dân tộc
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam đã tạo nên biết bao truyền
thống tốt đẹp, trong đó những GTĐĐ là cơ bản.
Trong thư gửi phụ nữ toàn quốc nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày phụ nữ quốc tế, Bác Hồ

đã viết: "Phụ nữ Việt Nam sẵn có truyền thống đấu tranh anh dũng và lao động cần cù.
Trong kháng chiến, phụ nữ ta từ Bắc đến Nam đều hăng hái tham gia đánh giặc cứu
nước" [84, 39].
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (họp phiên
họp mở rộng), cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: "Lịch sử dân tộc ta từ xưa với tấm
gương chói lọi của Bà Trưng, Bà Triệu, trải qua các chặng đường, luôn luôn sáng ngời
hình ảnh người phụ nữ Việt Nam, người sản xuất, người chiến sĩ, người vợ và người
mẹ, biết bao dũng cảm và dịu hiền, biết bao vị tha và tần tảo" [10].
Tại Đại hội đại biểu phụ nữ Việt Nam lần thứ VIII năm 1997, nguyên Tổng Bí thư Đỗ
Mười đã phát biểu: "Từ xưa đến nay, phụ nữ Việt Nam luôn luôn giữ vị trí quan trọng
trong quá trình hình thành cộng đồng dân tộc, trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài dựng
nước và giữ nước cũng như trong cuộc sống đời thường. Truyền thống và phẩm giá của
phụ nữ nước ta được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là lòng yêu nước, tính
nhân ái, đức hy sinh, trí thông minh, tiêu biểu cho nhân cách Việt Nam. Tám chữ vàng
"Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" mà Bác Hồ kính yêu và nhân dân trao tặng
phụ nữ nước ta chính là sự đúc kết một cách sâu sắc truyền thống vẻ vang và phẩm giá
cao đẹp đó" [92, 90-91].
Dựa vào cách tiếp cận xác định GTĐĐTT ở phần đầu và cách thể hiện của các nhà lãnh
đạo về đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam có thể khẳng định các GTĐĐTT cơ
bản của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử lâu dài của dân tộc là:
- Yêu nước
- Anh hùng, bất khuất
- Trung hậu, đảm đang.


Trong đó yêu nước là giá trị cao nhất, phổ biến nhất trong các GTĐĐTT của dân tộc
Việt Nam nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng. Truyền thống yêu nước là sợi chỉ đỏ
xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến đương đại.
Truyền thống yêu nước được hình thành rất sớm từ buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Truyền thống đó của phụ nữ Việt Nam càng được phát huy mạnh mẽ trong quá trình

cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Yêu nước thiết tha và sẵn sàng hy
sinh vì nước, các thế hệ phụ nữ Việt Nam đã đem tinh thần truyền thống ấy phục vụ cho
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. "Phụ nữ Việt Nam đã có mặt ngay từ đầu dưới
ngọn cờ đấu tranh của Đảng đã sát cánh cùng nam giới chống đế quốc phong kiến, cung
cấp cho phong trào nhiều chiến sĩ cách mạng ưu tú, ghi vào lịch sử đấu tranh của nhân
dân ta tấm gương chói lọi của biết bao anh hùng liệt sĩ và trải qua bao chặng đường gian
khổ, đã góp phần vẻ vang vào thành công của Cách mạng tháng Tám, lập nên nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa" [9].
Truyền thống nói chung, truyền thống đạo đức nói riêng của phụ nữ Việt Nam được
Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết bằng tám chữ vàng: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu,
đảm đang".
* "Anh hùng, bất khuất" là những giá trị đạo đức cao cả của phụ nữ Việt Nam. Vì yêu
nước nên ngay buổi đầu giữ nước, phụ nữ Việt Nam đã đứng lên chống giặc ngoại xâm,
biểu lộ một tinh thần dũng cảm và ý chí bất khuất rất kiên cường trong chiến đấu, như Bà
Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân
Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, phụ nữ cả hai miền Nam, Bắc siết chặt hàng ngũ
thành một khối vững chắc, kề vai sát cánh trong nỗi thông cảm sâu sắc của những người
ở tiền tuyến lớn và hậu phương lớn cùng chiến trường đánh Mỹ.
ở tiền tuyến lớn, phụ nữ miền Nam đã nêu cao khí phách anh hùng bất khuất của mình
qua mọi hình thức đấu tranh. Đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị, binh vận lĩnh
vực nào chị em cũng tỏ rõ tinh thần anh dũng, ý chí quật cường của người phụ nữ Việt
Nam làm rạng rỡ thêm truyền thống anh hùng từ xa xưa của giới mình. Với những thử
thách hết sức gay go và nặng nề, tiếp thu truyền thống của phụ nữ nghìn xưa của dân
tộc, phụ nữ miền Nam còn rèn đúc thêm cho mình một bản lĩnh cao đẹp trong đấu tranh.


Dám hy sinh, không chùn bước ngay trước cả cái chết, trong đấu tranh họ là những
người chẳng những rất kiên cường mà còn hết sức bền bỉ dẻo dai. Sự đấu tranh kiên
cường đó đã tạo nên nguồn sức mạnh vô song của lực lượng nữ cũng như của cách
mạng trong tất cả các hình thái đấu tranh với quân thù. Những người phụ nữ như chị

Bảy Trờ Bến Tre là người tham gia đấu tranh trực diện với kẻ thù đến 300 lần. Nhiều
lần chị bị kẻ thù đánh đập tàn nhẫn, có lần gần chết. Nhưng chị vẫn khăng khăng cương
quyết: "Cứ khiêng tôi đi tố cáo nó. Nếu tôi chết cũng đừng chôn tôi. Bà con có thương
tôi thì cứ khiêng xác tôi đi đấu tranh đến cùng, dù rã thây cũng được!". Hay chị Nguyễn
Thị Hạnh ở Long An, chỉ trong mấy năm không kể những thời gian vào tù ra tội, ngoài
cuộc đấu tranh chính trị và binh vận, chị đã đánh địch đến hơn 400 trận. Tạ Thị Kiều
tay không lăn vào đồn giặc vật lộn với chúng, cướp súng và cướp đồn. Kan Lịch khi tấn
công thì đi trước, rút lui thì đi sau, chỉ nổ súng khi còn cách giặc 5 mét. Còn biết bao
tấm gương anh dũng, bất khuất đã tô đậm thêm cho chí khí anh hùng của phụ nữ miền
Nam bằng tinh thần kiên quyết và triệt để cách mạng. Tinh thần ấy xuất phát từ niềm tin
vững vàng ở chính nghĩa và sức mạnh của mình, lòng tin ở sự tất thắng. "Nụ cười Võ
Thị Thắng", "Đấy chính là Việt Nam đang cười", "là cái nhìn của nữ thần chiến thắng"
[23].
Xuất phát từ tinh thần yêu nước, phụ nữ Việt Nam đã chiến đấu anh hùng, bất khuất để
giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Đấy là những GTĐĐ cao đẹp mà các thế hệ phụ nữ
tiếp theo phải kế thừa trong công cuộc xây dựng và bảo đảm đất nước hiện nay.
* "Trung hậu, đảm đang" là những phẩm hạnh tuyệt vời trong đạo đức truyền thống của
phụ nữ Việt Nam.
Người phụ nữ xưa đảm đang trong sản xuất nông nghiệp, nuôi sống xã hội; đảm đang
gánh vác công việc gia đình cho chồng, con đi chiến đấu Bên cạnh đó các thế hệ phụ
nữ Việt Nam xưa còn biểu lộ rất rõ đức tính trung hậu cao quý.
Yêu nước, trung kiên với nước: "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh"; yêu chồng, chung
thủy sắt son với chồng: "Chồng em áo rách em thương. Chồng người áo gấm xông
hương mặc người".


Tinh thần đó của phụ nữ Việt Nam xưa được nâng cao trong phong trào cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Trong công cuộc xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất đất nước, phụ nữ hai miền
Nam, Bắc thể hiện rất rõ truyền thống nói trên.

Phụ nữ miền Bắc đã vượt qua khó khăn gian khổ đảm đang trên mặt trận sản xuất nông
nghiệp và các lĩnh vực khác, nhằm phục hồi nền kinh tế và phát triển văn hóa, góp phần
hoàn thành thắng lợi việc hàn gắn vết thương chiến tranh, tạo cơ sở để đưa miền Bắc
tiến lên CNXH. Ngoài việc đảm đang trong sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất cho
CNXH, chị em phụ nữ miền Bắc còn đảm đương công việc quản lý xã hội. Nhiều phụ
nữ tiên tiến đã đảm nhiệm những cương vị phụ trách các ngành các cấp từ cơ sở đến
trung ương, củng cố và tăng cường hiệu quả và tích cực ưu việt của chính quyền và bộ
máy quản lý kinh tế của chế độ XHCN.
Lúc ấy, phụ nữ miền Nam trong hoàn cảnh khó khăn nhất, vẫn một lòng hướng về cách
mạng. Kẻ thù không sao lay chuyển nổi lòng trung thành và niềm tin tưởng vững vàng
vào Đảng, vào sự tất thắng của cách mạng Việt Nam. Những người phụ nữ miền Nam
đã giữ trọn được bản sắc dân tộc, nền phong hóa, đạo đức cổ truyền của mình và còn
phát triển lên một bước rất cao. Có những người vợ trẻ tiễn chồng đi tập kết, đi chiến
đấu, rồi gần như cả cuộc đời quên mình, lăn lộn trong sản xuất và chiến đấu, mong ngày
chiến thắng gặp lại người yêu
Đấy là những biểu hiện chói ngời của lòng trung hậu tuyệt vời của phụ nữ miền Nam
trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chị út Tịch ở Trà Vinh, vừa
đánh giặc vừa nuôi con. Người mẹ đảm đang ấy vừa đánh bốt, phá càn, địch vận, trinh
sát, vừa độc lực lo liệu cửa nhà. Từ việc trồng dưa, gói bánh đến mò cua bắt cá, chăm
sóc con cái, dạy chúng cách tránh máy bay, đại bác của giặc, giáo dục, chúng thương
yêu đùm bọc lấy nhau, và những đứa lớn còn biết cả việc trinh sát, liên lạc cho cách
mạng.
Quán xuyến gia đình là việc làm của phụ nữ ta, đời này qua đời khác, và đã trở thành
truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Nhưng những hành động quán xuyến toàn bộ gia đình
trong những hoàn cảnh khó khăn ác liệt như thế của phụ nữ Việt Nam là điều rất đặc


biệt. Và còn từ chỗ quán xuyến việc nhà, đến chỗ vươn lên thay thế nam giới gánh vác
việc làng, việc nước.
"Đội quân tóc dài" là biểu hiện độc đáo vai trò xung kích trong đấu tranh chính trị

chống quân thù của phụ nữ miền Nam. Song song với hoạt động đấu tranh chính trị, phụ
nữ miền Nam còn đảm nhiệm xuất sắc vai trò quan trọng của mình trong đấu tranh vũ
trang giết giặc cứu nước, cứu nhà. Đấy là những biểu hiện tuyệt vời của tinh thần đảm
đang đáng quý của người phụ nữ miền Nam trong sự nghiệp giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
Tinh thần đảm đang của họ trong thời kỳ mới cũng vượt lên với khí thế tấn công
liên tục. Khó khăn nhiều khi tưởng như quá sức người, nhưng phụ nữ vẫn là người góp
sức san bằng những khó khăn đó. Và nội dung đảm đang của người phụ nữ đã không chỉ
đóng khung trong việc quán xuyến việc nhà, việc làng, mà còn mở rộng ra tới những
công việc bao quát hơn, phức tạp hơn, đòi hỏi người phụ nữ phải có lòng thương yêu
giai cấp, chí căm thù giặc, lòng dũng cảm, tài khéo léo, trí thông minh Người phụ nữ
miền Nam đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu đó. Khi giáp mặt với kẻ thù, trước làn bom mũi
đạn, họ đảm nhiệm việc tiếp lương, tải đạn; chuyển tải thương binh về nơi an toàn. Giữa
vòng vây của địch, họ lại nhận nuôi chứa, chăm sóc thương binh và mở đường cho thương
binh thoát vây về đơn vị an toàn
ở hậu phương lớn, phụ nữ miền Bắc "đảm đang sản xuất và công tác", "đảm đang
gia đình", đảm đang phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu". Chiến tranh nổ ra, lập
tức sức người, sức của phải dồn một phần lớn vào cuộc chiến đấu. Những công việc hậu
phương do đó phải đảm bảo thực hiện trong điều kiện hết sức căng thẳng về nhân công,
nhân lực. Phụ nữ ở khắp nơi là lực lượng chủ yếu giải quyết tình trạng nhân công, nhân
lực căng thẳng đó. Hàng triệu phụ nữ đã đứng ra gánh vác việc sản xuất và công tác, và
đã lập nên những kỳ tích với tinh thần đảm đang thay thế nam giới đi chiến đấu. Đây
cũng là cách đánh Mỹ, cách biểu hiện tinh thần đánh giặc của họ. Phụ nữ không phải chỉ
có đứng ra thay thế nam giới làm tất cả các công việc mà còn tự đảm nhiệm lấy việc
quản lý và lãnh đạo của mình. Từ thực tế của phong trào phụ nữ quản lý và lãnh đạo các


công việc, chỉ trong vài năm chống Mỹ, cứu nước, đã hình thành một đội ngũ cán bộ
phụ nữ rất đông đảo ở các ngành các cấp.
Đảm đang công việc gia đình vốn là truyền thống lâu đời của phụ nữ ta. Nhưng

trong hoàn cảnh mới người phụ nữ phải chủ động đưa thanh niên trong gia đình ra mặt
trận, và vừa đảm nhiệm công việc hậu phương, vừa gánh vác, xây dựng tổ chức gia đình
theo yêu cầu mới đó là nét đặc sắc trong việc đảm đang thứ hai: đảm đang gia đình,
khuyến khích chồng con anh em đi chiến đấu. Đã có biết bao người vợ, người yêu tự tay
viết đơn xin cho chồng đi nhập ngũ giết giặc. Đảm đang gia đình cho chồng con đi đánh
giặc, vừa gánh vác công việc hậu phương, vừa chăm sóc những thành viên nhỏ tuổi
trong gia đình, những người phụ nữ đã biểu lộ một tinh thần tự tin, một nghị lực vững
vàng, một nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ của mình đối với xã hội.
Và từ đó mà tình thương yêu đùm bọc, tinh thần tập thể và đoàn kết, đức tính hy
sinh của người phụ nữ được nảy nở mạnh mẽ và phát huy cao độ. Có những người mẹ ở
khắp nơi, những người hầu như đã coi toàn bộ cuộc đời mình là cuộc sống của chồng
con:
"Xưa tiễn chồng đi cứu nước rời rợi tóc xanh
Giờ lại tiễn con đi rung rinh đầu bạc" [37].
Rất nhiều phụ nữ đã bình tĩnh trầm lặng hiến dâng cho tổ quốc những người thân
yêu nhất của mình trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Bình tĩnh trầm lặng, họ đã
đương đầu với tất cả những khó khăn to lớn nhất, đảm nhận trọn vẹn công việc gia đình,
góp phần vào công việc cách mạng của dân tộc.
ở đây những người vợ Việt Nam là những người thủy chung trọn vẹn với chồng.
Những người mẹ Việt Nam hy sinh trọn vẹn cho con cái. Những người con gái, con dâu
Việt Nam thảo hiền đối với bậc trên và rèn luyện đức tính của người mẹ đối với lớp tuổi
dưới, cũng như chờ dịp thể hiện những đức tính của người vợ đối với người yêu, người
chồng tương lai của mình Đấy là những người phụ nữ Việt Nam trung hậu.


ở hậu phương lớn phụ nữ miền Bắc không những đảm đang công việc sản xuất,
đảm đang gia đình đưa chồng con đi chiến đấu mà họ còn đảm đang phục vụ chiến đấu
và sẵn sàng chiến đấu.
Tham gia vào cuộc chiến đấu bằng vũ khí với quân thù, kế thừa truyền thống sẵn
có của giới mình, phụ nữ ở hậu phương lớn có mặt trên mọi mặt trận chiến đấu. Mỗi

chiến công của bộ đội, bất cứ về mặt nào cũng đều có công lao đóng góp tích cực của
phụ nữ. Họ đã trở thành một đạo quân đông đảo hàng triệu người làm công tác phục vụ
chiến đấu. Những người phụ nữ ấy trước hết đã làm nhiệm vụ của những chiến sĩ hậu
cần nhân dân, và họ còn là những chiến sĩ phòng không, là những chiến sĩ thông tin liên
lạc, là những chiến sĩ giao thông vận tải, là những người động viên cổ động chiến
trường và chiến đấu.
Phục vụ đắc lực cho công tác phục vụ chiến đấu, chính những người phụ nữ ấy,
khi tình huống xảy ra đã trở thành những chiến binh thật sự, những người bằng khẩu
súng và lá cờ chỉ huy của mình, tiêu diệt kẻ địch bằng những trận chiến đấu oanh liệt.
Đấy cũng còn là những người, bằng đủ tất cả những gì có thể sử dụng làm vũ khí, đã
đuổi giặc lái hàng cây số, bắt gọn những đứa "con cưng của không lực và hải lực Huê
Kỳ".
Đấy chính là tinh thần kiên quyết chiến đấu của những nữ chiến sĩ ở hậu phương
lớn. Đã biểu hiện khí phách hiên ngang, sức tiến công dũng mãnh của người phụ nữ ở
khắp nơi trên miền Bắc - những người phụ nữ đầu tiên trên thế giới đã góp phần đập tan
những cái gọi là "uy thế" của "không lực và hải lực Huê Kỳ".
Tất cả những hành động cách mạng đó nói lên tinh thần trách nhiệm, ý thức tập
thể và đồng đội rất cao của những người phụ nữ vốn đã mang truyền thống yêu nước
nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, cùng với lòng thiết tha gắn bó với CNXH.
Như thế "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" - những phẩm chất quý báu
của phụ nữ Việt Nam đã được phụ nữ hai miền Nam - Bắc kế thừa, phát huy tuyệt vời
trong thời kỳ lịch sử mới. Đặc biệt là trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước. 20 năm bằng
biết bao năm trước cộng lại, phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được tinh hoa của truyền thống cũ,

×