Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

LUẬN VĂN: Văn hóa kinh doanh ở Công ty phát hành sách Hà Nội trong cơ chế thị trường potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 123 trang )





LUẬN VĂN:

Văn hóa kinh doanh ở Công ty
phát hành sách Hà Nội trong cơ
chế thị trường







mở đầu

1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến quan
trọng, từ nền kinh tế hành chính tập trung, quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Cơ chế
kinh tế mới khẳng định vai trò to lớn của các hoạt động thương mại, dịch vụ, các doanh
nghiệp và doanh nhân nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Trong cơ chế thị trường, phát
hành sách (PHS) cũng là một trong số các hoạt động thương mại, có chi phí mua, chi phí
bán và sau quá trình đó là lợi nhuận (tiền lãi), vì vậy PHS cũng có nhiều điểm tương đồng
với các ngành kinh doanh khác. Tuy nhiên, kinh doanh xuất bản phẩm (XBP) là hoạt động
kinh tế đặc thù, vừa đảm bảo mục tiêu đạt hiệu quả kinh tế vừa thực hiện mục tiêu tư tưởng -
văn hóa, vì sự tiến bộ và phát triển của xã hội, sự phát triển con người. Kinh doanh XBP có ý
nghĩa to lớn và giữ vị trí quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa và
phát triển tri thức khoa học cho nhân dân. Việc nhận thức đúng đắn về hoạt động kinh


doanh XBP trong cơ chế thị trường là cơ sở cần thiết để các doanh nghiệp tổ chức hoạt động
theo định hướng mới và giúp Nhà nước có chính sách phù hợp với sự phát triển của ngành
PHS.
Nói đến kinh doanh là nói tới, một ngành khoa học, một nghề nghiệp, một hệ
thống những thao tác trong giao tiếp xã hội có liên quan đến sản xuất, lưu thông, phân
phối, lợi nhuận (lãi) đến tiêu dùng. Do đó việc nghiên cứu về văn hóa thương trường
phản ánh sự phồn vinh kinh tế và một nền văn hóa giao tiếp trong kinh doanh là vấn đề
ngày càng cần thiết. Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh doanh ra sao, làm thế nào để đưa
văn hóa vào kinh doanh và kinh doanh có văn hóa để đạt được cả hiệu quả kinh tế và văn
hóa là những vấn đề cấp thiết đang được đặt ra với các doanh nghiệp kinh doanh thương
mại nói chung và kinh doanh XBP nói riêng.
Cơ chế quản lý kinh tế thay đổi từ cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp
sang cơ chế thị trường nhiều thành phần đã tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống. Kinh

tế thị trường có những nguyên tắc vận hành, phát triển riêng đã có ảnh hưởng sâu sắc tới
mọi mặt của đời sống xã hội. Hệ thống giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức, thói quen suy
nghĩ của từng cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng Sự thay đổi của cơ chế kinh tế mới
cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh sách và văn hóa phẩm (VHP) đòi hỏi ngành
PHS cần có chiến lược kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển mới của toàn xã hội.
Hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung ngày càng được nhận thức không chỉ
có mục tiêu lợi nhuận, kinh tế mà còn phải hướng tới mục tiêu văn hóa. Đặc biệt đối với
ngành PHS là ngành kinh doanh các văn hóa phẩm có tính chất đại chúng. ở đây, văn hóa
kinh doanh có ý nghĩa quyết định sự thành bại trong phương hướng phát triển của doanh
nghiệp.
Công ty PHS Hà Nội là doanh nghiệp nhà nước vốn được bao cấp một thời gian
rất dài với mục đích chủ yếu là phục vụ công tác chính trị, tuyên truyền đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước, khi chuyển sang cơ chế thị trường đã phải đối mặt với nhiều
thách thức mới, đòi hỏi phải có những phương thức kinh doanh phù hợp với tiến trình
phát triển của xã hội. Việc đổi mới phương thức kinh doanh của Công ty PHS Hà Nội
nhằm mục đích nâng cao hiệu quả kinh doanh, đẩy mạnh phát triển sản xuất, đa dạng hóa

các hình thức kinh doanh, thu hút sự quan tâm chú ý nhiều hơn của nhân dân Thủ đô là
một yêu cầu cấp bách. Trong phương hướng đổi mới thì việc xây dựng văn hóa kinh
doanh ở Công ty PHS Hà Nội trong cơ chế thị trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
quyết định sự vững mạnh của công ty trong thời kỳ mới.
Từ những vấn đề đặt ra ở trên, chúng tôi lựa chọn đề tài " Văn hóa kinh doanh ở
Công ty phát hành sách Hà Nội trong cơ chế thị trường ", làm luận văn tốt nghiệp hệ
đào tạo cao học, chuyên ngành lý luận văn hóa, nhằm góp phần nhận thức đúng đắn vai
trò của văn hóa kinh doanh trong hoạt động PHS hiện nay; đánh giá đúng thực trạng và
đề xuất các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh xây dựng văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà
Nội, đáp ứng được các yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
2. Tình hình nghiên cứu

Vấn đề xây dựng văn hóa, đạo đức trong xã hội nói chung trong kinh tế nói riêng
đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Sự quan tâm này càng được chú ý hơn khi nước
ta chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về các phương diện văn hóa trong kinh tế ở
những góc độ khác nhau, do đó khi thực hiện đề tài "Văn hóa kinh doanh ở Công ty Phát
hành sách Hà Nội trong cơ chế thị trường" chúng tôi đã kế thừa được từ những nhà
nghiên cứu đi trước nhiều ý kiến và kinh nghiệm quý báu.
Thứ nhất là vấn đề văn hóa kinh doanh trong hoạt động kinh tế, thương mại. Trong
các công trình Tinh thần doanh nghiệp giá trị định hướng của văn hóa kinh doanh Việt
Nam (Trần Quốc Dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003), Xây dựng văn hóa doanh
nghiệp Việt Nam (Đào Duy Quát, Tạp chí Tư tưởng - văn hóa số 6/2003); Văn hóa và
kinh doanh (Phạm Văn Nghiêm, Vũ Hòa, Trần Trúc Thanh (chủ biên), Nxb Lao động, Hà
Nội, 2001); Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay từ góc nhìn giá trị học (Đỗ
Huy, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001); Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh
(Đỗ Minh Cương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001); Doanh nghiệp, doanh nhân
trong kinh tế thị trường (Vũ Quốc Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001); Văn hóa
và phát triển (Trường Lưu chủ biên, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1995); Văn hóa vì
phát triển (Phạm Xuân Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); Văn hóa và kinh

doanh (Phạm Xuân Nam (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996); Văn hóa và
nguyên lý quản trị (Nguyễn Văn Đáng, Vũ Xuân Hương, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1996),
v.v các tác giả đã đưa ra các quan niệm cơ bản về văn hóa, về kinh doanh, về văn hóa
và kinh tế, văn hóa và kinh doanh, văn hóa kinh doanh Đồng thời xác nhận vai trò đặc
biệt quan trọng của nhân tố văn hóa trong kinh doanh. Các nhà nghiên cứu đều thống
nhất cho rằng sự phát triển kinh tế không chỉ bị quy định bởi các nhân tố thuần kinh tế
(đất đai, lao động, vốn, kỹ thuật ) mà còn chịu sự tác động của các nhân tố văn hóa, giáo
dục, đạo đức. Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế không phải chỉ nhằm mục tiêu lợi
nhuận kinh tế mà còn phải hướng tới mục tiêu văn hóa, do đó cần có một cách tiếp cận rộng
rãi hơn của văn hóa học đối với hoạt động kinh tế, kinh doanh. Khái niệm văn hóa kinh
tế, văn hóa kinh doanh nhờ vậy đã xuất hiện. Văn hóa kinh doanh "đảm bảo kết hợp được

cả cái đúng, cái tốt, cái đẹp vốn là những giá trị cốt lõi của văn hóa - với cái lợi là mục
đích trực tiếp của kinh doanh" [27, tr. 37].
Các tác giả cũng phân tích những mặt mạnh và yếu trong văn hóa kinh doanh của
người Việt Nam trong lịch sử, đồng thời bước đầu chỉ ra phương hướng và các giải pháp
chủ yếu nhằm đưa các yếu tố văn hóa vào kinh tế, kinh doanh, xây dựng văn hóa kinh
doanh, văn hóa doanh nghiệp, tinh thần doanh nghiệp, triết lý doanh nghiệp ở nước ta
hiện nay.
Thứ hai là vấn đề kinh doanh XBP trong cơ chế thị trường. Các công trình
Nguyên lý hoạt động biên tập xuất bản sách (Ngô Sĩ Liên (chủ biên) - Trần Văn Hải -
Trần Đăng Hanh - Lê Đỗ Khanh - Quách Văn Lịch - Lê Thị Phúc, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 1998); Lịch sử phát hành sách Việt Nam (Phạm Thị Thanh Tâm (chủ biên), Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1994); Xuất bản và phát triển (Phi líp G.Altbach và Đamtew
Teferar (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999); Đại cương phát hành xuất
bản phẩm, Phạm Thị Thanh Tâm, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, 2002, Đổi mới mô
hình tổ chức ngành phát hành sách (Phạm Thị Thanh Tâm, Tạp chí Sách và đời sống, số
đặc biệt chào mừng 50 năm ngày truyền thống ngành xuất bản - in - PHS Việt Nam,
9/2002) đã nêu rõ các vấn đề cơ bản của phát hành XBP trong nền kinh tế thị trường, về
thị trường XBP, những nghiệp vụ cơ bản của phát hành XBP và một số giải pháp đổi mới

mô hình tổ chức ngành PHS hiện nay đáp ứng yêu cầu xây dựng thể chế kinh tế thị
trường và mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế. Các ý kiến trong các công trình nghiên
cứu ở trên xới gợi những ý tượng quan trọng về hoạt động PHS trong cơ chế thị trường,
về văn hóa kinh doanh XBP giúp chúng tôi nghiên cứu sâu hơn về văn hóa kinh doanh
PHS trong cơ chế thị trường. Có thể nói các ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước về cơ
bản rất gần gũi và quan trọng đối với người thực hiện đề tài này. Chúng tôi tiếp thu được
ở đó sự xác định các quan niệm cơ bản về văn hóa, về văn hóa kinh doanh và những đặc
trưng cơ bản của PHS trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam Đến lượt mình chúng tôi sẽ tiến sâu hơn một bước trong việc nghiên cứu văn hóa
kinh doanh trong hoạt động PHS ở nước ta nói chung và ở Công ty PHS Hà Nội nói

riêng. Có thể xem đây là một vấn đề còn mới mẻ đối với những người nghiên cứu và hoạt
động trên lĩnh vực văn hóa, kinh doanh XBP.
3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Nhiệm vụ của luận văn
Để hoàn thành nội dung nghiên cứu, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể là:
- Xác định quan niệm về văn hóa, văn hóa kinh doanh, mối liên hệ giữa văn hóa
và kinh doanh ở doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh XBP.
- Đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và văn hóa kinh doanh ở
Công ty PHS Hà Nội trong 5 năm gần đây.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao văn hóa kinh doanh ở Công ty
PHS Hà Nội trong thời gian tới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện thời gian, khuôn khổ luận văn cao học và trình độ người viết còn
hạn chế, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà
Nội từ năm 1996 cho đến năm 2002, làm cơ sở để đề xuất các giải pháp thúc đẩy việc xây
dựng văn hóa kinh doanh ở công ty trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn
được tiến hành nghiên cứu từ góc độ văn hóa học và các khoa học khác như: triết học,

kinh tế học, xã hội học, xuất bản
Luận văn được thực hiện với việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là:
Phương pháp lôgíc thống kê, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp lịch sử,
phương pháp phân tích hoạt động kinh tế
5. Đóng góp mới của đề tài

Vấn đề văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà Nội trong cơ chế thị trường còn
chưa được quan tâm nghiên cứu, do đó giải quyết vấn đề này luận văn có một số đóng
góp mới:
Thứ nhất, xác định quan niệm về văn hóa kinh doanh trong hoạt động PHS (văn
hóa kinh doanh sách).
Thứ hai, đánh giá thực trạng văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà Nội từ năm
1996 đến 2002
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao văn hóa kinh doanh ở Công ty
PHS Hà Nội trong thời gian tới.
6. ý nghĩa của đề tài
Một trong những xu hướng nghiên cứu kinh tế, kinh doanh hiện nay là gắn với
văn hóa, vì vậy đề tài có thể có những đóng góp nhất định về lý luận văn hóa, về văn hóa
kinh doanh - một mắt khâu quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Luận văn cung cấp các tư liệu, số liệu xác thực về văn hóa kinh doanh của công
ty PHS Hà Nội có thể giúp ích cho các ngành hữu quan trong công tác lãnh đạo và quản
lý văn hóa trong điều kiện xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Thủ đô nói
riêng, ở nước ta nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Văn hóa kinh doanh và vai trò của văn hóa kinh doanh với hoạt
động kinh tế, thương mại và phát hành XBP trong cơ chế thị trường.
- Chương 2: Thực trạng văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà Nội từ 1996 đến

nay.

- Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng hiệu quả văn hóa kinh doanh ở Công ty PHS Hà Nội trong thời gian tới.
Luận văn được hoàn thành nhờ sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong
Khoa Sau đại học, Khoa Phát hành sách Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, các đồng chí
lãnh đạo và đồng nghiệp ở Công ty PHS Hà Nội, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của
TS. Nguyễn Duy Bắc, giảng viên Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Tác giả xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo, các anh chị em đồng
nghiệp và những người thân trong gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện
để tác giả hoàn thành luận văn này.

Chương 1
Văn hóa kinh doanh và vai trò của văn hóa
kinh doanh đối với hoạt động kinh tế thương mại và
phát hành xuất bản phẩm trong cơ chế thị trường

1.1. quan niệm về văn hóa
Văn hóa là một khái niệm rất rộng và được nhiều học giả nghiên cứu tiếp cận từ
những góc độ khác nhau. Theo quan niệm ở phương Đông trong tiếng Hán cổ, từ văn hóa
bao gồm văn là vẻ đẹp của nhân tính, cái đẹp của tri thức, trí tuệ. Con người có thể đạt
được bằng cách tự tu dưỡng của bản thân và là cách thức cai trị đúng đắn của người cầm
quyền. Chữ "hóa" trong văn hóa là việc đem cái văn (cái đẹp, cái đúng, cái tốt) để cảm
hóa giáo dục và hiện thực hóa trong thực tiễn đời sống. Văn hóa chính là nhân hóa hay
nhân văn hóa.
Theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ hoạt động vật chất và tinh thần mà loài
người sáng tạo ra trong lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích cuộc sống loài người mới sáng tạo ra và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về ăn mặc ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ sáng tạo và phát minh đó

tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn" [26, tr. 431].
Theo phạm vi hẹp, văn hóa được coi như một ngành - ngành văn hóa thông tin,
văn hóa nghệ thuật để phân biệt với các ngành kinh tế - kỹ thuật khác của nền kinh tế quốc
dân. Văn hóa còn được coi là một lĩnh vực hoạt động bên cạnh các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội (và chúng cần được coi trọng ngang nhau). Văn hóa được đề cập trong Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng, bao gồm toàn bộ đời sống tinh thần xã hội, tập
trung vào những lĩnh vực then chốt nhất: Tư tưởng, đạo đức, lối sống, giáo dục đào tạo,

khoa học công nghệ, văn học nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa với thế
giới, các thể chế văn hóa Trong các mặt đó thì tư tưởng, đạo đức và đời sống văn hóa
được coi là lĩnh vực quan trọng nhất được đặc biệt quan tâm hiện nay.
Đời sống xã hội có hai mặt: Vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật
chất thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, và với tính cách như vậy văn hóa vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm chiếm ưu thế
hiện nay coi mục tiêu phát triển là phải nâng cao chất lượng cuộc sống con người với
đảm bảo sao cho có sự kết hợp hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa mức
sống cao với lối sống và quan hệ xã hội tốt đẹp, không chỉ cho một số ít người mà cho
toàn thể xã hội. Để đạt được mục tiêu đó, nhất thiết phải có sự phát triển cao về kinh tế,
về cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ. Song chỉ như thế chưa đủ và rất không đúng nếu
hiểu xây dựng kinh tế chỉ là tăng trưởng đơn thuần, tăng trưởng với bất kỳ giá nào, thậm
chí hy sinh văn hóa, hy sinh phẩm giá con người. Nếu hiểu như thế là hoàn toàn xa lạ với
lý tưởng XHCN của chúng ta. Trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự giàu có không
chỉ là tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật mà yếu tố quan trọng và quyết định là nguồn
lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng này nằm trong văn hóa,
trong trí tuệ, đạo đức, nhân cách, tâm hồn, tài năng của mỗi cá nhân và cả cộng đồng.
Vì vậy, quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam là quá trình thực hiện chiến lược con
người và phát huy nguồn lực con người - nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát
triển.

Kinh tế thị trường và mở cửa với bên ngoài làm sống động nền kinh tế và các
hoạt đông xã hội, phát triển giao lưu hàng hóa, du lịch và các sản phẩm văn hóa, giúp
nhân dân ta mở rộng chân trời hiểu biết và kiến thức tiếp nhận từ bốn phương. Điều dễ
nhận thấy trong sự thay đổi này là tính năng động xã hội - kinh tế và tính tích cực của
công dân được khơi dậy và phát huy thay thế cho tâm lý thụ động ỷ lại trông chờ vào sự
bao cấp của Nhà nước. Không khí dân chủ cởi mở trong xã hội được nâng cao, năng lực
cá nhân của con người được khuyến khích, tôn trọng.

Văn hóa bắt nguồn từ yếu tố nguồn lực con người. Con người là chủ thể, là linh
hồn của sự sáng tạo, là nhân tố hàng đầu của văn hóa. Hội nghị liên Chính phủ về chính
sách văn hóa vì sự phát triển do UNESCO tổ chức tại Xtốckhôm (Thụy Điển) đã khẳng
định: "Sự sáng tạo văn hóa là động lực tiến bộ của loài người; Sự đa dạng của văn hóa là
kho tàng quý báu nhất của nhân loại và là một yếu tố cần thiết của sự phát triển" [Dẫn
theo 42, tr. 51]. Quan điểm đó đã góp phần khắc phục được cách nhận thức của một số
người chỉ nhấn mạnh vai trò của kinh tế, coi văn hóa thuộc loại phi sản xuất, là lĩnh vực
thứ yếu, là hoạt động đứng ngoài kinh tế, văn hóa sống được là nhờ vào trợ cấp của Nhà
nước và ăn theo kinh tế, chịu sự quy định một cách đơn giản của kinh tế ít chú ý đến các
giá trị và vai trò của văn hóa.
Thực tiễn ngày càng giúp chúng ta nhận thức đầy đủ hơn vị trí vai trò của văn
hóa trong phát triển. Sự hiểu biết và trí tuệ do con người tích lũy được, cùng đạo lý tốt
đẹp trong mối quan hệ của con người và cộng đồng, với tự nhiên được bồi đắp nên suốt
chiều dài lịch sử, là các thành tố cấu thành văn hóa, làm nên nền tảng tinh thần xã hội,
giữ vai trò cực kỳ quan trọng vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội. Như sự nhấn mạnh về văn hóa được đưa ra trong Hội nghị liên Chính phủ về
chính sách văn hóa do UNESCO tổ chức tại Thụy Điển trong thời gian gần đây: "Sự phát
triển của xã hội chính là sự phát triển của văn hóa;và sự thăng hoa của văn hóa là đỉnh
cao nhất của sự phát triển" [Dẫn theo 42, tr. 51].
Văn hóa là thuộc tính bản chất của con người, văn hóa dùng để chỉ đặc điểm và
nhân tố nhân tính, nhân văn chung của loài người, văn hóa có trong bất cứ lĩnh vực hoạt
động nào của con người:kinh tế, chính trị, nghiên cứu, giao tiếp, lao động, sáng tạo nghệ

thuật, kinh doanh (ta thường nói văn hóa chính trị, văn hóa giao tiếp, văn hóa lao động,
văn hóa thương mại, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa kinh doanh ).
Có thể văn hóa không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, nhưng với chức năng
quan trọng hàng đầu của văn hóa là chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, sức mạnh
và hiệu quả của văn hóa là ở chỗ nó có thể huy động được toàn bộ các năng lực tinh thần
của con người và tác động tới chiều sâu trong đời sống tinh thần của con người. Do vậy,

văn hóa đồng nghĩa với trí tuệ, đạo đức, lương tâm Đó là hệ thống các giá trị Chân -
Thiện - Mỹ thúc đẩy con người sáng tạo vật chất và tinh thần. Nếu quên đi yếu tố văn hóa
sớm muộn ở đó sẽ lụi bại không chỉ về lương tâm, đạo đức mà còn lụi bại cả về kinh tế
nữa.
Qua các phân tích trên có thể thấy định nghĩa của UNESCO về văn hóa như một
quan niệm phổ biến về văn hóa: "Văn hóa là tổng thể sống động mọi mặt của cuộc sống
con người đã diễn ra trong quá khứ và cũng đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao
nhiêu thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà
dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình" (Federico -Mayor -1988)
[Dẫn theo 17. tr. 52].
1.2. quan niệm về văn hóa kinh doanh
1.2.1. Quan niệm về kinh doanh
Kinh doanh là một hoạt động cơ bản của con người xuất hiện cùng với kinh tế
hàng hóa và thị trường, ngay từ thời cổ đại đã có tầng lớp những người làm nghề kinh
doanh hay còn gọi doanh nhân. Kinh doanh bao gồm nhiều hình thức khác nhau: Buôn
bán (thương mại), sản xuất, dịch vụ, thông tin, tư vấn, Xét về lịch sử kinh doanh thương
mại thì mua bán, trao đổi và lưu thông hàng hóa là loại kinh doanh xuất hiện đầu tiên và
có liên quan đến sản xuất và trao đổi hàng hóa. Xét từ góc độ công nghệ - kỹ thuật thì
kinh doanh là một quá trình bao gồm nhiều công đoạn khác nhau như đầu tư, sản xuất,
marketing, dịch vụ bảo hành Đó là một hệ thống hoạt động gồm nhiều chuyên ngành
nghiệp vụ như: quản trị kinh doanh, công nghệ và kỹ thuật sản xuất, chất lượng, mua
hàng, bán hàng, kế toán tài chính, tư vấn bảo hành Các dạng hoạt động trên đều có chủ
thể hoạt động với các nghề nghiệp chuyên môn. Mục đích của kinh doanh, với tư cách là

một nghề, hay là một hoạt động đều nhằm đem lại lợi ích cho chủ thể là người kinh
doanh. Vì vậy, Luật doanh nghiệp Việt Nam đưa ra định nghĩa kinh doanh từ đặc điểm
bản chất của nó như sau: "Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên
thị trường nhằm mục đích sinh lợi" [22, tr. 7-8].

Mục đích chính của kinh doanh là kiếm lời, là đem lại lợi nhuận cho người kinh
doanh hay còn gọi là chủ thể kinh doanh. Chủ thể kinh doanh bao gồm các cá nhân, tổ
chức, doanh nhân có hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa trên thị trường. Khách thể kinh
doanh là những khách hàng của chủ thể bao gồm người tiêu dùng trực tiếp và gián tiếp và
cả những nhà kinh doanh khác trong mối quan hệ bạn hàng hoặc cùng hợp tác kinh doanh.
Trong mối quan hệ đó, người tiêu dùng (khách thể) giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Họ là
trung tâm của thị trường, là người quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp. Lợi nhuận của
doanh nghiệp phụ thuộc vào sức mua của người tiêu dùng nên người kinh doanh phải căn cứ
vào nhu cầu, thị hiếu, sở thích của khách hàng để cung cấp cho họ một lượng hàng hóa hay
dịch vụ nào đó nhằm thu lại một lượng tiền với mức lợi nhuận nhất định. Vì vậy việc
quyết định sự thành bại của doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng có chấp nhận hàng
hóa, sản phẩm đó hay không.
Như vậy, kinh doanh không trái với phục vụ nhưng đây là sự phục vụ có mục
đích vì lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất phát triển ngày càng cao hơn và các dịch vụ kèm
theo sản phẩm cũng được chú trọng hơn. Trong nền kinh tế thị trường thì kinh doanh cần
cho cuộc sống cũng như cuộc sống cần cho kinh doanh. Kinh doanh là một nghề chính
đáng xuất phát từ nhu cầu phát triển của xã hội, do sự phân công lao động xã hội tạo ra.
Vấn đề là kinh doanh như thế nào? Kinh doanh bằng cách nào? Đấy là nội dung của vấn
đề văn hóa trong kinh doanh và kinh doanh có văn hóa.
1.2.2. Văn hóa trong kinh doanh và kinh doanh có văn hóa
1.2.2.1. Văn hóa trong kinh doanh
Bản thân hoạt động kinh doanh thương mại là một hoạt động văn hóa, bởi nó đáp
ứng nhu cầu hưởng thụ hay thưởng thức của con người. Và khi con người là đối tượng
hưởng thụ văn hóa chân chính cũng là con người đích thực của xã hội biết phân biệt cái

đúng, cái sai, phải, trái, trắng, đen trong những điều mình đang hưởng thụ thưởng thức về
văn hóa.

Chính yêu cầu cao về chất lượng và ngày càng nhiều về số lượng của người tiêu
dùng đã kích thích sự sáng tạo vô biên, sự cố gắng không mệt mỏi của các doanh nhân,
doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh.
Yếu tố văn hóa trong kinh doanh chính là hoạt động đem cái đẹp, cái tiện lợi tới
mọi nhà. Không thỏa mãn với những gì có hôm nay các nhà thiết kế mỹ thuật, nhà sản
xuất kinh doanh đã không ngừng cải tiến mẫu mã, ứng dụng những thành tựu lớn nhất
của khoa học và công nghệ vào quá trình chế tạo sản phẩm và đội ngũ các nhà thương
nghiệp không quản ngại đường sá xa xôi đưa sản phẩm tới nơi tiêu thụ, từng bước hình
thành mạng lưới kinh doanh xuyên quốc gia, xuyên lục địa và cũng từ hoạt động này thúc
đẩy xã hội tiến lên theo hướng văn minh, hiện đại.
Văn hóa trong kinh doanh còn biểu hiện mối quan hệ giữa người
bán và người mua. Người mua có quyền lựa chọn sản phẩm mà mình có nhu cầu với
những chỉ tiêu về chất lượng, số lượng hàng hóa, phong cách phục
vụ. Người bán cố bày tỏ lòng hiếu khách, tôn trọng người mua, bởi họ hiểu rằng, chính
khách hàng là ân nhân, là sự sống của doanh nghiệp trên thương trường. Còn nhà sản
xuất coi sự thành đạt trong kinh doanh là nguyên nhân chính đưa đến sự phát triển sản
xuất, nên họ cũng rất tôn trọng quan hệ mua bán trên thị trường.
Chính việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh có thể làm lành mạnh hóa quan hệ xã
hội, bởi nó thúc đẩy quá trình phát triển của xã hội. Lợi nhuận do kinh doanh đem lại tạo
nên tiềm lực kinh tế, khoa học - kỹ thuật cho quốc gia và mỗi đơn vị, cá nhân tham gia
kinh doanh, từ đó mọi người thông cảm và hiểu biết nhau hơn, có điều kiện để sống có
văn hóa hơn trong sự điều tiết có tính khách quan của cơ chế thị trường năng động. Văn
hóa trong kinh doanh là cơ sở để điều tiết mọi mối quan hệ trong kinh doanh. Tuy nhiên,
phải nhìn nhận yếu tố văn hóa trong kinh doanh một cách dung dị và chấp nhận phản đề
của sự kiện. Bởi lẽ, mục đích kiếm lời của mọi hoạt động kinh doanh là như nhau, nếu
thua lỗ thì không thể tồn tại, do đó xuất hiện các nghệ thuật kinh doanh, thủ đoạn kinh
doanh vừa có tính hướng thiện, vừa có tính cạnh tranh quyết liệt để tồn tại và phát triển.

Do đó, yếu tố văn hóa và phản văn hóa tiềm ẩn trong mỗi nhà kinh doanh. Vấn đề ở chỗ,

nhà kinh doanh nào thực tài thì có đối sách thích hợp để gặt hái thành công trên thương
trường. Ai có trí có lực thì vượt qua những biến động ghê gớm khó lường trước được của
thị trường và vươn lên. Lúc này yếu tố văn hóa trong kinh doanh chính là bản lĩnh của
người kinh doanh. Nhiều tấm gương thành đạt của doanh nhân nổi tiếng đã chứng minh
điều đó.
Phạm trù văn hóa trong kinh doanh chính là nỗ lực chủ quan của người kinh
doanh, họ thực sự đã đóng góp công sức cho sự tiến bộ xã hội. Song cũng chính họ nếu
không đủ tài lực, nhân trí sẽ có hành vi phản văn hóa trong kinh doanh. Do đó, điều tiết
mối quan hệ này chính là các hoạt động nhân văn với sự chi phối của gia đình, truyền
thống dân tộc, thể chế nhà nước (quốc gia) và các chuẩn mực quốc tế hướng tới sự tiến
bộ của xã hội.
1.2.2.2. Kinh doanh có văn hóa
Hoạt động kinh doanh diễn ra trên khắp thế giới, cả trong thời chiến và thời bình
với nhiều quy mô và hình thức khác nhau. Có thể nói một cách hình ảnh rằng cả thế giới
như một cái chợ, chỗ này buôn bán lương thực, thực phẩm, chỗ kia buôn bán văn hóa
phẩm, chỗ khác buôn bán vũ khí Bởi lẽ tất cả các nơi đó đang diễn ra quá trình thỏa
mãn nhu cầu của mối quan hệ cung - cầu, mua - bán, trao đổi. Cái khác nhau cơ bản của
hoạt động kinh doanh nhìn dưới góc độ văn hóa chính là "đối tượng" và "phương thức"
của quá trình kinh doanh trên thị trường.
Trong phạm trù "kinh doanh có văn hóa" yếu tố cái thiện, cái ác là thước đo giữa văn
hóa và phản văn hóa, giữa văn minh và man rợ mà biểu hiện của phạm trù này chính là vật
được đem đi trao đổi giữa kẻ bán và người mua.
Nói đến kinh doanh là nói đến việc đầu tư cho việc sản xuất buôn bán phân phối
hàng hóa và dịch vụ nhằm mục đích kiếm tìm lợi nhuận tối đa, thu được lợi nhuận để từ
đó tái đầu tư, đảm bảo lợi ích cho người kinh doanh và người lao động, nhờ đó doanh
nghiệp mới tồn tại và phát triển được.

Người ta có thể kiếm lợi nhuận bằng nhiều cách khác nhau nhưng thực tế phát

triển hàng trăm năm của nền kinh tế thị trường trên thế giới cũng như nền kinh tế thị
trường còn rất mới mẻ ở Việt Nam cho thấy có hai cách thức kinh doanh cơ bản sau:
Cách kinh doanh thứ nhất xuất phát từ mục đích cho rằng kinh doanh là kinh
doanh: lợi nhuận là mục tiêu tối thượng trong kinh doanh. Không cần đạo đức người ta
cạnh tranh bằng mọi giá, tìm kiếm lợi nhuận bằng sự bóc lột quá sức người lao động,
khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, làm hàng giả, hàng
kém chất lượng, buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo, đầu cơ Để đạt được lợi nhuận tối đa họ có
thể dùng mọi biện pháp mánh khóe xấu xa, thậm chí đe dọa tính mạng người khác. Đây
là cách kiếm tiền biểu hiện sự tồi tệ của giới kinh doanh chụp giật, vô đạo đức, thiếu văn
hóa, phản tự nhiên. Họ coi đồng tiền là trên hết, giẫm đạp lên lương tâm, nghĩa vụ, danh
dự, coi thường lợi ích của người khác và của xã hội. Đối với họ chuẩn mực đạo đức của
văn hóa kinh doanh không gì khác ngoài tư lợi.
Kiểu kinh doanh như trên chỉ làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng vô chính
phủ, tạo ra hiểm họa đe dọa sự tồn tại, phát triển của thị trường, đe dọa sinh tồn của
người tiêu dùng và ngay bản thân lợi nhuận của nhà kinh doanh. Cách kiếm lợi nhuận
này không thể tồn tại lâu bền do sự thiển cận và sai lầm của bản thân và nhận được sự
phán quyết của xã hội. Mặt khác, khi đạt được tới lợi nhuận tối đa, nhà kinh doanh chưa
hẳn đã đạt được hạnh phúc. Thực tế cho thấy không ít nhà kinh doanh giàu có, sở hữu
một tài sản kếch sù mà vẫn thấy bất hạnh bởi tình cảm giữa con người cạn kiệt, gia đình
bất ổn, đạo đức suy đồi, sa ngã vào tệ nạn xã hội. Đây chính là yếu tố báo trước nguy cơ
hủy hoại nền tảng của chính xã hội mà họ đang sống. Theo ông Kim Woo Choong,
nguyên Chủ tịch tập đoàn Daewoo, một trong những tập đoàn kinh doanh lớn nhất Hàn
Quốc thì: "Người nào ít tiền biết cách sử dụng của cải vì lợi ích của người khác mới là
người giàu có và hạnh phúc thực sự" [2, tr. 5].
Qua đó chúng ta thấy rằng, ý nghĩa của cuộc sống con người nói chung và của nhà
kinh doanh nói riêng không chỉ ở sự giàu có mà quan trọng hơn là giá trị văn hóa đạo đức
và nhân văn.

Cách kinh doanh thứ hai trái với kiểu kiếm lợi nhuận trên, nhiều nhà kinh doanh
lại quan niệm rằng nội dung chủ yếu của kinh doanh là phải vừa nâng cao hiệu quả kinh

doanh, vừa nâng cao nhân tố trí tuệ; coi trọng nhân tố đạo đức của người sản xuất, tiếp thị
và quản lý tài chính. Theo họ kinh doanh không những vì lợi ích của mình mà ngay từ
đầu phải tính đến lợi ích và phát triển của xã hội.
Từ quan niệm như vậy mà văn hóa kinh doanh cũng được xác định theo nguyên
tắc mới, đó là: Một mặt phải đảm bảo cho nhà kinh doanh xác định được đầy đủ chủ
quyền của mình trong việc bảo vệ và phát triển quyền lợi sở hữu tài sản, sử dụng các
nguồn lực vào hoạt động kinh doanh đưa ra những quyết định kịp thời, chính xác nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh doanh có lợi cho họ và xã hội. Mặt khác văn hóa kinh doanh
cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoạt động theo luật định. Ngay từ đầu họ phải chú ý
đến lợi ích xã hội, đến đời sống và công việc của những người có liên hệ tới hoạt động
kinh doanh của mình để doanh nghiệp của mình thu được lợi nhuận vững chắc. Đó chính
là môi trường đảm bảo cho hoạt động của nhà kinh doanh có thể tồn tại và phát triển lâu
dài. Cách kinh doanh này thể hiện mặt ưu việt của phương thức kinh doanh có đạo đức,
có văn hóa.
Phạm trù kinh doanh có văn hóa chính là phần thể hiện cái tâm và là bản chất văn
hóa của người tham gia kinh doanh. Nó chính là thước đo văn hóa, giáo dục, tình cảm và
trách nhiệm của người kinh doanh trước nhu cầu của khách hàng và xã hội.
Một xã hội kinh doanh có văn hóa, tập hợp các nhà kinh doanh có văn hóa đó là
xã hội văn minh, lành mạnh và phát triển. Nếu ngược lại, xã hội sẽ phải trả giá cho sự bất
lực và yếu kém về trí tuệ và văn hóa trong kinh doanh. Những vụ tranh chấp đầy kịch
tính, những phi vụ làm ăn phi pháp, buôn lậu, ma túy, tham nhũng là biểu hiện của hoạt
động kinh doanh phản văn hóa. Hiện tượng này chỉ có thể khắc phục trong xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
1.2.3. Quan niệm về văn hóa kinh doanh

Kinh doanh là hoạt động gắn liền với lợi ích kinh tế, nhưng kinh doanh như thế
nào? Đem lại lợi ích cho ai? Đây là vấn đề cần được xem xét một cách nghiêm túc. Trong
quá trình thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường tất yếu sẽ xuất hiện mối
quan hệ canh tranh giữa các nhà doanh nghiệp. Sự cạnh tranh thể hiện ở mọi lĩnh vực:
sản xuất, mua, bán, Cách giải quyết các mâu thuẫn đó không thể không liên quan đến

vấn đề văn hóa và kinh doanh; cạnh tranh có văn hóa là cạnh tranh lành mạnh, chân
chính.
Vấn đề văn hóa kinh doanh được đặt ra và giải quyết trong mối quan hệ tương hỗ
về lợi ích giữa ba chủ thể chính của nền kinh tế thị trường là người tiêu dùng - nhà doanh
nghiệp - Nhà nước. Ba chủ thể đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và ảnh hưởng tới
toàn bộ quá trình kinh tế. Nhà nước ban hành và thực hiện những mục tiêu chiến lược của
mình. Đương nhiên những chủ trương, biện pháp của Nhà nước tác động đến các hoạt động
của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có trách nhiệm tuân thủ theo đúng pháp luật,
chính sách của Nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Người tiêu dùng
được thụ hưởng (từ việc mua) các sản phẩm có giá trị vật chất và tinh thần từ các doanh
nghiệp được Nhà nước quản lý và điều tiết với giá cả hợp lý
Nhà nước là chủ thể quan trọng trong nền kinh tế thị trường, sự điều tiết của Nhà
nước thông qua chủ trương chính sách và luật lệ có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến
hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Do đó mỗi chính sách, chủ trương trước khi được ban
hành cần được phân tích kỹ lưỡng và xây dựng trên luận cứ khoa học chắc chắn, có tính
đến quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Mỗi chính sách đúng đắn có tác dụng
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế đất nước nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng.
Một chính sách thiếu chính xác sẽ làm ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của xã hội.
Đối với người tiêu dùng - trung tâm của thị trường cũng cần phải thấy nhu cầu
chính đáng để có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh hướng tới
những nhu cầu văn hóa, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Ngược lại, những nhu
cầu phi lý, có thể đẩy doanh nghiệp vào con đường làm ăn phi pháp, vi phạm văn hóa
kinh doanh, đối lập với lợi ích xã hội.

Đối với người kinh doanh hay một tổ chức kinh doanh cụ thể thì văn hóa tồn tại
tiềm ẩn trong họ như nguồn lực, hệ giá trị mà muốn khơi dậy, phát huy được cần có
thời gian, môi trường và sự tác động phù hợp, tạo ra bản sắc riêng của từng doanh
nghiệp. Như vậy, có thể đưa ra một quan niệm về văn hóa kinh doanh như sau: Văn hóa
kinh doanh là việc các doanh nhân, các doanh nghiệp sử dụng các nhân tố văn hóa vào
trong hoạt động kinh doanh của chủ thể nhằm làm cho hoạt động kinh tế có hiệu quả, đạt

năng suất, sản lượng, giá trị cao, giá thành thấp, sản phẩm đạt chất lượng cao, tiêu thụ
được sản phẩm trên thị trường trong nước và ngoài nước, làm đầy đủ nghĩa vụ với Nhà
nước, tạo được chữ tín với khách hàng. Văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp có thể
được nhận biết từ hai phương diện chính:
Một là, các nhân tố văn hóa (hệ giá trị, tâm lý, triết lý chung mà chủ thể lựa chọn
từ văn hóa dân tộc và nhân loại), được vận dụng vào quá trình kinh doanh để tạo ra các
sản phẩm hàng hóa và dịch vụ phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Nói cách
khác đây là lối kinh doanh có văn hóa, kinh doanh phù hợp với sự tiến bộ của xã hội.
Hai là, các giá trị văn hóa, kết tinh trong các sản phẩm như hệ giá trị, triết lý, tập
tục riêng, nghệ thuật mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh và làm
nghề kinh doanh của họ có tác dụng cổ vũ, biểu dương đối với kiểu kinh doanh có văn
hóa mà họ đang theo đuổi.
Hai phương diện trên cũng chính là hai thành tố chính của hệ thống văn hóa kinh
doanh, vốn có mỗi quan hệ biện chứng và hữu cơ với nhau. Điều này giống như việc
muốn trở thành một con người sống có văn hóa thì trước hết phải tôn trọng và hành động
theo các chuẩn mực văn hóa.
Văn hóa kinh doanh là một bộ phận, là cái đặc thù so với văn hóa chung của dân
tộc. Vì vậy không thể đồng nhất văn hóa kinh doanh với nền văn hóa dân tộc cũng như
không thể không phân biệt các đặc thù mà các doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh khác tạo
ra.
Văn hóa của một cá nhân, một tổ chức cũng có cái đặc thù, có những điểm riêng
so với cá nhân, tổ chức khác trong cùng dân tộc và đương nhiên sự khác biệt này càng

lớn nếu họ thuộc vào những nền văn hóa dân tộc khác nhau. Mỗi thời đại phát triển khác
nhau của lực lượng sản xuất làm cho những nhu cầu tiêu dùng cũng khác nhau. Theo nhà
nghiên cứu Đỗ Huy: "Bản chất của văn hóa kinh doanh là làm cho cái lợi gắn chặt chẽ
với cái đúng, cái tốt, cái đẹp" [19, tr. 211]. Vì lý do đó người ta nói kinh doanh có văn
hóa bao chứa cả trí tuệ của nhà triết học, lòng dũng cảm của người lính và tài năng của
nhà nghệ sĩ.
Để cái lợi gắn với cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong kinh doanh nhằm thỏa mãn có

chất lượng nhu cầu và thị hiếu của con người trong môi trường sống, mỗi xã hội, mỗi nền
văn hóa đều hình thành các truyền thống văn hóa kinh doanh trong nền văn hóa chung. Bản
chất văn hóa kinh doanh gắn với văn hóa đạo đức. Văn hóa đạo đức là sự phản ánh lợi ích
của cộng đồng. Khi nhà kinh doanh làm cho giá trị của đạo đức cộng đồng được củng cố thì
bản thân cũng có sức mạnh bởi sự tín nhiệm của cộng đồng. Chữ "tín" là nội lực phát triển
của nghề kinh doanh.: "Văn hóa kinh doanh được thống nhất trong bản thân nó các giá trị
đạo đức, giá trị kinh tế và được các giá trị này điều hòa" [20, tr. 217].
Văn hóa kinh doanh không thể tách rời văn hóa chính trị. ở nhiều nước phát triển
không những bản thân nhà kinh doanh là những chính khách và thủ đoạn thương trường
của họ nhiều lúc còn vượt qua cả chính khách. ở nước ta văn hóa kinh doanh phải thống
nhất với các mục tiêu của văn hóa chính trị. Chúng ta đang làm cho kinh tế thị trường
ngày càng được mở rộng và vận hành khách quan hơn. Song nó phải được đặt dưới sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa chính trị ở nước ta xác
lập một hệ thống luật pháp và chính sách đảm bảo cho cơ sở kinh doanh thành công về
mặt kỹ thuật, kinh tế, đồng thời Nhà nước làm chủ được thị trường, điều tiết sự tự do
cạnh tranh (hoang dã), tạo cơ hội kinh doanh ngang nhau cho mọi thành phần kinh tế.
Thuật ngữ về văn hóa kinh doanh mới xuất hiện gần đây. Trước đây, khi bàn về
vấn đề này người ta chỉ nói kinh doanh có văn hóa hoặc văn hóa trong kinh doanh. Sự
xuất hiện thuật ngữ "văn hóa kinh doanh" bao hàm sự thay đổi sâu sắc về yếu tố văn hóa
trong hoạt động quản lý điều hành của doanh nghiệp. Trong xu thế toàn cầu hóa và hội

nhập với nền kinh tế tri thức văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp là mối quan tâm chú ý
đặc biệt của doanh nghiệp nhằm khẳng định vị trí và uy tín của mình với thị trường.
Từ khi đổi mới đến nay nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc, các lĩnh vực hoạt
động kinh doanh dần xóa đi cơ chế kế hoạch hóa tập trung và đã vươn lên phát huy mạnh
mẽ tiềm lực của mình. Tình hình văn hóa kinh doanh trên các lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ ở nước ta trong những năm qua thể hiện ở những điểm chính là: Kinh
doanh đạt năng suất cao, giá thành hạ, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị và giá trị thặng dư
cho xã hội. Sản phẩm (kết quả) đạt chất lượng cao được xã hội và người tiêu dùng trong
và ngoài nước chấp nhận. Hoạt động kinh doanh đảm bảo tuân thủ chính sách pháp luật,

làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước, tạo lòng tin (chữ "tín") vững chắc, ổn định đối với
khách hàng trong và ngoài nước.
1.3. Những tác động của kinh tế thị trường tới hoạt động kinh doanh xuất
bản phẩm
1.3.1. Thị trường và cơ chế thị trường
- Thị trường: Thị trường là phạm vi của lĩnh vực trao đổi, mua bán, nhờ đó mà
các chủ thể kinh tế cạnh tranh nhau trong việc xác định giá cả hàng hóa, giá cả dịch vụ và
sản lượng nhằm tiêu thụ hàng hóa, nắm bắt các yêu cầu tiêu dùng, từ đó tiếp tục sản xuất
những mặt hàng quen thuộc hoặc đưa ra những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu, thị
hiếu của người tiêu dùng và xã hội. Thị trường tồn tại một cách khách quan và gắn liền
với sản xuất hàng hóa.
Khái niệm thị trường đã trải qua quá trình phát triển lâu dài. Từ khi con người
biết cách sản xuất ra sản phẩm để trao đổi sao cho có lợi cho mình thì khái niệm thị
trường xuất hiện.
Đầu tiên trong nền văn minh nông nghiệp người ta gọi thị trường là "chợ" - nơi
trao đổi hàng hóa. Khái niệm chợ gắn với một địa điểm trao đổi hàng hóa nhất định mang
tính địa phương, khu vực. Hàng hóa được đem trao đổi chủ yếu là hàng nông sản và tư
liệu sản xuất phục vụ nông nghiệp. Chủ thể của chợ là nông dân và những nhà sản xuất

hàng hóa nhỏ. Do lực lượng sản xuất còn lạc hậu, năng suất lao động thấp, cá nhân gắn
chặt với cộng đồng, nên lợi ích của mỗi cá nhân dựa trên lợi ích cộng đồng. Trong quá
trình trao đổi, người ta lấy công làm lãi và coi đó là chuẩn mực mang tính đạo đức của thị
trường văn minh nông nghiệp. Như vậy khái niệm thị trường xuất hiện chậm hơn khái
niệm "chợ".
Trong nền văn minh công nghiệp, sản xuất hàng hóa phát triển mạnh mẽ, quan hệ
trao đổi được mở rộng hơn và vì thế khái niệm thị trường càng được mở rộng. Từ chỗ thị
trường là địa điểm trao đổi hàng hóa cụ thể, nó trở thành một lĩnh vực trao đổi hàng hóa
mang tính xã hội, biểu hiện mối quan hệ kinh tế, mối quan hệ giữa người và người, là nơi
gặp gỡ giữa cung và cầu. Theo Philip G.Altbach thì thị trường, trong nghĩa đơn giản của
nó là "tập hợp những người mua hàng hiện có và sẽ có" [31, tr. 21].

Cùng với sự phát triển của sản xuất, thị trường cũng phát triển dưới các dạng
khác nhau như thị trường hàng tiêu dùng, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường sức lao
động và dịch vụ, thị trường khoa học công nghệ, thị trường tiền tệ, thị trường bất động
sản Sự phát triển của thị trường trong nền văn minh công nghiệp đã làm cho nền kinh tế
xã hội đã có những thay đổi lớn. Nhiều ngành nghề mới xuất hiện trong đó có ngành kinh
doanh tiền tệ (thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán ).
Việc ngành kinh doanh tiền tệ ra đời cho thấy từ công thức chung: Tiền (T) -
hàng (H) - tiền (T) nảy sinh công thức mới (T) - (T). Công thức này cho phép nhà kinh
doanh thu lợi nhanh chóng hơn.
Chủ thể thị trường được chia thành hai lực lượng tham gia trao đổi, đó là người
bán và người mua. Người có hàng bán trên thị trường luôn muốn bán với giá cao, ngược
lại người mua muốn mua hàng với giá thấp. Đó là hai ý chí độc lập. Lúc này lợi ích của
mỗi cá nhân có điều kiện thỏa mãn tối đa thông qua cạnh tranh với phương pháp, biện
pháp hữu hiệu. Nhưng nhận thức và hành động thường không giống nhau. Nguồn gốc của
sự khác nhau chính là chỗ đứng văn hóa khác nhau. Những kẻ chỉ lo thu vén cho lợi ích
riêng tư, cục bộ bao giờ cũng tiến hành những thủ đoạn cạnh tranh bất chấp lẽ phải, luật
pháp, đạo lý xã hội. Đó là người kinh doanh vô văn hóa. Những người quan tâm đến lợi

ích toàn cục cùng hợp tác kinh doanh, cùng chia lợi nhuận một cách hài hòa, xử lý các
mối liên hệ thương mại theo triết lý đôi bên cùng có lợi, hợp tác cùng phát triển, thì họ
thực sự đại diện cho tầng lớp doanh nhân văn hóa. Sự nghiệp của doanh nghiệp chắc chắn
sẽ bền vững và phát triển.
- Cơ chế thị trường: Cơ chế thị trường là cơ chế vận động của nền kinh tế hàng
hóa theo các quy luật của sản xuất và lưu thông hàng hóa trong sự tác động qua lại với
các quy luật kinh tế khác. Theo cơ chế này hoạt động mua - bán hàng hóa đều tuân theo
quy luật khách quan của sản xuất hàng hóa. Đó là quy luật giá trị, quy luật cung - cầu,
cạnh tranh, lưu thông tiền tệ.
- Quy luật giá trị: Là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa. Quy luật này đòi hỏi
việc sản xuất và trao đổi phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Sản xuất
hàng hóa là công việc riêng của từng chủ thể bởi môi trường chủ thể có điều kiện sản

xuất riêng (trình độ kỹ thuật, trang thiết bị kỹ thuật, tổ chức quản lý để sản xuất ra một
loại hàng hóa, và mỗi loại hàng hóa thường có chi phí khác nhau gọi là chi phí cá biệt).
Nhưng khi đưa ra thị trường loại hàng hóa đó chỉ có thể bán theo một giá trị có tính chất
trung bình hay theo một chi phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa. Người
nào có chi phí cá biệt nhỏ hơn chi phí trung bình của xã hội thì có lãi, ngược lại người
nào có chi phí cá biệt lớn hơn chi phí trung bình thì lỗ, thậm chí mất vốn hoặc phá sản.
Quy luật giá trị có tác dụng điều tiết việc phân phối sản phẩm tư liệu sản xuất và
sức lao động xã hội vào các ngành khác nhau thông qua quy luật cung - cầu trên thị
trường. Điều tiết lưu thông hàng hóa từ nơi giá bán thấp đến nơi giá bán cao kích thích
ứng dụng kỹ thuật mới cải tiến quản lý, tăng năng suất lao động, phân hóa người sản
xuất, đào thải sự yếu kém kích thích phát triển tài năng.
- Quy luật cung - cầu: Là một quy luật của sản xuất hàng hóa trong cơ chế thị
trường.
Cầu là nhu cầu của xã hội được đảm bảo bằng lượng tiền tương ứng hay còn gọi
là nhu cầu có khả năng thanh toán. Còn cung là tổng số hàng hóa có trên thị trường hoặc
có khả năng cung cấp cho thị trường.

Cung và cầu có quan hệ mật thiết với nhau và thường xuyên tác động lẫn nhau,
đồng thời chúng có quan hệ trực tiếp đến giá cả. Nếu mặt hàng nào đó mà cung lớn hơn
cầu thì khó tiêu thụ, giá cả giảm và do đó sản xuất bị thu hẹp. Khi đó người ta cần giảm
dần việc sản xuất loại mặt hàng đó hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác. Nếu cung
nhỏ hơn cầu thì hàng bán chạy giá cả tăng, sản xuất mở rộng, làm tăng khối lượng. Khi
đó một số người trước đây chưa sản xuất mặt hàng này thì nay chuyển sang sản xuất mặt
hàng đó, vì nó đang có nhu cầu lớn và thu được lợi nhuận cao hơn.
Như vậy quy luật cung - cầu cùng với quy luật giá trị có vai trò điều tiết các tỷ lệ
cân đối giữa các ngành làm cho sản xuất gắn liền với tiêu dùng hơn. Tuy nhiên, sự hoạt
động của chúng diễn ra tự phát thường gây nhiều hậu quả tiêu cực, như lãng phí của cải
xã hội, kích thích thị hiếu tiêu dùng xa thực tế. Trong chủ nghĩa xã hội các quy luật này
được vận dụng có ý thức nhằm kích thích sản xuất phát triển và hạn chế tác động tiêu cực
của chúng.

- Cạnh tranh cũng là quy luật của sản xuất hàng hóa. Đó là sự đấu tranh của
những người sản xuất hàng hóa nhằm dành được những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có
lợi nhất, thu nhiều lợi nhuận nhất.
Cạnh tranh có vai trò tích cực là thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản
lý, thực hiện tiết kiệm để giảm chi phí sản xuất, làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy cải
tiến chất lượng và hình thức hàng hóa cho phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu
dùng, cải tiến phương tiện vận chuyển, phương tiện bán hàng, kể cả tranh thủ tình cảm
của khách hàng thông qua tinh thần thái độ phục vụ của người bán hàng.
Bên cạnh mặt tích cực cạnh tranh cũng nảy sinh nhiều tiêu cực như lừa lọc, làm
hàng giả và các hành động phi pháp khác gây thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội.
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa
các chủ thể sản xuất hàng hóa không chỉ hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và sự quản
lý nhà nước mà còn có sự hợp tác đem lại lợi ích cho chủ thể sản xuất và toàn xã hội.

1.3.2. Hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm trong cơ chế thị trường ở nước
ta
Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đã đưa nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hóa
tập trung dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế quản lý ấy đã tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội; không chỉ kinh tế mà cả trên lĩnh vực văn hóa, không chỉ với sản xuất vật chất
mà cả đối với lĩnh vực sản xuất tinh thần. Xuất bản là ngành sản xuất, truyền bá các sản
phẩm văn hóa, vừa có bộ phận sản xuất tinh thần, vừa có các khâu sản xuất vật chất, nên tất
yếu cũng phải hoạt động theo cơ chế mới - cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN. Nếu như trong cơ chế cũ, mọi hoạt động biên tập xuất bản phát hành đều
theo kế hoạch thống nhất của Nhà nước, chịu sự quản lý tập trung của Nhà nước, mỗi chỉ
tiêu kế hoạch đều mang tính pháp lệnh thì trong cơ chế mới, kế hoạch xuất bản của mỗi cơ
sở xuất bản phải tuân theo quy luật, điều tiết của thị trường. Các cơ sở xuất bản chủ động xây
dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh của mình và chịu trách nhiệm về hiệu quả của hoạt động
sản xuất kinh doanh ấy, kế hoạch của Nhà nước về xuất bản mang tính chất định tính, hướng

dẫn nhiều hơn là định lượng, các chỉ tiêu Nhà nước chỉ dừng lại như là các chương trình mục
tiêu toàn ngành, định hướng phát triển của ngành. Cơ chế cũ vì thế đã dẫn tới nguy cơ quan
liêu hóa hoạt động xuất bản, bởi lẽ các đề tài, mục tiêu xuất bản không xuất phát từ việc nắm
bắt nhu cầu thực sự của quần chúng, mà chỉ xuất phát từ ý đồ chiến lược, từ phương hướng
công tác tư tưởng trong mỗi thời kỳ. Những người làm công tác biên tập xuất bản không phát
huy được tính chủ động sáng tạo trong việc tìm chọn, phát hiện đề tài nảy sinh từ cuộc sống
thực tế; tạo thói quen ỷ lại, dựa dẫm vào các cấp lãnh đạo quản lý Cơ chế thị trường buộc
những người làm xuất bản phải nắm vững nhu cầu của thị trường. Nhu cầu đó chính là đòi
hỏi thực tế của cuộc sống, từ đó họ đề xuất được những đề tài thiết thực mang lại hiệu quả
thực tế to lớn.
Trong cơ chế cũ, Nhà nước quản lý và phân phối mọi nguồn lực sản xuất, kinh
doanh của xuất bản như tiền vốn, kho giấy, máy móc, thiết bị in (nhân bản), các trung
tâm PHS. Việc tổ chức sản xuất của các đơn vị xuất bản hoàn toàn phụ thuộc vào sự phân

×