Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Lịch sử phát triển BHXH Việt Nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.8 KB, 29 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính
sách xã hội của Đảng và Nhà Nước ta. Chính sách BHXH là chính sách mang tính
nhân văn, đạo đức cao cả đối với con người và xã hội nhằm đáp ứng một trong những
quyền lợi và nhu cầu tất yếu của người lao động: nhu cầu an toàn về việc làm, an
toàn lao động, hơn nữa là an toàn xã hội.Hệ thống BHXH hoạt động có cơ chế kiểm
tra, kiểm soát tốt sẽ đảm bảo được quyền lợi người lao động, nếu hoạt động không
tốt sẽ gây ra đổ vỡ nguồn quỹ, quyền lợi người lao động sẽ không đảm bảo, có nguy
cơ gây ra mất ổn định xã hội. Do vậy, ngoài biện pháp tăng thu phát triển quỹ thì
công tác quản lý chi trả các chế độ BHXH là một việc làm thường xuyên, cấp thiết
vừa đảm bảo cho việc quản lý an toàn quỹ BHXH, vừa đảm bảo sự công bằng xã hội
trong đóng góp và thụ hưởng BHXH. Mặt khác, vấn đề này cũng liên quan mật thiết
đến từng cá nhân, bộ phận, mọi cấp trong hệ thống BHXH, thể hiện vai trò trách
nhiệm trong việc thực hiện chế độ chính sách của Đảng và Nhà Nước ta.
Bảo hiểm xã hội tỉnh Sơn la được vinh dự thực hiện một phần quan trọng
nhiệm vụ phục vụ con người của chế độ xã hội chủ nghĩa, đi theo suốt cả cuộc đời
con người (sinh ,lão, bệnh, tử), an toàn xã hội , an sinh hạnh phúc ( phúc , lộc, thọ) đó
là những điều mà cả xã hội, mỗi con người, mỗi cộng đồng đều mong ước. Nhưng
với tầm vóc mới, văn minh, công bằng, sâu rộng hơn đến với mọi người dân, người
lao động trong xã hội chủ nghĩa.
Nhưng với thời gian và kiến thức lý luận còn hạn chế, nên bài viết không thể
tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em rất mong được sự tham gia đóng góp của Th.S
Trần Minh Tuấn để bài viết đạt kết quả tốt hơn. Em xin trân thành cảm ơn!
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ BHXH
1.1 Lịch sử phát triển BHXH Việt Nam
BHXH được thực hiện ở Việt Nam từ năm 1945 và đã trải qua nhiều lần bổ
sung, sửa đổi đặc biệt trong các năm 1961, 1985 và 1995.
Năm 1961, một Nghị định của Chính phủ được ban hành để cung cấp các dịch


vụ phúc lợi xã hội cho tất cả các cán bộ, viên chức làm việc trong ngành nội chính,
giáo dục, y tế, các doanh nghiệp Nhà nước, nội vụ. Hệ thống này chỉ chịu trách
nhiệm bảo hiểm cho khoảng 600.000 - 700.000 người trên tổng số dân là 17 triệu
người của miền Bắc Việt Nam (theo số liệu năm 1962). Năm 1964 Nghị định 218
thực hiện BHXH cho quân nhân.
Từ năm 1975 thì chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước.
Chế độ BHXH bao gồm: trợ cấp hưu trí, mất sức lao động và tử tuất, cùng với các
chế độ ốm đau, thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp do cơ quan, đơn vị và
doanh nghiệp đóng góp.
Trước năm 1995, BHXH do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách
nhiệm quản lý thực hiện về các chế độ trợ cấp dài hạn (hưu trí, tử tuất, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp đối với người nghỉ việc), Tổng Liên đoàn Lao động chịu
trách nhiệm quản lý thực hiện các khoản chi trả trợ cấp ngắn hạn (trợ cấp đau ốm,
thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người đang làm việc).
Từ tháng 01/1995, Bộ Luật Lao động có hiệu lực, trong đó có chương XII về
BHXH. Để hướng dẫn thực hiện Bộ Luật Lao động, ngày 16/02/1995 Chính phủ ban
hành Nghị định số 19/CP của Chính phủ thành lập hệ thống BHXH Việt Nam để giúp
Thủ tướng Chính phủ tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ về BHXH, BHYT và
quản lý quỹ BHXH. Ngày 26/01/1995 Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số
12/CP về điều lệ BHXH đối với dân sự với 5 chế độ BHXH: chế độ trợ cấp ốm đau;
trợ cấp thai sản; trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ
trợ cấp tử tuất. Và ngày 15/07/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 45 quy định
về BHXH đối với quân sự (quân đội, công an). Trong 2 nghị định của Chính phủ có
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quy định về hình thành quỹ BHXH trên cơ sở thu BHXH bao gồm người sử dụng lao
động đóng 15% quỹ tiền lương và người lao động đóng 5% tiền lương hàng tháng.
Quỹ này được sử dụng để chi cho 5 chế độ trên. Quỹ BHXH được bảo tồn, tăng
trưởng và được Nhà nước bảo hộ.
Ngày 24/01/2002, Chính phủ có Quyết định số 20/2002/QĐTTg chuyển hệ

thống BHYT trực thuộc Bộ Y tế sang BHXH Việt Nam và ngày 06/12, Chính phủ ra
Nghị định 100/NĐCP quyết định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy
của BHXH (bao gồm cả BHYT).
1.2 Quá trình phát triển của BHXH ở VIỆT NAM
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945
- Trước năm 1945 ở Việt Nam chưa có pháp luật bảo hiểm xã hội. Bởi vì đất
nước bị thực dân Pháp đô hộ. Đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, nghèo đói.
- Tuy nhiên nhân dân Việt Nam có truyền thống cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau
những khi gặp rủi ro hoạn nạn. Đặc biệt là sự che chở của họ hàng làng xã thân tộc.
Cũng có một số nhà thờ tổ chức nuôi trẻ mồ côi, thực hiện tế bần (BHXH sơ khai).
1.2.2 Giai đoạn từ năm 1945 đến 1954
- Tháng 8 năm 1945 Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Tháng 12
năm 1946 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân
dân. Trong Hiến pháp có xác định quyền được trợ cấp của người tàn tật và người già.
- Ngày 12 tháng 3 năm 1947 Chủ tịch nước Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số
29/SL quy định chế độ trợ cấp cho công nhân.
- Ngày 20 tháng 5 năm 1950 Hồ Chủ Tịch ký 2 sắc lệnh là 76, 77 quy
định thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ, công
nhân viên chức.
Đặc điểm của chính sách pháp luật BHXH ở thời kỳ này là do trong hoàn cảnh
kháng chiến gian khổ nên việc thực hiện công tác BHXH rất hạn chế. Tuy nhiên, đây
là thời kỳ đánh dấu sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước về chính sách BHXH,
đồng thời những quy định về BHXH của Nhà nước ở thời kỳ này là cơ sở cho sự
phát triển BHXH sau này.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1954 đến 1975
Miền Bắc được giải phóng, xây dựng chủ nghĩa xã hội nên pháp luật về
BHXH được phát triển mở rộng nhanh. Điều lệ BHXH ban hành ngày 27/12/1961 có
thể coi là văn bản gốc về BHXH quy định đối tượng là CNVC Nhà nước, hệ thống 6

chế độ BHXH, quỹ BHXH nằm trong ngân sách nhà nước do các cơ quan đơn vị
đóng góp. Năm 1964, Điều lệ đãi ngộ quân nhân. Riêng miền Nam, BHXH cũng thực
hiện đối với công chức, quân đội làm việc cho chính thể Ngụy.
1.2.4. Giai đoạn từ năm 1975 đến 1995
BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước. Có nhiều lần được sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp với nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên sau khi Nhà nước chuyển đổi
nền kinh tế từ tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN thì chính sách BHXH bộc lộ những nội dung cần sửa đổi bổ sung.
1.2.5. Giai đoạn từ 1995 đến nay
BHXH mở rộng đối tượng, thành lập quỹ BHXH độc lập với ngân sách Nhà
nước do sự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà
nước, thành lập cơ quan chuyên trách để quản lý quỹ và giải quyết các chế độ trợ cấp.
Ngày 16/02/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP thành lập Bảo
hiểm xã hội Việt Nam trên cơ sở thống nhất chức năng, nhiệm vụ các bộ của Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Ngày 24/01/2002, Chính phủ có Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg chuyển Bảo
hiểm y tế thuộc Bộ Y tế sang Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BHXH TÍNH SƠN LA
2.1. Tổng quan về kinh tế xã hội của Sơn La
2.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của Sơn La
Sơn La là một tỉnh miền núi phía Tây Bắc của Tổ quốc có diện tích khoảng
trên 14.200 km2 dân số khoảng 887.000 người; phía Bắc giáp tỉnh Điện Biên, Lai
Châu, Lào Cai; phía Nam giáp Thanh Hoá; phía Đông giáp tỉnh Hoà Bình, Vĩnh Phú,
Yên Bái; phía Tây giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào với 250 km đường
biên giới. Mật độ dân số là 85người / km2. Bao gồm các dân tộc anh em cùng chung
sống, cơ cấu các dân tộc như sau: dân tộc Thái chiếm 55% ; dân tộc Kinh chiếm
18%; dân tộc Mông chiếm 12%; dân tộc Muông chiếm 8,2% ; dân tộc Dao chiếm
2,8%, và các dân tộc khác là 4% .

Dân số Sơn La mỗi năm tăng khoảng từ 14.000 đến 18.000 người, quy mô dân
số là khá lớn, phân bố dân cư giữa các vùng không đồng đều giữa thành phố, thị trấn
và vùng nông thôn, vùng núi. Sơn La có 3/4 diện tích là rừng tự nhiên, khí hậu chia
làm hai mùa rõ rệt mùa mưa và mùa khô. Trên địa bàn tỉnh có 2 con sông lớn chảy
qua đó là Sông Mã và Sông Đà. Theo Nghị định 148/2003/NĐ-CP ngày 02/11/2003
của Chính phủ về thành lập huyện Sốp Cộp thì hiện nay tỉnh Sơn La có 9 huyện và 1
thành phố.
Về kinh tế xã hội, Sơn La vẫn là một tỉnh miền núi nghèo, cơ sở hạ tầng còn
thấp kém chưa hấp dẫn đầu tư, giao thông đi lại khó khăn, kinh tế chậm phát triển,
hậu trình độ dân trí còn thấp, hàng năm có khoảng 17.000 người thất nghiệp không có
việc làm là một vấn đề nổi cộm và bức xúc của tỉnh Sơn La nói riêng và cả nước nói
chung. Do vậy, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh luôn quán triệt đường lối lãnh đạo của
Đảng trong văn kiện Đại hội VIII: “...các khu vực miền núi và vùng đồng bào dân tộc
đều phải có bước phát triển, khu vực có điều kiện thuận lợi phải phát triển với tốc độ
cao hơn để thúc đẩy hỗ trợ khu vực khác cùng phát triển. Tăng trưởng kinh tế phải
kết hợp hài hoà với phát triển xã hội - văn hoá, đảm bảo an ninh quốc phòng, phấn
đấu giảm bớt khoảng cách giữa các vùng về mặt tiến bộ xã hội,...”.
Trong lĩnh vực công nghiệp: thực hiện Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ tỉnh,
UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hướng
trọng tâm là phát triển công nghiệp chế biến nông sản và vật liệu xây dựng. Ngoài xí
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghiệp gạch tuy nen (xây dựng năm 1994), năm 1997 đã khánh thành đưa vào sử
dụng: Nhà máy xi măng 8,2 vạn tấn / năm tại xã Chiềng Sinh, Nhà máy đường Mai
Sơn 1.000 tấn mía cây/ ngày, Nhà máy bê tông ly tâm Chiềng Sinh, Xí nghiệp nhựa
át phan,... đã và đang xây dựng dây truyền gỗ ván dăm, Nhà máy phân vi sinh và
chuẩn bị dự án khả thi Nhà máy xi măng lò quay 60 vạn tấn / năm, dự án chế biến
tinh bột sắn, thức ăn gia súc, chế biến giấy, gạch tuy nen 7 triệu viên / năm ở cấp
huyện .
Về nông nghiệp: phát triển chương trình dâu tằm, tập trung thâm canh, mở

rộng diện tích ở những vùng có điều kiện và theo quy hoạch, khuyến khích mở rộng
nuôi nhiều loại tằm, tiếp tục đầu tư xây dựng đưa trung tâm giống tằm tại Chiềng Pấc
- Thuận Châu vào hoạt động. UBND tỉnh đã chỉ đạo cho các hộ vay để mở rộng diện
tích cà phê bằng nguồn vốn lãi xuất thấp, đưa diện tích cà phê hiện nay từ 3.630 ha
lên 5.000 ha vào năm 2000. Quy hoạch lại toàn bộ vùng chè, xây dựng và ban hành
chính sách phát triển chè khá toàn diện, tiếp tục đầu tư để đổi mới thiết bị và công
nghệ chế biến chè gồm cả các thiết bị chế biến nhỏ (quy mô hộ, nhóm hộ). Chương
trình mía đường: UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo việc quy hoạch và mở rộng vùng
nguyên liệu mía từ 3.597 ha lên 50.000 ha để đáp ứng nguyên liệu cho nhà máy khi
nâng công xuất lên 1.500 tấn mía cây/ngày. Hỗ trợ giá giống mía và cho vay lãi xuất
thấp để trồng mía giống mới.
Ngoài các công trình về điện - công nghiệp tỉnh đã chỉ đạo đầu tư tiếp cho các
công trình như: cấp thoát nước, nâng công xuất Nhà máy nước thị xã từ 5.000 m3 -
10.000 m3 /ngày đêm, hoàn chỉnh và đưa vào sử dụng 15 công trình cấp nước ăn
vùng cao, đầu tư cho giao thông thuỷ lợi, định canh định cư hỗ trợ xây dựng các
trung tâm cụm xã, đầu tư cho các phòng học, các trường phổ thông trung học các
huyện thị, xây dựng thêm và nâng cấp các trạm truyền hình...
Về cải cách hành chính: là việc làm cần thiết, cấp bách cần được quan tâm,
chú trọng đặc biệt, bởi nó giúp cho “bộ óc” của nền công nghiệp, thích ứng nhanh
nhạy, kịp thời, sử lý linh hoạt cần thiết những tình huống mà trong phát triển kinh tế
luôn gặp phải. Cần phải có một cơ chế “công nghiệp” trong công tác quản lý kinh tế,
chỉ đạo điều hành bộ máy Nhà nước của tỉnh.
Chương trình chỉ đạo, điều hành đã tập trung để đẩy nhanh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, chú trọng phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước,
đồng thời tiếp tục hoàn thiện bổ sung và ban hành các cơ chế chính sách nhằm khơi
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dậy và phát huy mạnh mẽ nguồn lực bên trong, thu hút nguồn lực bên ngoài, sử dụng
có hiệu quả sự đầu tư của Trung ương để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh

tế.
2.1.2 Thuận lợi và khó khăn
2.1.2.1 Thuận lợi
Bảo hiểm xã hội tỉnh Sơn La luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
thường xuyên, trực tiếp, toàn diện của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tỉnh uỷ, HĐND,
UBND tỉnh, sự phối hợp có hiệu quả của các sở, ban, ngành, đoàn thể, đơn vị tham
gia BHXH, BHYT đã tạo điều kiện cho ngành Bảo hiểm xã hội Sơn La hoàn thành
tốt nhiệm vụ.
Năm 2008 cũng là năm thứ 2 thực hiện Luật BHXH là căn cứ pháp lý cao nhất
về chính sách BHXH. Các chính sách BHYT được Đảng và Nhà nước bổ sung sửa
đổi phù hợp với thực tế đất nước. Cấp uỷ, chính quyền các cấp quan tâm hơn đến
chính sách BHXH, BHYT.
Tập thể lãnh đạo CBVC Bảo hiểm xã hội tỉnh đoàn kết, chỉ đạo sâu sát nhiệm
vụ chính trị được giao, CBVC yêu ngành, yêu nghề, chịu khó học hỏi nghiên cứu,
nâng cao trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của ngành, khắc phục
mọi khó khăn, có ý thức vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Điều kiện cơ
sở vật chất toàn ngàn từng bước được nâng cấp bổ sung, bộ máy cán bộ quản lý được
quan tâm và kiện toàn.
Các phong trào thi đua trong ngành được phát động và tổ chức thực hiện
tốt, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong cán bộ, công chức, viên chức phấn đấu hoàn
thành xất sắc nhiệm vụ năm 2008.
2.1.2.2 Khó khăn
Địa bàn phục vụ rộng, điều kiện giao thông còn nhiều khó khăn, đối tượng
phục vụ phân tán, nhiệm vụ của ngành BHXH ngày càng lớn nhất là năm 2008 nhiều
chế độ chính sách thay đổi.
Biên chế lao động đã được bổ sung song vẫn thiếu, điều kiện tuyển dụng khó
khăn chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của ngành, cán bộ quản lý từng bước đã
được củng cố nhưng vẫn chưa hoàn thiện.
Mặc dù đã có những bước phát triển nhưng Sơn La vẫn chưa thoát khỏi tình
trạng một tỉnh đặc biệt khó khăn, hiệu quả SXKD của các DN còn thấp, sức cạnh

7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tranh yếu làm ảnh hưởng không nhỏ đến nhiệm vụ thu, chi BHXH. Một số doanh
nghiệp vẫn còn nợ BHXH làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ của ngành cũng như quyền
lợi của người lao động trong việc thanh toán các chế độ BHXH, BHYT.
Đối tượng tham gia BHYT rất lớn chiếm trên 85% dân số, cơ sở vật chất KCB
của các cơ sở y tế còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, ảnh hưởng đến quyền lợi của
người tham gia BHYT .
Cơ sở vật chất, điều kiện phương tiện làm việc của CBVC còn thiếu, trình độ
chuyên môn của một bộ phận CBVC còn hạn chế.
2.2.Lịch sử hình thành BHXH tỉnh Sơn LA
Tháng 10 năm 1995 Bảo hiểm xã hội tỉnh Sơn La được thành lập theo Quyết
định số 124 ngày 17 tháng 8 năm 1995 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt
Nam. Biên chế đến cuối năm 1995 là l50 người (trong đó tỉnh 17 và huyện 133),
nguồn cán bộ chủ yếu nhận từ 2 ngành Lao động thương binh xã hội và Liên đoàn lao
động Tỉnh.
Đến tháng 1 năm 2003 Bảo hiểm xã hội tỉnh Sơn La tiếp nhận Bảo hiểm
y tế tỉnh Sơn La chuyển sang theo Quyết định số 20 ngày 24 tháng 1 năm 2002 của
Thủ tướng chính phủ.
Qua yêu cầu thực tiễn của nhiệm vụ chính trị, tình hình phát triển lao động
tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), công tác xây dựng bộ
máy và tổ chức cán bộ không ngừng được xây dựng. Để đảm đương tốt nhiệm vụ,
đến cuối năm 2008 toàn ngành có 181 cán bộ công chức (tỉnh 74 người, huyện 107
người).
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và nâng cao chất lượng đội ngũ, BHXH tỉnh Sơn
La luôn chú trọng nâng cao tinh thần, ý thức phục vụ, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, tạo niềm tin và nâng cao nhận thức của người lao động và đơn vị sử dụng lao
động về BHXH và BHYT. Với trọng tâm mở rộng đối tượng tham gia BHXH,
BHYT cho người lao động, BHXH tỉnh chủ động hướng dẫn, đôn đốc tất cả các
thành phần kinh tế, các đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH, BHYT. Với sự nỗ

lực và năng động, hơn 10 năm qua, số đơn vị, đối tượng tham gia BHXH, BHYT
ngày một tăng. Nếu năm 1995 chỉ có 91 đơn vị với 25.535 lao động tham gia BHXH
bắt buộc, số thu 19,4 tỷ đồng, thì đến năm 2005 BHXH tỉnh Sơn La đã có trên 1.100
cơ quan, đơn vị tham gia BHXH, BHYT với số lao động là 791.153 người. Đặc biệt,
từ năm 2005 được UBND tỉnh giao nhiệm vụ cấp thẻ BHYT cho đối tượng người
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghèo, cho nhân nhân dân các dân tộc trong tỉnh với số dân được hưởng chế độ
BHYT trên 771.000 người. Khối lượng công việc phát sinh lớn, nhân sự lại có hạn
song BHXH tỉnh Sơn La đã dồn sức lực để triển khai cấp phát xong thẻ BHYT người
nghèo trong toàn tỉnh, được UBND tỉnh đánh giá cao kết quả công tác này. Bám sát
kế hoạch được giao, chủ động chỉ đạo công tác thu hàng tháng, quý đồng thời được
sự quan tâm phối hợp của các cơ quan, doanh nghiệp và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của
các cơ quan liên quan như: Sở Tài chính, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng NN&PTNT,
sự quyết tâm phấn đấu của cán bộ, công chức, viên chức toàn ngành, nhất là cán bộ
làm công tác thu, nên trong nhiều năm liên tục, đặc biệt là năm 2005, việc thu nộp
BHXH, BHYT đã đạt được kết quả cao, toàn tỉnh thu được 151 tỷ đồng so với kế
hoạch BHXH Việt Nam giao (đạt 107,85%).
Đây là năm có số thu cao nhất từ ngày thành lập đến nay.
Công tác chi trả chế độ trợ cấp BHXH cho các đối tượng luôn được đổi mới, quản lý
chặt chẽ, đảm bảo đúng đối tượng, kịp thời và đầy đủ. Hơn 10 năm qua, BHXH tỉnh
Sơn La đã chi trả số tiền gần một ngàn tỷ đồng cho trên 203 ngàn lượt người hưởng
chế độ BHXH dài hạn và 57 ngàn lượt người hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn với
số tiền chi trả là 48,5 tỷ đồng. Riêng năm 2005, công tác kế hoạch - tài chính đã cấp
phát kinh phí hạn mức cho BHXH các huyện, thị xã và tạo điều kiện cho BHXH các
huyện, thị xã tổ chức, thực hiện tốt công tác chi trả lương hưu và các chế độ BHXH
cho 20.688 đối tượng đầy đủ, kịp thời và an toàn xong trước ngày 10 hàng tháng,
không có tháng nào chậm trễ. Tổng kinh phí cấp để chi trả các chế độ BHXH, BHYT
năm 2005 là 223 tỷ đồng. Công tác giải quyết chế độ chính sách BHXH ngày càng
được cải tiến, giảm những thủ tục phiền hà, thanh toán đúng, kịp thời... tạo niềm tin

cho đối tượng thụ hưởng chính sách của Đảng và Nhà nước. BHXH tỉnh đã duy trì
chặt chẽ mối quan hệ với các cơ sở y tế, đảm bảo tốt công tác KCB cho đối tượng
tham gia BHYT, thanh toán kịp thời cho hàng trăm ngàn lượt người theo đúng quy
định. Năm 2005, đã có 468.335 lượt người KCB tại bệnh viện đa khoa và các trung
tâm y tế, tăng 14.786 người so với năm 2004 với chi phí là 32,5 tỷ đồng.
Bảo hiểm xã hội tỉnh Sơn La là một đơn vị sự nghiệp đặc thù, có nhiệm vụ tổ
chức quản lý thu, chi và thực hiện các chế độ chính sách BHXH của nhà nước cho
các đối tượng tham gia BHXH theo luật định và thực hiện chi trả tiền lương và trợ
cấp cho các đối tượng đã nghỉ chế độ BHXH trước ngày ban hành nghị định 12/CP
đang cư trú trên địa bàn tỉnh Sơn La.
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2.3 Cơ cấu tổ chức của BHXH tỉnh Sơn La và chức năng, nhiệm vụ cụ thể của
từng phòng ban
Thực hiện Nghị định số 94/2008/NĐ-CP ngày 22/08/2008 của Chính phủ và
Quyết định 4857/QĐ-BHXH ngày 21/10/2008 của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội
Việt Nam về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH địa
phương thì bộ máy giúp việc cho Giám đốc BHXH tỉnh Sơn La được thể hiện:
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sơ đồ tổ chức bộ máy của Bảo hiểm xã hội tỉnh Sơn La

Chú thích: Quan hệ trực tuyến
………………… Quan hệ chức năng
PHÒNG CNTT
PHÒNG GIÁM ĐỊNH
BH Y TẾ
PHÒNG TỔ CHỨC
HÀNH CHÍNH
PHÒNG KẾ HOẠCH

TÀI CHÍNH
BHXH
HUYỆN
THÀNH
PHỐ
11
PHÓ
GIÁM
ĐỐC
PHÒNG CẤP SỔ THẺ
PHÒNG KIỂM TRA
PHÒNG TIẾP NHẬN &
QL HỒ SƠ
PHÒNG CHẾ ĐỘ BHXH
PHÓ
GIÁM
ĐỐC
GIÁM
ĐỐC
PHÒNG THU

×