Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Đề tài " Nghiên c ứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (897.98 KB, 62 trang )

Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
Luận văn
Đề tài: Nghiên c ứu khoa học
Bảo hiểm nhân thọ Prudential
1
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
Mục lục
2
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
Danh mục viết tắt
BH: BH
BHNT: BH nhân thọ
STBH: Số tiền BH
HĐBH: Hoạt động BH
BHXH: BH xã hội
BHTN: BH thất nghiệp
Danh mục bảng biểu
Tên bảng biểu Nội dung Trang
Bảng 1.2.5 Các kênh phân phối sản phẩm BHNT phổ biến 29
Bảng 2.2.2.1 Danh sách các doanh nghiệp BHNT trên thị trường
BH Việt Nam
41
Bảng 2.2.2.2 Báo cáo tài chính tóm lược của Prudential Việt Nam 43
Biểu đồ 2.2.1.1 Tổng tài sản của Prudential Việt Nam giai đoạn
2008-2010
46
Biểu đồ 2.2.2.2 Chi phí và doanh thu của Prudential Việt Nam giai
đoạn 2008-2010
47
Biểu đồ 2.2.2.3 Thị phần và các công ty BHNT trên thị trường
BHNT Việt Nam tháng 5 năm 2011


50
Chương 1: Tóm lược một số vấn đề lý
luận về BHNT
1.1.Bảo hiểm
1.1.1. Khái niệm
Mặc dù ra đời từ khá sớm, song cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống
nhất về BH, bởi vì người ta đã đưa ra khái niệm BH ở nhiều góc độ khác nhau:
3
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
- Dưới góc độ tài chính, người ta cho rằng: “BH là một hoạt động dịch vụ tài chính
nhằm phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi”
- Dưới góc độ pháp lí, giáo sư Hemard đưa ra khái niệm: “BH là một nghiệp vụ, qua
đó, một bên là người được BH chấp nhận trả một khoản tiền (phí BH hay đóng góp
BH) 02cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để trong trường hợp rủi ro
xảy ra, sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên khác là người được BH,
người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt hại theo Luật
Thống kê”
- Dưới góc độ kinh doanh BH, các công ty, các tập đoàn BH thương mại trên thế
giới lại đưa ra khái niệm: “BH là một cơ chế, theo cơ chế này một người, một
doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty BH, công ty đó
sẽ bồi thường cho người được BH các tổn thất thuộc phạm vi BH và phân chia giá
trị thiệt hại giữa tất cả những người được BH”…
(Trích: giáo trình BH, trường Đại học kinh tế Quốc dân, xuất bản: 2008; chủ biên:
PGS.TS. Nguyễn Văn Định)
- Một khái niệm khác được đưa ra: “BH là một hình thức dự trữ tài chính nhằm bù
đắp và khắc phục những tổn thất thiệt hại đối với sản xuất kinh doanh và đời sống
con người khi những biến cố bất lợi xảy ra”.
(Trích: giáo trình: “Lý thuyết Tài chính – tiền tệ, trường Đại học Thương Mại, xuất bản
năm 2002, chủ biên: TS. Đinh Văn Sơn)
- Luật Kinh doanh BH của Việt Nam (2000): Kinh doanh BH là hoạt động của

doanh nghiệp BH nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp BH chấp nhận rủi
ro của người được BH, trên cơ sở bên mua BH đóng phí BH để doanh nghiệp BH
trả tiền BH cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được BH khi xảy ra
sự kiện BH.
- Đồng thời, theo các chuyên gia Pháp, một định nghĩa vừa đáp ứng được khía cạnh
xã hội (dùng cho BHXH) vừa đáp ứng được khía cạnh kinh tế (dùng cho BHTM)
và vừa đầy đủ về khía cạnh kỹ thuật và pháp lý có thể phát biểu như sau: “BH là
một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp nhờ vào một
khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ 3 trong trường hợp xảy ra rủi ro.
Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có trách nhiệm đối với toàn bộ
các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê”.
4
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
Có thể nói các khái niệm trên ít nhiều đã lột tả được bản chất của BH trên các
khía cạnh về rủi ro, sự chuyển giao rủi ro giữa người được BH và người BH thông
qua phí BH và số tiền bồi thường hoặc chi trả khi người được BH gặp phải rủi ro
tổn thất.
Như vậy, có thể nói, BH là những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình
thành, phân phối và sử dụng các quỹ BH nhằm đối phó với các rủi ro có thể xảy ra
trong đời sống và sản xuất. Quá trình phân phối, sử dụng quỹ BH không xác định
trước được về quy mô, thời gian và không đồng đều giữa các đối tượng, nó tùy
thuộc vào các yếu tố khác nhau (mức độ đóng góp, mức độ thiệt hại, tính chất của
rủi ro …). BH vừa mang tính chất bồi hoàn vừa mang tính chất không bồi hoàn.
Nguồn gốc của BH bắt nguồn từ các rủi ro không mong muốn trong cuộc sống,
nhằm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội được diễn ra bình
thường.
1.1.2. Bản chất của BH
Nguồn gốc của BH bắt nguồn từ những rủi ro trong đời sống và sản xuất. Do vậy,
mục đích chủ yếu của BH là góp phần ổn định cuộc sống và sản xuất cho những
người tham gia và kiến tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.

Chính vì vậy, bản chất của BH là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội
giữa những người tham gia BH nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính phát sinh khi
rủi ro hay sự kiện BH xảy ra đối với đối tượng BH. Tuy nhiên, phân phối trong BH
chủ yếu là phân phối không đều và phần lớn không mang tính bồi hoàn trực tiếp
(loại trừ một số loại hình BH như: BH nhân thọ, BH tiền hưu trí).
Ngoài ra bản chất của BH còn được thể hiện ở các khía cạnh cụ thể sau:
- Rủi ro và sự tồn tại của rủi ro là nguồn gốc của BH. Có nhiều cách tiếp cận khái
niệm rủi ro, song theo nghĩa thông dụng nhất thì rủi ro là biến cố gây thiệt hại và
5
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
không mong đợi. Để đối phó với rủi ro, con người luôn phải tìm cách phòng vệ.
Trong BH hiện đại, bên cạnh rủi ro còn có các sự kiện liên quan đến BH như: sự
kiện sinh đẻ của lao động nữ, người lao động bị thất nghiệp, người lao động đến
tuổi nghỉ hưu hay người được BH còn sống tới một thời điểm xác định trên hợp
đồng BHNT…
- Cơ chế chuyển giao rủi ro trong BH được thực hiện giữa bên tham gia BH và bên
BH thông qua các cam kết BH. Theo cơ chế này, bên tham gia phải nộp phí BH và
bên BH phải cam kết bồi thường hay chi trả tiền BH khi đối tượng BH hay người
được BH gặp phải rủi ro hay sự kiện BH. Tất nhiên, rủi ro hay sự kiện BH phải là
ngẫu nhiên, khách quan mà hai bên đã thỏa thuận.
- Phí BH mà bên tham gia nộp cho bên BH phải được thực hiện trước khi rủi ro hay
sự kiện BH xảy ra. Ngược lại, khoản tiền mà bên BH trả cho bên tham gia hay cho
người thứ ba chỉ được thực hiện sau khi sự kiện BH hay rủi ro xảy ra gây tổn thất.
Khái niệm người thứ ba trong BH thường được pháp luật quy định trong loại hình
BHTM.
- Việc san sẻ rủi ro, bù trừ tổn thất trong BH được bên BH tính toán và quản lý dựa
vào số liệu thống kê rủi ro và tình hình tổn thất, cũng như quỹ BH mà họ thiết lập
được dựa trên nguyên tắc lấy số đông bù số ít.
- BH là một hoạt động dịch vụ tài chính chứ không phải là hoạt động sản xuất.
Chính vì vậy, lợi ích của các bên phải được luật hóa rất cụ thể và vai trò quản lý

Nhà nước trong lĩnh vực này là rất quan trọng và không thể thiếu được đối với mỗi
quốc gia.
1.1.3. Một số nguyên tắc BH
1. Nguyên tắc chỉ BH sự rủi ro, không BH sự chắc chắn (Fortuity not
certainty): Chỉ BH một rủi ro xảy ra bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của con
người, gây ra những thiệt hại; chứ không BH một cái chắc chắn xảy ra (ví dụ như
là người mắc bệnh nan y chắc chắn sẽ chết trong một thời gian nhất định…)
2. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (utmost good faith): Tất cả các giao dịch kinh
doanh cần được thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, trung thực tuyệt đối. Cả
người được BH và người BH đều phải trung thực trong tất cả các vấn đề.
6
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
3. Nguyên tắc quyền lợi có thể được BH (insurable interest): Quyền lợi có thể
được BH là lợi ích hoặc quyền lợi liên quan đến, gắn liền với, hay phụ thuộc vào
sự an toàn hay không an toàn của đối tượng BH. Nguyên tắc này chỉ ra rằng người
được BH muốn mua BH phải có lợi ích BH. Quyền lợi có thể được BH có thể là
quyền lợi đã có hoặc sẽ có trong đối tượng BH.
4. Nguyên tắc bồi thường (indemnity): Theo nguyên tắc bồi thường, khi có tổn
thất xảy ra, người BH phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho người được
BH có vị trí tài chính như trước khi có tổn thất xảy ra, không hơn không kém. Các
bên không được lợi dụng BH để trục lợi.
5. Nguyên tắc thế quyền (subrobgation): Theo nguyên tắc thế quyền, người BH
sau khi bồi thường cho người được BH, có quyền thay mặt người được BH để đòi
người thứ ba trách nhiệm bồi thường cho mình.
1.2. BH nhân thọ
1 Một số lý thuyết về BHNT
1 Giới thiệu chung (lịch sử ra đời của BHNT)
a Lịch sử ra đời của BHNT trên thế giới
BHNT là sự cam kết giữa người BH và người tham gia BH, mà trong đó người BH
sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng quyền lợi BH) một số tiền nhất

định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được BH bị chết hoặc sống
đến một thời điểm nhất định), cong người tham gia phải nộp phí BH đầy đủ, đúng
hạn. Nói cách khác, BHNT là qua trình BH các rủi ro có liên quan đến sinh mạng,
cuộc sống và tuổi thọ của con người. Hoặc người ta còn định nghĩa, BHNT là BH
cho hai sự kiện trái ngược nhau, đó là sống và tử vong. BHNT là một trong những
loại hình BH ra đời khá sớm.
Hợp đồng BHNT đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1583, do công dân Luân Đôn
là ông William Gybbon tham gia. Phí BH ông phải đóng lúc đó là 32 bảng Anh,
khi ông chết trong năm đó, người thừa kế của ông được hưởng 400 bảng Anh.
7
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
Năm 1759, công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Philadephia (Mỹ). Công ty này đến
nay vẫn hoạt động, nhưng lúc đầu nó chỉ bán BH cho các con chiên ở nhà thờ của
mình. Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở nước Anh được thành lập và bán
BHNT cho mọi người dân.
Ở Châu Á, các công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản. Năm 1868 Công ty BH
Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, 2 công ty khác là: Kyoei và
Nippon ra đời và phát triển cho đến ngày nay.
Trên thế giới, BHNT là loại hình BH phát triển nhất, năm 1985 doanh thu phí
BHNT mới chỉ đạt 630.5 tỷ đôla, và đến năm 2006, doanh thu phí BHNT toàn thế
giới đạt 2014 tỷ đôla.
Sở dĩ BHNT phát triển rất nhanh, doanh thu phí BH ngày càng tăng là vì loại
hình BH này có vai trò rất lớn. Vai trò của BHNT không chỉ thể hiện trong từng
gia đình và đối với từng cá nhân trong việc góp phần ổn định cuộc sống, giảm bớt
khó khăn về tài chính khi gặp rủi ro, mà còn thể hiện rõ trên phạm vi toàn xã hội.
Trên phạm vi xã hội, BHNT góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, huy dộng
vốn trong nước từ những nguồn tiền mặt nhàn dỗi nằm trong dân cư. Nguồn vốn
này không chỉ có tác dụng đầu tư dài hạn mà còn góp phần thực hành tiết kiệm,
chống lạm phát và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.
b Lịch sử ra đời của BHNT ở Việt Nam

Sự ra đời của BHNT nói riêng gắn liền với sự ra đời của BH nói chung
BH là một nhu cầu tất yếu khách quan của con người và ra đời từ rất lâu trên thế
giới. Tuy nhiên ở Việt Nam, BH nói chung và BH nhân thọ nói riêng ra đời tương
đối muộn. Sự ra đời và phát triển của ngành BH gắn liền với những sự kiện lịch sử
của đất nước:
- Giai đoạn trước năm 1975:
8
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
Ở miền Nam, vào những năm 1970, đã có một công ty BH nhân thọ ra đời có tên
là công ty BH nhân thọ Hưng Việt. Công ty BH này triển khai được một số sản
phẩm BH như: BH nhân thọ trọn đời, BH tử kỳ thời hạn 5 năm, 10 năm, 20 năm.
Nhưng công ty mới ở giai đoạn đầu triển khai nên chưa có kết quả rõ nét.
Từ năm 1963 Bộ Tài chính đã tiến hành nghiên cứu, xúc tiến thành lập Công ty
BH Việt Nam với sự cộng tác của công ty BH nhân dân Trung Hoa.
Ngày 17/12/1964 bằng Quyết định số 179/CP của hội đồng Chính phủ, theo đề
nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính, công ty BH Việt Nam, tên giao dịch là Bảo Việt
được thành lập và chính thức khai trương hoạt động ngày 15/01/1965 với số Vốn
điều lệ là 10 triệu đồng Việt Nam (tương đương 2 triệu USD vào thời điểm đó),
dưới sự quản lý trực tiếp của Bộ Tài chính. Trong thời gian này, Bảo Việt mới chỉ
triển khai mảng BH phi nhân thọ, mà chưa triển khai BH nhân thọ. Tuy nhiên,
BảoViệt cũng đã chú trọng đến việc mở rộng và đa dạng hoá các nghiệp vụ BH,
đặc biệt là nghiệp vụ BH con người, làm tiền đề cho việc triển khai BH nhân thọ
về sau.
- Giai đoạn 1975-2000:
Sau khi đất nước thống nhất, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam
Việt Nam ra tuyên bố đình chỉ các hoạt động của các công ty BH miền Nam Việt
Nam, trong đó có công ty BH nhân thọ Hưng Việt và tuyên bố thanh lý, giải thể
các tổ chức BH tư nhân.
Năm1976, Bộ trưởng Bộ Kinh tế tài chính Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng
hoà miền Nam Việt Nam ra quyết định số 21/QĐ-BKT thành lập công ty BH, tái

BH Việt Nam (viết tắt là BAVINA), thuộc Tổng nha tài chính Chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.
9
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
Năm1977, Bộ trưởng Bộ Tài chính ra quyết định số 61/TCQĐ/TCCB về việc sát
nhập BAVINA thành chi nhánh của Bảo Việt tại thành phố Hồ Chí Minh. Như
vậy, kể từ đây, Bảo Việt chính thức có mạng lưới hoạt động tại các tỉnh miền Nam.
Chính sách mở cửa vào năm 1987 đã tạo điều kiện cho ngành BH Việt Nam được
học hỏi và tiếp cận với những kỹ thuật BH mới trên thế giới. Từ kinh nghiệm các
nước, BảoViệt lúc đó vẫn là công ty BH duy nhất ở Việt Nam, đã thấy được tiềm
năng to lớn của BH nhân thọ ở nước ta. Vì vậy, Bảo Việt bắt đầu nghiên cứu triển
khai BH nhân thọ ở Việt Nam với đề án “BH nhân thọ và điều kiện triển khai ở
Việt Nam”, nhưng lúc đó chưa có đủ điều kiện vì: Thu nhập dân cư còn thấp, kinh
tế còn kém phát triển, tỷ lệ lạm phát còn cao, thị trường tài chính chưa phát triển,
chưa có môi trường đầu tư và các công ty BH chưa được phép hoạt động trong lĩnh
vực đầu tư, chưa có văn bản pháp Luật điều chỉnh mối quan hệ giữa công ty BH
và khách hàng, đội ngũ cán bộ BH lúc đó chưa được trang bị những kiến thức về
nghiệp vụ BH nhân thọ. Do đó, Bảo Việt chỉ triển khai BH sinh mạng có thời hạn
1 năm (BH nhân thọ tử kỳ thời hạn 1 năm). Đây là loại hình BH nhân thọ đơn giản
nhất và có nhiều đặc điểm tương đồng với BH con người phi nhân thọ.
Sau thời kỳ đổi mới kinh tế được 10 năm, nền kinh tế Việt Nam đã có những
bước phát triển vượt bậc, lạm phát đã được đẩy lùi, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn
đạt mức cao từ 6 - 9 %/ năm, môi trường kinh tế- xã hội và môi trường pháp lý có
nhiều thuận lợi hơn. Đời sống người dân ngày càng được nâng cao và ở một bộ
phần quần chúng dân cư đã bắt đầu có tích luỹ. Đây là những nhân tố rất thuận lợi
cho BH nhân thọ ra đời và phát triển ở Việt Nam.
Năm 1996, thực hiện chủ trương mở rộng, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tới
các tầng lớp dân cư, Bảo Việt đã nghiên cứu và đưa ra thị trường dịch vụ BH nhân
thọ lần đầu tiên ở Việt Nam, thể hiện vai trò tiên phong của Bảo Việt trên thị
trường BH Việt Nam. Ngày 20/3/1996, Bộ Tài Chính đã chính thức quyết định cho

phép Bảo Việt triển khai 2 sản phẩm: BH hỗn hợp nhân thọ và BH an sinh giáo
dục. Tháng 8/1996, Bảo Việt đã bán những sản phẩm BH nhân thọ đầu tiên ra thị
10
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
trường, đánh dấu sự khởi đầu cho chặng đường phát triển đầy hứa hẹn của BHNT
ở Việt Nam.
Sau Nghị định 100 /CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh BH, từ
năm 1994 đến nay, nhiều công ty BH mới được cấp phép hoạt động. Có thể nói,
Nghị định 100 /CP ra đời là một bước ngoặt có tính cách mạng đối với thị
trường BH Việt Nam. Nghị định này đã thể hiện chủ trương phát triển một ngành
đa thành phần của nhà nước ta. Tuy nhiên, xét về thực chất kể từ khi có sự ra đời
của các công ty BH 100% Vốn nước ngoài như Công ty BH nhân thọ Chinfon
Manulife (nay là Manulife), Công ty BH nhân thọ Prudential, Công ty BH nhân
thọ Bảo Minh-CMG (nay là Dai-ichi Life), Công ty BH nhân thọ quốc tế Mỹ AIA,
thị trường BH Việt Nam trong đó có BH nhân thọ mới chấm dứt giai đoạn độc
quyền nhà nước về BH và bắt đầu đi vào phát triển và có sự cạnh tranh.
Ngày 09 tháng 12 năm 2000 Quốc Hội đã thông qua Luật kinh doanh BH, tạo
hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho thị trường BH Việt Nam. Nhờ có Luật kinh
doanh BH, các doanh nghiệp BH cạnh tranh bình đẳng hơn và đang thực sự là
động lực thúc đẩy thị trường BH Việt Nam, đặc biệt là thị trường BH nhân thọ
phát triển.
- Giai đoạn từ 2001 - đến nay:
BH nhân thọ Việt Nam ra đời và phát triển đến nay đã được 10 năm, từ chỗ chỉ
có Bảo Việt là doanh nghiệp BH duy nhất kinh doanh BH nhân thọ, cho đến nay
thị trường BH nhân thọ đã phát triển sôi động và hấp dẫn rất nhiều các công ty BH
nước ngoài vào đầu tư và kinh doanh.
Thị trường BH nhân thọ Việt Nam được mở cửa từ tháng 6/1999, công ty BHNT
nước ngoài đầu tiên gia nhập thị trường là Chinfon-Manulife, liên doanh giữa Tập
đoàn Taiwanese Chinfon và công ty BH nhân thọ Canadian Manulife. Sau đó có
nhiều công ty BH nhân thọ lớn trên thế giới tham gia vào thị trường. Tính đến hết

năm 2006, thị trường BH nhân thọViệt Nam có các công ty BH nhân thọ sau:
11
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
 Bảo Việt Nhân thọ
 Công ty trách nhiệm hữu hạn BH nhân thọ Manulife Life
 Công ty trách nhiệm hữu hạn BH nhân thọ Prudential
 Công ty trách nhiệm hữu hạn BH nhân thọ quốc tế Mỹ AIA
 Công ty trách nhiệm hữu hạn BH nhân thọ Bảo Minh - CMG (nay là
Daiichi Life)
 Công ty trách nhiệm hữu hạn BH nhân thọ PrevoiR - Công ty trách nhiệm
hữu hạn BH nhân thọ ACE. Ngoài ra, sự góp mặt của rất nhiều văn phòng
đại diện của các công ty BH nhân thọ nước ngoài tại Việt Nam như: Great
Estern (Singapore), Ping An (Trung Quốc), Cathay life (Đài Loan) góp
phần làm cho thị trường BH nhân thọ Việt Nam trở nên sôi động hơn, đó là
dấu hiệu cho thấy một làn sóng đầu tư của nước ngoài mạnh mẽ trong lĩnh
vực BH nhân thọ thời gian tới.
Sự tham gia của các tổ chức BH nước ngoài cũng đã và sẽ nâng cao lòng tin của
các nhà đầu tư quốc tế về khả năng đáp ứng các nhu cầu về BH nhân thọ, giúp các
nhà đầu tư nước ngoài yên tâm hơn về cam kết mở cửa và tin tưởng vào môi
trường đầu tư lành mạnh ở Việt Nam. Ngoài ra, sự thâm nhập của các công ty BH
nhân thọ nước ngoài cũng góp phần nâng cao năng lực của thị trường BH, thiết lập
thêm một kênh thu hút Vốn trong dân. Có thể nói thị trường BH nhân thọ Việt
Nam đang từng bước hội nhập với thị trường BH nhân thọ khu vực và trên thế
giới.
(Nguồn: Web BH)
Sự hình thành của BHNT cũng đánh dấu những bước phát triển vượt bậc của nền
kinh tế Việt Nam, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng đất nước, cải thiện đời
sống nhân dân, có vai trò to lớn đối với kinh tế, xã hội và con người.
2 Đặc điểm
a. BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro.

Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với BH
phi nhân thọ. Thật vậy, mỗi người mua BHNT sẽ định kỳ nộp một khoản
tiền nhỏ (gọi là phí BH) cho công ty BH, ngược lại công ty BH có trách
12
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
nhiệm trả một số tiền lớn (gọi là tiền BH) cho người hưởng quyền lợi BH
như đã thỏa thuận từ trước khi có các sự kiện BH xảy ra. STBH được trả
khi người được BH đạt đến một độ tuổi nhất định nào đó và được ấn định
trong hợp đồng. Hoặc số tiền này được trả cho thân nhân và gia đình
người được BH khi người này không may bị chết sớm ngay cả khi họ
mới tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ thông qua viêc đóng phí BH.
Số tiền này giúp những người còn sống trang trải những khoản chi phí
cần thiết như: thuốc men, mai táng, chi phí giáo dục con cái v.v…Chính
vì vậy, BHNT vừa mang tính chất tiết kiệm, vừa mang tính rủi ro. Tính
chất tiết kiệm ở đây thể hiện ngay trong từng cá nhân, từng gia đình một
cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Nội dung tiết kiệm khi
mua BHNT khác với các hình thức tiết kiệm khác ở chỗ, người BH đảm
bảo trả cho người tham gia BH hay người thân của họ một số tiền rất lớn
ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ. Có nghĩa là khi
người được BH không may gặp rủi ro, trong thời hạn BH đã được ấn
định, những người thân của họ sẽ nhận được những khoản trợ cấp hay
STBH từ công ty BH. Điều đó thể hiện rõ tính chất rủi ro trong BHNT.
b. BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia BH.
Trong khi các nghiệp vụ BH phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục
đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia BH gặp sự
cố, từ đó góp phần ổn định tài chính cho người tham gia, thì BHNT đã
đáp ứng được nhiều mục đích. Mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong
từng loại hợp đồng. Chẳng hạn, HĐBH hưu trí sẽ đáp ứng được yêu cầu
của người tham gia những khoản trợ cấp đểu đặn hàng tháng, từ đó góp
phần ổn định cuộc sồng của họ khi già yếu. HĐBH tử vong sẽ giúp người

được BH để lại cho gia đình một STBH khi họ bị tử vong. Số tiền này
đáp ứng được rất nhiều mục đích của người qua cố như: trang trải nợ
nần, giáo dục con cái, phụng dưỡng bố mẹ già.v.v…HĐBH nhân thọ đôi
khi còn có vai trò như một vật thế chấp để vay vốn hoặc BHNT tín dụng
13
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
thường được bán cho các đối tượng đi vay để họ mua xe hơi, đồ dùng gia
đình hoặc dùng cho các mục đích cá nhân khác.v.v…Chính vì đáp ứng
được nhiều mục đích khác nhau nên loại hình BH này có thị trường ngày
càng rộng và được rất nhiều người quan tâm.
c. Các loại hợp đồng trong BHNT rất đa dạng và phức tạp.
Tính đa dạng và phức tạp trong các hợp đồng BHNT thể hiện ở ngay
các sản phẩm của nó. Mỗi sản phẩm BHNT cũng có nhiều loại hợp đồng khác
nhau, chẳng hạn BHNT hỗn hợp có các hợp đồng 5 năm, 10 năm. Mỗi hợp đồng
với mỗi thời hạn khác nhau, lại có sự khác nhau về STBH, phương thức đóng phí,
độ tuổi của người tham gia…Ngay cả trong một bản hợp đồng, mối quan hệ giữa
các bên cũng rất phức tạp. Khác với các bản HDDBH phi nhân thọ trong mỗi
HĐBH nhân thọ có thể có 4 bên tham gia: người BH, người được BH; người tham
gia BH và người thụ hưởng quyền lợi BH
d. Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, vì vậy quá trình định phí
khá phức tạp.
Theo tác giả Jean- Claude Harrari “ sản phẩm BH nhân thọ không gì hơn chính
là kết quả của một tiến trình đầy đủ để đưa sản phẩm đến công chúng”. Trong tiến
trình này, người BH phải bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo nên sản phẩm như: chi phí
khai thác, chi phí quản lý hợp đồng.
Nhưng những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên giá cả sản phẩm
BHNT (tính phí BHNT), một phần chủ yếu khác lại phụ thuộc vào:
 Độ tuổi của người được BH.
 Tuổi thọ bình quân của con người.
 Số tiền BH

 Thời hạn tham gia.
 Phương thức thanh toán.
 Lãi suất đầu tư.
 Tỷ lệ lạm phát và thiểu phát của đồng tiền.
…….
14
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
Điều đó khác với việc định giá cả một chiếc ô tô. Chiếc ô tô là sản phẩm
của một dây chuyền sản xuất, để sản xuất ra nó, người ta phải chỉ ra cất
nhiều khoản chi phí nguyên, nhiên vật liệu, chi phí lao động sống, khấu
hao tài sản cố định.v.v…Những khoản chi này là chi phí thực tế phát sinh
và thực chất chúng là những khoản chi phí đầu vào được hạch toán một
cách chi tiết, đầy đủ và chính xác để phục vụ cho quá trình định giá. Thế
nhưng, khi định giá phí BHNT, một số yếu tố nêu trên phải giả định, như:
tỷ lệ chết, tỷ lệ hủy bỏ hợp đồng, lãi suất đầu tư, tỷ lệ lạm phát.v.v…Vì
thế, quá trình định phí ở đây rất phức tạp, đòi hỏi phải nắm vững đặc
trưng của mỗi loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích được chiều
hướng phát triển của mỗi sản phẩm trên thị trường nói chung.
e- BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định.
Ở các nước kinh tế phát triển, BHNT đã ra đời và phát triển hàng trăm
năm nay. Ngược lại có một số quốc gia trên thế giới hiện nay vẫn chưa
khai triển được BHNT, mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của
nó. Để lý giải vấn đề này, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, cơ sở chủ
yếu để BHNT ra đời và phát triển là điều kiện kinh tế - xã hội phải phát
triển.
- Những điều kiện về kinh tế như:
 Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
 Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân 1 đầu người dân.
 Mức thu nhập của dân cư.

 Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền.
 Tỷ giá hối đoái…
- Những điều kiện xã hội bao gồm:
 Điều kiện về dân số.
 Tuổi thọ bình quân của người dân.
 Trình độ học vấn.
 Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh.
Ngoài điều kiện kinh tế - xã hội, thì môi trường pháp lý cũng chịu ảnh hưởng
không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của BHNT. Thông thường ở các nước, luật
15
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
kinh doanh BH, các văn bản, quy định có tính pháp quy phải ra đời trước khi
ngành BH phát triển. Luật BH và các văn bản có liên quan sẽ đề cập cụ thể đến các
vấn đề như: tài chính, đầu tư, hợp đồng, thuế.v.v…Đây là những vấn đề mang tính
chất sống còn cho hoạt động kinh doanh BHNT. Chẳng hạn, ở một số nước phát
triển như: Anh, Đức, Pháp.v.v…Nhà nước thường tạo điều kiện thuận lợi cho
BHNT bằng cách có chính sách thuế ưu đãi. Mục đích là nhằm tạo ra cho các cá
nhân cơ hội để tiết kiệm, tự mình tạo lập nên quỹ hưu trí, từ đó cho phép giảm bớt
phần trợ cấp từ Nhà nước. Mặt khác, còn đẩy mạnh được quá trình tập trung vốn
trong các công ty BH để từ đó có vốn dài hạn đầu tư cho nền kinh tế. Cũng vì
những mục đích trên, mà một số nước châu Á như: Ấn Độ, Hồng Kong,
Singapore…không đánh thuế doanh thu đối với các nghiệp vụ BHNT. Sự ưu đãi
này là đòn bẩy tích cực để BHNT phát triển.
3 Vai trò
- BH nhân thọ đảm bảo an toàn về tài chính cho những người phụ thuộc. Người
trụ cột là chỗ dựa về tài chính cũng như tinh thần cho những người thân, người phụ
thuộc trong gia đình. Tham gia BH nhân thọ là cách để người trụ cột thể hiện trách
nhiệm với người thân bởi lẽ: giúp đảm bảo khoản chi phí tài chính để khắc phục
tổn thất khi người trụ cột gặp rủi ro; giúp duy trì mức sống ổn định cho gia đình
khi những rủi ro bất ngờ ập đến.

- BH nhân thọ còn là quỹ tiết kiệm cho tương lai học vấn của con em. Chăm lo
cho tương lai học vấn của con trẻ là mối quan tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ.
Để thực hiện được mục tiêu đó các bậc cha mẹ phải chuẩn bị trước một khoản tài
chính nhất định. Với BH nhân thọ các bậc cha mẹ sẽ được tham gia một chương
trình tài chính mà theo đó: giúp tích lũy có kỷ luật để có một khoản tiền lớn chăm
lo cho tương lai học vấn của con cái.
- Tham gia BH nhân thọ còn là xây dựng quỹ tiết kiệm dài hạn cho những kế
hoạch của cá nhân và gia đình. BH nhân thọ giúp mỗi cá nhân và gia đình thực
16
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
hiện những chương trình tiết kiệm dài hạn thuận tiện và có kỷ luật. Chỉ cần để
dành những khoản tiền nhỏ đều đặn, bạn có thể thực hiện những kế hoạch cho
tương lai như: lập gia đình; mua nhà; mua xe; hay những mong muốn khác.
- BH nhân thọ mang lại những hỗ trợ về chi phí hậu sự hay để lại di sản thừa kế.
BH nhân thọ đảm bảo rằng khi đã có tuổi, khách hàng sẽ luôn có một khoản tiền
để trang trải những chi phí thuốc men, lo hậu sự, hay để lại một di sản thừa kế cho
con cháu.
- BH nhân thọ giúp đảm bảo vững chắc hơn nguồn tài chính khi về hưu, thanh
thản an hưởng tuổi già bên con cháu. Với nguồn tài chính độc lập, khách hàng là
những người đã đến tuổi hưu trí có thể thực hiện công việc kinh doanh nhỏ để có
thêm thu nhập; trang trải thuốc men, viện phí; thực hiện những chuyến đi tham
quan, du lịch.
- BH nhân thọ là kênh đầu tư sinh lời. Bên cạnh những sản phẩm BH truyền
thống, BH nhân thọ còn có loại hình BH liên kết đầu tư. Loại hình BH này cho
phép người tham gia BH: đáp ứng nhu cầu đầu tư; tiếp cận với các danh mục đầu
tư được đa dạng hóa; tiếp cận với các dịch vụ quản lý đầu tư chuyên nghiệp.
- Hơn thế nữa, BH nhân thọ cũng góp phần tạo sự ổn định và phát triển bền vững
cho xã hội với vai trò là một hình thức an sinh xã hội bổ sung.
- Với mỗi vai trò của BH nhân thọ, Bảo Việt nhân thọ đều cung ứng cho khách
hàng một sản phẩm tương ứng nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu của mọi đối tượng

khách hàng.
2 Các hình thức BHNT ở VN
1.2.2.1. BH nhân thọ trong trường hợp tử vong
Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia thành 2 nhóm
1. BH tử kỳ (còn được gọi là BH tạm thời hay BH sinh mạng có thời hạn)
17
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
Được ký kết BH cho cái chết xảy ra trong thời gian đã quy định của hợp đồng.
Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người được BH không nhận được
bất kỳ một khoản hoàn phí nào từ số phí BH đã đóng. Điều đó cũng có nghĩa là
người BH hiểm không phải thanh toán STBH cho người được BH. Ngược lại, nếu
cái chết xảy ra trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, thì người BH phải có
trách nhiệm thanh toán STBH cho người thụ hưởng quyền lợi BH được chỉ định
trong hợp đồng BH.
Đặc điểm:
- Thời hạn BH xác định
- Trách nhiệm và quyền hạn mang tính tạm thời
- Mức phí BH thấp vì không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được BH
Mục đích:
- Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất;
- Bảo trợ cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn
- Thanh toán các khoản nợ nần về những khoản vay hoặc thế chấp của người được
BH
Phân loại:
BH tử kỳ còn được đa dạng hóa thành các loại hình như sau:
 BH tử kỳ cố định: có mức phí BH và STBH cố định, không thay đổi trong suốt thời
gian có hiệu lực của hợp đồng. Mức phí thấp nhất và người BH không thanh toán
khi hết hạn hợp đồng. Hợp đồng hết hiệu lực nếu sau ngày gia hạn hợp đồng
không nộp phí BH. Loại này chủ yếu nhằm thanh toán cho các khoản nợ tồn đọng
trong trường hợp người được BH tử vong

 BH tử kỳ có thể tái tục: Loại này có thể được tái tục vào ngày kết thúc hợp đồng và
không yêu cầu có thêm bằng chứng nào về sức khỏe của người được BH, nhưng có
18
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
sự giới hạn về độ tuổi (thường độ tuổi tối đa là 65). Tại lúc tái tục phí BH tăng lên
vì độ tuổi của người được BH lúc này tăng lên
 BH tử kỳ có thể chuyển đổi: đây là loại hình BH tử kì cố định nhưng cho phép
người được BH có sự lựa chọn chuyển đổi một phần hay toàn bộ hợp đồng thành
một hợp đồng BHNT trọn đời hay BHNT hỗn hợp tại một thời điểm nào đó khi
hợp đồng đang còn hiệu lực. Phí BH được tính dựa trên hợp đồng BHNT trọn đời
hay hỗn hợp mới theo độ tuổi của người có hợp đồng
Loại hợp đồng này phát hành như một sự bảo chứng chi khoản tiền vay. Đồng
thời nó còn nhằm thực hiện yếu tố tiết kiệm trong tương lai của người được BH.
 Bảo hiêm tử kỳ giảm dần: đây là loại hình BH mà có một bộ phận của STBH giảm
hàng năm theo một mức quy định. Bộ phận này giảm tới 0 vào cuối kỳ hạn hợp
đồng. Đặc điểm của loại này là:
+ Phí BH giữ ở mức cố định
+ Phí thấp hơn BH tử kỳ cố định
+ Giai đoạn nộp phí ngắn hơn toàn bộ thời hạn hợp đồng để tránh việc thanh toán
vào cuối thời hạn của hợp đồng khi mà số tiền BH còn rất nhỏ
Loại hình BH này đáp ứng được nhu cầu của người tham gia BH, khi họ phải nợ
một khoản tiền phải trả dần.
 BH tử kỳ tăng dần: Loại này được phát hành nhằm giúp người tham gia BH có thể
ngăn chặn được yếu tố lạm phát của đồng tiền. Có nghĩa là STBH thực trong hợp
đồng bị giảm do đồng tiền sụt giá trong khoảng một thời gian. Để ngăn chặn có
thể:
+ Tăng STBH theo một tỷ lệ % được lập hàng năm
+ Đưa ra các loại hợp đồng ngắn hạn sau đó tái tục với STBH tăng dần
Loại hình BH này có đặc điểm là phí BH tăng dần theo STBH và phải dựa trên
tuổi tác của người được BH khi tái tục hợp đồng

19
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
 BH thu nhập gia đình: Loại hình này nhằm đảm bảo thu nhập cho một gia đình khi
không may người trụ cột trong gia đình bị chết. Quyền lợi BH mà gia đình nhận
được sau cái chết của người trụ cột có thể là:
+ Nhận được toàn bộ (trọn gói)
+ Nhận được từng phần dần dần cho đến khi hết hạn hợp đồng.
Nếu người được BH còn sống đến hết hạn hợp đồng, gia đình sẽ không nhận
được bất kì một khoản thanh toán nào từ công ty BH
 BH thu nhập gia đình tăng lên: loại hình BH này cũng nhằm tránh yếu tố lạm phát
của đồng tiền. Đảm bảo các khoản thanh toán của công ty BH cho gia đình không
may có người được BH bị chết, tương ứng với STBH khi mới ký hợp đồng.
 BH tử kỳ có điều kiện: điều kiện ở đây là: việc thanh toán trợ cấp chỉ được thực
hiện khi người được BH bị chết, đồng thời người thụ hưởng quyền lợi BH được
chỉ định trong hợp đồng phải còn sống.
2. BH nhân thọ trọn đời (BH thường sinh)
Loại hình BH này cam kết chi trả cho người thụ hưởng BH một STBH đã được
ấn định trên hợp đồng, khi người được BH chết vào bất cứ lúc nào kể từ ngày kí
hợp đồng. Phương châm của người BH ở đây là: “BH đến khi chết”. Ngoài ra, có
một số trường hợp loại hình BH bày còn đảm bảo chi trả chi người được BH ngay
cả khi họ sống trên 100 tuổi
Đặc điểm:
+ STBH trả một lần khi người được BH bị chết
+ Thời hạn BH không xác định
+ Phí BH có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt
quá trình BH
20
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
+ Phí BH cao hơn so với BH sinh mạng có thời hạn, vì rủi ro chết chắc chắn xảy
ra, nên STBH chắc chắn phải chi trả

+ BHNT trọn đời là loại hình BH dài hạn, phí đóng định kỳ và không thay đổi
trong suốt quá trình BH, do đó đã tạo nên một khoản tiết kiệm cho người thụ
hưởng BH vì chắc chắn người BH sẽ chi trả STBH.
Mục đích:
 Đảm bảo các khoản chi phí mai táng, chon cất
 Bảo đảm thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình
 Giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau
Phân loại
Hiện nay, loại hình BH này thường có các loại hợp đồng sau:
 BH nhân thọ trọn đời phi lợi nhuận: Loại này có mức phí và STBH cố định suốt
cuộc đời. Vì vậy khi thanh toán STBH cho người thụ hưởng không có khoản lợi
nhuận được chia
 BH nhân thọ trọn đời có tham gia chia lợi nhuận: Loại hợp đồng này cũng tương
tự như loại trên, nhưng khi thanh toán STBH cho người thụ hưởng quyền lợi, họ
được chia một phần lợi nhuận như đã thỏa thuận trong hợp đồng
 BH nhân thọ trọn đời đóng phí liên tục: Loại này yêu cầu người được BH phải
đóng phí liên tục cho đến khi chết. Vì đóng phí liên tục nên số tiền đóng phí hàng
năm sẽ thấp hơn so với các loại hợp đồng khác và mức phí này là bằng nhau giữa
các năm.
 BH nhân thọ trọn đời đóng phí một lần: đây là loại hình BH mà người được BH
chỉ đóng phí một lần khi ký kết hợp đồng, còn người BH phải đảm bảo chi trả bất
cứ lúc nào khi cái chết của người được BH xảy ra. Khoản phí đóng một lần là khá
lớn nên người tham gia hạn chế. Loại hợp đồng này rất cổ điển, tuy nhiên nó vẫn
21
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
được sử dụng để đáp ứng những nhu cầu của những người có thu nhập cao trong
xã hội
 BH nhân thọ trọn đời quy định số lần đóng phí: Loại này không đòi hỏi người
được BH phải đóng phí liên tục hay một lần mà quy định rõ số năm đóng phí BH
Loại hợp đồng này rất phù hợp với những người sau khi nghỉ hưu, thu nhập giảm,

việc tiếp tục đóng phí BH là một gánh nặng đối với họ, trong khi họ vẫn có nhu
cầu được BH.
1.2.2.2. BH nhân thọ trong trường hợp sống (BH sinh kỳ)
Thực chất của loại hình BH này là người BH cam kết chi trả những khoản tiền
đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc suốt đời người tham gia BH.
Nếu người được BH chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả
bất kì khoản tiền nào
Đặc điểm:
 Trợ cấp định kì cho người được BH trong thời gian xác định hoặc cho đến khi chết
 Phí BH đóng một lần
 Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian không xác định
Mục đích:
 Đảm bảo thu nhập cố định sau khi về hưu hay tuổi cao sức yếu
 Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi già
 Đảm bảo mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời
Phân loại:
22
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
 BH niên kim trọn đời: là loại hình hợp đồng mà với một khoản phí BH phải nộp
khi kí hợp đồng mà người tham gia BH lựa chọn, người BH sẽ thanh toán một
khoản trợ cấp hàng tháng cho người được BH định kỳ cho đến hết đời.
 BH niên kim nhân thọ tạm thời: Là loại hình hợp đồng mà với một khoản phí BH
phải nộp khi kí hợp đồng mà người tham gia BH lựa chọn, người BH sẽ thanh toán
một khoản trợ cấp hàng tháng cho người được BH trong một thời kì nhất định.
Các khoản trợ cấp định kì chỉ bắt đầu được thanh toán vào một ngày nhất định và
chỉ được trả khi người được BH còn sống. Tuy nhiên, có một số công ty BH còn
áp dụng các điều khoản bổ sung để hoàn phí BH cho người hưởng thụ quyền lợi
BH khi người được BH bị tử vong (trường hợp này ít thấy)
Loại hình BH này rất phù hợp với những người khi về hưu hoặc những người
không được hưởng tiền trợ cấp hưu trí từ BHXH đến độ tuổi tương ứng với tuổi về

hưu đăng kí tham gia, để được hưởng những khoản trợ cấp định kỳ hàng tháng. Vì
vậy tên gọi “BH tiền hưu”, “niên kim nhân thọ”, “BH tiền trợ cấp hưu trí”, v.v…
được các công ty BH vận dụng linh hoạt.
1.2.2.3. BH nhân thọ hỗn hợp
Thực chất của loại hình BH này là BH cả trong trường hợp người được BH bị tử
vong hay còn sống. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen nhau vì thế nó được áp dụng
rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới
Đặc điểm:
 STBH được trả khi: hết hạn hợp đồng hoặc người được BH tử vong trong thời hạn
BH
 Thời hạn BH xác định: thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm…
 Phí BH thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn BH
 Có thể được chia lãi thông qua đầu tư phí BH và cũng có thể được hoàn phí khi
không có điều kiện tiếp tục tham gia.
Mục đích:
23
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
 Đảm bảo ổn định trong cuộc sống gia đình và người thân
 Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ.
 Dùng làm vật thế chấp vay vốn hoặc khởi nghiệp kinh doanh…
Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty BH có thể đa dạng hóa loại sản phẩm
này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi lợi nhuận, có lợi
nhuận và các loại hợp đồng khác tùy theo tình hình thực tế
1.2.2.4.Các điều khoản bổ sung
1 Điều khoản bổ sung BH nằm viện hay phẫu thuật.
Có nghĩa là nhà BH cam kết trả các chi phí nằm viện và phẫu thuật cho người
được BH khi họ bị ốm đau, thương tích. Tuy nhiên, nếu người được BH tự gây
thương tich, tự tử, mang thai và sinh nở…thì không được hưởng quyền lợi BH.
Mục đích của điều khoản này là nhằm trợ giúp người tham gia giảm nhẹ gánh
nặng chi phí trong điều trị phẫu thuật, đặc biệt là trong trường hợp ốm đau,

thương tích bất ngờ.
2. Điều khoản bổ sung BH tai nạn.
Mục đích của điều khoản này là nhằm trợ giúp thanh toán chi phí trong điều trị
thương tật, từ đó bù đắp sự mất mát hoặc giảm thu nhập do bị chết hoặc thương
tích của người được BH. Điều khoản BH này có đặc điểm là BH khá toàn diện
các hậu quả tai nạn như: người được BH bị tàn phế, thương tật toàn bộ, thương
tích tạm thời và bị tai nạn sau đó bị chết. Những trường hợp tự thương, tai nạn do
nghiện rượu, ma túy, tự tử…sẽ không được hưởng quyền lợi BH.
3. Điều khoản bổ sung BH sức khoẻ.
Thực chất của điều khoản này là nhà BH sẽ cam kết thanh toán khi người được
BH bị các chứng bệnh hiểm nghèo sau:
• Đau tim
24
Nghiên cứu khoa học Bảo hiểm nhân thọ Prudential
• Ung thư
• Suy gan
• Suy thận
• Suy hô hấp…
Mục đích tham gia BH ở đây nhằm có được những khoản tài chính nhất định để
trợ giúp thanh toán các khoản chi phí y tế lớn và góp phần giải quyết , lo liệu các
nhu cầu sinh hoạt ngay trong thời gian điều trị.
Ngoài ra, trong một số hợp đồng BHNT, các công ty BH còn đưa ra những điểm
bổ sung khác như: hoàn phí BH, miễn thanh toán phí khi bị tai nạn, thương
tật.v.v nhằm tăng tính hấp dẫn để thu hút người tham gia.
Mặc dù có mức phí cao hơ, nhưng các HĐBH nhân thọ có các điều khoản bổ sung
đã đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người tham gia BH.
1.2.3. Phí BH.
Việc xác định phí BH rất phức tạp, bởi vì nó chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu
tố khác nhau. Do đó, quá trình định phí để đưa ra được một bảng phí đầy đủ, phù
hợp với đặc điểm của từng loại sản phẩm BHNT phải tuân thủ một số nguyên tắc

nhất định.
1.2.3.1 Nguyên tắc định phí BH nhân thọ.
- Phí được xác định sao cho tất cả các khoản thu trong tương lai phải đủ để trang
trải các khoản chi phí và các khoản tiền BH, đông thời mang lại lợi nhuận hợp
lý cho công ty. Đây không chỉ là nguyên tắc mà còn là mục tiêu số một của các
công ty BH. Khác với BH phi nhân thọ, trong BHNT thời gian có hiệu lực của
các hợp đồng kéo dài, do đó các khoản thu, chi của từng hợp đồng, từng loại
hình BHNT có sự biến động rất lớn trong tương lai. Cho nên các chuyên gia
tính phí phải xác định chính xác để quỹ BH thực hiện được các mục đích của
nó và đáp ứng được các khoản thanh toán cần thiết khi có yêu cầu.
- Phí phải được tính toán dựa trên những cơ sở khoa học nhất định. Chẳng hạn
phải dựa vào quy luật số lớn trong toán học, vào bảng tỷ lệ tử vong trong thống
kê, quy luật về giới tính và quy luật về tuổi thọ tăng dần trong dân số và nhân
khẩu học, quy luật về lạm phát của đồng tiền trong các nền kinh tế.v.v
25

×