Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Một số mô hình kinh tế thị trường và bài học đối với nước ta hiện nay.tieu luan ngay 12 thang 6 năm 2012 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.24 KB, 28 trang )

“Một số mô hình kinh tế thị trường và bài học đối với nước ta hiện nay”.
MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế phổ biến của thế giới đương đại. Đây là
thành tựu chung của văn minh nhân loại chứ không phải là sản phẩm mang tính đặc
thù của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, việc áp dụng và thực hiện mô hình kinh tế thị
trường trên thế giới rất phong phú, đa dạng. Ở các nước tư bản phát triển, mô hình
kinh tế thị trường đã trải qua nhiều giai đoạn biến đổi thăng trầm, tiến hóa theo thời
gian cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế, dưới tác
động của cách mạng khoa học - kỹ thuật, ngày nay là cách mạng khoa học - công
nghệ. Các mô hình kinh tế thị trường của các nước này có những sự biến đổi, thích
nghi để tồn tại và phát triển.
Dưới tác động của tiến bộ khoa học, kỹ thuật, của lực lượng sản xuất; sản xuất,
lưu thông trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển và kéo theo sau đó là sự xuất hiện
ngày càng đa dạng các loại thị trường; cơ chế thị trường hoạt động ngày càng linh
hoạt, rộng khắp. Đến nay, dù kinh tế thị trường đang thịnh hành nhưng có những
khuyết tật bản chất của nó. Hầu hết các nước đều theo mô hình này nhưng có số ít các
nước thành công ở mức độ tương đối của nó.
Đối với nước ta, trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội đã xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tất cả đang
trong quá trình bắt đầu với những bước đi đầu tiên. Nước ta phải tiếp tục học tập, cải
thiện, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhằm nắm
sâu sắc hơn mô hình kinh tế này, bản thân chọn; “Một số mô hình kinh tế thị trường
và bài học đối với nước ta hiện nay” làm đề tài tiểu luận.
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Khái niệm kinh tế thị trường
Kinh tế hàng hoá là một hình thái tổ chức kinh tế mà ở đó, các sản phẩm được
sản xuất ra nhằm mục đích để trao đổi hay để bán. Kinh tế thị trường là trình độ phát
triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản
xuất đều được mua bán thông qua thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh
nghiệp đều biểu hiện thông qua quan hệ mua bán hàng hoá và dịch vụ trên thị trường.


Mục đích của các thành viên khi tham gia vào thị trường là tìm kiếm lợi ích cho mình
theo sự điều tiết của giá cả trên thị trường.
Xét về mặt lịch sử, kinh tế hàng hoá có trước kinh tế thị trường. Chỉ khi nào
kinh tế hàng hoá tăng trưởng nhanh, thị trường được mở rộng, phong phú, đồng bộ,
các quan hệ thị trường tương đối hoàn thiện mới có kinh tế thị trường. Như vậy, kinh
tế thị trường không phải là một giai đoạn khác biệt, độc lập, đứng ngoài kinh tế hàng
hoá mà là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá.
Trong những năm gần đây, dựa theo những nét khác biệt và tương đồng, người
ta đã chia các mô hình kinh tế thị trường đang vận hành ở các nước tư bản phát triển
trên thế giới thành 3 nhóm tiêu biểu: Mô hình thể chế kinh tế thị trường tự do (tiêu
biểu là nền kinh tế thị trường của Mỹ, Anh, Ốx-trây-li-a, ). Mô hình thể chế kinh tế
thị trường xã hội (tiêu biểu là Đức, Thụy Điển và các nước Bắc Âu khác). Thể chế
kinh tế của mô hình nhà nước phát triển (tiêu biểu là nền kinh tế Pháp, Nhật Bản).
Cũng có cách khái quát khát cho rằng; lịch sử phát triển kinh tế thị trường nhân
loại, tới hôm nay, ở góc độ tổng quát có thể phân thành hai mô hình: mô hình kinh tế
thị trường ”cổ điển“ và mô hình kinh tế thị trường “hiện đại”.
Đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế thị trường “cổ điển“ là duy trì, và
khuyến khích rộng rãi tự do cạnh, tự do trao đổi, tự do tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh trên cơ sở tín hiệu và sự điều tiết của thị trường. Do vậy, hoạt động
của mọi chủ thể kinh tế, sự vận động của giá cả đều chịu tác động trực tiếp của hệ
thống quy luật kinh tế thị trường, mà A.Smit gọi là “Bàn tay vô hình“. Trong giai
đoạn vận động, phát triển của kinh tế thị trường “cổ điển“, Nhà nước can thiệp rất
hạn chế và mang tính gián tiếp vào các hoạt động kinh tế. Tiêu biểu của mô hình này
là nền kinh tế Tây Âu từ thế kỷ XVI đến gần cuối thế kỷ XIX.
Ưu điểm nổi bật của mô hình kinh tế thị trường “cổ điển“ là nền kinh tế phát
triển năng động, linh hoạt. Nhưng sự tồn tại và vận động của nền kinh tế theo mô
hình này đến một giai đoạn nhất định, khi trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất
cao, thì những khuyết tật của thị trường bộc lộ một cách mạnh mẽ, mâu thuẫn nội tại
trong phát triển ngày càng gay gắt, khủng hoảng kinh tế bột phát với sức tàn phá nặng
nề.

Khuyết tật và mâu thuẫn trong phát triển kinh tế thị trường “cổ điển“ đã đặt ra
yêu cầu khách quan về sự can thiệp, điều tiết sâu, rộng hơn của Nhà nước vào nền
kinh tế. Và mô hình kinh tế mới xuất hiện – mô hình kinh tế thị trường hiện đại, hay
còn gọi là nền kinh tế “hỗn hợp“. Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường hiện đại là
có “hai người“ tham gia điều tiết nền kinh tế, đó là thị trường điều tiết ở tầm vi mô,
Nhà nước điều tiết ở tầm vĩ mô; có “hai người” thực hiện các hoạt động đầu tư là Nhà
nước và tư nhân. Khó khăn lớn nhất trong kinh tế thị trường hiện đại là xác định giới
hạn sự can thiệp, điều tiết giữa thị trường và Nhà nước với tính khoa học, khả thi
trong những công cụ mà Nhà nước sử dụng để điều tiết kinh tế. Vì giới hạn sự can
thiệp và điều tiết của Nhà nước cũng như của thị trường ở những giai đoạn phát triển
khác nhau của nền kinh tế không phải là bất biến. Trong khi đó, nếu Nhà nước can
thiệp quá sâu, chính sách của Nhà nước không khoa học và thiếu khả thi thì sẽ làm
triệt tiêu những ưu thế, những động lực của thị trường. Ngược lại, nếu Nhà nước can
thiệp không đủ liều lượng thì sẽ tạo điều kiện cho những khuyết tật của thị trường
phát sinh tác động tiêu cực mạnh mẽ. Tương tự, trong lĩnh vực đầu tư, nếu kinh tế
Nhà nước và phạm vi độc quyền của kinh tế Nhà nước quá rộng, sẽ hạn chế tính năng
động, sáng tạo và khả năng thu hút nguồn lực của kinh tế tư nhân. Ngược lại, nếu
tiềm lực kinh tế của Nhà nước quá yếu, cũng sẽ hạn chế hiệu quả can thiệp, điều tiết
của Nhà nước khi cần thiết và sự thiếu hụt hàng hóa công cộng sẽ trầm trọng.
1.2 Đặc trưng của kinh tế thị trường
Lịch sử kinh tế thế giới đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế thị trường, với
nhiều đặc điểm khác nhau, nhưng tất cả đều mang những đặc trưng chung của kinh tế
thị trường:
Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao; Các chủ thể kinh tế trong nền kinh
tế thị trường bao gồm các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh, các cá nhân và cả nhà
nước. Họ chính là người đề ra các quyết sách kinh tế, các kinh doanh kinh doanh, họ
phải tự chịu trách nhiệm về tính khả thi của các quyết sách, quyết định được ban
hành, cũng như phải gánh chịu rủi ro nếu có. Chỉ có nền kinh tế hàng hoá dùa trên sự
tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất mới có được đặc trưng này. Nó hoàn
toàn không thể có trong nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp.

Dung lượng, chủng loại hàng hoá trong nền kinh tế thị trường rất phong phú,
đa dạng, do vậy mọi nhu cầu tiêu dùng của con người dễ dàng được thoả mãn. Đặc
trưng này cũng không thể có được trong một nền kinh tế hàng hoá kém phát triển.
Chỉ có trong nền kinh tế thị trường, với trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất,
của phân công và chuyên môn hoá lao động, mới có được đặc trưng này.
Giá cả được xác định ngay trên thị trường. Theo lý luận giá trị của Mác, giá cả
là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Mà giá hàng hoá lại là sự kết tinh của
hao phí lao động xã hội cần thiết. Song trên thực tế, giá cả không chỉ được quyết định
bởi giá trị hàng hoá, còn chịu ảnh hưởng khá lớn của quan hệ cung cầu. Sự biến động
của quan hệ cung cầu kéo theo sự biến động của giá cả và ngược lại. Như vậy, trong
nền kinh tế thị trường, giá cả là phạm trù kinh tế trung tâm, vừa là chiếc “phong vũ
biểu” phản ánh tình trạng của thị trường, lại vừa là công cụ thông qua cung cầu để
điều tiết hoạt động của các chủ thể kinh tế.
Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Mọi động lực của cạnh tranh
suy đến cùng đều xuất phát từ lợi ích kinh tế. Trong cuộc cạnh tranh đó, tất yếu có
người được người thua. Tuy nhiên, cần phân biệt cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh
không lành mạnh.
Cạnh tranh lành mạnh là tình trạng cạnh tranh diễn ra trong khuôn khổ của
pháp luật và bằng những biện pháp kinh tế – kỹ thuật, qua đó nâng cao năng suất lao
động, số lượng và chất lượng hàng hoá, dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả
trong kinh doanh. Cạnh tranh lành mạnh là động lực phát triển của nền kinh tế thị
trường. Cạnh tranh không lành mạnh là những quan hệ cạnh tranh được tiến hành
bằng những hình thức, biện pháp phi kinh tế, vi phạm pháp luật, thu lời bất chính.
Quan hệ cạnh tranh kiểu này gây thiệt hại cho người tiêu dùng, đồng thời cũng gây
thiệt hại cho xã hội nói chung, nên cần nghiêm trị bằng pháp luật.
Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Bởi kinh tế thị trường lấy trao đổi
làm mục đích của sản xuất kinh doanh, mà đã trao đổi thì phải “mở cửa”, hướng ra
bên ngoài). Trên thực tế, không thể tồn tại một nền kinh tế thị trường theo kiểu “đóng
kín”, không có giao lưu kinh tế với bên ngoài. Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường
ở các nước trên thế giới đều chứng minh điều đó.

1.3 Tác động của kinh tế thị trường.
a, Tác động tích cực của kinh tế thi trường
Các công trình nghiên cứu, dù tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, đều thống
nhất về vài trò tích cực của kinh tế thị trường đối với sự phát triển kinh tế-xã hội. Vài
trò tích cực này được biểu hiện như sau :
- Kinh tế thị trường kích thích sự năng động sáng tạo của các chủ thể kinh tế,
nhờ đó sẽ huy động và khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của nền kinh tế.
- Kinh tế thị trường thúc đẩy việc ứng dụng những thành tựu khoa học -công
nghệ mới vào sản xuất kinh doanh nhằm phát triển nền kinh tế cả bề rộng và chiều
sâu.
- Kinh tế thị trường tạo nên sự mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn và có khả năng
thích nghi cao hơn trước những thay đổi của điều kiện kinh tế. Do đó nó giải quyết
kịp thời và có hiệu quả những vấn đề cơ bản của nền kinh tế : cái gì ? như thế nào ?
và cho ai ?
- Kinh tế thị trường góp phần thoả mãn nhu cầu về nhiều mặt, nhiều vẻ khác
nhau cho tiêu dùng và cho sản xuất.
b, Tác động tíêu cực của kinh tế thi trường
Bên cạnh những tác động tích cực như đã nêu ở trên, kinh tế thị trường chứa
đựng trong lòng nó những khuyết tật.
- Sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường, trước hết là quy luật giá trị đã
dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội và xu hướng này ngày càng tăng lên nếu
không có biện pháp điều tiết của nhà nước.
- Vì mục tiêu lợi nhuận, các nhà sản xuất cạnh tranh với nhau giành ưu thế
trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá bằng mọi thủ đoạn. Tình trạng cá lớn nuốt cá bé,
chà đạp lên cả đạo lý, luật pháp các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, bòn rút
và làm cạn kiệt các nguồn lực phát triển của đất nước, làm suy thoái môi trường.
- Cơ chế thị trường cũng làm xuất hiện những hiệu ứng ngoài thị trường như
các chủ thể sản xuất kinh doanh không muốn đầu tư vào những ngành rất cần cho xã
hội như cơ sở hạ tầng, an ninh-quốc phòng, cứu hộ, cứu nạn… hoặc lợi ích của chủ
thể này làm tổn hại không thể bù đắp đối với chủ thể khác: ô nhiễm môi sinh, cạn kiệt

tài nguyên, đe doạ công ăn việc làm, thu nhập của các chủ thể khác…
- Với mục tiêu kinh tế là trên hết và xem nhẹ mục tiêu xã hội, văn hoá, y tế…
nên sự tác động của kinh tế thị trường đã dẫn đến tình trạng phát triển không đều giữa
các ngành, các vùng, các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, đất nước rơi vào tình
trạng: cơ cấu kinh tế-xã hội, lệ thuộc, không tạo ra được những tiền đề và điều kiện
cho đất nước phát triển toàn diện.
- Kinh tế thị trường còn là miếng đất làm phục hồi và phát triển các tệ nạn xã
hội xuất hiện từ các giai đoạn trước đó như : đầu cơ tích trữ, cho vày nặng lãi, tham
nhũng, hối lộ, trốn thuế, buôn lậu, gian lận thương mại…
- Sự điều tiết của kinh tế thị trường trong nhiều trường hợp có thể làm tăng tình
trạng thất nghiệp, ô nhiễm môi trường sống, lạm phát và khủng hoảng kinh tế.
II. MỘT SỐ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
2.1 Mô hình kinh tế thị trường Thụy Điển
Mô hình kinh tế thị trường “Xã hội phúc lợi“ ở Thụy Điển từ những năm 30
của thế kỷ XX. Mô hình này được xây dựng dựa trên lý thuyết “Ngôi nhà chung cho
mọi người“ của phái Xã hội-Dân chủ, mà đại diện là cựu Thủ tướng Thụy Điển
P.A.Hanson; xuất phát từ mục tiêu của “Chủ nghĩa xã hội chức năng“, với khẩu hiệu:
”bình đẳng, đảm bảo xã hội, hợp tác và sẵn sàng giúp đỡ“. Trong mô hình này, sự
phát triển được thực hiện kết hợp hài hòa giữa mở rộng phúc lợi xã hội với kinh tế thị
trường tư nhân. Thực hiện mô hình này, Thụy Điển đã đạt được những thành công
nhất định, đưa Thụy Điển từ một trong những nước nghèo nhất Châu Âu trở thành
một trong những quốc gia giàu nhất Châu lục này. Trong nền kinh tế, kinh doanh lớn
tuy nằm trong tay một nhóm nhỏ, nhưng sự phân hóa giàu – nghèo đần dần được thu
hẹp.
Tuy vậy, việc giữ mức phúc lợi xã hội cao cho mọi công dân dần dần trở thành
gánh nặng cho nền kinh tế; phúc lợi xã hội “nuốt“ mất 1/3 GNP; sự thiếu hụt ngân
sách và cán cân thanh toán luôn trầm trọng; năng suất lao động và khả năng cạnh
tranh của sản phẩm công nghiệp giảm; lạm phát cao. Do đó, từ giữa những năm 70
đến những năm 90 (thế kỷ XX) nền kinh tế ngày càng trở nên trì trệ. Do vậy, sau gần
50 năm thực hiện mô hình kinh tế thị trường “Xã hội phùc lợi“ với mức tiền lương

cao và chế độ tiền lương mang tính bình quân, đến những năm 90, Thụy Điển đã phải
đặt mục tiêu giảm lạm phát lên trên mục tiêu đảm bảo toàn dụng công nhân; giảm
thuế thu nhập từ 72% xuống còn 50%; tăng thuế gián thu; cắt giảm bớt các khoản trợ
cấp phúc lợi; tư nhân hóa trong các lĩnh vực dịch vụ.
2.2 Mô hình kinh tế thị trường Nhật Bản
Kinh tế thị trường Nhật Bản đã tiến triển qua nhiều giai đoạn khác nhau và trở
thành một trong những nền kinh tế thị trường hiện đại mà nhiều người coi là mẫu
mực cho các nước phát triển sau noi theo.
Đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ nhất của kinh tế Nhật Bản là thời kỳ Minh Trị.
Trước hết, hệ thống chính trị phi tập trung hóa được bãi bỏ để tạo ra sự thống nhất về
chính trị của đất nước. Một Nhà nước tập trung được thành lập. Về kinh tế và xã hội,
sự phân chia xã hội thành các đẳng cấp cha truyền con nối bị thủ tiêu, thay vào đó là
một xã hội hướng vào những người có tài và có năng lực đều có cơ hội tiến thân
trong xã hội, bất chấp nguồn gốc xuất thân của họ. Song song với việc thủ tiêu hệ
thống đẳng cấp, các quy tắc và luật lệ phong kiến hạn chế quyền tự do kinh tế cũng
được bãi bỏ; các biện pháp tích cực thúc đẩy cơ sở hạ tầng được thực hiện, đặc biệt là
hệ thống giao thông vận tải; đẩy mạnh việc cải cách hệ thông tài chính – tiền tệ, trong
đó đặc biệt là cải cách hệ thông thuế; thuế hiện vật được thay bằng thuế tiền Nhà
nước tập trung mạnh cho đầu tư giáo dục; Chính phủ đồng thời khuyến khích tư nhân
đầu tư phát triển các ngành công nghiệp hiện đại gắn liền với thực hiện tư nhân hóa
các doanh nghiệp Nhà nước; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để tiếp thu tư tưởng
và kỹ thuật mới nhằm hiện đại hóa đất nước.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản phục hồi và đạt được sự tăng
trưởng “thần kỳ“. Giai đoạn này gọi là nền kinh tế thị trường có hướng dẫn. Đặc
trưng cơ bản của nền kinh tế Nhật Bản thời kỳ này là: Thứ nhất, Chính phủ vừa thực
hiện chính sách tạo điều kiện cho tư nhân tư do kinh doanh thuận lợi; vừa loại bỏ
những yếu tố không hoàn thiện của thị trường. Thứ hai, Chính phủ đảm trách chi phí
đầu tư cho những ngành công nghiệp không có lãi nhưng rất cần thiết cho sự phát
triển kinh tế như: xây dựng cơ sở hạ tầng, văn hóa, giáo dục…Thứ ba, sự hợp tác
giữa Chính phủ và tư nhân trong phát triển kinh tế được thực hiện một cách thường

xuyên và chặt chẽ. Thứ tư, Chính phủ coi trọng công cụ kế hoạch hóa gián tiếp trong
điều tiết, quản lý nền kinh tế quốc dân.
Tóm lại, sự phát triển kinh tế thị trường Nhật Bản nổi lên mấy vấn đề cơ bản
sau đây: Thực hiện dân chủ hóa kinh tế gắn liền với dân chủ hóa chính trị và xã hội.
Kinh tế thị trường không có nghĩa là nền kinh tế vô chính phủ. Thời kỳ đầu tiên phát
triển kinh tế thị trường, chính phủ Nhật Bản can thiệp trực tiếp rộng rãi và khá sâu
vào nền kinh tế, nhưng sự can thiệp đó của Nhà nước càng về sau càng giảm dần.
Ngoài việc giải thoát về tư tưởng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh, phải không
ngừng chú trọng phát triển giáo dục – đào tạo. Tăng cường và chủ động mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại.
2.3 Mô hình kinh tế thị trường ở các quốc gia và vùng lãnh thổ NICS
Châu Á
Tuy có những nét riêng biệt, nhưng sự phát triển kinh tế thị trường các nước và
vùng lãnh thổ NICS Châu Á có những đặc điểm chung cơ bản giống nhau, đó là:
Thứ nhất, vài trò của doanh nhân dưới sự điều tiết của “bàn tay thị trường“
được đề cao trong phát triển kinh tế. Vì vậy Nhà nước tập trung vào việc thực thi hệ
thống chính sách nhất quán để tạo môi trường cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển,
coi khu vực kinh tế tư nhân là hạt nhân của kinh tế thị trường, là giường cột và động
lực của nền kinh tế.
Thứ hai, xác định và thực thi vài trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị
trường. Chính phủ các quốc gia và vùng lãnh thổ NICS Châu Á hạn chế sự tham gia
vào hoạt động kinh doanh. Vì vậy tỷ trọng của khu vực kinh tế Nhà nước luôn rất nhỏ
và sự tồn tại của khu vực kinh tế Nhà nước không bao giờ dẫn đến lấn át, chèn ép
kinh tế tư nhân, mà là để giúp đỡ kinh tế tư nhân. Do đó Nhà nước chỉ đầu tư vào
những ngành nhiều rủi ro hoặc tư nhân chưa đủ tiềm lực về tài chính hoặc kỹ thuật.
Vì vậy, Nhà nước với tư cách đại diện cho lợi ích quốc gia, luôn đi đầu trong những
lĩnh vực khó khăn phức tạp. Và sau khi đã vượt qua giai đoạn khởi đầu gian khó, khi
doanh nghiệp đã hoạt động tốt, dần dần Chính phủ chuyển giao lại cho tư nhân thông
qua chương trình tư nhân hóa.
Đồng thời Chính phủ các quốc gia và vùng lãnh thổ NICS Châu Á rất chú

trọng việc xây dựng Chính phủ mạnh và hiệu quả; đội ngũ công chức được đào tạo kỹ
càng, chuyên nghiệp hóa cao, để thực thi nhiệm vụ; đề xuất và thực thi tốt những
chính sách thông minh, sáng suốt. Do vậy, hoặc kích thích khả năng sáng tạo và chủ
động của các công ty tư nhân; hoặc bảo vệ quyền lợi chính đáng của tư nhân trong
các cuộc xung đột; hoặc điều hòa tốt lợi ích tư nhân với nhau; hoặc điều hòa được lợi
ích tư nhân với lợi ích Chính phủ, lợi ích cục bộ với lợi ích toàn cục. Chính phủ khi
nâng đỡ cũng như khi trừng phạt, tất cả đều thực hiện một cách nhất quán, minh bạch
trong khuôn khổ luật pháp quốc gia và công ước quốc tế.
Thứ ba, khuyến khích “hướng ngoại” mạnh mẽ. NICS Châu Á tuy có thực hiện
sản xuất thay thế nhập khẩu, nhưng chỉ trong thời gian ngắn, không đáng kể. Vì vậy
có thể nói rằng chiến lược “hướng ngoại“, hướng về xuất khẩu là chiến lược chủ yếu
trong đường hướng phát triển của NICS Châu Á.
Công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu được thực thi một cách nhất quán theo
phương thức: vốn, kỹ thuật, phương pháp quản lý hiện đại là của các công ty xuyên
quốc gia, còn lao động và nguyên liệu (một phần nào đó) là của nước sở tại và thị
trường tiêu thụ là các nước công nghiệp phát triển. Gắn liền song song với phương
thức phát triển như vậy là hệ thống giải pháp, chính sách để khuyến khích xuất khẩu
và thu hút đầu tư nước ngoài rất hữu hiệu. Thực tiễn NICS Châu Á chứng minh rằng,
mở cửa kinh tế; gắn sự phát triển kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, gắn sự phát
triển thị trường trong nước với thị trường thế giới là con đường phát triển có hiệu quả
nhất trong thời đại ngày nay.
Thứ tư, phát triển các hoạt động nghiên cứu – ứng dụng – triển khai tiến bộ
khoa học – công nghệ.
Chính phủ NICS Châu Á rất chú trọng đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và
triển khai khoa học – công nghệ (thường từ 1,5 – 2% GNP) để gia tăng nhanh chóng
năng lực khoa học – công nghệ quốc gia. Trong phát triển khoa học – công nghệ,
bước đi của NICS Châu Á là, lúc đầu chủ yếu thực hiện sao chép, bắt chước và khi đã
làm chủ được một số công nghệ phức tạp thì Chính phủ tăng đầu tư cho các phòng thí
nghiệm và nghiên cứu; đẩy nhanh việc phát triển các ngành công nghiệp có hàm
lượng khoa học, chất xám cao; nhờ đó tăng nhanh tỷ lệ giá trị gia tăng, tăng năng lực

cạnh tranh của sản phẩm và của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ năm, đẩy mạnh sự hình thành và phát triển các loại thị trường, đặc biệt là
thị trường tài chính – tiền tệ và thị trường sức lao động; gắn với củng cố, kiện toàn và
hiện đại hóa hệ thống tài chính, ngân hàng.
Tóm lại, các quốc gia, vùng lãnh thổ NICS Châu Á, một mặt vừa rất tôn trọng
những nguyên tắc, quy luật, thể chế thị trường; vừa xác định đúng giới hạn về sự can
thiệp vào kinh tế của Nhà nước và không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
Nhà nước.
2. 4 Mô hình kinh tế thị trường ở Trung quốc
Thời điểm đánh dấu sự thay đổi có tính lịch sử – chính thức chuyển từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc
Trung Quốc – là Hội nghị Trung ương 3 Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 12- 1978.
Quá trình cải cách, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
trường ở Trung Quốc được thực hiện với những bước đi thận trọng, từ thực hiện thí
điểm để rút kinh nghiệm, sau đó mới mở rộng trong từng ngành và toàn bộ nền kinh
tế qua các giai đoạn khác nhau.
Trước hết, về phương diện lý luận, quan điểm chính thống cho rằng, kinh tế thị
trường là thành quả của văn minh nhân loại, là thủ đọan kinh tế có hiệu quả cao, nó
không có vấn đề “họ xã“ hay “họ tư”; mọi quốc gia đều cần sử dụng nó. Song vẫn có
sự phân biệt về bản chất giữa “kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa“ và “kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa”. Sự phân biệt này chủ yếu thể hiện ở hai mặt: cơ sở của chế
độ sở hữu và chế độ phân phối. Với sở hữu, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa lấy sở
hữu tư nhân làm cơ sở, còn kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa lấy sở hữu công cộng
làm cơ sở. Tuy vậy, lấy sở hữu công cộng làm cơ sở không có nghĩa là sở hữu công
cộng thuần nhất, tuyệt đối, mà sở hữu công cộng ở những ngành, những lĩnh vực nào
nhằm giữ vài trò chủ đạo đối với các hình thức sở hữu khác như : cá thể, tư nhân, hỗn
hợp. Và cũng không có nghĩa là, kinh tế công hữu phải có tỷ trọng lớn, vì tỷ trọng
cho từng ngành kinh tế đến đâu cho thích hợp là trên góc độ có lợi cho sự phát triển
của sức sản xuất.
Về chế độ phân phối, khẳng định, kết quả cuối cùng của kinh tế thị trường xã

hội chủ nghĩa không nhằm tập trung tài sản vào trong tay một số ít cá nhân như kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa, mà nhằm đem lại sự sung túc chung cho mọi tầng lớp
dân cư. Chủ nghĩa xã hội lấy phân phối theo lao động là chính, nhưng cũng chấp
nhận các hình thức phân phối khác.
a. Thành tựu của mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung
Quốc
Trong những năm qua, Trung Quốc không ngừng đi sâu cải cách các mặt, tích
cực thúc đẩy việc sáng tạo về thể chế, cố gắng xoá bỏ những cản trở mang tính thể
chế làm ảnh hưởng đến sự phát triển của sức sản xuất, đã thu được thành quả to lớn
và bước đầu xây dựng nên thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, cục diện lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu
cùng phát triển đã cơ bản hình thành.
Lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển là
một chế độ kinh tế cơ bản của Trung Quốc trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội,
cũng là bộ phận cấu thành quan trọng của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế quốc hữu lớn mạnh, kinh tế quốc hữu khống chế mạch máu của nền
kinh tế quốc dân, có vài trò then chốt đối với việc phát huy tính ưu việt của chế độ xã
hội chủ nghĩa, tăng cường thực lực kinh tế, sức mạnh quốc phòng. Kinh tế phi công
hữu gồm các hình thức cá thể và tư doanh… là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa, có vài trò quan trọng đối với việc huy động đầy đủ tinh thần
tích cực của mọi mặt xã hội và tăng nhanh phát triển sức sản xuất.
Thứ hai, thị trường đóng vài trò cơ sở rõ rệt trong việc phân phối tài nguyên.
Đó là nội dung bản chất của cuộc cải cách thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa. Trong những năm qua, qua cải cách thể chế về các mặt kế hoạch, giá cả, lưu
thông…vài trò của cơ chế thị trường trong việc phân phối tài nguyên đã thay đổi về
căn bản. Trước đây, kế hoạch có tính pháp định không chỗ nào là không có, không
chỗ nào là không thực hiện, bao trùm trong các lĩnh vực kinh tế quốc dân. Hiện nay,
việc sản xuất sản phẩm cũng như việc hình thành giá cả hàng hoá và dịch vụ chủ yếu
là do thị trường quyết định. Kế hoạch mệnh lệnh đối với sản xuất nông sản đã hoàn
toàn xoá bỏ, kế hoạch mệnh lệnh đối với sản xuất hàng công nghiệp chỉ còn giới hạn

ở năm loại như gỗ, vàng, thuốc lá, muối và khí đốt thiên nhiên.
Thứ ba, bước đầu đã xây dựng nên hệ thống điều tiết vĩ mô chủ yếu áp dụng
biện pháp kinh tế và biện pháp pháp luật.
Vài trò điều tiết vĩ mô của nhà nước và cơ chế thị trường đều là yêu cầu bản
chất của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, hai mặt gắn bó với nhau, bổ trợ
cho nhau và thúc đẩy lẫn nhau. Mục tiêu chính của sự điều tiết vĩ mô là thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm, ổn định giá cả, gìn giữ cân bằng của thu chi quốc
tế. Thông qua cải cách, Trung Quốc bước đầu xác định rõ chủ thể của sự điều tiết vĩ
mô của nhà nước, biện pháp điều tiết vĩ mô đã thay đổi về thực chất, về cơ bản đã
thực hiện sự chuyển biến từ kế hoạch pháp lệnh sang chủ yếu vận dụng các biện pháp
kinh tế, pháp luật và hành chính cần thiết, thực hiện sự chuyển biến từ điều hành trực
tiếp sang điều hành gián tiếp, và vận dụng tổng hợp các chính sách thuế, lãi suất, giá
cả và đầu tư để điều hành sự vận động của nền kinh tế. Vào lúc xuất hiện kinh tế “quá
nóng” đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Trung Quốc thực hiện chính sách tài
chính tiền tệ chắt chặt vừa phải, làm cho nền kinh tế “hạ cánh mềm”, tránh xảy ra bấp
bênh lớn.
Thứ tư, chế độ phân phối lấy phân phối theo lao động làm chủ thể, nhiều hình
thức phân phối cùng tồn tại càng được hoàn thiện hơn.
Chế độ kinh tế cơ bản trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc
đã thực hiện chế độ phân phối lấy phân phối theo lao động làm chủ thể, nhiều hình
thức phân phối cùng tồn tại. Theo yêu cầu về “ưu tiên hiệu suất, tính đến công bằng”,
Trung Quốc đi sâu cải cách chế độ phân phối, xác định phân phối theo sự đóng góp
các yếu tố sản xuất như lao động, vốn, kỹ thuật và quản lý. Lấy cùng nhau làm giàu
làm mục tiêu, tăng cường chức năng điều tiết của chính quyền đối với việc phân phối
thu nhập, không ngừng nâng cao tỷ trọng của những người có thu nhập trung bình,
nâng cao mức thu nhập của những người có thu nhập thấp.
Thứ năm, bộ khung của hệ thống bảo đảm xã hội thích ứng với trình độ phát
triển kinh tế đã cơ bản được xây dựng.
Hệ thống đảm bảo xã hội hoàn thiện là trụ cột quan trọng của thể chế kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa. Hệ thống đảm bảo xã hội của Trung Quốc gồm bảo hiểm

xã hội, cứu tế xã hội, phóc lợi xã hội, ưu đãi, chăm sóc và ổn định cuộc sống cho
người có công, tương trợ xã hội, đảm bảo bằng tiền gửi tiết kiệm cá nhân…
Thứ sáu, cục diện mở cửa với bên ngoài đa phương hoá, nhiều tầng nấc, lĩnh
vực rộng không ngừng hoàn thiện.
Mở cửa với bên ngoài là một quốc sách cơ bản, lâu dài của Trung Quốc, cũng
là con đường tất yếu trong tiến trình đẩy nhanh hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa. Xây
dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần phải kiên trì mở cửa với bên
ngoài. Trong thời kỳ đầu mới cải cách, Trung Quốc xây dựng bốn đặc khu kinh tế,
mở cửa 14 thành phố cảng ven biển, mở cửa hàng loạt các cửa khẩu biên giới, mở
cửa thành phố nội địa và khu khai phát, cơ bản hình thành cục diện mở cửa đối ngoại
nhiều tầng líp, đa hình thức, toàn phương vị và nhiều lĩnh vực, cơ chế vận hành kinh
tế đối ngoại thích ứng với thông lệ quốc tế bước đầu được hình thành. Thể chế ngoại
thương không ngừng được cải cách.
b. Những trở ngại chính trong việc cải cách theo hướng thị trường hoá của
thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc
Trên thực tế, thể chế kinh tế thị trường của Trung Quốc hiện nay vẫn là một thể
chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, vẫn tồn tại nhiều nhân tố cản trở sự phát triển
sức sản xuất. Nói chung, chuyển đổi chức năng chính quyền còn tụt hậu so với tiến
trình chuyển đổi của thể chế kinh tế, tình trạng chức năng quản lý công cộng của
chính quyền lẫn lộn không rõ ràng với chức năng của người sở hữu tài sản Nhà nước
vẫn chưa có thay đổi căn bản. Thể chế kinh tế hiện hành vẫn tồn tại nhiều yếu kém,
cần từng bước giải quyết thông qua đi sâu cải cách, cụ thể là:
Trước hết, chức năng quản lý công cộng của chính quyền lẫn lộn không rõ ràng
với chức năng của người sở hữu tài sản Nhà nước, thể chế kinh tế thị trường quá ưu
tiên cho doanh nghiệp quốc hữu và chính quyền can thiệp quá mức đã làm đảo lộn cơ
chế phân phối tài nguyên bằng thị trường, làm giảm hiệu quả phân phối tài nguyên,
cản trở kinh tế tăng trưởng, làm tổn hại đến an ninh kinh tế Nhà nước.
Thứ hai, thể chế quản lý tài sản quốc hữu chưa được xây dựng, chính quyền
can thiệp quá mức, làm cho doanh nghiệp quốc hữu ở vào tình trạng “chính quyền và
doanh nghiệp không tách ra”, doanh nghiệp quốc hữu không thể thực sự trở thành

chủ thể của thị trường, thiếu sức cạnh tranh. Cải cách về thể chế quản lý tài sản quốc
hữu tụt hậu. Một mặt là vì nhiều bộ ngành đều có chức năng bổ vốn, quản lý người và
quản lý việc tách rời khỏi quản lý tài sản, vấn đề “không ai chịu trách nhiệm”, “nhiều
đầu mối can thiệp hành chính”, làm cho doanh nghiệp quốc hữu rất lúng túng. Mặt
khác, chính vì “ai cũng quản, mà cũng chẳng ai quản”, “người sở hữu thực sự vắng
mặt”, làm cho doanh nghiệp quốc hữu bị “người trong nội bộ khống chế”.
Thứ ba, chính quyền can thiệp quá mức và tính tuỳ tiện trong hành vi của chính
quyền đã làm cho các hiện tượng chức năng chính quyền “việt vị”, “sai vị” và
“khuyết vị” (vượt quá vị trí, đứng sai vị trí, thiếu vắng vị trí) vẫn nghiêm trọng, vẫn
tồn tại vấn đề “quyền lực lớn hơn pháp luật”, thiếu cơ chế ràng buộc mạnh đối với
“quyền lực”, quyết sách không nghiêm túc và can thiệp tuỳ tiện vẫn thường xuyên
xảy ra. Phân chia quyền hạn xử lý công việc và quyền hạn tài chính giữa Trung ương
và địa phương đến nay chưa thật rõ ràng, chính quyền Trung ương và địa phương đều
chưa rõ mình cần chịu trách nhiệm về việc gì. Phương thức xử phạt như “chế độ trách
nhiệm của người đứng đầu” hoặc “hỏng một việc thì háng hết” làm cho chính quyền
và quan chức các cấp phải quản lý rộng, quản lý sâu và quản lý mạnh. Nhiều chính
quyền địa phương còn phải gánh vác nhiều trách nhiệm không phải của mình.
Thứ tư, thể chế quản lý hành chính vẫn nặng về “quản lý theo ngành nghề và
địa bàn”, không những làm cho một số bộ ngành xuất hiện khuynh hướng “lợi ích tập
đoàn hoá” và chức năng công cộng yếu đi, mà còn làm cho chủ nghĩa bảo hộ địa
phương lan rộng. Bởi vì hành vi của chính quyền thiếu cơ chế ràng buộc và thiếu
công khai, nhiều bộ ngành rất dễ thông qua “gọi thuê” để thu hót “người nhận thuê”
dưới chiêu bài đàng hoàng, và qua đó kiếm lời cho bộ ngành và cá nhân. Xuất phát từ
lợi ích bản thân và nhu cầu về thành tích, chính quyền địa phương cũng rất ít suy nghĩ
về phân công và hợp tác với các vùng xung quanh, xây dựng trùng lặp, bày ra nhiều
dự án do chính quyền trực tiếp đầu tư hay xúi giục đầu tư đã trở thành “cạm bẫy thua
lỗ” hoặc “cạm bẫy nợ nần”.
Thứ năm, khoảng cách chênh lệch giữa miền Đông và miền Tây, giữa thành
phố và nông thôn giãn ra, chế độ bảo hiểm xã hội tụt hậu, mâu thuẫn về phân phối
ngày càng nổi cộm.

III. PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
Từ sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, Liên bang
Nga và nhiều nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây đã tiến hành chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường với các hình thức khác
nhau. Nhưng việc áp dụng máy móc, rập khuôn đã thất bại với hậu quả nghiêm trọng.
Trong khi đó, Trung Quốc có điểm xuất phát thấp hơn đã tiến hành chuyển đổi và cải
cách mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa có những thành công nhất định. Từ đó cho thấy, thực tiễn và lý luận về mô
hình kinh tế thị trường hết sức phong phú, đa dạng và phức tạp, không thể áp dụng
máy móc mô hình kinh tế thị trường của nước này cho nước khác được. Nó luôn là
bài toán đầy thách thức đối với bất cứ nước nào muốn phát triển nền kinh tế thị
trường. Do đó mỗi quốc gia, mỗi dân tộc cần thực sự cầu thị, khiêm tốn học hỏi kinh
nghiệm của các nước khác. Không nên rập khuôn, máy móc theo bất cứ một mô hình
ngoại lai nào. Phải phát huy hiệu quả nội lực kết hợp thu hút các nguồn ngoại lực,
chủ động nghiên cứu tìm tòi để sáng tạo, quyết định và thực hiện mô hình kinh tế thị
trường phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình.
Quán triệt tinh thần đó, công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế Việt Nam do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện bắt đầu từ năm 1986 chuyển từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung sang mô hình nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đến Đại hội lần thứ IX, Đảng ta khẳng định "phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là đường lối chiến lược nhất quán trong suốt thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam". Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) ra
Nghị quyết về “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”, coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp
đổi mới, phát triển đất nước.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng
quát trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Đây là giai đoạn lịch sử, các yếu tố xã hội chủ
nghĩa đang phát triển từng bước từ thấp lên cao. Trong trạng thái quá độ này có sự

tồn tại đan xen của rất nhiều yếu tố phức tạp. Trạng thái này làm cho chúng ta khó
nhận biết được đúng, sai và khó xác định được các thang bậc định hướng xã hội chủ
nghĩa.
3.1 Tính tất yếu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Sự ra đời của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
gắn liền với công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ và phức
tạp. Nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa việc nhận thức sâu sắc tính quy luật khách
quan với phát huy vài trò chủ động, sáng tạo của chủ thể là Đảng, Nhà nước xã hội
chủ nghĩa và nhân dân lao động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là sự lựa
chọn con đường và mô hình phát triển của Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa
kinh tế đáp ứng yêu cầu "đi tắt, đón đầu" đang đặt ra như một yếu tố sống còn. Sự
hình thành tư duy của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là cả một quá trình tìm tòi thử nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, từ chưa đầy đủ,
hoàn thiện tới ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện.
Nếu như trong văn kiện Đại hội VI và Hội nghị Trung ương 6 khoá VI, Đảng
ta mới đề ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành
phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi đây là vấn đề "có ý nghĩa chiến lược và mang tính
quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội", thì đến Đại hội VII, Đảng đã khẳng
định: "phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Tới Đại hội
Đảng IX, kinh tế thị trường lại được khẳng định một cách sâu sắc, đầy đủ hơn như là
mô hình kinh tế tổng quát hay mô hình mới của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xuất phát từ những
cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, bắt nguồn từ bối cảnh thời đại và điều kiện lịch sử
– cụ thể của đất nước.
Thứ nhất, mô hình chủ nghĩa xã hội cổ điển, đặc trưng bởi hệ thống kinh tế kế
hoạch hoá tập trung, sau gần 70 năm tồn tại với tất cả những ưu thế và nhược điểm,
rốt cuộc đã tỏ ra không còn sức sống và khả năng tự phát triển nội sinh về mặt kinh
tế, bị và vấp nặng nề trong thực tiễn. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản với mục tiêu tìm

kiếm lợi nhuận đã lợi dụng tối đa những mặt mạnh của kinh tế thị trường để tạo ra
động cơ về lợi ích và sự cạnh tranh mạnh mẽ, phát triển các lực lượng sản xuất cũng
như tiềm năng kinh doanh. Chủ nghĩa tư bản đã sử dụng vài trò nhà nước như một
chủ thể xã hội sáng tạo và hùng mạnh để can thiệp – quản lý các quá trình kinh tế vĩ
mô, nhằm hạn chế những khuyết tật của thị trường, đáp ứng yêu cầu phát triển, xã hội
hoá các lực lượng sản xuất.
Thứ hai, mặc dù chủ nghĩa tư bản đã có những thành công nhất định trong phát
triển kinh tế thị trường, nhưng cần nhận thức sâu sắc rằng, phát triển kinh tế thị
trường theo con đường tư bản chủ nghĩa không phải là duy nhất đúng mà trong nó
cũng ẩn chứa đầy rẫy những cạm bẫy, rủi ro. Thực tế phát triển ngày càng cho thấy rõ
mặt trái cũng như nguy cơ thất bại ngay chính trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường. Ngày nay, nhân loại đã nhận thức được rằng, mô hình phát triển kinh tế thị
trường theo kiểu phương Tây hay đi theo con đường phương Tây hoá không phải là
cách tối ưu. Những mô hình phát triển theo kiểu này đã tỏ ra mâu thuẫn sâu sắc với
các giá trị truyền thống, làm tăng tính bất ổn của xã hội và khoét sâu hố ngăn cách
giầu - nghèo. Hơn nữa, nó còn có nguy cơ ràng buộc các nước chậm phát triển hơn,
đẩy các nước đó vào tình trạng bị lệ thuộc và bóc lột theo kiểu quan hệ "trung tâm -
ngoại vi".
Thứ ba, trong thực tế không có một mô hình kinh tế thị trường chung cho mọi
quốc gia, mà trái lại, mỗi quốc gia - dân tộc tùy theo trình độ phát triển, đặc điểm cơ
cấu tổ chức và thể chế chính trị, kể cả các yếu tố văn hoá - xã hội truyền thống, mà
xây dựng những mô hình kinh tế thị trường đặc thù của riêng mình. Không thể phủ
nhận những hạn chế và mâu thuẫn cố hữu của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
ngay tại quê hương của nó và việc khắc phục những mâu thuẫn đó vẫn đang là vấn đề
cực kỳ nan giải. Một số nước Tây Âu và Bắc Âu với mong muốn tìm kiếm con đường
riêng của mình, nhằm khắc phục hạn chế của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã
chủ trương đi theo "con đường thứ ba" hay nhấn mạnh "Nhà nước phúc lợi": nhà
nước tư bản chủ nghĩa ở đây được gắn thêm chức năng "sáng tạo" khi tham gia giải
quyết các vấn đề xã hội và phân phối lại thu nhập mang tính định hướng xã hội, tạo ra
cái gọi là "nền kinh tế cho mọi người" hay "chủ nghĩa tư bản nhân dân". Nhưng trong

phạm vi của quan hệ tư bản chủ nghĩa thì những nỗ lực trên rõ ràng đã không mang
lại kết quả như mong muốn.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường hiện đại ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ
định và tiến hoá tất yếu để chuyển sang giai đoạn mới cao hơn - hậu thị trường, hậu
công nghiệp và kinh tế tri thức. Trong những điều kiện hiện đại, con đường phát triển
rút ngắn như C.Mác đã từng dự báo, trở thành một khả năng hiện thực xét cả về hai
phương diện: tính tất yếu kinh tế - xã hội và tính tất yếu công nghệ - kỹ thuật. Nếu
như nền văn minh công nghiệp ra đời trên cơ sở phủ định nền văn minh nông nghiệp
thì trái lại, nền văn minh hậu công nghiệp - kết quả của làn sóng cách mạng khoa học
– công nghệ lần thứ ba lại có thể hàm chứa và gần gũi với nền văn minh nông nghiệp.
Thực tế cho thấy, công nghệ cao có khả năng áp dụng trong hoàn cảnh nông nghiệp
và tương ứng, một nền nông nghiệp truyền thống có thể đi tắt sang hậu công nghiệp
mà không bắt buộc phải trải qua tất cả các giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá tư
bản chủ nghĩa nặng nề, tốn kém. Ví dụ, sản phẩm công nghệ cao vi điện tử và sinh
học, do tính nhiều vẻ lại có thể phù hợp với nhu cầu xã hội, với nguồn nguyên liệu
sẵn có và điều kiện sản xuất phân tán của những nước lạc hậu.
Thứ năm, xét về mặt lịch sử thì quan hệ hàng hoá - thị trường chỉ là hình thái
đặc biệt, là nấc thang trung gian cần thiết để chuyển xã hội từ trình độ xã hội nông
nghiệp, phi thị trường, lên trình độ xã hội hậu công nghiệp, hậu thị trường. Nếu xét
kỹ, ngay ở giai đoạn phát triển phồn thịnh, sung mãn của các quan hệ thị trường thì
sự xuất hiện của chúng cũng không có nghĩa là đồng nhất với chủ nghĩa tư bản.
Chính sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã ra đời trên cơ sở tách rời các yếu tố người
và vật của sản xuất, các yếu tố này vốn gắn bó hữu cơ trong sở hữu tư nhân của kinh
tế hàng hoá giản đơn.
Thứ sáu, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là một tất yếu nếu đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá; thế giới đang bước vào
giai đoạn quá độ sang trình độ xã hội hậu công nghiệp, hậu thị trường và kinh tế tri
thức; yêu cầu phát triển rút ngắn và hội nhập. Đây không phải là sự gán ghép khiên
cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là trên cơ sở nhận
thức sâu sắc tính quy luật tất yếu của thời đại, sự khái quát hoá, đúc rút từ kinh

nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, và đặc biệt, từ tổng kết thực tiễn mấy
chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và gần hai thập kỷ đổi mới của Việt Nam.
Kinh tế thị trường như là một chế độ kinh tế hay phương thức sản xuất có tính
lịch sử, là thành quả của văn minh nhân loại, nó có thể được sử dụng nhằm phục vụ
cho sự phát triển và thịnh vượng chung của mọi quốc gia, dân tộc mà không phải là
tài sản riêng của chủ nghĩa tư bản, chỉ phục vụ cho riêng chủ nghĩa tư bản. Thoát khỏi
giới hạn chỉ làm giàu cho tư bản, kinh tế thị trường sẽ có những mục tiêu và động lực
xã hội mới, phù hợp với những đặc tính xã hội hóa vốn có, để trở thành công cụ phát
triển kinh tế, phục vụ đắc lực cho việc tạo ra của cải và mang lại sự giàu có chung
cho toàn xã hội.
Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn vừa phù hợp với xu hướng phát triển khách
quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và những
yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua của chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Đây
cũng là sự trùng hợp giữa quy luật khách quan với mong muốn chủ quan, giữa tính tất
yếu thời đại với lôgic tiến hoá nội sinh của dân tộc, khi chúng ta chủ trương sử dụng
hình thái kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu phát triển, từng bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Nó cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để
thu hẹp khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập, phát triển.
3.2 Thực trạng xây dựng thể chế kinh tế thị trường ở nước ta
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhờ đó, đã huy động được các nguồn lực cho phát triển, bảo đảm tốc độ tăng
trưởng cao, tạo nhiều việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, thể chế kinh tế thị trường vẫn chưa đồng bộ, các yếu tố của kinh tế
thị trường chưa hình thành đầy đủ. Thị trường đất đai còn nhiều vướng mắc. Thị
trường tài chính phát triển không cân đối, thị trường trái phiếu còn sơ khai, thị trường
chứng khoán thiếu chiều sâu, chưa trở thành một kênh huy động vốn quan trọng của
nền kinh tế, đang dồn gánh nặng lên thị trường tín dụng, làm cho thị trường này rất dễ
bị tổn thương. Thị trường khoa học công nghệ chậm phát triển. Thị trường lao động

tuy đã khá hoàn chỉnh nhưng chất lượng nguồn nhân lực thấp cùng với sự bất hợp lý
về tiền lương giữa các khu vực đang là rào cản lớn cho việc chuyển dịch lao động đến
những lĩnh vực thiết yếu trong quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công. Giá cả
một số hàng hóa và dịch vụ chưa bù đắp được chi phí, chưa theo cơ chế thị trường,
làm cản trở việc thu hút nguồn lực và công nghệ cao cho phát triển.
Thể chế kinh tế thị trường là một chỉnh thể gồm nhiều loại thị trường vận động
đồng bộ trong chỉnh thể đó. Một loại thị trường không phát triển đầy đủ sẽ kìm giữ sự
vận động của các thị trường khác và làm cản trở sự vận động chung. Trong bối cảnh
đó, rất dễ dẫn đến sự can thiệp hành chính vào các quá trình kinh tế. Sự can thiệp này
có thể giải quyết những khó khăn trước mắt nhưng chi phí sẽ lớn hơn cơ hội tạo ra và
làm sai lệch quá trình phát triển. Rốt cuộc, những vấn đề cơ bản vẫn không được giải
quyết. Đây có thể là một nghịch lý trong sự vận động của tư duy mà những người làm
công tác quản lý phải nhận thức được để có cách hành xử đúng đắn và nhất quán.
Từ thực tiễn này, trong năm 2012, phải tập trung sức hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường theo quan điểm đã được Đại hội Đảng lần thứ XI đã xác định.
"Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây
dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế
hoá thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường
đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục
hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, là một trong ba đột phá chiến lược trong 10 năm tới.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị
trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội; trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh
mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế;
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu

"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Tuy vậy, nền kinh tế thị trường ở nước ta có những hạn chế nhất định. Các tín
hiệu của thị trường bị bóp méo. Các tín hiệu quan trọng nhất của mọi nền kinh tế thị
trường là giá cả, lãi suất và tỷ giá. Những tín hiệu nay chỉ có hiệu lực khi thị trường
quyết định chúng, giá cả phải do thị trường định, lai suất và tỷ giá cũng vậy. Chính
những tín hiệu nay điều tiết toan bộ hoạt động của thị trường, mọi doanh nghiệp căn
cứ vào những tín hiệu đó mà hành động. Nếu những tín hiệu nay bị bóp méo, hoặc tệ
liệt, thì các doanh nghiệp sẽ mất phương hướng hoạt động. Trong điều kiện đó, Chính
phủ phải làm thay thị trường, phải dùng các biện pháp hành chính để điều tiết thị
trường. Một nền kinh tế thị trường bị mất tín hiệu điều tiết, phải dò dẫm mò theo sự
điều tiết hanh chính của Chính phủ, đó là một nền kinh tế sẽ gặp nhiều rủi ro, tích tụ
nhiều bức xúc, và dễ rơi vào khủng khoảng do những sai lầm của Chính phủ. Thực tế
vận động của nền kinh tế thế giới hàng chục năm qua đã cho thấy điều đó.
Vậy những tín hiệu thị trường của nền kinh tế Việt Nam hiện ra sao? Thứ nhất,
giá cả các hàng hoá và dịch vụ tuy về nguyên tắc vẫn do thị trường quyết định nhưng
cho đến nay Nhà nước vẫn kim giữ giá hơn một chục mặt hàng, và những mặt hàng
này là những đầu vào cơ bản của nền kinh tế, do vậy, tất cả giá của các hàng hoá liên
quan đều bị kim giữ ở mức dưới giá thị trường. Tác động của việc kìm giữ này, tuy
có mặt tích cực là không cho giá cả hàng hoá dịch vụ tăng cao hơn, nhưng những tác
động tiêu cực thì lớn hơn nhiều:
Làm méo mó tín hiệu giá cả thị trường; Kìm giữ giá ở mức thấp, kích thích
tăng cầu, là yếu tố tăng giá, đồng thời gây thiệt hại cho những doanh nghiệp kinh
doanh các loại hàng nay. Nhà nuớc phải bao cấp cho các tổng công ty để họ không
tăng giá, đây là sự bao cấp rất không công bằng, người giàu sử dụng nhiều xăng dầu,
điện nước… hơn sẽ được bao cấp nhiều hơn, còn dân nghèo thì được hưởng ít hơn.
Khuyến khích đầu cơ giá tăng vì khi mọi người biết chắc giá xăng sẽ tăng, họ sẽ đầu
cơ tích trữ xăng. Tạo cơ hội cho tình trạng buôn lậu xăng qua biên giới vì giá xăng ở
Việt Nam thấp hơn Campuchia.
Tình trạng kim giữ giá này liệu kéo dài được bao lâu, điều nay tuỳ thuộc vào
sự chịu đựng của ngân sách nhà nước, và khả năng cầm cự của các doanh nghiệp.

Thực tế những năm 80 của thế kỷ XX cho thấy không thể đông giá kéo dài; rốt cục
Chính phủ không chịu đựng được, cũng phải tăng giá. Và việc tăng giá từng đợt giật
cục như vậy sẽ làm cho tình hình lạm phát thêm phức tạp.
Mặt khác, không ít giá cả do các tổ chức kinh tế độc quyền đa dạng chi phối
được định giá quá cao so với thị trường khu vực, do vậy đã góp phần làm méo mó tín
hiệu giá cả này. Tinh trạng độc quyền khá phổ biến trong nền kinh tế. Trong mọi nền
kinh tế thị trường, cạnh tranh và độc quyền luôn tồn tại, song những yếu tố này luôn
phát triển tự nhiên, các doanh nghiệp cạnh tranh nhau, tiến đến sáp nhập và hình
thành các tập đòan độc quyền. Chính V.I.Lenin đã xem độc quyền là thối nát, vì
những tập đoàn độc quyền này bóp chết cạnh tranh, bóp chết một động lực quan
trọng nhất của sự phát triển. Chính vì lẽ đó chính phủ của các nền kinh tế thị trường
phát triển đều có Luật Kiểm soát độc quyền, có cơ quan giám sát chặt chẽ những
hành vi độc quyền dưới mọi hình thức và trừng phạt nghiêm khắc những hành vi này.
Nền kinh tế thị trường Việt Nam mới hinh thành sơ khai, nhưng ngay từ đầu các tổng
công ty nhà nước, rồi các tập đoàn kinh tế nhà nước ra đời chiếm lĩnh những ngành
kinh tế quan trọng nhất với vị thế độc quyền do Nhà nước trao cho. Những tổng công
ty, các tập đoàn này không phải từ cạnh tranh mà đi lên. Có những tổng công ty
chiếm lĩnh trọn cả một lĩnh vực, hoặc liên kết độc quyền, hoặc cung thoả thuận độc
quyền trên các lĩnh vực định giá cả, chia nhau thị phần, kiểm soát công nghệ Với vị
thế độc quyền đó, với các ưu đãi của Nhà nước về đất đai, vốn, thị trường các tổ
chức độc quyền này dễ dang đạt được giá cả độc quyền, lợi nhuận độc quyền. Một số
hiệp hội như Hiệp hội Ngân hàng thương mại, cũng đa thoả thuận lại suất trần huy
động, một hành vi độc quyền mà không ai phê phán. Những giá cả độc quyền mà họ
thoả thuận, nhìn chung là theo xu hướng tăng cao, có thời kỳ cao hơn cả giá cả ở khu
vực và thế giới tới hàng chục phần trăm. Chỉ ở những ngành mở cửa mạnh, có sự
cạnh tranh mạnh của những hàng hoá nước ngoai mới không có những giá cả độc
quyền. Có thể kể ra một số giá cả độc quyền: giá than, điện, nước, vé máy bay, giá
xăng dầu, khí gas, vé đường sắt, phí dịch vụ cảng hang không, cảng biển, giá phân
bón, thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh
Tín hiệu cơ bản của thị trường hiện đang bị bóp méo và tệ liệt, do vậy thị

trường Việt Nam hiện dường như không có tín hiệu đủ ro, chỉ có những tín hiệu lờ
mờ và sai lạc, các doanh nghiệp buộc phải mò mẫm đi theo sự chỉ huy hành chính của
Nhà nước. Những mệnh lệnh “cấm đổi tiền đôla Mỹ cho cá nhân”, “cấm tăng giá”,
“phải niêm yết giá”, cấm đầu cơ”, “cấm nhập khẩu vàng”, “hạn chế tín dụng”.hàng
ngày được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng; cung với các đoàn thanh
tra giám sát, trừng phạt được phái đi khắp nơi. Từ ngay Đổi mới đến nay, chưa bao
giờ các lệnh cấm đoán nay lại nhiều đến như vậy. Phải nói rằng, các biện pháp hành
chính điều hành kinh tế có một số tác dụng, và tưởng như rất dễ ban hành, dễ điều
hành, và đặc biệt gây ảo tưởng về hiệu lực. Tuy nhiên, những mặt trái của nó lại rất
lớn. Giải pháp hành chính dẫu sao cũng là giải pháp chủ quan của người ban hành, lại
chịu áp lực quá nhiều của các nhóm lợi ích, nên thường dễ sai lầm, thiếu chính xác.
Khi ban hanh và thực thi các giải pháp hành chính quá dễ dàng thuận tiện,
thậm chí còn được lợi cá nhân cho các quan chức, nhưng quá bất tiện, bất lợi cho các
doanh nghiệp và nhân dân. Chính phủ không thể tính hết được những hậu quả của các
giải pháp, đặc biệt là không tính được các đối sách muôn hình vạn dạng của thị
trường và dân chúng. Nếu cấm nhập vàng, thi nhập lậu; nếu cấm tăng giá xăng dầu,
thi xuất lậu và đầu cơ và Thực tế, kinh tế thị trường cho thấy tốt nhất là để các tín
hiệu của thị trường tự động điều tiết nền kinh tế, Chính phủ chỉ nên uốn nắn những
méo mó, sai lạc của tín hiệu, tuyệt đối không thể tắt các tín hiệu của thị trường, thay
chúng điều tiết nền kinh tế.
Nếu không có sự khống chế của Chính phủ chắc chắc các giá cả độc quyền này
trong thời gian vừa qua đã tăng cao hơn nhiều. Việt Nam đã có Luật Kiểm soát độc
quyền, nhưng trên thực tế hầu như không có tác dụng, vi quá nhiều hành vi độc
quyền mà chưa thấy một hành vi nào bị xử phạt. Có thể do nội dung luật còn có vấn
đề, nhưng còn có thể do cơ quan giám sát, xử lý những vụ vi phạm này chưa hoạt
động. Nếu để tình trạng độc quyền tiếp tục lan rộng mà không bị trừng trị như hiện
nay, thì nền kinh tế Việt Nam sẽ tiến nhanh tới một nền kinh tế do các tổ chức độc
quyền kiểm soát. Đây la một nguy cơ rất lớn xét về cả kinh tế và chính trị.
Những tổ chức độc quyền này chiếm lĩnh các nguồn lực phát triển của quốc
gia, các lợi thế cạnh tranh và không cần hoạt động tích cực, không cần đổi mới quản

lý, đổi mới công nghệ vẫn có thể kiếm lợi nhuận độc quyền. Theo báo cáo của Bộ Tài
chính có tới trên 80% các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước làm ăn có lãi,
nhưng mức lãi thường thấp. Khu vực tư nhân làm ăn năng động và có hiệu quả nhất
cả về kinh tế và xã hội (tạo nhiều việc lam) lại chỉ được kinh doanh ở những ngành
không có lợi thế, được phân bổ ít nguồn lực, không những không được ưu đãi mà con
bị phân biệt đối xử. Các nhóm lợi ích ở các tổ chức kinh tế độc quyền nhà nước rất
phức tạp: có lợi ích nhà nước, lợi ích của các quan chức các cấp, lợi ích bộ máy quản
lý trực tiếp, lợi ích của công nhân viên…Những lợi ích này đan xen nhau và thường
theo hướng làm xói mòn lợi ích nhà nước, vun đắp lợi ích của các phe nhóm.
Những tổ chức độc quyền nay chỉ ủng hộ những chính sách của Nhà nước có
lợi cho họ, và cản trở những chính sách bất lợi cho họ, dù có lợi cho quốc gia. Một
điều rất đáng chú ý là có sự liên kết ngầm giữa các quan chức nhà nước có quyền
hoạch định chính sách quốc gia với các tổ chức độc quyền, và trong trường hợp này
các tổ chức độc quyền có thể tim mọi cách chi phối chính sách của Nhà nước, định
hướng chính sách theo lợi ích của họ, không phải lợi ích của quốc gia. Các tổ chức
độc quyền này càng phát triển, càng chi phối chính sách phát triển quốc gia, thì
những rủi ro và nguy cơ cho nền kinh tế đất nước sẽ ngày càng lớn.
Có ý kiến cho rằng, không thể có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường không thể dung hợp với nhau. Theo tôi,
ý kiến này không đúng. Không đúng thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất muốn kéo
Việt Nam vào quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận định hướng XHCN,,
không muốn Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là điều trái với quy luật khách
quan, không thể chấp nhận được; Thứ hai là ý kiến này không thoát ra được khỏi tư
duy cũ, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, cho kinh tế thị trường là
cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, từ đó di ứng với kinh tế thị trường không thấy hết
những yếu tố mới, xu hướng mới của kinh tế thị trường trong điều kiện mới của thời
đại hiện nay.
Cũng có ý kiến cho rằng một kinh tế thị trường không thể có kế hoạch, không
thể thực hiện được công bằng xã hội, không thể khắc phục được những tiêu cực, mặt
trái của cơ chế thị trường… họ cho rằng, việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng

XHCN thực chất là trở về với chủ nghĩa tư bản, có thêm định ngữ “định hướng
XHCN” thì cũng chỉ là để cho yên lòng, cho có vẻ “giữ vững lập trường” mà thôi,
trước sau gì thì cũng trượt sang con đường tư bản chủ nghĩa.
Chúng ta cho rằng băn khoăn này là dễ hiểu, bởi vì đây là những điều còn rất
mới mẻ, chưa có tiền tệ, nếu không xác định rõ nội dung định hướng XHCN và kiên
trì vài trò quản lý của nhà nước XHCN đối với nền kinh tế thị trường thì những điều
đó dễ xảy ra. Chúng ta còn phải vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm. Nhưng có
điều cần khẳng định là: trong điều kiện mới của thời đại ngày nay, nhất định không

×