Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tiểu luận dvls ngay 1 tháng 11 năm 2011 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.31 KB, 20 trang )


Mở đầu
Lịch sử loài người đã trải qua một thời gian dài không có nhà nước, mọi
công việc trong xã hội đều do những người, những tổ chức đứng đầu các thị tộc,
bộ lạc điều hành. Nhưng từ khi xuất hiện chế độ tư hữu và giai cấp đã làm nảy sinh
nhà nước, một bộ máy quyền lực của giai cấp thống trị ra đời. Từ đó đến nay, xã
hội loài người đã và đang có sự tồn tại của nhiều kiểu và hình thức nhà nước khác
nhau, như nhà nước chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ
nghĩa; với các hình thức: nhà nước quân chủ, cộng hòa, liên bang v.v. Mỗi kiểu và
hình thức nhà nước ấy có những đặc trưng riêng, có những ưu việt và hạn chế
riêng. Nhưng tiến bộ hơn cả chỉ có nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của giai
cấp vô sản.
Sau cách mạng tháng tám năm 1945, nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam
chính thức ra đời. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước ta đã ngày càng vững
mạnh về mọi mặt. Ngày nay, trước những đòi hỏi của tình hình mới, nhà nước ta
cần phải được nâng lên một tầm cao mới, phải được xây dựng theo hướng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng và xây dựng nhà nước, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã xuất phát từ truyền thống dân tộc và đặc điểm Việt Nam, vận
dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin về nhà nước cách mạng; đồng thời, tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại về nhà nước pháp quyền và kinh
nghiệm xây dựng nhà nước pháp quyền của một số nước trên thế giới, từng bước
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, mang đậm nét dân tộc và nhân đạo, phù hợp với
điều kiện cụ thể của nước ta.
Bên cạnh thành công đã đạt được, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trên thực tế
vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế và yếu kém. Báo cáo chính trị trình đại hội XI chỉ rõ:
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển
kinh tế và quản lý đất nước. Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức
thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên


chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ
rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu
cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Năng lực
dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu; phân cấp
mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm. Cải
cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử
trong một số trường hợp chưa chính xác; án tồn đọng, án bị huỷ, bị cải sửa còn
nhiều. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra.
Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi,
phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội. Chính vì vậy, tác giả
chọn đề tài: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân và trách nhiệm của quân đội nhân dân Việt Nam” làm đề tài tiểu luận.
Nhằm tiếp tục nghiên cứu, phát huy vai trò của nhà nước pháp quyền trong giai
đoạn hiện nay.
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp quyền và nhà
nước pháp quyền xã hội chử nghĩa ở Việt Nam
1.1. Quan niệm về nhà nước trong lịch sử.
Vào thời kỳ cổ đại và trung đại, các nhà tư tưởng cho rằng, nhà nước là do
Thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung. Hoăc nhà nước ra đời là kết quả của
sự phát triển của gia đình. Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của
thị tộc này đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng đã tạo ra một hệ
thống cơ quan đặc biệt gọi là Nhà nước.
Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, quan niệm của con người về nhà nước tiếp
tục phát triển. Để chống lại sự chuyên quyền độc đoán của nhà nước phong kiến,
đòi quyền bình đẳng cho giai cấp tư sản trong nắm giữ quyền lực nhà nước, các học
giả tư sản cho rằng, nhà nước ra đời là sản phẩm của một khế ước được ký kết. Vì
vậy, nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên của xã hội và mỗi thành viên đều
có quyền yêu cầu nhà nước bảo vệ lợi ích của họ. Thuyết “khế ước xã hội” dựa trên
cơ sở thuyết về quyền tự nhiên mà tiêu biểu là các nhà tư tưởng tư sản như:

Thomas Hobbes, John Locke; Môngteskiơ; Điđrô, Jean-Jacques Rousseau … Mặc
dù còn nhiều hạn chế, song lý thuyết “khế ước xã hội” đã trở thành cơ sở cho
thuyết dân chủ cách mạng và cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản lật đổ nhà nước
phong kiến và thành lập nhà nước tư sản.
Sau khi giai cấp tư sản xác lập quyền thống trị của mình,để bảo vệ lợi ích
giai cấp, các học giả tư sản tìm cách xuyên tạc bản chất của nhà nước. Họ cho
rằng, nhà nước là “hiện thực của quan niệm đạo đức”, là “hình ảnh và hiện thực
của lý tính”. Nhà nước xuất hiện như “người trọng tài công minh” đứng trên xã
hội để giải quyết mọi mâu thuẫn, mọi tranh chấp, để duy trì xã hội trong tình
trạng ổn định và phồn vinh. Nhà nước là người đại diện quyền lợi cho mọi giai
cấp, là cơ quan điều hoà mâu thuẫn giai cấp, làm dịu sự xung đột giữa các giai
cấp. Các nhà triết học tư sản hiện nay còn cho rằng, nhà nước tư bản chủ nghĩa
đã khắc phục được “những thiếu sót” của các nhà nước trước đây ngày càng
hoàn thiện, phục vụ cho nhu cầu và phúc lợi xã hội.
Tất cả những cách giải thích trên về nhà nước đều không có căn cứ khoa
học, nhằm mục đích biện hộ cho sự thống trị của các giai cấp bóc lột. Lần đầu
tiên trong lịch sử, với sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề nhà nước
mới được luận giải một cách hoàn toàn khoa học và đi vào thực tiễn cuộc sống.
1.2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất, hình
thức và các kiểu nhà nước.
Vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào nghiên cứu lĩnh
vực xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: Nhà nước là
một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ
cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý xã hội nhằm thể hiện và bảo vệ trước hết
lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản chất cách mạng và khoa học của lý
luận Mác – Lênin về nhà nước được thể hiện thông qua việc luận giải những nội
dung chủ yếu như nguồn gốc, bản chất của nhà nước; đặc trưng của nhà nước; chức
năng của nhà nước; kiểu và các hình thức của nhà nước; nhà nước vô sản.
Về nguồn gốc, bản chất của nhà nước, trong các tác phẩm mà tập trung
nhất là “Nguồn gốc của gia đinh, của chế độ tư hữu và của nhà nước”; “Nhà

nước và cách mạng”; “Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước” , các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin chứng minh rằng, không phải xã hội nào cũng có
nhà nước. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có nhà nước. Ứng với tình
trạng kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp. Con người sống
trong các cộng đồng thị tộc và bộ lạc. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là những
tộc trưởng do nhân dân bầu ra, quyền lực của người đứng đầu những cơ quan
quản lý xã hội dựa vào sức mạnh đạo đức và uy tín. Việc điều chỉnh các quan
hệ xã hội được thực hiện bằng những quy tắc chung. Như vậy, thể chế xã hội
trong thời kỳ cộng sản nguyên thủy là thể chế tự quản của nhân dân. Ph.
Ăngghen nhận xét: “Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc
đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh
sát, không có quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan tòa, không có
nhà tù, không có những vụ xử án, - thế mà mọi việc đều trôi chảy”(1).
Nhà nước không phải là bẩm sinh sẵn có, không phải được sinh ra bên
ngoài xã hội, áp đặt vào xã hội. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước là tất yếu
khách quan. Nguyên nhân sâu xa của sự ra đời của nhà nước đó là sự phát triển
của lực lượng sản xuất dẫn đến sự ra đời của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Nguyên nhân trực tiếp là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa
được. Lênin đã khẳng định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào
mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì
nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những
mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”(2). Khi nào xã hội còn tồn tại
chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp, khi đó nhà nước còn tồn tại. . Ph. Ăngghen
chỉ rõ: "Nhà nước chẳng qua chỉ là bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối
với một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hoà dân chủ cũng hoàn
toàn giống như trong chế độ quân chủ vậy”(3). Theo V. I. Lênin thì bộ máy
trấn áp đó không phải là cái gì khác hơn là một bộ máy bạo lực có hệ thống.
Bởi vì: “Nhà nước theo đúng nghĩa của nó, là một bộ máy trấn áp đặc biệt
của giai cấp này đối với một giai cấp khác, hơn nữa lại là của thiểu số đối

với đa số. Một thiểu số người bóc lột muốn tiến hành có kết quả việc trấn áp
thường xuyên một đa số người bị bóc lột thì đương nhiên phải hung ác, tàn
bạo đến cực độ trong sự trấn áp ”. Do điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi
nước mà quá trình hình thành nhà nước cũng có những nét đặc thù riêng.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, bản chất của nhà nước là
công cụ chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế dùng để thống trị xã hội.
Sự ra đời của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là nguyên nhân
dẫn đến sự phân chia xã hội thành các giai cấp. Do lợi ích căn bản đối lập
nhau nên đấu tranh giai cấp là không thể tránh khỏi. Để bảo vệ lợi ích của
giai cấp mình bắt các giai cấp khác và toàn xã hội phải phục tùng, giai cấp
thống trị về kinh tế đã tổ chức ra nhà nước, một công cụ để trấn áp giai cấp.
Để thống trị xã hội, giai cấp thống trị đã tổ chức ra nhà nước, công cụ bạo
lực để cưỡng bức giai cấp và phục vụ lợi ích giai cấp thống trị. Đồng thời với
vai trò phát triển xã hội, nhà nước có trách nhiệm đầu tư vào những nơi mà tư nhân
không thể hoặc không muốn đầu tư, lúc đó nhà nước ra đời.
Theo Ph. Ăngghen, bất kỳ nhà nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản là quản
lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Nhà nước có hệ thống cơ quan quyền
lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội. Nhà
nước đặt ra thuế khoá, thực hiện việc thu thuế dưới hình thức bắt buộc là chủ yếu
để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.
Về chức năng của nhà nước có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác
nhau: đối nội; đối ngoại; kinh tế; chính trị; tư tưởng…Từ góc độ tính chất của
quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng là công cụ thống trị chính trị của giai
cấp và thực hiện chức năng xã hội mà giai cấp thống trị. Trong hai chức năng đó
thì chức năng chính trị, giai cấp là chức năng chủ yếu quyết định. Về phạm vi tác
động của quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mô, nhà nước có chức năng đối nội và đối
ngoại. Chức năng đối nội nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và trật tự
khác theo lợi ích của giai cấp thống trị. Chức năng đối ngoại nhằm bảo vệ lãnh thổ
quốc gia và thực hiện mối quan hệ với các nước vì lợi ích của giai cấp thống trị.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà nước là hai mặt của một thể thống

nhất, trong đó tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối
ngoại.
Kiểu nhà nước là nói đến nhà nước đó của giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở
kinh tế xã hội nào, tương ứng hình thái kinh tế, xã hội nào. Lịch sử xã hội có giai
cấp đã trải qua ba hình thái kinh tế, xã hội. Tương ứng với ba hình thái kinh tế, xã
hội, là ba kiểu nhà nước: nhà nước nô lệ; nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản.
Trên thực tế không phải quốc gia nào cũng trải qua tuần tự cả ba hình thái kinh tế,
xã hội đó.
Hình thức nhà nước là nói đến cách thức tổ chức và phương thức thực hiện
quyền lực nhà nước, hay hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị. Trên thực tế
có nhiều hình thức như: nhà nước liên bang; nhà nước liên hiệp; nhà nước quân chủ
lập hiến; nhà nước cộng hoà; nhà nước pháp quyền; nhà nước vương quyền(5)…
Từ kinh nghiệm lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản,
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra, để xây dựng một xã hội
không có giai cấp, không có người bóc lột người, sau khi đập tan nhà nước của
giai cấp tư sản, giai cấp vô sản phải tổ chức ra nhà nước của mình. Mác viết:
“…giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa, là một thời kỳ
cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy, là
một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì
khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.
Thực tiễn phong trào cách mạng của giai cấp vô sản đặc biệt là công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã chứng minh tính đúng đắn kết luận trên của C. Mác.
Tổ chức ra nhà nước xã hội chủ nghĩa, là quy luật phổ biến của mọi quốc gia dân
tộc khi xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do đặc điểm, điều kiện của mỗi giai
cấp, dân tộc khác nhau, hình thức tổ chức nhà nước cũng hết sức phong phú và đa
dạng. Song về bản chất là một, là nhà nước do giai cấp vô sản tổ chức và lãnh đạo.
Nhà nước do giai cấp vô sản tổ chức là nhà nước kiểu mới, khác về bản chất so với
các nhà nước của các giai cấp bóc lột trước đây. Đó là nhà nước xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân, tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động,
dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp vô sản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có sự

thống nhất giữa hai chức năng, trấn áp và tổ chức xây dựng, trong đó chức năng tổ
chức xây dựng là chủ yếu. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa tính
dân tộc và tính quốc tế. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước “tự tiêu vong”.
1.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân hay quan niệm về nhà nước pháp quyền là một tư tưởng nhất quán, thể hiện
tầm nhìn vượt thời đại và có giá trị to lớn và lâu bền. Có thể nói Bác đã tiếp thu,
nghiên cứu tinh hoa trong xây dựng nhà nước từ cổ chí kim, từ phương Đông sang
phương tây tư tưởng, từ tư tưởng “Dân duy bang bản” (Dân là gốc nước), hay “Dân
vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là quý). Trong di sản lý luận của mình,
Hồ Chí Minh đã có lần sử dụng thuật ngữ "chế độ pháp trị". Đó là tư tưởng của nhà
chính trị Vệ Ưởng nhà Tần hay của Hàn Phi Tử. Nhờ sử dụng chính sách này mà
không phải là chế độ đức trị của Mạnh Tử và nhiều nhà tư tưởng khác mà nhà Tần
Trung Quốc trước đây đã xây dựng nên đế quốc đại Tần hùng mạnh, thống nhất
Trung quốc. Hồ Chí Minh cũng tiếp thu tinh hoa trong xây dựng nhà nước từ thời
cổ đại đến tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa
Mác Lênin. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Bác có thể nói cũng được xuất
phát từ tinh hoa của dân tộc ta. Đó là tư tưởng của Trần Quốc Tuấn “Khoan thư sức
dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước” Hay của danh nhân văn
hóa thế giới Nguyễn Trãi “Phúc chu thủy tín do dân thủy”.
Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã
đề cập đến vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919, tám yêu
sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc- xây đã có 4 điểm liên quan đến
vấn đề pháp quyền, còn lại liên quan đến công lý và quyền con người. Sau này, bản
Yêu sách của nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh chuyển thành "Việt Nam yêu
cầu ca", trong đó yêu cầu thứ bảy là: "Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm điều phải
có thần linh pháp quyền"(7). "Thần linh pháp quyền" là ý thức, tinh thần pháp luật
phải chi phối, chỉ đạo mọi hành vi, hoạt động của bộ máy, cơ quan nhà nước; môi
trường pháp lý phải bao trùm mọi mặt, mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đây là tư

tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, phản ánh nội dung cốt lõi của Nhà nước dân
chủ mới. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh đề ra một trong sáu
nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là chúng ta phải có
một hiến pháp dân chủ. Sau năm 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định
trong Hiến pháp năm 1946 không còn phù hợp, Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi
và ban hành hiến pháp mới, Hiến pháp năm 1959. Trong tư duy Hồ Chí Minh, một
khi điều kiện kinh tế, xã hội thay đổi thì pháp luật, hiến pháp cũng phải thay đổi để
bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội. Ngoài hai bản Hiến pháp,
từ năm 1945 đến 1969, Hồ Chí Minh còn chỉ đạo soạn thảo, ký quyết định công bố
16 đạo luật và 1.300 văn bản dưới luật. Khối lượng văn bản luật đó luôn thể hiện rõ
việc đề cao tính nhân đạo và nhân văn, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của nhà
nước mà nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải
nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước ta cũng sử dụng pháp luật để
quản lý xã hội. Song pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của
giai cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ,
vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Tuy nhiên, pháp
luật dân chủ ở Hồ Chí Minh cũng được xem xét trong các mối quan hệ hết sức đặc
trưng. Trong quan niệm về thực chất của dân chủ: "Không nên hiểu lầm dân chủ.
Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi. Nhưng khi đã quyết định rồi thì không được
bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là để bàn cách thi hành cho được, cho nhanh,
không phải để đề nghị không thực hiện. Phải cấm chỉ những hành động tự do quá
trớn ấy"(8).
Trong việc xác định rõ giới hạn của các quyền tự do cá nhân, Người nói:
Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình,
nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của
mình quá mức là phạm đến tự do của người khác, là phạm pháp. Không thể có tự
do cho bọn việt gian, bọn phản động, bọn phá hoại tự do của nhân dân. Trong việc

xử lý mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ công dân, pháp luật dân chủ vừa thể hiện
các quyền, lợi ích của công dân, nhưng cũng quy định rõ các nghĩa vụ mà người
dân phải thực hiện. Hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ là thuộc tính hai mặt của
một người dân làm chủ nhà nước.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ; mọi công
dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều bình đẳng trước pháp luật cả về
quyền lợi và nghĩa vụ; ai vi phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm khắc, cho dù
người đó ở vị trí nào trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước. Trong
thực thi luật pháp, việc thưởng phạt phải nghiêm minh. Muốn pháp luật nghiêm
minh, phát huy hiệu lực, cần có các điều kiện: Trước hết, pháp luật đó phải đúng và
phải đủ. Thứ hai, pháp luật phải đến được với dân phải chú trọng giáo dục, tuyên
truyền pháp luật. Thứ ba, cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp phải thật sự công tâm
và nghiêm minh. Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người
mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Sự thống nhất giữa đạo đức
và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở quan niệm xử lý các hành
vi phạm pháp, nguyên tắc "có lý","có tình" chi phối mọi hành vi ứng xử của con
người, tôn trọng cái lý, đề cao cái tình, tùy từng trường hợp, tình huống cụ thể mà
Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt này hay mặt khác.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu các giá trị tư tưởng hiện đại của
loài người, trước nhu cầu thực tiễn phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
chủ trương lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Quan điểm về nhà
nước pháp quyền của Đảng là một bộ phận hợp thành tổng thể lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Những luận điểm căn bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh về nhà nước vẫn giữ nguyên giá trị khoa học của
nó và là cơ sở lý luận, phương pháp luận quan trọng cho chúng ta trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn, nhằm tăng cường sức mạnh nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1.4. Nhận thức về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng ta
qua các thời kỳ Đại hội Đảng.
Nhận thức của Đảng về nhà nước pháp quyền là một quá trình. Trước những

năm 90 của thế kỷ XX, chúng ta chỉ dùng các khái niệm "Nhà nước chuyên chính
vô sản", "Nhà nước xã hội chủ nghĩa". Đến năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn
quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII, khái niệm "nhà nước pháp quyền" đã được
nêu lên. Hội nghị Trung ương 8 Khoá VII của Đảng (tháng 1 - 1995) tiếp tục đặt
vấn đề “xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật,
đồng thời, coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa”. Văn kiện Đại
hội VIII của Đảng (năm 1996) nhấn mạnh: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật,
đồng thời, coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương
3 Khoá VIII của Đảng (tháng 6 - 1997) về tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, có một nhận định quan trọng về
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới: Đảng đã
“từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”. Đại hội IX của Đảng
(năm 2001) đặt vấn đề tiếp tục “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khoá IX
của Đảng (tháng 1 - 2004) khẳng định: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ, tăng
cường kỷ cương, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Các quan điểm này đã
được thể hiện trong việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và cụ thể hóa trong Điều 2: Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ
sung phát triển năm 2011 chỉ rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và

quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước trên thế giới.”
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Nhà nước ta là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do
Đảng lãnh đạo. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên
tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp
và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tập trung
vào 3 nội dung lớn: Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Đổi
mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội.Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của
Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch,
vững mạnh, tổ chức tinh gọn, hợp lý. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong
sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Tích cực phòng ngừa và kiên
quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.”
Đó là một hệ thống đường lối, phương hướng của Đảng về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là một vấn đề rất mới và to lớn ở Việt
Nam, nên nghị quyết của Đảng phác thảo ra những hướng chung nhất về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đảng ta nhận thức rất rõ rằng,
nhà nước pháp quyền là một thành tựu vĩ đại nhân loại không chỉ riêng của chủ
nghĩa tư bản. Xét về bản chất, không chỉ có một loại nhà nước pháp quyền duy
nhất, mà dựa trên cơ sở kinh tế, xã hội, bản chất chế độ xã hội khác nhau, vẫn tồn
tại Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
1.5. Bản chất của nhà nước pháp quyền, sự khác nhau cơ bản giữa nhà
nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Các nhà khoa học tuy có những ý kiến khác nhau về vấn đề nhà nước pháp
quyền và tổ chức xây dựng nhà nước pháp quyền, song đều có quan niệm thống
nhất về bản chất, được thể hiện ở một số dấu hiệu đặc trưng sau:
Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do pháp luật
quy định. Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật. Các đảng
phái, tổ chức, tôn giáo… phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của pháp
luật. Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp. Nhà nước có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý
chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh
trong xã hội đặc biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân.
Phương tiện chủ yếu của nhà nước pháp quyền trong quản lý xã hội đó là pháp
luật. Nhưng nhà nước pháp quyền không đồng nghĩa với mọi nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật. Trong lịch sử, nhiều nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật như
các nhà nước độc tài, nhà nước chuyên chế, nhà nước pháp quyền tư sản. Những nhà
nước này không phải là nhà nước pháp quyền. Những nhà nước này vốn từ xã hội
mà ra song ngày càng vượt ra ngoài xã hội, đứng trên xã hội, dùng pháp luật để
thống trị xã hội và bản thân nó lại đứng ngoài pháp luật.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong khi
đó, pháp luật bao giờ cũng mang tính giai cấp và tính đặc thù của mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc. Do đó, sẽ không có mô hình chung, những tiêu chí chung về nhà nước
pháp quyền cho tất cả các nước khác nhau. Bản chất của mỗi nhà nước pháp quyền
phụ thuộc vào bản chất chế độ xã hội, hệ thống quan điểm, mục đích, nhiệm vụ,
điều kiện cụ thể của mỗi nước.
Trong lịch sử đã tồn tại hai loại hình nhà nước pháp quyền cơ bản. Đó là nhà
nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do có sự khác
nhau về bản chất xã hội, nên hai loại nhà nước này khác nhau về chất. Sự khác
nhau đó thể hiện ở chỗ. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp
quyền tư sản đều phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ
máy nhà nước do pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về
tổ chức, xây dựng và vận hành của nhà nước có sự khác nhau căn bản. Pháp luật

trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực và chỉ có nhân dân
trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình là chủ thể duy nhất có quyền tuyên
bố chấm dứt hoạt động của quốc hội, chính phủ hoặc tổ chức ra quốc hội và chính
phủ nhiệm kỳ mới. Trong khi đó, hiến pháp và pháp luật tư sản lại thừa nhận quyền
lực của cá nhân đứng đầu nhà nước có quyền giải tán quốc hội hoặc chính phủ.
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và công dân đều phải
thừa nhận tính tối cao của pháp luật. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí và
nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Trong nhà nước pháp quyền tư sản, nhà nước và
công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng pháp luật tư sản không phải
là pháp luật của toàn dân, không thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của toàn dân mà
chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ phận giai cấp tư sản.
Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết “tam quyền phân lập” là học thuyết
cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp, hành pháp
và tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba đó. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa không thừa nhận việc phân chia quyền lực mà coi quyền
lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân, trong đó có sự phân công, phối
hợp, để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho
quyền lực nhà nước thống nhất, với hiệu quả cao nhất.
CHƯƠNG 2. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1. Tính tất yếu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là phù
hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Lịch sử xã hội cho thấy, sự phát triển của
sản xuất vật chất là nhân tố xét đến cùng quyết định không chỉ sự vận động phát
triển của xã hội từ thấp đến cao, mà còn quyết định bộ mặt; cơ cấu tổ chức của xã
hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ
của sản xuất vật chất hết sức thấp kém, nên tổ chức xã hội lúc đó là chế độ làm
chung, ăn chung, các thành viên trong xã hội đều có quan hệ họ hàng với nhau

nên cần có một cơ quan quản lý và điều hành xã hội gọn nhẹ, bao gồm những tù
trưởng được toàn thể các thành viên trong xã hội tín nhiệm bầu ra.
Sự phát triển của sản xuất vật chất xuất hiện chế độ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Xã hội phân chia thành giai cấp và đấu tranh giai cấp, có sự phân hoá
sâu sắc về lợi ích giữa các tập đoàn người.v.v. lúc này đòi hỏi xã hội cần có một tổ
chức mới, có khả năng duy trì được sự tồn tại và phát triển. Tổ chức quản lý thị tộc
tất yếu phải nhường chỗ cho quản lý xã hội bằng nhà nước phong kiến.
Nhưng nhà nước phong kiến đã nhanh chóng vượt lên trên xã hội và trở
thành lực lượng đối lập với xã hội. Sự tăng cường tính chất độc tài, chuyên chế
nguyên nhân đẩy mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và các lực lượng đối lập ngày
càng trở nên găy gắt. Để giải quyết mâu thuẫn đó xã hội đòi hỏi phải thay thế nhà
nước độc tài, chuyên chế bằng nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp
luật. Thắng lợi của cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến tàn bạo, chuyên chế,
độc tài và vô pháp luật, và sự ra đời của của nhà nước pháp quyền tư sản đã chứng
minh cho khuynh hướng phát triển tất yếu đó.
Tuy nhiên, trên thực tế nhà nước pháp quyền tư sản đã không giải quyết
được triệt để vấn đề dân chủ và bảo vệ quyền con người. Vì quyền lợi của giai cấp
vô sản, của quần chúng nhân dân lao động tất yếu phải thay thế nhà nước pháp
quyền tư sản bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Điều này đã được chủ
nghĩa Mác - Lênin luận giải một cách khoa học.
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước
pháp quyền ra đời dựa vào kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao
động chống giai cấp tư sản. Ngay từ những năm đầu của thế kỷ thứ XIX, trong các tác
phẩm: “Sự khốn cùng của triết học”; “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”… C. Mác, Ph.
Ăngghen đã nêu ra những luận điểm về một nhà nước xã hội chủ nghĩa, nêu lên quy
luật đấu tranh giai cấp trong lịch sử và tất yếu của việc giai cấp vô sản phải giành lấy
chính quyền. Giai cấp vô sản không thể nào lật đổ được giai cấp tư sản, nếu trước hết
không giành lấy chính quyền, không thiết lập được sự thống trị về chính trị của mình.
Tuy nhiên, về hình thức phương pháp thì Mác và Ăngghen chưa nêu ra cụ thể vì kinh
nghiệm lịch sử lúc đó chưa cho phép.

Phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
trở thành chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản đã thành hiện thực, V. I. Lênin
đóng góp quan trọng vào học thuyết Mác về vấn đề nhà nước. Trong khi phê phán
các quan điểm sai lầm của bọn cơ hội, bọn “Mensevích”, cũng như bọn vô chính
phủ, V. I. Lênin đã tìm ra hình thức nhà nước phù hợp với nước Nga là Cộng hoà
Xôviết và khẳng định, giai cấp vô sản phải dùng bạo lực cách mạng để thủ tiêu bộ
máy bạo lực của giai cấp tư sản; xóa bỏ nhà nước tư sản, phải giành lấy dân chủ.
Sự phát triển của cách mạng nước ta tất nhiên cũng không ngoài quy luật chung đó.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay xuất phát từ
mục tiêu và thực tiễn của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Trong quá
trình đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-
Lênin con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Người chỉ rõ: Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng
vô sản. Theo Người, cuộc cách mạng ở nước ta sau khi hoàn thành mục tiêu giải
phóng dân tộc, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, phải tiếp tục tiến lên thực hiện
nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa, về bản
chất là cuộc cách mạng do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành, thực
hiện xóa bỏ chế độ xã hội có áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội mới
không có giai cấp áp bức và bóc lột, giải phóng xã hội và con người thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, bất bình đẳng. Thực tiễn cho thấy, một trong những tiền đề
quan trọng đưa cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công đó là quyền lực
nhà nước phải thuộc về nhân dân.
Hồ chí Minh chỉ ra sự cần thiết phải xây dựng bộ máy nhà nước của dân, đề
cao vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong tác phẩm
“Đường Kách mệnh”, Người chỉ rõ: Chúng ta đã hy sinh làm cách mạng, thì nên
làm cho đến nơi, nghĩa là làm xong cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số
nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thì dân
chúng mới được hạnh phúc. Trong yêu sách của nhân dân An Nam viết 1922, yêu
sách thứ bảy Người viết “Thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”.
Tuy nhiên, sau khi giành được chính quyền, đã có một thời gian dài vấn đề

xây dựng Nhà nước pháp quyền chưa được đặt ra. Điều đó do nhiều nguyên nhân:
Một là, do chịu ảnh hưởng của những quan điểm sai lầm về Nhà nước pháp quyền
của các nước xã hội chủ nghĩa anh em lúc bấy giờ, nên chúng ta chưa quan tâm,
chưa đi sâu nghiên cứu về nhà nước pháp quyền. Hai là, sau khi giành được chính
quyền, nước ta tiếp tục phải tiến hành cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm. Ba là, do
trong hàng ngũ chúng ta, nhận thức về nhà nước pháp quyền chưa thật đúng đắn,
thậm chí có người còn đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản, không
thấy được nhà nước pháp quyền là thành tựu của nhân loại về kỹ thuật tổ chức bộ
máy nhà nước. Ngược lại, có quan điểm muốn tiếp thu một cách máy móc, sao
chép dập khuôn nhà nước pháp quyền tư sản.
Thực tiễn cách mạng nước ta cho thấy, để sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi
hoàn toàn, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới đất nước, phát triển kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, thì tất yếu nhà nước phải là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Nước ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cũng tức là bỏ qua giai đoạn xây
dựng nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa, hay bỏ quan quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, tiếp thu những thành tựu của nhân loại đã tạo ra.
Trong những năm vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã có nhiều
chuyển biến theo hướng tích cực, đã thể hiện được sức mạnh của mình trong tổ
chức quản lý xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đạt được nhiều thành tựu
to lớn. Tuy nhiên, do xã hội ta đi vào chủ nghĩa xã hội ở trình độ thấp. Vấn đề xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện là một nhiệm vụ mới,
khó khăn và phức tạp, do đó càng phải quyết tâm cao hơn nữa
Xuất phát từ sự chống phá của các thế lực thù địch trên các vấn đề dân chủ,
nhân quyền. Hàng năm chúng thường xuyên tuyên truyền chống phá đảng và Nhà
nước ta và cho rằng ở Việt Nam không có quyền tự do dân chủ, đàn áp nhân dân,
đàn áp tôn giáo Tuy nhiên các quyền tự do dân chủ của công dân ở nước ta đều
tuân theo quy định của pháp luật, được pháp luật bảo hộ. Hiến pháp pháp luật của
nước ta đều phù hợp vơi Điều 19, Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và
Chính trị. Mặc dù sau hơn 10 năm bình thường hóa quan hệ Hoa Kỳ, nhưng các thế
lực “diều hâu”,các thế lực thù địch vẫn không ngừng chống phá nước ta. Để chống

lại chúng đặt ra cho chúng ta yêu cầu cần phải xây dựng tốt hơn nữa nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
2.2. Những nội dung cơ bản xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta
hiện nay
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Điều đó được hiến pháp nước ta ghi nhận:
Đảng Cộng sản Việt Nam là: lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân
của nhà nước, đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do đảng cộng sản lãnh đạo. Thực
hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ vững kỷ cương xã hội, chuyên chính
với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Đối với nhà nước ta tính chất giai cấp gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc và
tính nhân dân. Tư tưởng xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân là do Đảng
Cộng sản Việt Nam chủ trương bắt nguồn từ truyền thống đoàn kết dân tộc của các
thế hệ người Việt Nam Để thực hiện nội dung này cần quán triệt tốt một số nguyên
tắc căn bản đó là: Nhà nước ta là nhà nước do dân lập nên, do dân bầu ra, dân kiểm
tra và giám sát. Sức mạnh của Nhà nước ta bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, của
khối đại đoàn kết toàn dân. Mọi biểu hiện xa rời những nguyên tắc đó cần được phê phán
một cách triệt để. Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của
Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc
chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân…”.
Hai là, thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Đây vừa là nội dung có tính chất chỉ đạo quá trình xây dựng bộ máy nhà
nước ta, vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó. Hoạt động của nhà nước ta
không theo nguyên tắc phân quyền như trong chính thể nhà nước cộng hoà tư sản khác,
mà thực hiện nguyên tắc quyền lực thống nhất, quyền lực đó thuộc về nhân dân. Các cơ

quan lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng quyền hạn riêng, song giữa chúng
có quan hệ phụ thuộc, chi phối lẫn nhau đảm bảo nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà
nước và phân công.
Ba là, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của nhà nước. Đây là nguyên tắc nền tảng trong tổ chức, hoạt động của hệ thống
chính trị nói chung và của bội máy nhà nước ta nói riêng. Một trong số những
nội dung căn bản nhất của nguyên tắc tập trung dân chủ là thiểu số phục tùng đa
số, cấp dưới phục tùng cấp trên. Tập trung dân chủ phải được quán triệt trong
toàn bộ quá trình tổ chức và xây dựng bộ máy quyền lực của Nhà nước.
Bốn là, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, quản lý xã hội bằng pháp luật,
coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là
đảm bảo cho nhà nước ta giữ vững bản chất giai cấp, quyền lực nhà nước thống
nhất và tập trung ở nơi nhân dân và nguyên tắc tập trung dân chủ mới trở thành
hiện thực. Với bản Hiến pháp được thông qua, hệ thống pháp luật ở nước ta trên
thực tế đã trải qua bốn giai đoạn phát triển và cải cách. Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ
thể, vai trò của pháp luật được thể hiện ở những mức độ khác nhau nhưng ở mọi
thời kỳ, pháp luật luôn là một trong những công cụ quan trọng để nhà nước quản lý
xã hội, củng cố kỷ cương và tăng cường dân chủ. Tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa được tiến hành đồng bộ trên cả ba mặt: Xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật và
bảo vệ pháp luật. Nhà nước phải coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức, kết hợp biện
pháp hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao dân trí.
2.3 Phương hướng, giải pháp đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động
của bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam.
Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy Nhà nước là một
nhiệm vụ trọng tâm để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân. Để làm tốt phải kết hợp thực hiện đồng bộ các nội dung phương
hướng, giải pháp sau đây.
Một là, Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Phải nâng cao nhận thức về các đặc trưng, nội dung cơ bản của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến các nhà lãnh đạo, các tầng lớp nhân

dân. Báo cáo chính trị trình Đại hội XI của Đảng chỉ ra: “Tiếp tục đẩy mạnh việc
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước
ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực
hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ
giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị
trường. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương. Nhà nước chăm lo, phục vụ
nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân. Nghiên cứu xây
dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế
của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành
có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc
gia, dân tộc”.
Đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, coi trọng tuyên
truyền, hướng dẫn, giải thích, hỗ trợ tư vấn pháp luật, nhất là ở vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa; giáo dục pháp luật phải gắn liền với giáo dục đạo đức cách
mạng. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện hơn nữa cho người dân thể hiện
quyền dân chủ và trách nhiệm của mình thông qua các hoạt động tự quản ở địa
phương và cơ sở. Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước được Hiến pháp quy định,
song Nhà nước không thể làm hết mọi công việc trong xã hội. Hiện nay, hoạt động
tự quản của người dân đang được phát huy và đã có đóng góp đáng kể vào quản lý
xã hội. Đây là kết quả quan trọng trong việc dân chủ hóa các hoạt động kinh tế - xã
hội, sự đổi mới rất cơ bản về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trong sự
nghiệp đổi mới đất nước. Thực tế đã chứng minh: ở đâu thực hiện tốt Quy chế Dân
chủ ở cơ sở, dân được tự quản các hoạt động thì ở đó mọi sáng kiến của dân, nguồn
lực của dân được phát huy, được quản lý chặt chẽ, khối đoàn kết thống nhất trong
dân được củng cố, tăng cường, góp phần xứng đáng vào xây dựng vững chắc hệ

thống chính trị ở cơ sở; đặc biệt mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước và nhân dân
được gắn bó và phát huy với hiệu quả cao.
Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội. Bởi vì, đây
là một trong những nội dung cơ bản của việc kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt
động của bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và là cơ quan Nhà nước duy nhất
do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ
phiếu kín. Quốc hội bao gồm các đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân và
cho các vùng lãnh thổ, là hình ảnh thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc và đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, là nơi thực hiện và thể hiện chế độ dân chủ
đại diện vừa là nơi thể hiện và thực hiện dân chủ trực tiếp. Quốc hội vừa có tư cách
nhân dân, vừa có tư cách Nhà nước. Do đó, tổ chức và hoạt động của Quốc hội có
vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị và trong bộ
máy Nhà nước. Thực tế chỉ ra rằng, muốn xây dựng và củng cố nền tảng chính trị
pháp lý vững chắc cho hệ thống quyền lực chính trị, quyền lực Nhà nước phải
chăm lo xây dựng, củng cố và phát huy vai trò của Quốc hội trong việc thực hiện
các chức năng lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Ba là, đẩy mạnh cải cách hành chính theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Nền hành chính nhà nước gồm có: Hệ thống thể chế hành
chính; Hệ thống cơ quan hành chính; Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Hệ
thống quản lý tài chính công. Nền hành chính nhà nước có vị trí, vai trò hết sức
quan trọng. Điều này được thể hiện cụ thể ở chỗ: Nó là bộ phận lớn nhất trong hệ
thống từ Trung ương đến cơ sở. Là hệ thống trực tiếp thực hiện các đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, trong quá trình thực hiện, cơ
quan hành chính nhà nước còn góp phần cụ thể hoá hoặc điều chỉnh, sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện các đường lối, chủ trương chính sách, để bảo đảm thực hiện một
cách hiệu quả nhất nền hành chính nhà nước.
Trong thời gian qua, nền hành chính nhà nước ta đã đạt được những kết quả
cụ thể, góp phần vào sự ổn định, phát triển đất nước, bảo đảm sự thành công của
công cuộc đổi mới, tuy nhiên, cũng còn bộc lộ nhiều khuyết điểm như: Còn mang

nặng tính chất cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, chưa đáp ứng với
những yêu cầu của cơ chế quản lý mới, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy hành chính nước ta đến nay vẫn chưa được
xác định rõ với tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với các thành phần kinh tế khác nhau. Hệ thống thể chế hành chính chưa đồng bộ,
còn chồng chéo, thiếu thống nhất, thủ tục hành chính còn rườm ra, phức tạp, gây ra
những ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả quản lý của Nhà nước. Đội ngũ cán bộ
trong bộ máy nhà nước các cấp còn nhiều yếu kém, bất cập. Nhiều nơi để xảy ra
những vấn đề nổi cộm, phức tạp kéo dài, xử lý lúng túng, bị động…Những hạn chế,
khuyết điểm nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả của nhiệm vụ xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tạo kẽ hở cho các thế lực thù địch chống
phá cách mạng, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận thành quả của công
cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo.
Bốn là, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. nâng cao
năng lực lãnh đạo và phong cách lãnh đạo, kiên quyết khắc phục bệnh quan liêu,
thành tích, cơ hội, thực dụng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một trong
những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
được quy định rõ trong Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Đảng lãnh đạo Nhà nước, không bao biện, làm thay công việc của Nhà nước
nhưng Đảng phải nắm chắc công việc của Nhà nước để không bị động, lúng túng
trong lãnh đạo Nhà nước. Đảng phải luôn khắc phục nguy cơ tiềm ẩn của một đảng
cầm quyền, như: xa dân, chủ quan, duy ý chí và quan liêu trong xây dựng chủ
trương, đường lối; dễ áp đặt ý muốn chủ quan đối với các cơ quan nhà nước hoặc
tự đặt Đảng lên trên Nhà nước và pháp luật. Thực hiện tốt mối quan hệ trong cơ
chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ” trong điều kiện phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, Coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm
cho luật pháp thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng và quyền lực của dân, thực sự bảo
vệ được các quyền của công dân. Nhà nước quản lý, điều hành bằng pháp luật. Do
đó, luật pháp chiếm vị trí tối thượng trong hoạt động của Nhà nước và trong đời

sống xã hội. Một trong những biểu hiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
là pháp luật của Nhà nước được thể chế hóa và bảo vệ quyền của công dân và
quyền của con người. Điều này thể hiện tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc của hệ
thống luật pháp thuộc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Sáu là, Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất; đồng
thời, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và những tiêu cực khác đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, mang đậm nét dân tộc và nhân đạo. Đội ngũ cán bộ có vai
trò quyết định sự thành bại của cách mạng và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị.
2.4. Quân đội Nhân dân Việt Nam với việc bảo vệ và xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Lý luận về quân đội với việc bảo vệ và xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa
là một trong những nội dung quan trọng trong học thuyết Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về quân đội. Làm rõ vấn đề lý luận này không chỉ góp phần vào việc
nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa quân đội với nhà
nước xã hội chủ nghĩa, khẳng định vai trò, chức năng nhiệm vụ của quân đội kiểu
mới, mà còn góp phần nhận thức rõ hơn vai trò, chức năng, nhiệm vụ của quân đội
ta trong việc góp phần bảo vệ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân trong điều kiện hiện nay.
Mối quan hệ giữa quân đội với nhà nước đã được hình thành, tồn tại gắn chặt
với sự ra đời, tồn tại và phát triển của quân đội trong mối quan hệ gắn bó với nhà
nước. Mối quan hệ giữa quân đội với nhà nước hoàn toàn khác về chất trong nội
dung biểu hiện với mối quan hệ giữa các kiểu quân đội và các kiểu nhà nước trong
lịch sử. Sự khác nhau đó được cắt nghĩa bởi sự khác nhau về bản chất giữa quân
đội của nhà nước xã hội chủ nghĩa với quân đội của các nước nô lệ, phong kiến, tư
bản chủ nghĩa. Bản chất của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa là công cụ bạo lực
vũ trang của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện những mục tiêu phù hợp
với sự phát triển tiến bộ của xã hội, đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội.

Mối quan hệ giữa quân đội xã hội chủ nghĩa với nhà nước xã hội chủ nghĩa
còn được thể hiện ở chỗ: quân đội xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa
đều được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đội tiền phong của giai cấp
công nhân. Giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản, thông
qua nhà nước xã hội chủ nghĩa không chỉ trực tiếp quyết định sự ra đời, tồn tại và
phát triển của quân đội xã hội chủ nghĩa, mà còn quyết định mục tiêu, lý tưởng
chiến đấu; hệ tư tưởng; nguyên tắc tổ chức, xây dựng quân đội.
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân
Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản
Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quân
đội nhân dân Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân
dân mà chiến đấu. Quân đội nhân dân Việt Nam cũng mang đầy đủ những đặc điểm
của quân đội kiểu mới - quân đội xã hội chủ nghĩa.
Trong mối quan hệ với Nhà nước, Quân đội nhân dân Việt Nam không chỉ là
công cụ bạo lực vũ trang sắc bén để bảo vệ Nhà nước, mà còn là lực lượng chính trị
quan trọng góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân ngày càng vững mạnh. Quá trình bảo vệ và tham gia xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân của Quân đội nhân dân
Việt Nam được thể hiện rõ nét thông qua việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
chủ yếu của quân đội.
Là đội quân chiến đấu, Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực vũ
trang sắc bén trong việc góp phần bảo vệ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược trước đây; bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hiện nay. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, Quân đội nhân dân Việt Nam
không chỉ là đội quân chiến đấu trên mặt trận vũ trang, sẵn sàng đập tan mọi âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch bằng biện pháp vũ trang để bảo
vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân mà còn là đội
quân chiến đấu trên mặt trận phi vũ trang chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn

biến hoà bình" của các thế lực thù địch.
Là đội quân công tác, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng chính trị
quan trọng góp phần tuyên truyền, giáo dục những chủ trương, chính sách của Nhà
nước, góp phần quan trọng vào việc thực hiện phương châm "vừa kháng chiến, vừa
kiến quốc" của Nhà nước ta trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trước đây, cũng như trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đặc biệt, trong giai
đoạn hiện nay, Quân đội nhân dân Việt Nam thực sự là lực lượng quan trọng trong
việc góp phần bảo vệ và xây dựng chính quyền các cấp, nhất là trong việc góp phần
bảo vệ và xây dựng chính quyền cơ sở ở vùng sâu, vùng cao, vùng xa, vùng căn cứ
cách mạng trước đây.
Là đội quân sản xuất, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng quan trọng
góp phần xây dựng Nhà nước vững mạnh. Điều đó được thể hiện qua việc Quân đội
nhân dân Việt Nam góp phần tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của Nhà nước ta. Sự vững
mạnh của kinh tế, văn hoá, xã hội là điều kiện quan trọng để củng cố chính quyền
Nhà nước. Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng quan trọng góp phần thực
hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước trong việc xây dựng, củng cố, phát triển
cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, nhất là ở vùng sâu, vùng cao, vùng xa, tham gia xoá
đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân, tạo ra những cơ sở xã hội cho việc xây dựng và củng cố chính quyền
nhà nước.
Tóm lại, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam và một
nội dung to lớn, mới mẻ, ngày càng được bổ sung hoàn thiện. Việc hoàn thiện nhà
nước pháp quyền là yêu cầu hết sức cấp thiết. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, sự nỗ lực phấn đấu của các ngành, các cấp với sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc và quyết tâm thực hiện của toàn bộ hệ thống chính trị, nhất định chúng ta sẽ
xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, mang đậm nét dân tộc và nhân đạo thực sự với
bao nhiêu "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" như Chủ tịch Hồ Chí Minh

hằng mong ước./.
1. V.I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1979, t. 39, tr. 47.
2.4. V.I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1976, t. 33, tr. 9; tr. 110 -111.
3.

C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 22, tr. 290 –
291.
5. Từ điển luật học
6. C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 19, tr. 47.
7. Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 1, tr 438
8. Hồ Chí Minh: Sđd, t 6, tr 108
9. Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 1, tr. 436.
10. Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 4, tr. 56.
11. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 bổ sung
phát triển năm 2011
12. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc VII, VIII, IX, X.
13. Nguyễn Duy Quý. GS.VS.Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới
sự lãnh đạo của đảng trong điều kiện nước ta hiện nay
14. Trần Ngọc Liêu. Quan điểm của V.I. Lê-nin về nhà nước và vấn đề xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ViệtNam.
15. Ngọ Văn Nhân. Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.Một số điểm mới
về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua văn kiện đại hội
XI của Đảng.
16. Tô Huy Rứa. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
17. Nguyễn Thị Doan. Nguyên Phó chủ tịch nước. Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mang
đậm nét dân tộc và nhân đạo.
18. Nguyễn Xuân Thông. Một số vấn đề đổi mới tổ chức và phương thức

hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện nay.
19. Thang Văn Phúc. Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với nhà
nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
20. Lê Minh Vụ. Thiếu tướng, PGS, TS. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng
Động sản Việt Nam trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
21. Trần Đình Quảng. Giữ vững và không ngừng nâng cao bản chất cách
mạng và khoa học của nhà nước pháp quyền Việt Nam
22. Hoàng Chí Bảo. GS, TS, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Đảng cộng sản cầm quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội trong sự nghiệp đổi mới -
một số vấn đề đặt ra.
23. Lê Văn Quang. Đại tá, PGS, TS. Nhận thức và vận dụng sự tác động
biện chứng giữa các chức năng của nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
24. Trương Tấn Sang. Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới
25. Giáo trình triết học Mác - Lênin lý luận và vận dụng. Nhà xuất bản
CTQG, H, 2006.
Trang
Mở đầu
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỬ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1 Quan niệm về nhà nước trong lịch sử.
1.2 Quan điểm của triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, bản
chất, hình thức và các kiểu nhà nước.
1.3 Quan điểm Hồ Chí Minh về nhà nước và nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
1.4 Nhận thức về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Đảng ta qua các thời kỳ Đại hội Đảng.

1.5 Bản chất của nhà nước pháp quyền, sự khác nhau cơ bản
giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa
Chương 2 XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Tính tất yếu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.2 Những nội dung cơ bản xây dựng nhà nước pháp quyền
ở nước ta hiện nay
2.3 Giải pháp đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của
bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam
2.4 Quân đội ta với việc bảo vệ và xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Danh mục tài liệu tham khảo.
Mục lục

×