i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
HOÀNG THỊ KIM THU
TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA
CỦA NGƯỜI LÔ LÔ Ở HUYỆN ĐỒNG VĂN
TỈNH HÀ GIANG (GIAI ĐOẠN 1986-2010)
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60.22.03.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : PGS.TS. Hà Thị Thu Thủy
Thái Nguyên, tháng 5 – 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội
dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố
trong bất cứ một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2014
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Kim Thu
Xác nhận
của trƣởng khoa chuyên môn
Xác nhận
của Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS. Hà Thị Thu Thủy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
ii
LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn
PGS.TS. Hà Thị Thu Thủy, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Lịch sử, phòng Sau đại
học, trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Tôi xin trân thành cảm ơn Phòng Lưu trữ Tỉnh uỷ Hà Giang, Chi cục
Lưu trữ tỉnh Hà Giang, Bảo tàng tỉnh Hà Giang đã cung cấp tài liệu giúp tôi
hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới
Ban Giám hiệu Trường THPT Hùng An huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang, bạn
bè cùng gia đình và những người thân đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo
mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt khoá học này.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2014
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Kim Thu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn i
Lời cam đoan ii
Mục lục iii
Danh mục chữ viết tắt iv
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Đóng góp của luận văn 4
7. Cấu trúc của luận văn 4
Chƣơng 1 KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN ĐỒNG VĂN TỈNH HÀ GIANG 5
1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên 5
1.2. Đồng Văn qua các thời kì lịch sử 6
1.3. Về tộc người Lô Lô ở Hà Giang 7
1.3.1. Nguồn gốc tộc người và dân cư 7
1.3.2. Hoạt động kinh tế 11
Chƣơng 2 TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA NGƢỜI LÔ LÔ Ở ĐỒNG VĂN - HÀ
GIANG GIAI ĐOẠN 1986 - 2010 16
2.1. Làng bản 16
2.1.1. Tên làng, nguyên tắc tập hợp và địa vực cư trú 16
2.1.2. Thiết chế tự quản 19
2.1.3. Luật tục và qui ước 20
2.2. Dòng họ 25
2.3. Gia đình 27
2.3.1. Cấu trúc và quan hệ gia đình 27
2.3.2. Hôn nhân 30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
iv
Chƣơng 3 VĂN HÓA CỦA NGƢỜI LÔ LÔ Ở ĐỒNG VĂN - HÀ GIANG
GIAI ĐOẠN 1986 – 2010 32
3.1. Văn hóa vật chất 32
3.1.1. Nhà cửa 32
3.1.2. Trang phục 34
3.1.3. Ăn, uống, hút 40
3.1.4. Phương tiện vận chuyển và đồ dùng sinh hoạt 47
3.2. Văn hóa tinh thần 49
3.2.1. Quan niệm về thế giới thần linh 49
3.2.2 Tôn giáo, tín ngưỡng 51
3.2.3. Lễ tết 55
3.2.4. Tập quán trong chu kỳ vòng đời 56
3.2.5. Văn hóa – nghệ thuật dân gian 61
KẾT LUẬN 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
73
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết là
Đọc là
HĐND
Hội đồng nhân dân
NXB
Nhà xuất bản
Tr
Trang
TS
Tiến sĩ
UBHCKC
Uỷ ban hành chính kháng chiến
UBND
Uỷ ban nhân dân
Xb
Xuất bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Huyện Đồng Văn là địa bàn xung yếu, phên dậu của cửa ngõ Việt
Nam ở phía Bắc và cũng là một trong những nơi người Lô Lô từ bên kia
biên giới di dân sang Việt Nam sinh sống sớm nhất. Đến nay, người Lô Lô
cư trú đông nhất ở Đồng Văn nói riêng và tỉnh Hà Giang nói chung. Trong
quá trình tồn tại và phát triển của mình dân tộc Lô Lô cùng các dân tộc
thiểu số anh em khác cũng có những đóng góp trong lịch sử xây dựng và
phát triển tỉnh Hà Giang.
Tuy cư trú trên vùng đất ít thuận lợi, nhiều khó khăn nhưng tộc người Lô
Lô ở Đồng Văn (Hà Giang) trong lịch sử lại có một tổ chức xã hội và một kho
tàng văn hoá vật thể và phi vật thể vô cùng phong phú độc đáo và giàu bản sắc.
Vì lẽ đó mà đồng bào Lô Lô đã trở thành đối tượng của nhiều nhà nghiên cứu
về dân tộc học, lịch sử, khoa học xã hội nhân văn. Tìm hiểu về tổ chức xã hội
và văn hóa của người Lô Lô ở Đồng Văn thời kì Đổi mới là cần thiết để thấy
rằng lịch sử phát triển của họ luôn gắn liền với lịch sử dân tộc và có vai trò vị
trí quan trọng như là một bộ phận hữu cơ trong cơ thể Việt Nam, góp phần bảo
tồn những giá trị văn hoá truyền thống thực hiện mục tiêu “phát huy mạnh mẽ
tính đa dạng bản sắc độc đáo của các dân tộc anh em làm phong phú thêm nền
văn hoá chung của cả nước” như Nghị quyết Trung ương V khoá VIII của
Đảng đã đề ra, đồng thời vận dụng làm cơ sở cho việc thực hiện đường lối
chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng.
Với những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn: “Tổ chức xã hội và
văn hóa của người Lô Lô ở huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang (giai đoạn 1986-
2010)” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, mong muốn góp một phần nhỏ bé
vào công tác nghiên cứu khoa học về cư dân miền núi mà lâu nay chưa được
quan tâm nghiên cứu một cách thấu đáo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi đã được thừa hưởng kết quả
nghiên cứu của những người đi trước đề cập đến vấn đề nghiên cứu một cách
trực tiếp hay gián tiếp ở những khía cạnh khác nhau:
- “Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc)” của Uỷ ban
khoa học xã hội Việt Nam, Viện dân tộc học, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà
Nội năm 1978. Đây là công trình biên soạn về nguồn gốc lịch sử, đặc điểm
kinh tế, quan hệ giai cấp xã hội… của các dân tộc ít người ở phía Bắc Việt
Nam trong đó có dân tộc Lô Lô.
- Cuốn “Hà Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển (1891-
2001)” của Tỉnh uỷ – Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang,
nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội năm 2001. Đây là một cuốn thông sử
được biên soạn, trình bày toàn diện và có hệ thống về các lĩnh vực trọng yếu: tự
nhiên, kinh tế, xã hội, chính trị, lịch sử, văn hoá, dân tộc… của tỉnh Hà Giang
từ khi thành lập đến nay.
- “Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn (1944 – 1975)” tập I Ban chấp hành
Đảng bộ huyện Đồng Văn xuất bản năm 2004 cũng là một công trình nghiên
cứu khoa học công phu, tái hiện lại lịch sử truyền thống hào hùng của nhân dân
các dân tộc Đồng Văn trong đó có đồng bào Lô Lô trong cuộc đấu tranh chống
thổ ty phong kiến, đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục kinh tế, văn hoá xã hội,
phát triển sản xuất, xây dựng đời sống mới.
- Công trình ''Các dân tộc ở Hà Giang'' do Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang
xuất bản tại Nxb Thế giới, năm 2008, đã phác thảo những nét khái quát về đời
sống vật chất, như tinh thần của người Lô Lô ở địa phương Hà Gianng trong
tính đa dạng của nhiều dân tộc khác.
- Về tộc người Lô Lô ở Hà Giang, đã có một số ít công trình, bài viết
nghiên cứu về đời sống văn hóa của người Lô Lô ở Hà Giang, có thể kể đến
công trình của tác giả Nguyễn Minh Ngọc (2008), Nghệ thuật múa của người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
3
Lô Lô ở Hà Giang; của Thông tấn xã Việt Nam TTXVN, Hà Giang: Trống
đồng Lô Lô nét văn hóa độc đáo đang dần bị mai một và công trình Nhà ở của
dân tộc Lô Lô ở Hà Giang của tác giả Vũ Văn Giáp. Đây là các công trình
nghiên cứu có tính chất tản mạn về một khía cạnh nhất định trong văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần của đồng bào Lô Lô ở Hà Giang, chính nó là những
gợi mở quý báu, tạo điều kiện để tôi thực hiện nghiên cứu đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu: Thực hiện đề tài này chúng tôi nhằm tìm hiểu về
lịch sử địa phương mình đồng thời góp phần phản ánh một cách khoa học, chân
thực về lịch sử hình thành, tổ chức xã hội, chính trị, văn hoá của dân tộc Lô Lô
và bổ sung thêm nguồn tư liệu lịch sử địa phương cho quá trình giảng dạy và
nghiên cứu.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài đi sâu giải quyết các vấn đề về tổ chức xã
hội, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Lô Lô ở Đồng Văn Hà
Giang thời kì 1986-2010.
- Đối tượng nghiên cứu: Nguồn gốc dân tộc, tổ chức xã hội, quan hệ
giai cấp, quan hệ xã hội, văn hóa của người Lô Lô ở Đồng Văn (Hà Giang) giai
đoạn 1986-2010.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu trong thời kì Đổi mới toàn
diện đất nước từ 1986 -2010 với không gian nghiên cứu là huyện Đồng Văn,
tỉnh Hà Giang.
4. Nguồn tƣ liệu
- Nguồn tư liệu chung: Kiến văn tiểu lục; Các dân tộc ít người ở Việt
Nam (các tỉnh phía Bắc); Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
- Nguồn tư liệu địa phương: Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn, Hà
Giang 110 năm đấu tranh xây dựng và phát triển (1891 – 2001); Văn hoá
truyền thống các dân tộc Hà Giang; Ngoài ra còn một số tư liệu bổ sung: Các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
4
chính sách nghị quyết của Đảng về dân tộc miền núi, báo cáo phát triển kinh tế
xã hội huyện Đồng Văn. Nguồn tư liệu chủ yếu là điền dã dân tộc học.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng phương pháp chủ yếu:
- Phương pháp phân tích nguồn tài liệu thư tịch.
- Phương pháp điền dã dân tộc học.
- Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu các nguồn tư liệu.
- Phương pháp hệ thống hoá bằng bảng biểu, sơ đồ.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách cụ thể và hệ thống
về tổ chức xã hội và văn hóa của người Lô Lô ở huyện Đồng Văn tỉnh Hà
Giang thời kì Đổi mới.
Luận văn là một tài liệu tham khảo cho quá trình học tập bộ môn lịch sử
địa phương, cơ sở văn hoá cũng như giảng dạy lịch sử địa phương ở trường phổ
thông sau này. Đồng thời làm cơ sở cho các nhà khoa học hoạch định chính
sách dân tộc, góp phần thực hiện mục tiêu bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá
truyền thống của dân tộc Lô Lô nói riêng và các dân tộc thiểu số ở Hà Giang
nói chung.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được chia làm 3
chương sau:
Chƣơng 1: Khái quát về huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang.
Chƣơng 2: Tổ chức xã hội của ngƣời Lô Lô ở Đồng Văn (Hà Giang)
giai đoạn 1986-2010.
Chƣơng 3: Văn hóa của ngƣời Lô Lô ở Đồng Văn (Hà Giang) giai
đoạn 1986-2010.
Luận văn còn có các phần: Bản đồ hành chính và phụ lục .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
5
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN ĐỒNG VĂN TỈNH HÀ GIANG
1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên
Đồng Văn là một huyện miền núi cao của tỉnh Hà Giang, điểm cực Bắc
của Tổ quốc Việt Nam. Huyện Đồng Văn có vị trí địa lý trong toạ độ từ 23
0
-
06
’
- 06
”
đến 23
o
-21’- 17
”
vĩ bắc, từ 105
0
07
’
-35
”
đến 105
0
24
’
- 4
”
kinh đông. Phía
bắc và phía tây giáp nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa với chiều dài đường
biên giới quốc gia 52,5 km, phía đông giáp với huyện Mèo Vạc, phía nam giáp
với huyện Yên Minh.
Huyện Đồng Văn có diện tích tự nhiên là 44.666 ha trong đó 11.837 ha
là đất sản xuất nông nghiệp, diện tích núi đá chiếm 73,49% địa hình phức tạp, có
nhiều núi cao, vực sâu chia cắt làm cho việc đi lại, giao lưu giữa các vùng gặp nhiều
khó khăn. Do địa hình núi cao, chia cắt nên tính chất khí hậu khắc nghiệt. Nhiệt độ
trung bình hàng năm từ 17
0
-19
0
C, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1600mm-
2000mm, chế độ thuỷ văn mỗi năm chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5
đến tháng 10. Vào mùa này, mưa lớn gây ra xói lở mạnh, giao thông gặp nhiều khó
khăn. Mùa khô từ tháng 11đến tháng 4 năm sau, thường có sương muối, sương mù,
nhiệt độ có lúc xuống tới 4-5
0
c như ở Phó Bảng, Lán Xì… thời tiết khí hậu khắc
nghiệt vào mùa đông (tháng 11, 12) ít mưa nên nguồn nước sinh hoạt và sản xuất
rất khan hiếm gây rất nhiều khó khăn cho cuộc sống của con người.
Đồng Văn có con sông lớn nhất là sông Nho Quế, bắt nguồn từ các dãy
núi phía tây bắc của huyện chảy qua Ma Lé, Đồng Văn sang Mèo Vạc và Bắc
Mê rồi đổ vào sông Gâm. Sông Nho Quế là nguồn thuỷ sinh quan trọng trong
sự phát triển thuỷ điện và tưới tiêu cũng như nước sinh hoạt hằng ngày và điều
hoà khí hậu, mùa đông dòng sông đầy ắp sương mù. Ngoài ra, còn có các con
suối nhỏ khác như Lũng Táo, suối Đồng Văn, suối Phó Bảng nhưng đến mùa
mưa mới có nước. Quá trình tạo sơn tự nhiên lâu đời trên địa hình núi đá vôi đã
để lại cho Đồng Văn những thắng cảnh đẹp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
6
Khí hậu mang tính chất ôn đới là điều kiện tự nhiên rất thích hợp cho
việc trồng các loại cây ăn quả như lê, mận, đào, táo… và các cây dược liệu quý
như thảo quả, đỗ trọng, ý dĩ… Rừng Đồng Văn vốn là một thảm thực vật đa
dạng, phong phú, thích hợp cho sự phát triển nhiều loại cây gỗ quý. Tuy nhiên,
do khai thác bừa bãi nên đã rơi vào tình trạng cạn kiệt.
Cây trồng trong nông nghiệp chủ yếu là ngô, một số vùng trồng lúa và
các loại cây họ đậu như đậu Hà Lan, kê, lúa mì, tam giác mạch… do diện tích
đất sản xuất nông nghiệp ít và kinh nghiệm sản xuất được tích luỹ, đồng bào đã
biết trồng xen canh, gối vụ để tăng sản lượng và thu nhập, đa dạng các loại cây
trên đơn vị diện tích nhất định. Chăn nuôi của Đồng Văn phát triển. Người dân
nuôi các gia súc như bò, dê, ngựa, để lấy thịt, dùng sức kéo và vận chuyển…
ngoài ra các gia đình còn chăn thả các loại gia cầm như lợn, gà, vịt và nuôi ong
mật là một ngành kinh tế phụ của gia đình. Thủ công nghiệp Đồng Văn nhìn
chung chưa phát triển, có các nghề truyền thống thường thấy như dệt thổ cẩm,
dệt vải lanh, rèn đúc, nung ngói, máng…Tài nguyên khoáng sản đến nay chưa
phát hiện ra loại nào có trữ lượng lớn và giá trị cao.
Như vậy, khi nói đến điều kiện tự nhiên Đồng Văn, người ta hình dung
ra một vùng biên cương núi non hiểm trở, địa hình phức tạp khí hậu khắc
nghiệt…những điều kiện sẵn có đó đã chi phối đặc điểm đời sống kinh tế, xã
hội của người dân trên vùng cao nguyên đá này.
1.2. Đồng Văn qua các thời kì lịch sử
Huyện Đồng Văn trước đây là tổng Đông Quang thuộc Châu Bình Nguyên,
phủ Tương Yên, tỉnh Tuyên Quang sau đó thuộc về Châu Bảo Lạc do một thổ
quan người Tày họ Nông ở Bảo Lạc cai quản như một lãnh địa. Khi thực dân Pháp
xâm lược, chúng tách khu vực vùng cao của tỉnh Tuyên Quang, thành lập tỉnh Hà
Giang vào năm 1891, Đồng Văn được tách ra khỏi Bảo Lạc [1, tr.9].
Châu Đồng Văn bao gồm hai tổng: Tổng Quang Mậu và Tổng Đông
Minh. Trong đó, tổng Quang Mậu bao gồm các xã: Lũng Cô, Mìa Ré, Mai Li
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
7
Ăng, Đồng Văn, Sủng Máng, Sơn Vi, Chung Phùng, Sả Phung, Niêm Sơn.
Tổng Đông Minh bao gồm các xã: Yên Minh, Mậu Duệ, Bạch Đích, Na Khê,
Ngam La, Sà Phìn, Mèo Vạc, Lũng Chín, Lũng Tỉnh, Phú Cao, Sủng Là, Vần
Chải, Đường Thượng, Lũng Phìn [17, tr.274-290].
Theo Ngô Vi Liễn công bố trong địa dư các tỉnh Bắc Kỳ. Xuất bản năm
1928 thì Đồng Văn là một trong hai đại lý của tỉnh Hà Giang gồm các tổng
xã: Tổng Quang Mậu và tổng Đông Minh gồm 19 xã: Đồng Văn, Bạch Đích,
Sà Phìn, Lũng Phìn, Đường Thượng, Lũng Chinh, Mậu Duệ, Mèo Vạc, Niêm
Sơn, Na Khê, Ngam La, Phú Lũng, Sủng Máng, Sơn Vĩ, Phố Cáo, Sủng Là,
Sủng Thài, Vần Chải, Yên Minh.
Cuối năm 1975, hai tỉnh Hà Giang - Tuyên Quang được sáp nhập thành
tỉnh Hà Tuyên và tới tháng 10 năm 1991 lại được tách thành Tuyên Quang và Hà
Giang. Đồng Văn là một trong 7 huyện vùng cao của tỉnh Hà Giang. Theo nghị
quyết của Hội đồng chính phủ, quyết định số 211/CP tách Đồng Văn ngày
15/12/1962 đã tách Đồng Văn làm 3 huyện: Đồng Văn, Yên Minh, Mèo Vạc.
Huyện Đồng Văn ngày nay bao gồm 2 thị trấn và 18 xã: Thị trấn Phó Bảng,
thị trấn Đồng Văn và các xã: Tả Lủng, Thắng Mố, Sảng Tủng, Sính Lủng, Lũng
Táo, Phố Là, Sủng Máng, Phú Lũng, Lũng Cú, Sà Phìn, Sủng Thài, Ma Lé, Sủng
Là, Lũng Thầu, Thài Phìn Tủng, Phố Cáo, Vần Chải, Tù Phìn.
Có thể nói, theo bước đi của lịch sử, Đồng Văn cũng là một mảnh đất có
nhiều thay đổi về tên gọi và diên cách. Những thay đổi này có ảnh hưởng đến
nhiếu vấn đề sự có mặt của các tộc người, về chính trị, về kinh tế, xã hội và văn
hóa của địa bàn xung yếu nơi địa đầu của Tổ quốc.
1.3. Về tộc ngƣời Lô Lô ở Hà Giang
1.3.1. Nguồn gốc tộc ngƣời và dân cƣ
Dân tộc Lô Lô có 3,350 người cư trú chủ yếu ở hai tỉnh Hà Giang và Cao
Bằng. Ở Hà Giang đồng bào sinh sống tập trung ở các xã Lũng Cú, Lũng Táo,
Sủng Là của huyện Đồng Văn và các xã Mèo Vạc, Thượng Phùng, Xín Cái của
huyện Mèo Vạc [52,tr.81]. Ở Cao Bằng, đồng bào sống ở huyện Bảo Lạc. Bảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
8
Lạc, Mèo Vạc và Đồng Văn là 3 huyện nằm trên cùng một dải đất vùng cao
biên giới cực Bắc của Tổ quốc. Nơi có vị trí rất quan trọng về mặt chính trị, an
ninh và quốc phòng của quốc gia.
Lô Lô là tộc danh chính thức ngày nay của đồng bào. Trong các sử sách
cổ của Việt Nam và Trung Quốc, họ còn có các tên gọi khác là: Ô Man, Lu Lọc
Màn, La La, Qua La, Di Nhân, Di Gia, Quả La, Lạc Tô v.v… và sau ngày
Trung Quốc giải phóng (năm 1949), gộp họ trong cộng đồng Di tộc. Trong
cuốn “Các dân tộc ít người ở Việt Nam” (Các tỉnh phía Bắc), Dẫn theo Y Quần
trong “Ngã quốc thiểu số dân tộc giản giới” Nxb. Dân tộc – Bắc Kinh năm
1958 do Trương Văn Cẩu dịch, người Lô Lô tự gọi mình là Màn Dì, Màn Chì
hay Mùn Dì (tùy theo cách phát âm của mỗi vùng), “Màn” hay “Mùn” có nghĩa
là người, còn “ Chì” hay “Dì” v.v… có nghĩa là Di, tức người Di. Người Lô Lô
cũng dùng từ “Màn” hay “Mùn” có nghĩa là người để chỉ Màn Chư là người
H’Mông, Màn Quấy là người Tày, Màn Chi là người Dao [51, tr.735].
Người Lô Lô ở Việt Nam có hai ngành Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa, ở Hà
Giang có cả hai nhóm địa phương đó. Nhóm Lô Lô Đen (Màn Dì No) (No tức
là đen), tập trung ở xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn. Nhóm Lô Lô Hoa (Màn Dì
Qua) (Qua tức là hoa) sống ở huyện Mèo Vạc và các xã Lũng Táo, Sủng Là,
huyện Đồng Văn. Hai nhóm Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa khác nhau về trạng
phục, còn ngôn ngữ và phong tục tập quán không có gì khác biệt nhiều.
Về mặt lịch sử: Người Lô Lô có mặt từ bao giờ trên lãnh thổ Việt Nam
và học có phải là cư dân của Vương quốc Nam Chiếu cổ đại không? Câu hỏi
lớn này dường như đã được nhắc đến nhiều, nhưng vẫn chưa được giải quyết
thật triệt để. Trong công trình này khó có điều kiện làm sáng tỏ toàn bộ. Theo
tác giả Y Quần (Trung Quốc) thì “Lúc đầu người Di cư trú ở Vân Nam, vùng
Tây Nam Tứ Xuyên và một phần đất tỉnh Quý Châu. Giữa thế kỉ thứ VIII, dân
tộc Di và các dân tộc khác ở Vân Nam, trên cơ sở Lục Chiếu lập ra Nam Chiếu.
Đến năm 937, Nam Chiếu bị nhóm người Bạch, một trong những bộ phận tổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
9
thành của Nam Chiếu, chiếm đoạt” [Y Quần: Ngã quốc thiểu số dân tộc giản
giới. Nxb. “Dân tộc”. Bắc Kinh, 1958. Bản dịch của Trương Văn Cẩu – Tư liệu
Viện Dân tộc học]. Như vậy, theo tài liệu này, người Di (Lô Lô) là một trong
những tộc người sáng lập ra Vương quốc Nam Chiếu ở thế kỷ thứ VIII. Còn
nhà nghiên cứu lịch sử Võ Văn Nhung thì khẳng định: “ Trong lúc các nhà
nghiên cứu phương Tây còn lúng túng về nguồn gốc của người Nam Chiếu, thì
các nhà dân tộc học Trung Quốc đã dứt khoát cho rằng người Lô Lô là một bộ
lạc trong dân tộc Ô Man mà “ Tân Đường thư” gọi là Lu Lu (âm Hán Việt Lự
Lộc) và “ Nguyên sử loại biên” gọi là Lô Lô (âm Hán Việt Lỏa La) hiện nay
còn nhiều ở Tứ Xuyên và Vân Nam … Người Trung Quốc gọi họ là người Di
hoặc Di Gia”. Ông kết luận: “ Chủ nhân ông đầu tiên của nước này (Nam
Chiếu) là người Lô Lô thuộc dòng Ô Man, nhưng từ năm 937, người Bạch mà
đại diên là Đoàn Tử Bình thay chân họ cho đến khi nhà Nguyên, nhà Minh biến
nước Nam Chiếu thành lộ, phủ”
[ Võ Văn Nhung: Người Thái phải chăng là
người sáng lập ra nước Nam Chiếu. Nghiên cứu Lịch sử, số 46, tháng 1, 1963].
Như vậy, chủ nhân của Vương quốc Nam Chiếu được xem như đã sáng rõ – Lô
Lô là một bộ phận cơ bản dựng nên Vương quốc Nam Chiếu cổ xưa. Song
người Lô Lô có mặt ở Việt Nam từ bao giờ thì quả là vấn đề còn cần phải được
nghiên cứu kỹ hơn.
Các nhóm người thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng – Miến (mà rõ t là người
Lô Lô) di cư vào miền Bắc nước ta có thể từ thế kỷ thứ X gắn liền với các sự
kiện Đoàn Tử Bình giành quyền làm chủ Nam Chiếu, dẫn đến những tộc người
cũ của Nam Chiếu chống lại bị thất bại chạy tản mát về phương Nam
(1).
Nhiều
tài liệu cũng nhắc đến vào đầu thế kỷ XII một cuộc di dân lớn của người Lô Lô
diễn ra. Sau khi tù trưởng người Lô Lô bị giết, một tướng khác là Lu Ngô Quân
kéo quân và một số dân chúng Lô Lô về phía nam đến đất Đồng Văn, Hà Giang
lập làng khai khẩn đất đai. Một cuộc di cư khác diễn ra vào thế kỷ thứ XVII
dưới sự dẫn đầu của thủ lĩnh Khổng Mìn với 5 – 6 nghìn người Lô Lô từ Trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
10
Quốc tràn vào đất Mèo Vạc, Hà Giang khai thác ruộng rẫy dựng nhà lập bản
sinh sống. Cùng thời gian này, một nhóm Lô Lô khác cũng di chuyển đến Lai
Châu
(2)
. Rải rác năm này năm khác, người Lô Lô từ Trung Quốc di cư vào Việt
Nam hoặc từ Việt Nam ngược trở về quê cũ. Song có thể nói rằng, người Lô Lô
có mặt trên đất Việt Nam, đặc biệt là đất Hà Giang là khá sớm. Bằng chứng là
trong các bài cúng đưa hồn người chết của người Lô Lô ở Bảo Lạc (Cao Bằng),
các thầy cúng dẫn dắt hồn người chết qua các địa danh của các xã Hồng Trị,
Thượng Hà, Đức Hạnh của huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng rồi sang đất Đồng
Văn (huyện Đồng Văn xưa bao gồm cả Mèo Vạc) của tỉnh Hà Giang và cuối
cùng là về đến Po Hả, theo người già kể lại thì đó là quê hương cũ của người
Lô Lô ở Trung Quốc.
Truyền thuyết của người Lô Lô kể rằng: Người Lô Lô có 7 anh em, 3 người
rời Po Hả sang Việt Nam thì một người lạc, hai người còn lại tìm đến đất Đồng
Văn, Hà Giang, thì một trong học ở lại Đồng Văn, người kia đến Bảo Lạc (Cao
Bằng) để sinh sống. Hai anh em thuở ấy đến những vùng này, đất đai còn
hoang vắng lắm, họ ra sức khai khẩn đất đai xây dựng gia đình và trở thành tổ
tiên của người Lô Lô ngày nay. Câu chuyện đầy màu sắc hoang đường – huyền
thoại, nhưng nó có một chi tiết đáng lưu ý là họ (người Lô Lô) đã có mặt ở Bảo
Lạc (Cao Bằng) và Đồng Văn (Hà Giang) từ rất sớm, và họ là người có công
đầu tiên khai khẩn đất đai vùng này. Chả vậy mà ngày nay, người Tày hay
người Hmông vùng Cao Bằng, Hà Giang khi làm ruộng vẫn có tục cúng ma Lô
Lô. Đặc biệt, ở vùng người Tày Bảo Lạc trong hội Lồng tồng vẫn có mâm cỗ
cúng ma Lô Lô là người khai ruộng đầu tiên. Riêng Hội Lồng tồng xã Nam
Quang, huyện Bảo Lạc, còn có tục phải chọn người Tày gốc Lô Lô đứng ra chủ
trì lễ vãi thóc giống, bông giống nhà mình mà gieo với hy vọng cầu mong cho
vong linh người Lô Lô phù hộ cho mùa màng tốt tươi
(1)
. Như vậy, qua các
nguồn sử liệu, huyền thoại và những dấu vết còn để lại ở tập quán đều thể hiện
người Lô Lô là cư dân có mặt sớm và có công khai phá vùng đất Đồng Văn,
tỉnh Hà Giang và Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
11
Theo tác giả Lâm Tâm thì huyện Đồng Văn là nơi người Lô Lô đến trước
tiên trên đất Việt Nam. Ý kiến này phù hợp với ý kiến của nhiều nhà nghiên
cứu và đúng với tập quán còn để lại trong nhiều nghi lễ của người Lô Lô và các
dân tộc địa phương. Cũng theo tác giả này thì trên đất Đồng Văn, Mèo Vạc,
Yên Minh, Quản Bạ của tỉnh Hà Giang cùng với vùng Bảo Lạc của tỉnh Cao
Bằng trong lịch sử các thổ ty là người Lô Lô, người Tày, người H’Mông đã
không ngừng giao tranh – mạnh ai nấy thống trị, đẩy bao dân lành vào cơn binh
lửa. Qua mỗi lần tranh giành quyền thống trị của các tập đoàn phong kiến ấy,
người Lô Lô bị trôi dạt lên các xã vùng cao hoặc di chuyển qua lại nhiều lần
qua biên giới Viêt – Trung. Và đồng bào ổn định lại ở các bản có người Lô Lô
ngày nay từ cuối thế kỉ XIX.
Qua nhiều nguồn sử liệu cho thấy, dân tộc Lô Lô có mặt ở Việt Nam từ rất
sớm, ít ra là khoảng trên dưới 500 năm. Đồng bào đến Việt Nam qua nhiều đợt
thiên di bởi ở quê cũ có chiến tranh loạn lạc và họ bị đàn áp nặng nề hoặc bị
mất mùa đói kém, bệnh dịch v.v… Đến Việt Nam, người Lô Lô đã có công
khai khẩn đất đai ở vùng cao biên viễn núi đá Hà Giang và Bảo Lạc (Cao
Bằng). Công lao này của người Lô Lô được các dân tộc ở Hà Giang, Cao Bằng
luôn ghi nhận trong cõi tâm linh sâu thẳm của tập quán. Việt Nam là quê hương
lâu đời của người Lô Lô, đồng bào là một trong những thành phần dân tộc cấu
thành Đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
1.3.2. Hoạt động kinh tế
Nguồn sống chủ yếu của dân tộc Lô Lô là trồng trọt, hỗ trợ cho trồng trọt
là chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà v.v… Còn các ngành kinh tế phụ khác như thủ
công nghiệp, săn bắn hái lượm dường như không có gì đáng kể. Người Lô Lô
Hà Giang sống trọn vẹn trên vùng sơn nguyên đá vôi Đồng Văn – Mèo Vạc. Ở
vùng này núi nhiều, đất dốc nên nương rẫy nhiều, còn ruộng nước không có là
bao. Ruộng vùng Lô Lô không nhiều và hầu hết là ruộng cạn chờ mưa, mỗi
năm chỉ cày cấy được một vụ vào mùa mưa, mùa khô giá lạnh xưa kia đồng
bào thường bỏ hoang. Ngày nay, họ trồng các loại cây vụ đông như rau cải, đậu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
12
hoặc ngô vụ đông xuân. Khoảng tháng 12 hay tháng 1, người Lô Lô bắt đầu
cày ruộng để phơi ải cho qua sương giá, sâu bệnh bị hủy hoại và đất được xốp
hơn. Khoảng tháng 2, khi có mưa xuân thì đồng bào dùng bừa chân (hay còn
gọi là bừa bàn, dùng trâu bò kéo và người điều khiển có thể đứng lên) bừa
khoảng 2 – 3 lần cho đất vỡ nhỏ ra. Tháng 4, họ cày lại rồi dùng bừa tay (răng
bừa bằng gỗ, dùng trâu bò kéo và điều khiển bằng tay) bừa 3 lần cho đất tơi.
Sau đó để ngâm nước 5 – 6 ngày cho đất lắng xuống và mềm thêm rồi cày lại
và bừa cấy. Người Lô Lô rất chú ý khâu làm đất ruộng, họ cày bừa nhiều lần
cho đất mềm tơi và khi bừa cấy thì bừa thật kỹ. Kinh nghiệm của đồng bào cho
thấy, bừa kỹ làm cho đất mềm chảy lấp đầy các khe hốc tạo cho ruộng sau này
giữ được nước tốt hơn, mặt khác cũng làm nát các mầm cỏ dại đỡ được nhiều
công đoạn làm cỏ sau này. Vì chỉ cấy mỗi năm một vụ trên đất ruộng tương đối
tốt nên xưa kia ở vùng Mèo Vạc, người Lô Lô rất ít phải bón phân cho ruộng
lúa. Còn người Lô Lô ở Lũng Cú thì khoảng tháng 2 họ ủ phân ở góc ruộng và
khi cày bừa, nhất là khi bừa cấy thì rải phân ra. Phân được bừa nhào trong đất.
Đa phần các vùng Lô Lô xưa cấy lúa không theo hàng, nhưng mật độ
giữa các khóm lúa cũng vào khoảng 25 x 25 cm hoặc 30 x 30 cm. Đồng bào reo
mạ trên nền đất ẩm, mạ đủ tuổi, và đất làm xong thì nhổ mạ bó thành từng cum
rồi mang cấy. Ở Lũng Cú xưa, người già có kinh nghiệm chọn đám lúa tốt gặt
đập riêng, phơi già, rê sạch cho vào bao treo trên gác bếp để làm giống cho vụ
sau. Làm vậy mạ tốt ít bị tẩm. Và khi cấy lúa họ có tục lệ chủ nhà cấy trước
một bó mạ rồi mọi người mới cấy theo. Với quan niệm làm vậy sau lúa đỡ bị
đổ. Do ruộng được làm đất kĩ nên ít cỏ, việc làm cỏ cũng nhẹ nhàng hơn chỉ
phải vơ hai lần. Vơ cỏ đến đâu thì nhấn luôn xuống bùn để dìm chết cỏ.
Tháng 10 thì được thu hoạch, học dùng liềm cắt tận gốc rồi túm từng túm
đập vào một cái thùng gỗ, tiếng Lô Lô gọi là “tọ tu”. Thóc được quạt sạch, phơi
già, gùi về nhà trữ vào bồ “ kà ta” trên gác bếp. Khi ăn thì cho thóc vào cối
(1)
giã thành gạo. Giống lúa phổ biến ở người Lô Lô là giống lúa dài ngày (6
tháng) cho gạo đỏ hoặc trắng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
13
Tuy nhiên, diện tích ruộng trồng lúa của đồng bào không nhiều nên lúa
làm ra không đủ ăn, họ phải sống dựa vào ruộng màu và thổ canh hốc đá là cơ
bản. Ruộng màu là ruộng chỉ để trồng được thôi không thể cấy lúa bởi quanh
năm thiếu nước. Còn thổ canh hốc đá là canh tác những hốc đất trong nương đá
hoặc những nương lẫn đá lộ đầu. Loại hình canh tác này rất phổ biến trên sơn
nguyên Đồng Văn
(2)
.
Dù là ruộng màu hay thổ canh hốc đá thì cũng phải chặt cây, dọn cỏ để
canh tác. Nhưng điều vĩ đại của đồng bào Lô Lô ở đây là thâm canh nó chứ
không phải quảng canh như những loại nương rẫy thường vẫn gặp. Đồng bào
đắp bờ giữ ẩm, giữ mầu và bón phân cho đất thêm màu mỡ. Việc be đá làm bờ
trên mương được đồng bào chú ý từ lâu để chống rửa trôi đất tạo điều kiện canh
tác lâu dài.
Ở người Lô Lô nói riêng và vùng cao núi đá Hà Giang nói chung, ngô là
cây lương thực chính được trồng tỉa ở hầu khắp các diện tích canh tác đồng bào
Lô Lô trồng chủ yếu giống ngô đá dài ngày (6 tháng) của địa phương. Giống
ngô này có khả năng chịu rét, chịu hạn giỏi cho năng suất cao. Cứ vào tháng 2
trời ấm, bắt đầu có mưa bụi đầu năm, đồng bào Lô Lô lại cày vỡ ruộng màu và
dọn cỏ xới đất thổ canh hốc đá. Đất trồng được cày cuốc phơi ải cho hoại mục
và qua sương giá trứng sâu bọ cũng bị tiêu diệt nhiều đỡ công làm đất và bảo
vệ thực vật sau này. Đồng thời với việc làm đất phơi ải thì học chuyển phân ra
ruộng nương để ủ.
Sang tháng 3, tháng 4 trời ấm hẳn, người Lô Lô đốt các đụm cỏ trên diện
tích đất thổ canh hốc đá để làm phân và xới lại đất để trỉa hạt. Trồng xong ngô
ở đất thổ canh, họ làm đất gieo ngô ở ruộng màu. Ruộng được cày bừa cho tơi
đất rồi cày thành luống, mỗi luống cách nhau chừng 1m. Mật độ hốc ngô trên
cùng một luống là 0.5m. Kinh nghiệm của đồng bào cho thấy, trồng thưa như
vậy là thích hợp với giống ngô dài ngày thân lớn tạo điều kiện thuận lợi cho
việc vun gốc bón phân khi ngô đã phát triển. Việc tỉa hạt được phối hợp hết sức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
14
nhịp nhàng: Người bổ hốc, người trỉa hạt, người bỏ phân và người lấp lỗ theo
một dây chuyền lao động tương đối hợp lý và họ làm việc hết sức ăn ý với
nhau. Đối với đất thổ canh hốc đá thì tỉa từ cao xuống, với ruộng màu thì tỉa
theo luống. Mỗi gốc tra khoảng 4 – 5 hạt đề phòng giống bị ẩm. Khi làm cỏ lần
đầu đồng bào tỉa bớt khóm dày trồng bổ sung cho những khóm không mọc.
Mỗi khóm chỉ để 2 – 3 cây. Xưa đồng bào chỉ bón phân cho ngô một lần là bón
lót lúc tra hạt, có tác dụng thúc đẩy ngô nhanh nẩy mầm. Khi thu hoạch, ngô
được để cả bắp mang về treo trên gác bếp để chống ẩm mốc, sâu mọt. Khi nào
cần ăn mới tẽ ra say thành bột.
Sau khi thu hoach ngô xong, đất thổ canh được nghỉ ngơi đến tận mùa tỉa
hạt năm sau mới canh tác lại; còn ruộng màu thì lại tiếp tục làm đất trồng đậu
Hà Lan, đậu răng ngựa hoặc các loại cây vụ đông khác; sau vụ đậu lại tới vụ
ngô năm tới. Cứ mùa nối mùa, vụ tiếp vụ như vậy, đất ruộng màu quanh năm
không lúc nào được ngơi nghỉ.
Kỹ thuật canh tác ruộng màu và thổ canh hốc đá ở người Lô Lô có mấy
điểm đáng chú ý sau: Be đá làm bờ chống xói mòn đối với nương dốc, nhất là
nương thổ canh hốc đá để giữ đất, giữ màu tạo điều kiên canh tác lâu dài. Cây
trồng (ngô, đậu) được bón lót bằng phân chuồng hoại mục tạo điều kiện cho
cây phát triển. Rất chú ý xen canh gối vụ. Tra ngô lẫn với đậu, rau cải, rau dền.
Khi ngô lên thì các loại rau đậu cũng mọc. Gối vụ tam giác mạch hoặc đậu với
ngô. Ngô gần được thu hoạch thì vãi mạch và trồng đậu ở rãnh luống. Thu
hoạch ngô xong thì hơn một tháng sau cũng được thu hoạch mạch và đậu. Xen
canh gối vụ nhằm tận dụng khả năng của đất tạo ra lớp phủ thực vật dày đặc
chống xói mòn. Qua kỹ thuật trồng trọt trên cho thấy khả năng thích ứng với
điều kiện tự nhiên và lao động sáng tạo tuyệt vời của đồng bào.
Người Lô Lô nuôi bò làm sức kéo; nuôi lợn và các loại gia cầm để bán,
mổ thịt. Giống bò vùng này khá lớn thường nuôn nhốt, ít chăn thả, kéo cày rất
khỏe, đảm bảo cho việc thâm canh ruộng rẫy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
15
Các loại hình kinh tế cổ xưa như săn bắn, hái lượm hầu như không còn bởi
đất rừng đã tận dụng thâm canh trồng trọt, ít còn đất hoang làm nơi sinh sống
của chim thú hoang dã; và vùng cao khí hậu lạnh giá cũng ít rau rừng; sông
suối xa cũng không có nơi kiếm cá tự nhiên. Cuộc sống của đồng bào hoàn toàn
do sản xuất nông nghiệp của họ mang lại.
Nghề thủ công của người Lô Lô không phát triển, các nhu cầu cần thiết về
đồ sắt, đồ đan v.v… họ đều mua của người H’Mông và các dân tộc anh em
trong vùng. Cách đây không lâu vùng Lô Lô Hoa có nghề dệt vải, ngày nay
cũng không còn. Nhưng thêu thùa, may vá ở họ lại khá phát triển, nhất là ở
người Lô Lô Hoa, quần áo hoa văn ghép vải cực kỳ công phu rực rỡ.
Tiểu kết chƣơng 1
Là một huyện vùng cao biên giới, trong lịch sử, Đồng Văn sớm tiếp
nhận những đợt thiên di của một số tộc người từ bên kia biên giới sang.
Đồng Văn là nơi cư trú của nhiều dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Lô
Lô. Người Lô Lô có một nền văn hóa phong phú, góp phần làm cho nền văn
hóa Việt Nam thêm đa dạng.
Khắc phục những điều kiện tự nhiên ở Đồng Văn đã giúp cho đồng
bào Lô Lô sớm có cuộc sống ổn định và đời sống thường ngày được đảm
bảo. Người dân ở đây canh tác lúa nước, làm nương trồng ngô và một số cây
hoa màu khác…Những phong tục, tập quán của đồng bào được hình thành
trên cơ sở những điều kiện tự nhiên trong vùng. Trong quá trình lao động,
sản xuất, dân tộc Lô Lô đã hình thành nên những nét văn hóa riêng của cộng
đồng mình.
Trong những năm gần đây, người Lô Lô giao lưu, học tập kinh nghiệm
sản xuất của các dân tộc anh em như: Tày, Nùng, Mông… Sự giao tiếp mạnh
mẽ đó đã thúc đẩy nhanh quá trình thay đổi trong sản xuất của họ, giúp cho đời
sống của đồng bào ngày càng ổn định và ấm no, đầy đủ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
16
Chƣơng 2
TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA NGƢỜI LÔ LÔ
Ở ĐỒNG VĂN - HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 1986 - 2010
2.1. Làng bản
Người Lô Lô cư trú ở vùng cao nên làng bản của họ có nhiều yếu tố tương
đồng với làng bản của một số tộc người anh em ở miền núi phía Bắc như Mông,
Dao… Làng bản của người Lô Lô là loại hình làng bản định cư gắn liền với tập
quán canh tác nương rẫy và làm ruộng khô. Do đặc điểm khép kín, mang tính tự
cung tự cấp nặng nề, làng bản người Lô Lô ở Đồng Văn, Hà Giang vẫn có tính tự
chủ về mặt hành chính. Do đó trong mỗi làng bản của họ đến nay luôn giữ được
nếp sống cổ truyền theo phương thức tự quản không bị phá vỡ.
2.1.1. Tên làng, nguyên tắc tập hợp và địa vực cƣ trú
Làng trong tiếng Lô Lô Đồng văn là muổn trị loóng trong, có nghĩa là ở
cùng trong một nơi. Cách gọi này xuất phát từ đặc điểm canh tác, làng bản trồng lúa
nước nói chung và làng bản của người Lô Lô nói riêng có tính ổn định lâu dài. Làng
của người Lô Lô cơ bản tập hợp trên quan hệ họ hàng, trong một làng có rất nhiều
họ cùng sinh sống. Theo nhiều nhà nghiên cứu và điều tra thực tế thì hiện nay
không thể tìm thấy làng nào của người Lô Lô Đồng Văn chỉ có một họ sinh sống.
Các dòng họ quan hệ với nhau trên cơ sở tình cảm hàng xóm láng giềng và quan hệ
hôn nhân. Một số nơi đặt tên làng theo tên dân tộc như Lô Lô Chải. “Chải” có
nghĩa là làng, bản hay xóm. Theo cách lí giải của hai tác giả Khổng Diễn - Trần
Bình thì “Chải có nghĩa là trại gần tương đương với làng hay bản, gọi theo tiếng
Hán và đó cũng là điểm tương đồng với tên gọi nhiều làng của một số tộc người ở
vùng biên giới Việt - Trung. Cách đặt tên này có nhiều ý nghĩa, thứ nhất là để phân
biệt làng của người Lô Lô với làng của người dân tộc khác, thứ hai là để khẳng định
ngay tính chủ quyền về mặt địa danh, thứ ba là là phản ánh lịch sử cư trú lâu đời và
trước tiên tại các làng đó so với các tộc người khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
17
Về địa hình, qua khảo sát một số làng của người Lô Lô ở huyện Đồng
Văn cho thấy, nhiều làng của tộc người này được bố trí trên sườn đồi, hoặc
sườn núi tùy thuộc vào địa hình tại nơi họ lập làng. Ngoài ra, có nhiều làng
nằm trong thung lũng như các làng Lô Lô ở xã Lũng Táo hoặc xã Sủng Là.
Điểm tương đồng với nhiều dân tộc anh em là nơi bố trí làng của họ phải có
nguồn nước như song, suối, những khe nhỏ có nước chảy, thậm chí là nước
ngầm trong núi đá vôi chảy ra…, để cho cư dân trong làng có nước sinh hoạt
và sản xuất.
Do yêu cầu của nền sản xuất nông nghiệp nương rẫy kết hợp với việc
canh tác lúa nước trên ruộng bậc thang nên địa vực cư trú của các làng người
Lô Lô đều khá rộng, trong đó rộng hơn cả là diện tích đất đồi núi, khe suối, bãi
cỏ cùng với các nguồn lợi của nó. Với nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự
túc, diện tích địa vực cư trú chưa thỏa mãn các nhu cầu của người dân làm nhà
và môi trường cho hoạt động săn bắn hái lượm… Đáng chú ý là địa vực làng
của người Lô Lô tuy rộng lớn nhưng do địa hình bị chia cắt mạnh, có nhiều núi
đá, sườn các đồi núi quá dốc, khe suối rất sâu… nên diện tích đất sản xuất
không nhiều. Đặc điểm này đã ảnh hưởng tiêu cực lớn đến việc phát triển kinh
tế, xã hội và cơ sở hạ tầng ở vùng đồng bào Lô Lô.
Với khu vực cư trú, địa hình thường tương đối bằng phẳng, khá thuận lợi
cho việc đi lại từ nhà nọ sang nhà kia cũng như đi ra ruộng nương. Hầu hết
những làng Lô Lô được khảo sát, các ngôi nhà đều được phân bố một cách khá
tập trung nên khu vực cư trú của họ không nhất thiết phải rộng. Đây là điểm
khá thống nhất của các làng Lô Lô ở Đồng Văn và là điểm khác biệt so với
một số làng bản của người Mông, người Dao ở vùng giáp biên giới.
Trong các làng người Lô Lô, các ngôi nhà đều được làm theo hướng dựa
lưng vào đồi hay núi, cửa chính hướng ra thung lũng và được bố trí khoảng
cách sao cho giữa các nhà không bị ảnh hưởng bởi các loại rác thải, đồ thừa từ
sinh hoạt hàng ngày và phân của các loại vật nuôi. Về cơ cấu dân cư, hầu hết
trong các làng được khảo sát đều thuần nhất người Lô Lô sinh sống với nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
18
Làng của người Lô Lô đều được hình thành bởi sự tụ cư của dòng họ.
Điều này có thể khẳng định rằng, hầu hết các làng được coi là nơi cư trú lâu đời
của người Lô Lô đều cấu thành bởi những dòng họ lớn. Ví dụ: Xóm Lô Lô
Chải ở xã Lũng Cú là họ Chu…
Các làng người Lô Lô đều được hình thành thông qua hai hình thức tụ
cư: theo huyết thống họ hàng (có trước) và theo quan hệ láng giềng (có sau),
trong đó, tụ cư theo huyết thống, họ hàng đóng vai trò trọng tâm. Trong quá
trình lịch sử, do ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên và xã hội, trong thực tế
người Lô Lô đã tạo ra nhiều kiểu quần cư khác nhau như sau:
- Quần cư mật tập khá tập trung dưới dạng nhà trên, nhà dưới hay cạnh
nhau ở ngay sườn núi hay trên cái gò thấp và thoai thoải.
- Quần cư theo dạng tập trung tại một khu vực khá rộng nhưng phân tán
thành từng cụm, tức là các gia đình của mỗi dòng họ cư trú thành một xóm
riêng biệt. Đây là kiểu quần cư có ở xóm Lô Lô Chải xã Lũng Cú.
- Quần cư theo kiểu tập trung các nhà ở gần nhau tại một thung lũng.
Dạng quần cư này có ở các xóm Lô Lô Chải ở xã Lũng Táo và xã Sủng Là.
Ngoài khu vực cư trú, mỗi làng còn có đất để canh tác và khai thác các
nguồn lợi tự nhiên tạo nên một không gian sinh tồn chung của cộng đồng dân
cư trong làng. Đối với đất đai, trước đây chỉ có đất nương định canh, kể cả
nương thổ canh hốc đá và ruộng nước hay ruộng bậc thang thuộc quyền sở hữu
của từng gia đình. Các đám nương rẫy canh tác dạng du canh chỉ được sở hữu
khi còn canh tác hoặc mới bỏ hóa để chuyển sang khai phá ruộng hay nương
định canh. Còn lại các khu rừng, song, suối, các đồi núi khác chưa khai thác
đến đều thuộc sở hữu chung của cả làng, mọi người dân trong làng đều có trách
nhiệm bảo vệ.
Như vậy, người Lô Lô sống quần tụ bên nhau trong các làng bản của
riêng mình. Trong các làng đó, người Lô Lô đa giúp nhau lao động sản xuất,
cùng khai thác các nguồn lợi tự nhiên để phục vụ cuộc sống của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
19
2.1.2. Thiết chế tự quản
- Trung mo phè, trong ngôn ngữ người Lô Lô ở Đồng Văn có nghĩa là
chủ làng hay trưởng làng, thông thường trưởng làng do các dòng họ sinh sống
trong làng bầu ra. Người được chọn phải là người cao tuổi, hiểu các lễ nghi
phong tục, có uy tín lớn trong thôn. Trung mo phè có trách nhiệm điều tiết các
mối quan hệ trong thôn bản, là người đại diện cho thôn bản giải quyết các công
việc chung cũng như xử phạt những người vi phạm theo tục lệ và điều hành
công việc sản xuất. Trung mo phè cũng là người đại diện cho cộng đồng khi
giao thiệp với các cộng đồng khác. Với quyền lực to lớn như vậy, trung mo phè
được tất cả dân làng vô cùng kính trọng, theo truyền thống trung mo phè là
chức vụ cha truyền con nối, chỉ khi có biến cố thật đặc biệt họ mới tính đến
việc thay chủ bản. Hiện chức vụ trung mo phè do người dân bầu chọn. Không
phân biệt tuổi tác, tuy nhiên đó vẫn phải là người hiểu rõ các phong tục và có
uy tín trong cộng đồng.
- Những người hành nghề tôn giáo, có thể nói họ là những người rất
quan trọng trong xã hội của người Lô Lô. Họ thay mặt cộng đồng giao thiệp
với thế giới thần linh nhằm chữa bệnh cho người ốm bằng các hình thức như
bói bệnh, xua đuổi tà ma ra khỏi cơ thể người, thay mặt gia chủ cúng tiễn người
chết về với tổ tiên, cúng cho các gia đình trong nhứng dịp lễ tết… Những người
hành nghề tôn giáo tại cộng đồng người Lô Lô có sự phân biệt thứ bậc khá rõ
ràng. Ở đây chúng tôi trình bày sự phân cấp đó từ thấp đến cao.
Gò khi pí (cúng gia đình), đây là cấp thầy cúng thấp nhất trong hệ thống
người hành nghề tôn giáo của người Lô Lô. Thầy gò khi pí thường cúng ho các
gia đình trong những dịp lế tết nhỏ.
Khô pi pí (cúng người chết), có thể làm được các công việc của thầy Gò khi
pí, ngoài ra ông là người thay mặt gia chủ cúng tiễn người chết về với tổ tiên.
Mê pu pí (cúng người chết đuối, tự tử, chết trận), làm lễ cho những
người chết bất đắc kì tử như chết trận, chết đuối, tự tử… ông có thể gọi được
hồn của những người đó quay về với tổ tiên.