Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TÀI LIỆU LUYỆN THI ĐẠI HỌC RỪNG XÀ NU doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.63 KB, 21 trang )

TÀI LIỆU LUYỆN THI ĐẠI HỌC
RỪNG XÀ NU – Nguyễn Trung Thành
1. Giải thích ý nghĩa nhan đề “ RỪNG XÀ NU ”.
- Ý nghĩa tả thực: Chỉ rừng xà nu – một loại cây đặc trưng ở Tây Nguyên
- Ý nghĩa tượng trưng:
+ Rừng xà nu với sức sống bất diệt, là hình ảnh gắn bó máu thịt giữa tác giả và những
kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời chiến đấu và viết văn tại chiến trường Tây Nguyên.
Đây cũng là loài cây gắn bó mật thiết với dân làng Xô Man chứng kiến lịch sử bi hùng
của mảnh đất Tây Nguyên.
+ Rừng xà nu còn là một biểu tượng cho con người Tây Nguyên anh hùng, với sức
sống mãnh liệt mà cụ thể trong tác phẩm là nhân dân làng Xô Man với những con
người ưu tú: cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng Qua bức tranh thiên nhiên, tác giả muốn
khẳng định ý chí quật cường của con người Tây Nguyên.
+ Nhan đề “Rừng xà nu” còn gợi lên chủ đề tác phẩm cũng như cảm hứng sử thi, bi
tráng của thiên truyện ngắn đặc sắc này.
2. Phân tích tính sử thi trong truyện "Rừng xà nu"
A . Mở bài
Nguyễn Trung Thành được mệnh danh là nhà văn của Tây Nguyên bởi ông đã gắn bó
máu thịt với mảnh đất này trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sự am
tường về Tây Nguyên, niềm ngưỡng mộ những phẩm chất cao quý của đồng bào nơi đây
đã giúp cho nhà văn gặt hái được những thành công rực rỡ về đề tài Tây Nguyên. Truyện
ngắn “Rừng xà nu” là tác phẩm đặc sắc của ông trong kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm
mang đậm chất sử thi, viết về những vấn đề trọng đại của dân tộc; nhân vật trung tâm
mang những phẩm chất chung tiêu biểu cho cộng đồng; giọng điệu ngợi ca, trang trọng,
hào hùng.
B . Thân bài
Ý 1: Khái quát:
- Hoàn cảnh sáng tác+ nội dung cơ bản: Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền
Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. “Rừng xà nu” được viết vào đúng thời điểm
mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của
chiến trường miền Trung Trung bộ.Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một


buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một
vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân
mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng
chống lại kẻ thù tàn ác.
- Ý nghĩa nhan đề: Có thể nói đặt tên cho tác phẩm của mình là “ Rừng xà nu”, Nguyễn
Trung Thành đã tạo ra một nhan đề mang ý nghĩa biểu tượng so sánh có giá trị nêu bật chủ đề
của tác phẩm: đó là phẩm chất anh hùng sức sống bất tử kỳ diệu, khát vọng tự do, khát vọng
giải phóng của đồng bào Tây Nguyên trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Nhan đề này không những thể hiện khuynh hướng sử thi, chủ đề của tác phẩm mà còn gợi ra
phong vị Tây Nguyên cũng như vẻ đẹp giàu chất thơ, chất lãng mạn của núi rừng Tây Nguyên
hùng vĩ .
Ý 2: Phân tích tính sử thi trong tác phẩm:
Trang 1
a. Khái niệm khuynh hướng sử thi: Trước hết nên hiểu thế nào là khuynh hướng sử
thi trong văn học. Đó là một khuynh hướng trong sáng tác nghệ thuật thiên về việc phản ánh
những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính cách toàn dân. Nhân vật trung tâm trong những tác
phẩm viết theo khuynh hướng sử thi thường là những con người đại diện cho giai cấp, cho dân
tộc với những phẩm chất cao cả, kết tinh những gì cao đẹp nhất của cộng đồng. Và khi khẳng
định, ngợi ca những anh hùng, những kì tích sáng chói , người nghệ sĩ không nhân danh cá
nhân mà nhân danh dân tộc, nhân danh cộng đồng. Khuynh hướng sử thi thường gắn liền với
cảm hứng lãng mạn .
b. Khuynh hướng sử thi thể hiện trong tác phẩm:
Trong tác phẩm “Rừng xà nu”, khuynh hướng sử thi được thể hiện khá rõ ở việc
lựa chọn đề tài, việc xây dựng nhân vật, việc sử dụng hình ảnh lẫn giọng điệu của tác
phẩm
- Đề tài của truyện “Rừng xà nu” nói đến vấn đề sinh tử hết sức hệ trọng không chỉ của
người dân làng Xô Man hay của mảnh đất Tây Nguyên mà của cả dân tộc Việt Nam. Truyện
viết về một thời điểm lịch sử trọng đại của cách mạng Miền Nam những năm đen tối cho đến
lúc Đồng khởi, nhưng đây là thời điểm tức nước vỡ bờ, nhân dân Miền Nam chuẩn bị vũ trang
chiến đấu. Chủ đề của tác phẩm mang đậm tính sử thi : trước sự tàn ác của kẻ thù, nhân dân

Miền Nam chỉ có một con đường duy nhất là cầm vũ khí vùng lên chiến đấu giải phóng quê
hương.
“Rừng xà nu” là tác phẩm in đậm tính sử thi . Đây là câu chuyện của một người, một
làng. Nhưng đặt vào hoàn cảnh “Rừng xà nu” được viết ra, thì đó cũng là câu chuyện của một
thời đại, một đất nước, một cuộc cách mạng Như vậy, đây là chân lí mang tầm lịch sử. Vì lẽ
đó, nhà văn đã để cho nó được nói lên bằng giọng nói thiêng liêng, như để mãi mãi khắc sâu
vào kí ức. Chất sử thi toát lên qua đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật, hình ảnh thiên nhiên, các
chi tiết nghệ thuật, giọng điệu, ngôn ngữ của tác phẩm.
- Hình tượng nghệ thuật:
+ Hình tượng cây xà nu:
Trong tác phẩm , hình tượng cây xà nu - rừng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo
của nhà văn, được xây dựng với cảm hứng sử thi hoành tráng, bút pháp lãng mạn, kết tinh giá
trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm . Hình tượng cây xà nu và hình tượng tập thể những
nguời anh hùng ở làng Xô Man là hai hình tượng trọng tâm nổi bật xuyên suốt toàn bộ truyện
ngắn. Trong đó hình tượng cây xà nu đã tạo nên một cái nền đặc biệt hùng vĩ và phóng khoáng
để trên đó tác giả khắc hoạ một cách đậm nét hình tượng những người anh hùng trong chiến
đấu.
Tây nguyên vốn là vùng núi rừng rộng lớn và hùng vĩ. Trên mảnh đất ấy có không ít loài
thực vật đa dạng, nhiều tầng nhưng NTT lại chọn cây xà nu làm biểu tượng nghệ thuật cho sức
sống bất khuất và những phẩm chất anh hùng của nhân dân Tây nguyên những ngày đầu của
cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Khi trở lại Tây nguyên lần thứ hai ( 1962) NTT đã chia tay nhà văn Nguyền Thi bên
một cánh rừng xà nu và thế là rừng xà nu đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với ông. Nhà văn đã
nhận ra ở loại cây này bao phẩm chất cao đẹp: cao thượng, trong sáng, kiên cường, trang nhã,
rắn rỏi. Loài cây đó như đã sống từ ngàn đời và còn sống đến ngàn đời sau, từng cây từng cây,
hàng vạn cây hàng triệu cây mênh mông vô tận. Rõ ràng những phẩm chât đó rất gần gũi với
những vẻ đẹp tinh thần của ngưòi dân Tây Nguyên và cuộc sống chiến đấu của họ.
Trang 2
Mở đầu tác phẩm, nhà văn tập trung giới thiệu về rừng xà nu, một rừng xà nu cụ thể
được xác định rõ: "nằm trong tầm đại bác của đồn giặc", nằm trong sự hủy diệt bạo tàn của

kẻ thù.Truyện mở ra một cuộc đụng độ lịch sử quyết liệt giữa làng Xô Man với bọn Mĩ- Diệm.
Rừng xà nu cũng nằm trong cuộc đụng độ ấy. Xà nu hiện ra với tư thế của sự sống đang đối
diện với cái chết, sự sinh tồn đối diện với sự hủy diệt. Cách mở của câu chuyện thật gọn gàng,
cô đúc mà vẫn đầy uy nghi tầm vóc.Với kĩ thuật quay toàn cảnh, Nguyễn Trung Thành đã phát
hiện ra những đau thương mất mát mà cây xà nu phải gánh chịu. Trong bom đạn chiến tranh,
thương tích đầy mình cây xà nu vẫn hiên ngang vươn lên mạnh mẽ như người dân Tây Nguyên
kiên cường bất khuất, không khuất phục trước kẻ thù. Cây xà nu rắn rỏi, ham ánh nắng mặt trời
tựa như người Xô Man chân thật, mộc mạc, phóng khoáng yêu cuộc sống tự do. Rừng xà nu
tạo thành một bức tường vững chắc hiên ngang truớc bom đạn cũng là biểu trưng cho sức
mạnh đoàn kết của người dân Tây Nguyên khiến kẻ thù phải kiếp sợ.
* Rừng xà nu đau thương trong chiến tranh huỷ diệt
Trong phần đâu của tác phẩm, rừng xà nu đã hiện lên với những đau thương trong mưa
bom bão đạn của quân thù. Rừng xà nu đã trở thành đôi tượng của sự huỷ diệt tàn khốc. “Hầu
hết đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây
không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ
ào ào như một trận bão. Ơ chỗ những vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt,
long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.”
Nguyễn Trung Thành đã tỏ ra đặc biệt tinh tế khi miêu tả sự chuyển hoá của nhựa xà nu. Đó là
quá trình chuyển hoá từ đau thương tới căm thù và uất hận của cây rừng Tây Nguyên. Những
đau thương mà rừng xà nu phải gánh chịu ngoài ý nghĩa tả thực còn mang ý nghĩa tượng trưng
đậm nét. Nó gợi ra những đau thương tang tóc của ngưòi dân làng Xô Man. Có thể nói, lịch sử
của làng Xô Man trứơc ngày đồng khởi là những trang đầy máu và nước mắt. Trong những
ngày đen tối ấy, bao quần chúng trung kiên bị kẻ thù giết hại, anh Xút bị treo cổ trên cây vả
đầu làng, Bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo trên đầu súng, mẹ con Mai bị chết bởi những trận
mưa đòn của lũ giặc hung tàn
* Sức sống bất tử kỳ diệu của rừng xà nu.
Bất chấp sự huỷ diệt của kẻ thù, RXN vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt.
Sức sống bất tử của RXN đựoc thể hịên ở nhiều phương diện khác nhau:
Trước hết nó thể hiện ở khả năng sinh sôi theo cấp số nhân Nguyễn Trung Thành thật sự
hào hứng khi miêu tả sức sống bất khuất của loài cây này: “Cạnh một cây xà nu mới ngã

gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu
trời.” Sự sinh sản của rừng cây xà nu như thách thức sự huỷ diệt của bom đạn giặc.
Cùng với khả năng sinh sôi theo cấp số nhân, rừng xà nu còn có một khả năng tự chữa
lành những vết thương. Nhà văn đặc biệt chú ý đến những cây xà nu đã trưởng thành. Với
những cây xà nu vượt lên cao quá đầu người, “đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết
thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất
nhanh, thay thế những cây đã ngã”. Cứ như vậy rừng xà nu đã ưỡn tấm ngực lớn của mình
ra che chở cho dân làng. Rừng xà nu đã vươn lên với một sức sống diệu kỳ. Sức sống của cây
rừng thiên nhiên không chỉ tương phản gay gắt với sự huỷ diệt mà còn thách thức sự huỷ diệt.
Dường như qua đó Nguyễn Trung Thành muốn khẳng định: ở một mảnh đất như Tây Nguyên
sự sống vẫn bất diệt ngay trong sự huỷ diệt. Chỉ cần nhìn vào làng Xôman bé nhỏ, ta cũng đủ
thấy điều đó. Kẻ thù đã gieo bao đau thương tang tóc cho dân làng. Nuôi lớn lòng căm thù giặc
Trang 3
các thế hệ người dân Tây Nguyên đã đứng lên chiến đấu chống giặc. Thế hệ trước ngã xuống
đã có thế hệ sau trưởng thành, anh Quyết hy sinh đã có Tnú lớn lên thay anh làm cán bộ. Tnú
đi lực lượng thì bé Heng lại tiếp tục trưởng thành. Mai ngã xuống thì em gái của chị đã lớn lên
trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội đầy uy tín. Hình ảnh các thế hệ của làng
Xôman tiếp nối nhau cũng chính là biểu hiện cụ thể sống động nhất của sức sống Tây Nguyên
thời đánh Mỹ mà không một thế lực cường bạo nào có thể tiêu diệt được
* Rừng xà nu ham ánh mặt trời :
Không chỉ dừng lại ở đó, rừng xà nu đựơc miêu tả trong tác phẩm của Nguyễn Trung
Thành còn có đặc tính là rất ham ánh sáng mặt trời đương nhiên loại cây nào cũng cần ánh
sáng mặt trời nhưng cần phải thấy rằng ở đây nhà văn không đơn giản chỉ miêu tả đặc tính tự
nhiên của xà nu mà còn muốn gửi gắm vào đó ý nghĩa tượng trưng so sánh. “Cũng có ít loại
cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh
nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, long lánh vô số hạt bụi
vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”.
Đặt trong hệ thống chủ đề của tác phẩm thì những cây xà nu ham ánh nắng mặt trời
tượng trưng cho những nhân vật như Cụ Mết, Tnú, Mai , Dít, bé Heng những người dân Tây
Nguyên bất khuất kiên cường gắn bó máu thịt với cách mạng và lớn lên trong niềm say mê lý

tưởng cách mạng. Với họ lý tưởng cách mạng cũng có tầm quan trọng như ánh sáng mặt trời
với cây xanh. Duới ánh sáng của lý tưởng cách mạng vẻ đẹp rực rỡ tiềm ẩn với những người
con của núi rừng mới có dịp bộc lộ toả sáng, hoà chung vào vầng sáng của cả dân tộc, dám
sống vì lý tưởng độc lập tự do.
* Trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành, rừng xà nu còn giữ vai trò nhân
chứng của lịch sử. Rừng xà nu cũng tham dự vào cuộc sống sinh hoạt, chiến đấu của dân làng
Xô Man. Đã bao đêm dưới ánh lửa xà nu bập bùng dân làng đã tụ tập nghe Cụ Mết kể về lịch
sử của làng, về chiến công của Tnú. Khi dân làng khởi nghĩa thì cả cánh rừng xà nu ào ào rung
động và lửa cháy khắp rừng, phong vị Tây nguyên giọng điệu sử thi của tác phẩm cũng được
gợi lên từ những hình ảnh thiên nhiên này.
*Sơ kết: Nguyễn trung Thành đã sử dụng nhân hóa như một phép tu từ chủ đạo trên
suốt trang văn đặc tả rừng xà nu. Để làm cho hình tượng xà nu trở lên sống động, nhà văn đã
đăt cây xà nu và con người đã đan cài vào nhau, soi chiếu vẻ đẹp cho nhau. Rừng xà nu chính
là ẩn dụ của con người, những con người sống dưới tầm đại bác. Cũng như cây xà nu, thân thể
và trái tim họ đầy thương tích. Và cũng có đời người giống như những cây xà nu nào đó, “bị
chặt đứt ngang nửa thân người”. Song cũng như cây xà nu, con người Xô Man, con người Tây
Nguyên, con người Việt Nam trong những ngày đánh giặc vẫn sống , bền bỉ, kiêu hùng, đầy
khao khát hướng đến ánh sáng mặt trời. Biện pháp miêu tả tượng trưng lãng mạn đã được huy
động khiến cho tác phẩm có dáng dấp một áng thơ văn xuôi.
+ Hình tượng các thế hệ người dân làng Xô Man:
Truyện còn xây dựng thành công một tập thể những người dân anh hùng của núi rừng
Tây Nguyên. Những nhân vật trong tác phẩm, tiêu biểu như: cụ Mết, anh Quyết, Tnú, Mai, Dít,
bé Heng thực chất là những kết tinh cao độ những phẩm chất tiêu biểu của cả cộng đồng (gắn
bó với dân làng, trung thành với cách mạng, căm thù giặc sâu sắc, kiên cường bất khuất, dũng
cảm chiến đấu hi sinh ). Lí tưởng sống của những nhân vật này luôn gắn liền với vận mệnh
của cả cộng đồng. Hơn nữa, các nhân vật ở đây cũng được xây dựng thể hiện sự tiếp nối giữa
các thế hệ cách mạng làng Xô Man. Cụ Mết đại diện cho thế hệ cách mạng từ thời kháng chiến
Trang 4
chống thực dân Pháp, cụ truyền lại cho con cháu truyền thống oanh liệt đó của dân làng; Tnú
tiêu biểu cho ý chí và sức mạnh của cả cộng đồng; Dít, Heng là thế hệ non trẻ tiếp nối cha

anh Vì thế, tất cả số phận của mọi nhân vật đều thống nhất với nhau, thống nhất với số phận
của cả cộng đồng. Điều đó cũng thể hiện rõ nét tính sử thi của tác phẩm .
* Đứng đầu tập thể anh hùng ấy là Cụ Mết . Cụ Mết là hiện thân của truyền thống,
là pho sử sống của làng Xôman. Cụ là biểu tượng cho sức quật khởi của một truyền thống
lịch sử hào hùng ở Tây Nguyên đúng như hồi ức của nhà văn: Ông là cội nguồn, là Tây
Nguyên của thời “Đất nước đứng lên” còn trường tồn đến hôm nay, ông như lịch sử bao trùm
nhưng khồng che lấp sự tiếp nối ngày càng mãnh liệt hơn, tự giác hơn của các thế hệ sau.
Nhân vật cụ Mết trở lên đặc biệt sống động trong tác phẩm nhờ nghệ thuật cá tính hoá
nhân vật đặc sắc của nhà văn. Ở cụ vừa có nét tiêu biểu điển hình của những già làng Tây
Nguyên thời chống Mỹ, vừa có những nét riêng biệt độc đáo.
Đọc tác phẩm, hình ảnh của cụ Mết đã khiến cho độc giả liên tưởng đến một cây xà nu
cổ thụ giữa buôn làng, luôn vững vàng trước phong ba bão táp. Cụ Mết đã được nhà văn miêu
tả trong sự so sánh đối chiếu với cây xà nu. “Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ
đã dài mà vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược… Ông ở trần, ngực căng như một
cây xà nu lớn”, đôi bàn tay sần sùi như vỏ cây xà nu, bàn tay nặng trịch. Giọng nói của cụ Mết
thì “ồ ồ, dội vang trong lồng ngực” như mang trong đó âm vọng của những cánh rừng Tây
Nguyên bạt ngàn hùng vĩ. Như tất cả những người dân Xô man khác, cụ Mết rất ít nói. Lời nói
khen tặng cao nhất chỉ là “được” nhưng những lời lẽ của cụ lại có một sức mạnh cổ vũ động
viên rất lớn đối với dân làng. Mỗi lời dặn dò nhắc nhở của cụ đều là những bài học quý báu,
thể hiện niềm tự hào về sức mạnh Tây Nguyên. Cụ đã nói về rừng xà nu của làng mình: Không
có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã cây con mọc lên…. Có những lúc lời nói
của cụ Mết trở thành chân lý được những người như Tnú ghi lòng tạc dạ : “Cán bộ là Đảng.
Đảng còn, núi nước này còn”. Cụ Mết còn dặn dò các thế hệ cháu con về một bài học xương
máu được tổng kết từ chính cuộc đời của Tnú : “ Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay
còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” đó đâu
phải là sự chiêm nghiệm từng trải của một đời người mà là sự chiêm nghiệm từng trải của cả
một dân tộc trong đau thương chiến tranh
Cụ Mết luôn giáo dục ý thức cách mạng cho dân làng bên ánh lửa xà nu bập bùng. Với
một giọng nói trầm ấm trang nghiêm, cụ đã kể cho dân làng nghe về cuộc đời của Tnú. Trong
lời kể của cụ có một cái gì đó thật thiêng liêng hệt như một câu chuyện lịch sử, một huyền

thoại của thời đại. Từ những câu chuyện ấy, cụ Mết đã khơi dậy trong tâm hồn mỗi người lòng
yêu thương buôn làng, yêu quê hương đất nước, lòng trung thành tuyệt đối vào Đảng, vào cách
mạng.
Cụ Mết cũng chính là người chỉ huy trực tiếp cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Đó
là sự chỉ huy sáng suốt giàu kinh nghiệm và uy lực. Cụ đã bình tĩnh chỉ huy dân làng vùng dậy
tự trang bị vũ khí mài bằng đá núi Ngọc Linh, chém chết tiểu đội lính nguỵ, giải thoát cho Tnú,
đốt lên ngọn lửa đồng khởi cháy khắp núi rừng Tây Nguyên. Hình ảnh cụ Mết chống giáo chỉ
huy dân làng trong ánh lửa xà nu bừng bừng khiến cho ta nhớ đến các nhân vật trong sử thi
Tây Nguyên. Có thể nói nhân vật cụ Mết đã trở thành một cơ sở quan trọng tạo nên vẻ đẹp sử
thi hùng tráng trong truyện ngắn đặc sắc này.
Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh những phẩm chất tốt
đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyễn trung Thành muốn khẳng định vai trò của
Trang 5
thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ. Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ với truyền thống, với lịch
sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì
có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít, của bé Heng có sự trưởng thành
lớn lao.
* Tnú: Ta biết rằng nội dung chủ yếu của tác phẩm là kể về cuộc chiến đấu kiên cường
của làng Xô Man. Từ trong máu lửa, dân làng đã kết thành một khối vững chắc đứng lên làm
cách mạng bảo vệ cho cuộc sống tự do cho buôn làng. Các thế hệ khác nhau của làng đều có
những đóng góp xứng đáng cho cuộc chiến đấu chung. Trong mỗi sự tích anh hùng đều có
công lao của tập thể và trong mỗi chiến công chung đều có những đóng góp xứng đáng cuả
mỗi thành viên anh hùng. Trong tập thể anh hùng đó ta không thể quên hình ảnh Tnú không
phải chỉ bởi đây là nhân vật trọng tâm của tác phẩm mà còn bởi những tính cách mạnh mẽ
ngoan cường của anh. Tnú là nhân vật mang vẻ đẹp lí tưởng của tuổi trẻ Tây Nguyên anh
hùng trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ.
Là ngưòi con ưu tú của làng Xô Man, Tnú đã lớn lên trong máu lửa của cuộc chiến
tranh, đã vượt qua những mất mát đau thương của cuộc đời để chiến đấu và trở thành một
chiến sĩ giải phóng. Cuộc đời Tnú được cụ Mết kể lại bằng tiếng nói rất trầm khi bên ngoài
lấm tấm một trận mưa đêm rì rào như gió nhẹ. Đó là đêm Tnú trở về thăm làng. Có lẽ, mỗi

người trong chúng ta, khi đọc “Rừng xà nu” không thể nào quên câu chuyện trong đêm hôm
ấy. Khi kể, bằng một thái độ nghiêm trang, cụ Mết đã nhấn mạnh: “ Nó là người Strá mình.
Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như
nước suối làng ta”. Cuộc đời Tnú khổ nhưng tâm hồn anh trong sang. Ở anh không có vấn
đề “tìm đường” hay “nhận đường”( như A Phủ, Mị trong “Vợ chồng A Phủ”). Tnú sống gần
anh Quyết- người cán bộ cách mạng- từ khi càn nhỏ, nên anh đã có lí tưởng cách mạng, anh
hiểu và trung thành tuyệt đối với lí tưởng ấy. Và cụ Mết đã dặn dò: “Người Strá ai có cái tai,
ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ.”. Ta hiểu, trong lời
dặn dò ấy là lời nhắn nhủ tha thiết, bởi nghe và nhớ về cuộc đời Tnú chính là nghe và ghi nhớ
về những năm tháng đau thương nhưng vô cùng vĩ đại của dân làng Xô Man.
Nét tính cách chủ yếu của Tnú là sự mạnh mẽ, quyết liệt, kiên cường, anh dũng mang
đặc trưng tính cách của người dân Tây Nguyên. Tnú vốn là một đứa trẻ mồ côi, anh đã lớn lên
bằng sự cưu mang đùm bọc của dân làng Xô Man. Anh sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng và
đã theo bước dân làng hoà mình vào con dường do Đảng đã vạch ra. Sự can đảm ngoan cường
của Tnú cùng với sự dữ dội quyết liệt của anh đã được thể hiện từ những ngày thơ ấu. Khi
cách mạng bị địch khủng bố ráo riết , chúng treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, chặt đầu bà
Nhan treo đầu súng, Tnú đã không nhụt chí, hoàn cảnh hun đúc thành một con người gan góc,
anh đã cùng với Mai bất chấp mọi nguy hiểm, vào rừng nuôi giấu cán bộ, làm liên lạc đưa thư
cho cán bộ từ xã lên huyện. Có khi Tnú ở luôn ngoài rừng ban đêm vì “ Để cán bộ ngủ ngoài
rừng một đêm, bụng dạ không yên được. Lỡ giặc lùng, ai dẫn cán bộ chạy”. Tnú làm tất cả
những điều đó với một niềm tin: “cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn.”. Niềm tin
giản dị, ngây thơ mà cũng rất chân thành, mãnh liệt.
Sự gan góc của Tnú còn thể hiện ở việc học chữ. Khi học không nhớ chữ, Tnú đã “cầm hòn
đá tự đập vào đầu máu chảy ròng ròng”, nhưng sau khi nghe những lời khuyên của anh Quyết
“ không học chữ sao làm được cán bộ ”, Tnú đã sượng sùng gọi riêng Mai ra phía sau hốc đá
để hỏi xem “Chữ O có móc là chữ chi.”Hành động đó là biểu hiện của niềm tin vào cách
mạng, của sự trung thực trong trái tim một con người tự nhận thức được bản thân.
Trang 6
Học chữ hay quên nhưng Tnú lại rất thông minh và nhanh trí khi làm nhiệm vụ. Lúc đi
liên lạc, Tnú không bao giờ đi đường mòn, bị giặc bao vây khắp các ngả đưòng anh leo lên cây

cao giữa rừng tìm quanh một lượt rồi sau đó xé rừng mà đi. Khi qua sông, Tnú thường chọn
những đoạn có thác dữ cho địch khỏi phát hiện. Hình ảnh chú bé cưỡi lên con thác băng như
một con cá kình là một hình ảnh tuyệt đẹp cho thấy khí phách và bản lĩnh của một thiếu niên
Tây Nguyên ngoan cường, dũng cảm. Có lần khi vựơt qua thác sông Đắc Năng, Tnú đã bị kẻ
thù phục kích bắt được, cậu chỉ kịp nuốt là thư vào bụng để bảo toàn bí mật cho cách mạng.
Thế nhưng Tnú vẫn bị giặc bắt và tra tấn rất dã man. Những vết dao chém dọc ngang trên tấm
lưng Tnú như những vết thương trên thân cây xà nu. Sự tra tấn của kẻ thù không thể hủy diệt
được sức sống bất diệt trong anh mà còn nung nấu thêm ngọn lửa căm thù, ngọn lửa đấu tranh
trong trái tim sục sôi yêu nước ấy. Khi kẻ thù hỏi cộng sản ở đâu, Tnú đã can đảm chỉ tay vào
bụng mà nói : “Cộng sản ở đây ”. Đó không phải là câu trả lời mà là một lời thách thức. Hành
động quả cảm của Tnú đã cho thấy lòng trung thành tuyệt đối của người dân Tây Nguyên đối
với Đảng. Trong những gian khổ hy sinh thử thách tàn khốc thì lòng trung thành ấy càng toả
sáng. Đảng đã ỏ trong tâm hồn những người dân Tây Nguyên bất khuất kiên cường như Tnú .
Hình ảnh Tnú thời thơ âú với tất cả sự ngộ nghĩnh, gan dạ, trung thành, kiên cường, sẵn sang
hy sinh thân mình cho cách mạng cũng chính là hình ảnh của những thiếu niên Việt Nam như
Lê Văn Tám, Kim Đồng…- những anh hùng mà nhà thơ Tố Hữu đã từng ca ngợi:
“ Ôi Việt Nam xứ sở lạ lùng
Đến em thơ cũng hóa nhưng anh hùng
Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí…”
Và một Tnú gan góc, dũng cảm, được tôi luyện ý chí cách mạng từ thuở nhỏ ấy là tiền đề
để tạo nên một Tnú anh hùng về sau.
Giống như một cây xà nu vươn lên một cách kiêu dũng trong đau thương mất mát, sau
những năm bị tù đầy, Tnú đã vượt ngục trở về làng. Anh thực sự đã trưởng thành, trở thành
một chàng trai khỏe mạnh, kiên cường. Nguyễn Trung Thành đã xây dựng hình tượng nhân vật
Tnú với những vẻ đẹp của một con người lí tưởng: một chàng trai với bộ ngực rộng và hai cánh
tay khỏe chắc như lim, như một cây xà nu trưởng thành, cường tráng. Lúc này cán bộ Quyết
cũng đã hy sinh. Tnú đã tiếp tục nuôi dưỡng ngọn lửa đấu tranh CM, chuẩn bị vũ khí cho đồng
khởi. Chính anh đã đi bộ ba ngày đường lên núi Ngọc Linh mang về một gùi nặng đá mài
( không phải là một xà lét đựng đầy đá trắng như trước đây) để dân làng mài giáo mác, phát

nương rẫy và chuẩn bị cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng, núi rừng hùng vĩ. Và anh cũng đã xây
dựng gia đình với Mai, đứa con trai của hai người ra đời đã hứa hẹn trở thành một Tnú trong
tương lai…
Nếu ở những tác phẩm khác, các tác giả đã yên tâm dừng lại thì ở tác phẩm này, câu
chuyện về cuộc đời Tnú mới thực sự bắt đầu. Điều đó có nghĩa tác giả của “Rừng xà nu” đã đi tìm
một vấn đề lớn hơn.
Vâng, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng Tnú với tất cả những gì cần phải có ở một người
anh hùng: Anh cường tráng như than cây xà nu, chảy trong huyết quản anh là dòng máu anh hùng
của xứ sở Tây Nguyên. Tâm hồn anh trong sạch như nước suối; mang sức mạnh hào phóng, mênh
mông và hoang dại của núi rừng. Anh thừa gan góc đến bướng bỉnh, thừa kiêu hãnh đến giàu tự ái.
Anh là người không biết sợ hãi, không biết khuất phục trước mũi sung, làn dao…Anh đã có lí
tưởng Đảng từ thuở ấu thơ, có mục đích sống để làm người chân chính. Sức mạnh của anh lại
Trang 7
được hun đúc them bởi tình yêu lớn của một người con gái xinh đẹp, luôn hiền dịu, nhịn
nhường…Vậy mà với chừng ấy cái có, người anh hùng Tnú vẫn phải chịu nhiều mất mát, đau
thương. Anh vẫn rơi vào bi kịch mới. Bi kịch của anh cũng là bi kịch một thời của dân
tộc.
Phần chính của câu chuyện bắt đầu khi quân giặc bao vây làng Xô Man quyết bóp chết
mầm cách mạng từ trong trứng nước. Hiểu được vai trò của Tnú, chúng đã tìm cách để bắt anh, kẻ
thù đã giở ngón đòn hiểm độc là tra tấn vợ con Tnú. Lòng căm thù, nỗi đau khi chứng kiến cảnh
vợ con bị địch tra tấn đã biến đôi mắt anh thành hai cục lửa lớn. Anh đã xông vào quân giặc. Mẹ
con Mai chết, anh bị kẻ thù bắt trói, chúng đã tẩm nhựa xà nu và đốt mười đầu ngón tay anh. “
Mười ngón tay anh đã thành mười ngọn đuốc”. Tnú không kêu van một tiếng nào, bởi “Người
cộng sản không thèm kêu van”. “ Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh
nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã
cắn nát môi anh rồi”. Tnú trừng trừng ném căm giận vào kẻ thù. Mười ngọn đuốc từ đôi tay Tnú
đã châm ngòi cho cuộc khởi nghĩa của làng XôMan. Tnú thét lên, tiếng thét ấy như một lời hiệu
triệu, kêu gọi dân làng cầm vũ khí đứng lên, “tiếng thét của anh vang dội thành nhiều tiếng
thét dữ dội hơn” Tiếng chân người đạp trên sàn nhà ưng ào ào. Cụ Mết đã chỉ huy dân làng trang
bị giáo mác chém chết tiểu đội lính nguỵ giải thoát cho Tnú. Một khi kẻ thù đã cầm súng thì chúng

ta phải cầm giáo. Chân lý của cuộc đấu tranh cách mạng đã được tổng kết bằng cuộc đời Tnú.
Rừng Xô Man ào ào rung chuyển và ngọn lửa đã bùng cháy khắp núi rừng.
Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú, để rồi sau đó anh trở thành anh giải phóng
quân để giải phóng buôn làng, giải phóng quê hương, đất nước với một nhận thức sâu sắc hơn.
Với anh, thằng giặc nào “cũng là thằng Dục”- kẻ đã giết vợ con anh, kẻ đã gieo bao đau
thương cho dân làng Xô man. Với Tnú, mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước cũng là
mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó là một nhận thức sâu sắc- nhận thức mà Tnú rút
ra từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng, của đất nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.
Câu chuyện bi tráng của cuộc đời Tnú không dừng lại ở số phận cá nhân mà còn mang ý
nghĩa tiêu biểu cho cuộc sống chiến đấu của cả một dân tộc. Rõ ràng nhân vật Tnú là một nhân
vật sử thi, nhân vật mang số phận lịch sử của cả một dân tộc.
Cùng thế hệ với Tnú còn có Mai và Dít. Mai là một cô gái duyên dáng, linh lợi, giọng
nói trong lanh lảnh. Cô có một trái tim thắm thiết, thủy chung. Tuy Mai đã ra đi, nhưng hình
ảnh của cô vẫn còn mãi bởi có Dít- em gái Mai. Có thể nói đây là hình ảnh mang ý nghĩa tiêu
biểu điển hình cho các cô gái Tây Nguyên thời đánh Mỹ.
Cũng như nhân vật Tnú, Dít đã được tái hiện trong một quá trình phát triển của tính
cách. Trong những ngày đen tối trước đồng khởi, Dít vẫn còn là một cô bé. Khi kẻ thù bao vây
làng Xô Man, quyết tâm bắt được Tnú, thì chỉ có Dít lặng lẽ bò theo máng nước đem gạo ra
rừng tiếp tế cho cụ Mết, Tnú và thanh niên.
Cô bé đã bị địch bắt. Bọn giặc để Dít đứng ở giữa sân lên đạn và bắn, những viên đạn nổ
bay sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít. Váy của cô bé rách tượt từng
mảng. Lúc đầu sự tra tấn về mặt tinh thần của giặc đã khiến Dít khóc thét nhưng viên đạn thứ
mười thì Dít nín bặt. Cô bé chùi nước mắt đứng lặng giữa bọn lính. Cứ mỗi viên đạn nổ thì
thân hình nhỏ bé của Dít lại quật lên một cái nhưng đôi mắt của cô bé thì vẫn mở to, "nhìn bọn
giặc bình thản lạ lùng". Đôi mắt của cô bé Tây Nguyên đã biểu lộ sự quả cảm phi thường. Nó
là một tín hiệu giúp chúng ta nhận ra vẻ đẹp ngoan cường của những người dân Tây Nguyên
Trang 8
chưa bao giờ biết sợ hãi . Đôi mắt ấy cũng bộc lộ sự trưởng thành nhanh chóng của con người
trong thử thách. Dít chính là biểu tượng của cây xà nu mà không tội ác nào, không sức mạnh
nào có thể tiêu diệt được.

Trong hình ảnh của Dít ta còn gặp một nét gì đó của Mai. Là em gái của Mai, Dít giống
chị như hai giọt nước. Gặp lại Dít trong nhà cụ Mết, Tnú cứ tưởng trước mặt anh là Mai đấy
Tnú về thăm làng, tuy rất mừng nhưng Dít vẫn lấy vẻ mặt nghiềm nghị để hỏi giấy tờ giọng hơi
lạnh lùng: " Đồng chí về có giấy không?". Có lẽ cương vị công tác đã tạo nên ở Dít tính
nguyên tắc, sự kiên định vững vàng. Nhưng có lẽ đó chỉ là biểu hiện bên ngoài. Về bản chất
Dít vẫn là cô gái đầy nữ tính, giàu tình cảm. Chính Dít và cụ Mết đã tiễn Tnú cạnh cánh rừng
xà nu trải dài đến tận chân trời.
Đọc "Rừng Xà nu" ta sẽ thấy sự tiếp nối giữa các thế hệ. Ta thấy sự trưởng thành của
Tnú, của Dít và dường như bé Heng chính là hậu thân của Tnú cho dù giữa anh và cậu bé này
không hề có quan hệ ruột thịt.
Ngày Tnú đi liên lạc, bé Heng còn nhỏ xíu, vậy mà sau mấy năm về thăm làng, bé Heng
đã lớn lên có dáng vẻ của một anh giải phóng tí hon. Chú bé mang một khẩu trường mác, đội
một cái mũ giải phóng, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, khoác chéo khẩu súng ngang lưng.
Bé Heng rất tự hào về làng Xô Man của mình. Có thể nói, bé Heng thuộc thế hệ non trẻ nhất
của làng Xô Man. Như cây xà nu vươn lên dưới tầm bom đạn giặc, bé Heng sẽ góp phần tạo
nên màu xanh trường cửu của những cánh rừng xà nu chạy dài đến tận chân trời.
* Sơ kết: Phác hoạ thành công một tập thể nhân vật anh hùng, Nguyễn Trung Thành đã
làm nên thành công của “Rừng xà nu”. Họ là hiện thân của những phẩm chất anh hùng, đẹp đẽ
của các thế hệ nhân dân, tượng trưng cho các thế hệ tiếp nối nhau của dân làng Xô Man.Thông
qua hệ thống nhân vật đó, tác giả đã thể hiện sinh động quy luật: có áp bức là có đấu tranh, một
chân lí của cách mạng miền Nam: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là vấn đề
mang tính trọng đại của dân tộc, góp phần thể hiện tính sử thi sâu sắc của tác phẩm .
C. Kết bài
“Rừng xà nu” mang vẻ đẹp của một khúc sử thi trong văn xuôi hiện đại. Đó là câu chuyện bi
tráng về cuộc đời của một người anh hùng đại diện cho cộng đồng được già làng kể lại cho dân
làng nghe trong một đêm rừng Tây Nguyên , bên bếp lửa chung của làng với giọng kể trang
nghiêm và hùng tráng. Lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh tái hiện vẻ đẹp tráng lệ hào hùng rất
riêng của cảnh vật và con người, truyền thống văn hoá Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ đau thương mà anh dũng.
3. Phân tích hình tượng CÂY XÀ NU .

A.Mở bài:
Nguyễn Trung Thành được mệnh danh là nhà văn của Tây Nguyên bởi ông đã gắn
bó máu thịt với mảnh đất này trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sự am
tường về Tây Nguyên, niềm ngưỡng mộ những phẩm chất cao quý của đồng bào nơi đây đã
giúp cho nhà văn gặt hái được những thành công rực rỡ về đề tài Tây nguyên. Truyện ngắn
Trang 9
“Rừng xà nu” được viết khi Nguyễn Trung Thành đang ở vào độ chín của tài năng. Trong tác
phẩm này nhà văn đã phản ánh một cách chân thực cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ hy sinh
nhưng cũng rất hào hùng của đồng bào Tây Nguyên. Mở đầu tác phẩm là hình tượng cây xà
nu- biểu tượng của sức sống bất diệt.
B.Thân bài
Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền
Bắc. “Rừng xà nu” được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh
Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ, in lần
đầu trên tạp chí Văn Nghệ Quân Giải Phóng Trung Trung bộ, sau đó in trong tập “Trên quê
hương những anh hùng Điện Ngọc”. Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở
một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra
một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân
dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí
đứng chống lại kẻ thù tàn ác.
Hình tượng cây Xà nu và hình tượng tập thể những nguời anh hùng ở Làng Xô man là
hai hình tượng trọng tâm nổi bật xuyên suốt toàn bộ truyện ngắn. Trong đó hình tượng cây xà
nu đã tạo nên một cái nền đặc biệt hùng vĩ và phóng khoáng để trên đó tác giả khắc hoạ một
cách đậm nét hình tượng những người anh hùng trong chiến đấu.
Tây nguyên vốn là vùng núi rừng rộng lớn và hùng vĩ. Trên mảnh đất ấy có không ít loài
thực vật đa dạng, nhiều tầng nhưng NTT lại chọn cây xà nu làm biểu tượng nghệ thuật cho sức
sống bất khuất và những phẩm chất anh hùng của nhân dân Tây nguyên những ngày đầu của
cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Khi trở lại Tây nguyên lần thứ hai ( 1962) NTT đã chia tay nhà văn Nguyền Thi bên
một cánh rừng xà nu và thế là rừng xà nu đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với ông. Nhà văn đã

nhận ra ở loại cây này bao phẩm chất cao đẹp: cao thượng, trong sáng, kiên cường, trang nhã,
rắn rỏi. Loài cây đó như đã sống từ ngàn đời và còn sống đến ngàn đời sau, từng cây từng cây,
hàng vạn cây hàng triệu cây mênh mông vô tận. Rõ ràng những phẩm chât đó rất gần gũi với
những vẻ đẹp tinh thần của ngưòi dân Tây Nguyên và cuộc sống chiến đấu của họ.
Có thể nói đặt tên cho tác phẩm của mình là “ Rừng xà nu”, NTT đã tạo ra một nhan đề
mang ý nghĩa biểu tượng so sánh có giá trị nêu bật chủ đề của t/p: đó là phẩm chất anh hùng
sức sống bất tử kỳ diệu, khát vọng tự do, khát vọng giải phóng của đồng bào Tây Nguyên trong
những ngày đầu của cuộc k/c chống Mỹ. Nhan đề này cũng không những thể hiện khuynh
hướng sử thi, chủ đề của tác phẩm mà còn gợi ra phong vị Tây Nguyên cũng như vẻ đẹp giàu
chất thơ, chất lãng mạn của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ .
a) Rừng xà nu đau thương trong chiến tranh huỷ diệt
Trong phần đâu của t/p, rừng xà nu đã hiện lên với những đau thương trong mưa bom
bão đạn của quân thù. Rừng xà nu đã trở thành đôi tượng của sự huỷ diệt tàn khốc. “Hầu hết
đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không
có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào
như một trận bão. Ơ chỗ những vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long
lanh nắng hè gay gắt, rồi dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.”
Nguyễn Trung Thành đã tỏ ra đặc biệt tinh tế khi miêu tả sự chuyển hoá của nhựa xà nu. Đó là
quá trình chuyển hoá từ đau thuơng tới căm thù và uất hận của cây rừng Tây Nguyên. Những
đau thương mà rừng xà nu phải gánh chịu ngoài ý nghĩa tả thực còn mang ý nghĩa tượng trưng
Trang 10
đậm nét. Nó gợi ra những đau thương tang tóc của ngưòi dân làng Xô Man. Có thể nói, lịch sử
của làng Xô Man trứơc ngày đồng khởi là những trang đầy máu và nước mắt. Trong những
ngày đen tối ấy, bao quần chúng trung kiên bị kẻ thù giết hại anh Xút bị treo cổ trên cây vả đầu
làng, Bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo trên đầu súng, mẹ con Mai bị chết bởi những trận mưa
đòn của lũ giặc hung tàn
b) Sức sống bất tử kỳ diệu của rừng Xà nu.
Bất chấp sự huỷ diệt của kẻ thù, RXN vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt.
Sức sống bất tử của RXN đựoc thể hịên ở nhiều phương diện khác nhau:
Trước hết nó thể hiện ở khả năng sinh sôi theo cấp số nhân Nguyễn Trung Thành thật sự

hào hứng khi miêu tả sức sống bất khuất của loài cây này: “Cạnh một cây xà nu mới ngã
gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu
trời.” Sự sinh sản của rừng cây xà nu như thách thức sự huỷ diệt của bom đạn giặc.
Cùng với khả năng sinh sôi theo cấp số nhân, rừng xà nu còn có một khả năng tự chữa
lành những vết thương. Nhà văn đặc biệt chú ý đến những cây xà nu đã trưởng thành. Với
những cây xà nu vượt lên cao quá đầu người, “đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết
thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất
nhanh, thay thế những cây đã ngã”. Cứ như vậy rừng xà nu đã ưỡn tấm ngực lớn của mình
ra che chở cho dân làng. Rừng xà nu đã vươn lên với một sức sống diệu kỳ. Sức sống của cây
rừng thiên nhiên không chỉ tương phản gay gắt với sự huỷ diệt mà còn thách thức sự huỷ diệt.
Dường như qua đó Nguyễn Trung Thành muốn khẳng định: ở một mảnh đất như Tây Nguyên
sự sống vẫn bất diệt ngay trong sự huỷ diệt. Chỉ cần nhìn vào làng Xôman bé nhỏ, ta cũng đủ
thấy điều đó. Kẻ thù đã gieo bao đau thương tang tóc cho dân làng. Nuôi lớn lòng căm thù giặc
các thế hệ người dân Tây Nguyên đã đứng lên chiến đấu chống giặc. Thế hệ trước ngã xuống
đã có thế hệ sau trưởng thành, anh Quyết hy sinh đã có Tnú lớn lên thay anh làm cán bộ. Tnú
đi lực lượng thì bé Heng lại tiếp tục trưởng thành. Mai ngã xuống thì em gái của chị đã lớn lên
trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội đầy uy tín. Hình ảnh các thế hệ của làng
Xôman tiếp nối nhau cũng chính là biểu hiện cụ thể sống động nhất của sức sống Tây Nguyên
thời đánh Mỹ mà không một thế lực cường bạo nào có thể tiêu diệt được
c) Rừng xà nu ham ánh mặt trời :
Rừng xà nu đựơc miêu tả trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành có đặc tính là rất
ham ánh sáng mặt trời đương nhiên loại cây nào cũng cần ánh sáng mặt trời nhưng cần phải
thấy rằng ở đây nhà văn không đơn giản chỉ miêu tả đặc tính tự nhiên của xà nu mà còn muốn
gửi gắm vào đó ý nghĩa tượng trưng so sánh. “Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời
đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ
trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, long lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra,
thơm mỡ màng”.
Đặt trong hệ thống chủ đề của tác phẩm thì những cây xà nu ham ánh nắng mặt trời
tượng trưng cho những nhân vật như Cụ Mết, Tnú, Mai , Dít, bé Heng những người dân Tây
Nguyên bất khuất kiên cường gắn bó máu thịt với cách mạng và lớn lên trong niềm say mê lý

tưởng cách mạng. Với họ lý tưởng cách mạng cũng có tầm quan trọngnhư ánh sáng mặt trời
với cây xanh. Duới ánh sáng của lý tưởng cách mạng vẻ đẹp rực rỡ tiềm ẩn với những người
con của núi rừng mới có dịp bộc lộ toả sáng, hoà chung vào vầng sáng của cả dân tộc, dám
sống vì lý tưởng độc lập tự do.
Trang 11
d) Trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành, rừng xà nu còn giữ vai trò nhân
chứng của lịch sử. Rừng xà nu cũng tham dự vào cuộc sống sinh hoạt, chiến đấu của dân làng
Xôman. Đã bao đêm dưới ánh lửa xà nu bập bùng dân làng đã tụ tập nghe Cụ Mết kể về lịch sử
của làng, về chiến công của Tnú. Khi dân làng khởi nghĩa thì cả cánh rừng xà nu ào ào rung
động và lửa cháy khắp rừng, phong vị Tây nguyên giọng điệu sử thi của tác phẩm cũng được
gợi lên từ những hình ảnh thiên nhiên này.
Nguyễn trung Thành đã sử dụng nhân hóa như một phép tu từ chủ đạo trên suốt trang
văn đặc tả rừng xa nu. Để làm cho hình tượng Xà nu trở lên sống động, Nguyễn Trung Thành
đã đăt cây xà nu và con người đã đan cài vào nhau, soi chiếu vẻ đẹp cho nhau. Rừng xà nu
chính là ẩn dụ của con người, những con người sống dưới tầm đại bác. Cũng như cây xà nu,
thân thể và trái tim họ đầy thương tích. Và cũng có đời người giống như những cây xà nu nào
đó, “bị chặt đứt ngang nửa thân người. Song cũng như cây xà nu, con người Xô Man, con
người Tây Nguyên, con người Việt Nam trong những ngày đánh giặc vẫn sống , bền bỉ, kiêu
hùng, đầy khao khát hướng đến ánh sáng mặt trời. Biện pháp miêu tả tượng trưng lãng mạn đã
được huy động khiến cho tác phẩm có dáng dấp một áng thơ văn xuôi.
Kết bài: Hình tượng cây xà nu đã trở thành một hình tượng nghệ thuật tuyệt đẹp mang
đậm đà phong vị Tây Nguyên. “Rừng xà nu" đã tạo ra một cái nền hoành tráng, hùng tráng để
trên đó Nguyễn Trung Thành đã chạm khắc vẻ đẹp bất khuất kiên cường của đồng bào Tây
Nguyên trong những năm tháng đánh Mỹ gian khổ.
4. Phân tích hình tượng các thế hệ người dân làng Xô man trong RỪNG XÀ NU –
Nguyễn Trung Thành.
Mở bài: Nguyễn Trung Thành được mệnh danh là nhà văn của Tây Nguyên bởi ông đã
gắn bó máu thịt với mảnh đất này trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sự am
tường về Tây Nguyên, niềm ngưỡng mộ những phẩm chất cao quý của đồng bào nơi đây đã
giúp cho nhà văn gặt hái được những thành công rực rỡ về đề tài Tây Nguyên. Truyện ngắn

“Rừng xà nu” được viết khi Nguyễn Trung Thành đang ở vào độ chín của tài năng. Trong tác
phẩm này, nhà văn không chỉ xây dựng một biểu tượng nghệ thuật tuyệt đẹp- rừng xà nu-
nhằm tôn vinh sức sống bất tử kỳ diệu của mảnh đất Tây Nguyên những ngày đánh Mỹ mà còn
xây dựng thành công hình tượng tập thể những ngưòi anh hùng.
B.Thân bài
Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền
Bắc. “Rừng xà nu” được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh
Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ, in lần
đầu trên tạp chí Văn Nghệ Quân Giải Phóng Trung Trung bộ, sau đó in trong tập “Trên quê
hương những anh hùng Điện Ngọc”. Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở
một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra
một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân
dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí
đứng chống lại kẻ thù tàn ác.
Ta biết rằng nội dung chủ yếu của tác phẩm là kể về cuộc chiến đấu kiên cường của
làng Xôman. Từ trong máu lửa dân làng đã kết thành một khối vững chắc đứng lên làm cách
mạng bảo vệ cho cuộc sống tự do cho buôn làng. Các thế hệ khác nhau của làng đều có những
đóng góp xứng đáng cho cuộc chiến đấu chung. Trong mỗi sự tích anh hùng đều có công lao
Trang 12
của tập thể và trong mỗi chiến công chung đều có những đóng góp xứng đáng cuả mỗi thành
viên anh hùng.
Trong tập thể anh hùng đó ta có thể cảm nhận những nét chung của họ: Họ đều là những
con người Tây nguyên bất khuất thời chống Mỹ. Ở họ đều cháy lên lòng yêu nước, yêu thương
buôn làng, lòng căm thù giặc cao độ. Tuy vậy, mỗi một nhân vật để lại trong trái tim độc giả
những ấn tượng riêng. Phẩm chất kiên cường của họ cũng được biểu hiện khác nhau. Điều này
đã làm cho bức chân dung của tập thể của những người anh hùng thêm đa dạng và phong phú.
Đứng đầu tập thể anh hùng ấy là Cụ Mết . Cụ Mết là hiện thân của truyền thống, là
pho sử sống của làng Xôman. Cụ là biểu tượng cho sức quật khởi của một truyền thống lịch
sử hào hùng ở Tây Nguyên đúng như hồi ức của nhà văn: Ông là cội nguồn, là Tây Nguyên của
thời “Đất nước đứng lên” còn trường tồn đến hôm nay, ông như lịch sử bao trùm nhưng khồng

che lấp sự tiếp nối ngày càng mãnh liệt hơn, tự giác hơn của các thế hệ sau.
Nhân vật cụ Mết trở lên đặc biệt sống động trong tác phẩm nhờ nghệ thuật cá tính hoá
nhân vật đặc sắc của nhà văn. Ở cụ vừa có nét tiêu biểu điển hình của những già làng Tây
Nguyên thời chống Mỹ, vừa có những nét riêng biệt độc đáo.
Đọc tác phẩm, hình ảnh của cụ Mết đã khiến cho độc giả liên tưởng đến một cây xà nu
cổ thụ giữa buôn làng, luôn vững vàng trước phong ba bão táp. Cụ Mết đã được nhà văn miêu
tả trong sự so sánh đối chiếu với cây xà nu. “Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ
đã dài mà vẫn đen bong, mắt vẫn sang và xếch ngược… Ông ở trần, ngực căng như một
cây xà nu lớn”, đôi bàn tay sần sùi như vỏ cây xà nu, bàn tay nặng trịch. Giọng nói của cụ Mết
thì “ồ ồ, dội vang trong lồng ngực” như mang trong đó âm vọng của những cánh rừng Tây
Nguyên bạt ngàn hùng vĩ. Như tất cả những người dân Xô man khác, cụ Mết rất ít nói. Lời nói
khen tặng cao nhất chỉ là “được” nhưng những lời lẽ của cụ lại có một sức mạnh cổ vũ động
viên rất lớn đối với dân làng. Mỗi lời dặn dò nhắc nhở của cụ đều là những bài học quý báu,
thể hiện niềm tự hào về sức mạnh Tây Nguyên. Cụ đã nói về rừng xà nu của làng mình: Không
có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã cây con mọc lên…. Có những lúc lời nói
của cụ Mết trở thành chân lý được những người như Tnú ghi lòng tạc dạ : “Cán bộ là Đảng.
Đảng còn, núi nước này còn”. Cụ Mết còn dặn dò các thế hệ cháu con về một bài học xương
máu được tổng kết từ chính cuộc đời của Tnú : “ Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay
còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” đó đâu
phải là sự chiêm nghiệm từng trải của một đời người mà là sự chiêm nghiệm từng trải của cả
một dân tộc trong đau thương chiến tranh
Cụ Mết luôn giáo dục ý thức cách mạng cho dân làng bên ánh lửa xà nu bập bùng. Với
một giọng nói trầm ấm trang nghiêm, cụ đã kể cho dân làng nghe về cuộc đời của Tnú. Trong
lời kể của cụ có một cái gì đó thật thiêng liêng hệt như một câu chuyện lịch sử, một huyền
thoại của thời đại. Từ những câu chuyện ấy, cụ Mết đã khơi dậy trong tâm hồn mỗi người lòng
yêu thương buôn làng, yêu quê hương đất nước, lòng trung thành tuyệt đối vào Đảng, vào cách
mạng.
Cụ Mết cũng chính là người chỉ huy trực tiếp cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Đó
là sự chỉ huy sáng suốt giàu kinh nghiệm và uy lực. Cụ đã bình tĩnh chỉ huy dân làng vùng dậy
tự trang bị vũ khí mài bằng đá núi Ngọc Linh, chém chết tiểu đội lính nguỵ, giải thoát cho Tnú,

đốt lên ngọn lửa đồng khởi cháy khắp núi rừng Tây Nguyên. Hình ảnh cụ Mết chống giáo chỉ
huy dân làng trong ánh lửa xà nu bừng bừng khiến cho ta nhớ đến các nhân vật trong sử thi
Trang 13
Tây Nguyên. Có thể nói nhân vật cụ Mết đã trở thành một cơ sở quan trọng tạo nên vẻ đẹp sử
thi hùng tráng trong truyện ngắn đặc sắc này.
Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh những phẩm chất tốt
đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyễn trung Thành muốn khẳng định vai trò của
thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ. Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ với truyền thống, với lịch
sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì
có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít, của bé Heng có sự trưởng thành
lớn lao.
Trong tác phẩm “Rừng xà nu”, độc giả không thể quên hình ảnh Tnú không phải
chỉ bởi đây là nhân vật trọng tâm của tác phẩm mà còn bởi những tính cách mạnh mẽ ngoan
cường của anh. Tnú là ngưòi con ưu tú của làng Xô Man đã lớn lên trong máu lửa của cuộc
chiến tranh , đã vượt qua những mất mát đau thương của cuộc đời để chiến đấu và trở thành
một chiến sĩ giải phóng. Nét tính cách chủ yếu của anh là sự mạnh mẽ quyết liệt mang đặc
trưng tính cách của người dân Tây Nguyên. Tnú vốn là một đứa trẻ mồ côi, anh đã lớn lên bằng
sự cưu mang đùm bọc của dân làng Xô Man. Anh sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng và đã theo
bước dân làng hoà mình vào con dường do Đảng đã vạch ra. Sự can đảm ngoan cường của Tnú
cùng với sự dữ dội quyết liệt của anh dã được thể hiện từ những ngày thơ ấu. Khi cách mạng
bị địch khủng bố ráo riết , chúng treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, chặt đầu bà Nhan treo
đầu súng, Tnú đã không nhụt chí, anh đã tiếp tế cho bộ đội, nuôi giấu cán bộ với một niềm tin:
“Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nứoc này còn.”. Niềm tin giản dị ngây thơ mà cũng rất chân
thành mãnh liệt.
Học chữ hay quên nhưng Tnú lại rất thông minh và nhanh trí khi làm nhiệm vụ. Lúc đi liên
lạc, Tnú không bao giờ đi đường mòn, bị giặc bao vây khắp các ngả đưòng Tnú leo lên cây cao
giữa rừng tìm quanh một lượt rồi sau đó xé rừng mà đi. Khi qua song, Tnú thường chọn những
đoạn có thác dữ cho địch khỏi phát hiện. Hình ảnh chú bé cưỡi lên con thác băng như một con
cá kình là một hình ảnh tuyệt đẹp cho thấy khí phách và bản lĩnh của một thiếu niên Tây
Nguyên ngoan cường, dũng cảm. Có lần khi vựot qua thác sông Đắc Năng, Tnú đã bị kẻ thù

phục kích bắt được, cậu chỉ kịp nuốt là thư vào bụng. Kẻ thù tra tấn hết sức dã man, Tnú đã can
đảm chỉ tay vào bụng mà nói : “Cộng sản ở đây ”. Đó không phải là câu trả lời mà là một lờ
thách thức. Hành động quả cảm của Tnú đã cho thấy lòng trung thành tuyệt đối của người dân
Tây Nguyên đối với Đảng. Trong những gian khổ hy sinh thử thách tàn khốc thì lòng trung
thành ấy càng toả sáng. Đảng đã tồn tại trong tâm hồn những người dân Tây Nguyên bất khuất
kiên cường như Tnú . Hình ảnh Tnú thời thơ âú với tất cả sự ngộ nghĩnh, gan dạ, trung thành,
kiên cường đã tạo tiền đề để tạo nên một Tnú anh hùng dũng cảm về sau.
Giống như một cây xà nu vươn lên một cách kiêu dũng trong đau thương mất mát, sau
những năm bị tù đầy, Tnú đã vượt ngục trở về làng. Anh thực sự đã trưởng thành, lúc này cán
bộ Quyết cũng đã hy sinh. Tnú đã tiếp tục nuôi dưỡng ngọn lửa đấu tranh cách mạng, chuẩn bị
vũ khí cho đồng khởi. Chính anh đã đi bộ ba ngày đường lên núi Ngọc Linh mang về một gùi
nặng đá mài ( không phải là một xà lét đựng đầy đá trắng như trước đây) để dân làng mài giáo
mác, phát nương rẫy và chuẩn bị cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng, núi rừng hùng vĩ.
Quân giặc đã bao vây làng Xô Man quyết bóp chết mầm cách mạng từ trong trứng nước.
Hiểu được vai trò của Tnú, chúng đã tìm cách để bắt anh, kẻ thù đã giở ngón đòn hiểm độc là tra
tấn vợ con Tnú. Lòng căm thù, nỗi đau khi chứng kiến cảnh vợ con bị địch tra tấn đã biến đôi mắt
anh thành hai cục lửa lớn. Anh đã xông vào quân giặc. Mẹ con Mai chết, anh bị kẻ thù bắt trói,
Trang 14
chúng đã tẩm nhựa xà nu và đốt mười đầu ngón tay anh. “ Mười ngón tay anh đã thành mười
ngọn đuốc”. Tnú không kêu van một tiếng nào, bởi “Người cộng sản không thèm kêu van”. “
Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực,
cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Tnú trừng
trừng ném căm giận vào kẻ thù. Mười ngọn đuốc từ đôi tay Tnú đã châm ngòi cho cuộc khởi nghĩa
của làng XôMan. Tnú thét lên, tiếng thét ấy như một lời hiệu triệu, kêu gọi dân làng cầm vũ khí
đứng lên, “tiếng thét của anh vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn” Tiếng chân người
đạp trên sàn nhà ưng ào ào. Cụ Mết đã chỉ huy dân làng trang bị giáo mác chém chết tiểu đội lính
nguỵ giải thoát cho Tnú. Một khi kẻ thù đã cầm súng thì chúng ta phải cầm giáo. Chân lý của cuộc
đấu tranh cách mạng đã được tổng kết bằng cuộc đời Tnú. Rừng Xô Man ào ào rung chuyển và
ngọn lửa đã bùng cháy khắp núi rừng.
Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú, để rồi sau đó anh trở thành anh giải phóng

quân để giải phóng buôn làng, giải phóng quê hương, đất nước với một nhận thức sâu sắc hơn.
Với anh, thằng giặc nào “cũng là thằng Dục”- kẻ đã giết vợ con anh, kẻ đã gieo bao đau
thương cho dân làng Xô man. Với Tnú, mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước cũng là
mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó là một nhận thức sâu sắc- nhận thức mà Tnú rút
ra từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng, của đất nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.
Khi xây dựng hình tượng Tnú, NTT đặc biệt chú ý đến việc khắc hoạ hình ảnh đôi bàn
tay. Hình ảnh bàn tay Tnú là một nghệ thuật có sức ám ảnh lớn, đó là đôi bàn tay trung thực và
tình nghĩa từng cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho, từng cầm đá đập đầu, từng hiên ngang
đặt lên bụng mà khẳng định “Cộng sản ở đây”. Đó còn là bàn tay yêu thương, bàn tay căm thù,
đôi bàn tay chiến đấu và chiến thắng. Khi lũ giặc đốt mười đầu ngón tay của Tnú thì đôi bàn
tay là chứng tích hùng hồn về tội ác của kẻ thù, lòng căm thù đã khiến đôi bàn tay của Tnú
thành ngọn lửa. Với đôi bàn tay đầy thương tích Tnú vẫn tiếp tục cầm giáo, cầm súng để chiến
đấu, với đôi bàn tay ấy, Tnú đã chiến đấu để giải phóng quê hương. Câu chuyện bi tráng của
cuộc đời Tnú không dừng lại ở số phận cá nhân mà còn mang ý nghĩa tiêu biểu cho cuộc sống
chiến đấu của cả một dân tộc. Rõ ràng nhân vật Tnú là một nhân vật sử thi, nhân vật mang số
phận lịch sử của cả một dân tộc.
Cùng thế hệ với Tnú còn có Mai và Dít. Mai là một cô gái duyên dáng, linh lợi, giọng
nói trong lanh lảnh. Cô có một trái tim thắm thiết, thủy chung. Tuy Mai đã ra đi, nhưng hình
ảnh của cô vẫn còn mãi bởi có Dít- em gái Mai. Có thể nói đây là hình ảnh mang ý nghĩa tiêu
biểu điển hình cho các cô gái Tây Nguyên thời đánh Mỹ.
Cũng như nhân vật Tnú, Dít đã được tái hiện trong một quá trình phát triển của tính
cách. Trong những ngày đen tối trước đồng khởi, Dít vẫn còn là một cô bé. Khi kẻ thù bao vây
làng Xô Man, quyết tâm bắt được Tnú, thì chỉ có Dít lặng lẽ bò theo máng nước đem gạo ra
rừng tiếp tế cho cụ Mết, Tnú và thanh niên.
Cô bé đã bị địch bắt. Bọn giặc để Dít đứng ở giữa sân lên đạn và bắn, những viên đạn nổ
bay sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít. Váy của cô bé rách tượt từng
mảng. Lúc đầu sự tra tấn về mặt tinh thần của giặc đã khiến Dít khóc thét nhưng viên đạn thứ
mười thì Dít nín bặt. Cô bé chùi nước mắt đứng lặng giữa bọn lính. Cứ mỗi viên đạn nổ thì
thân hình nhỏ bé của Dít lại quật lên một cái nhưng đôi mắt của cô bé thì vẫn mở to, "nhìn bọn
giặc bình thản lạ lùng". Đôi mắt của cô bé Tây Nguyên đã biểu lộ sự quả cảm phi thường. Nó

là một tín hiệu giúp chúng ta nhận ra vẻ đẹp ngoan cường của những người dân Tây Nguyên
Trang 15
chưa bao giờ biết sợ hãi . Đôi mắt ấy cũng bộc lộ sự trưởng thành nhanh chóng của con người
trong thử thách. Dít chính là biểu tượng của cây xà nu mà không tội ác nào, không sức mạnh
nào có thể tiêu diệt được.
Trong hình ảnh của Dít ta còn gặp một nét gì đó của Mai. Là em gái của Mai, Dít giống
chị như hai giọt nước. Gặp lại Dít trong nhà cụ Mết, Tnú cứ tưởng trước mặt anh là Mai đấy
Tnú về thăm làng, tuy rất mừng nhưng Dít vẫn lấy vẻ mặt nghiềm nghị để hỏi giấy tờ giọng hơi
lạnh lùng: " Đồng chí về có giấy không?". Có lẽ cương vị công tác đã tạo nên ở Dít tính
nguyên tắc, sự kiên định vững vàng. Nhưng có lẽ đó chỉ là biểu hiện bên ngoài. Về bản chất
Dít vẫn là cô gái đầy nữ tính, giàu tình cảm. Chính Dít và cụ Mết đã tiễn Tnú cạnh cánh rừng
xà nu trải dài đến tận chân trời.
Đọc "Rừng Xà nu" ta sẽ thấy sự tiếp nối giữa các thế hệ. Ta thấy sự trưởng thành của
Tnú, của Dít và dường như bé Heng chính là hậu thân của Tnú cho dù giữa anh và cậu bé này
không hề có quan hệ ruột thịt.
Ngày Tnú đi liên lạc, bé Heng còn nhỏ xíu, vậy mà sau mấy năm về thăm làng, bé Heng
đã lớn lên có dáng vẻ của một anh giải phóng tí hon. Chú bé mang một khẩu trường mác, đội
một cái mũ giải phóng, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, khoác chéo khẩu súng ngang lưng.
Bé Heng rất tự hào về làng Xô Man của mình. Có thể nói, bé Heng thuộc thế hệ non trẻ nhất
của làng Xô Man. Như cây xà nu vươn lên dưới tầm bom đạn giặc, bé Heng sẽ góp phần tạo
nên màu xanh trường cửu của những cánh rừng xà nu chạy dài đến tận chân trời.
Tác phẩm “Rừng xà nu” là một câu chuyện về một tập thể anh hùng. Mỗi cá nhân có
những nét riêng biệt về cuộc đời, số phận, tính cách nhưng đều giống nhau ở sự gan dạ dũng
cảm tuyệt đối trung thành với cách mạng. Mỗi số phận, mỗi con người, mỗi chiến công của họ
đã gắn kết với nhau làm lên một bản trường ca bất hủ vể Tây Nguyên hùng vĩ.
Kết luận: Truyện ngắn “Rừng xà nu” tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn trong sáng tác của NTT và đó cũng là một đặc điểm nổi bật của văn học Việt Nam
thời kỳ đánh Mỹ. Tác phẩm là một khúc ca hùng tráng về cuộc sống chiến đấu của đồng bào
Tây Nguyên trong những năm tháng đau thương nhưng vô cùng vĩ đại.
4. Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm RỪNG XÀ NU – Nguyễn Trung

Thành.
Mở bài: Nguyễn Trung Thành được mệnh danh là nhà văn của Tây Nguyên bởi ông đã
gắn bó máu thịt với mảnh đất này trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sự am
tường về Tây Nguyên, niềm ngưỡng mộ những phẩm chất cao quý của đồng bào nơi đây đã
giúp cho nhà văn gặt hái được những thành công rực rỡ về đề tài Tây Nguyên. Truyện ngắn
“Rừng xà nu” được viết khi Nguyễn Trung Thành đang ở vào độ chín của tài năng. Trong tác
phẩm này, nhà văn không chỉ xây dựng một biểu tượng nghệ thuật tuyệt đẹp nhằm tôn vinh sức
sống bất tử kỳ diệu của mảnh đất Tây Nguyên những ngày đánh Mỹ mà còn xây dựng thành
công hình tượng tập thể những người anh hùng, trong đó tiêu biểu nhất là nhân vật Tnú.
B.Thân bài
Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền
Bắc. “Rừng xà nu” được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh
Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ, in lần
đầu trên tạp chí Văn Nghệ Quân Giải Phóng Trung Trung bộ, sau đó in trong tập “Trên quê
Trang 16
hương những anh hùng Điện Ngọc”. Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở
một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra
một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân
dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí
đứng chống lại kẻ thù tàn ác.
Có thể nói đặt tên cho tác phẩm của mình là “ Rừng xà nu”, Nguyễn Trung Thành đã tạo ra
một nhan đề mang ý nghĩa biểu tượng so sánh có giá trị nêu bật chủ đề của tác phẩm: đó là
phẩm chất anh hùng sức sống bất tử kỳ diệu, khát vọng tự do, khát vọng giải phóng của đồng
bào Tây Nguyên trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nhan đề này không
những thể hiện khuynh hướng sử thi, chủ đề của tác phẩm mà còn gợi ra phong vị Tây Nguyên
cũng như vẻ đẹp giàu chất thơ, chất lãng mạn của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ .
.
Ta biết rằng nội dung chủ yếu của tác phẩm là kể về cuộc chiến đấu kiên cường của làng
Xô Man. Từ trong máu lửa, dân làng đã kết thành một khối vững chắc đứng lên làm cách mạng
bảo vệ cho cuộc sống tự do cho buôn làng. Các thế hệ khác nhau của làng đều có những đóng

góp xứng đáng cho cuộc chiến đấu chung. Trong mỗi sự tích anh hùng đều có công lao của tập
thể và trong mỗi chiến công chung đều có những đóng góp xứng đáng cuả mỗi thành viên anh
hùng. Trong tập thể anh hùng đó ta không thể quên hình ảnh Tnú không phải chỉ bởi đây là
nhân vật trọng tâm của tác phẩm mà còn bởi những tính cách mạnh mẽ ngoan cường của anh.
Tnú là nhân vật mang vẻ đẹp lí tưởng của tuổi trẻ Tây Nguyên anh hùng trong cuộc chiến
tranh chống đế quốc Mĩ.
Là ngưòi con ưu tú của làng Xô Man, Tnú đã lớn lên trong máu lửa của cuộc chiến
tranh, đã vượt qua những mất mát đau thương của cuộc đời để chiến đấu và trở thành một
chiến sĩ giải phóng. Cuộc đời Tnú được cụ Mết kể lại bằng tiếng nói rất trầm khi bên ngoài
lấm tấm một trận mưa đêm rì rào như gió nhẹ. Đó là đêm Tnú trở về thăm làng. Có lẽ, mỗi
người trong chúng ta, khi đọc “Rừng xà nu” không thể nào quên câu chuyện trong đêm hôm
ấy. Khi kể, bằng một thái độ nghiêm trang, cụ Mết đã nhấn mạnh: “ Nó là người Strá mình.
Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như
nước suối làng ta”. Cuộc đời Tnú khổ nhưng tâm hồn anh trong sang. Ở anh không có vấn
đề “tìm đường” hay “nhận đường”( như A Phủ, Mị trong “Vợ chồng A Phủ”). Tnú sống gần
anh Quyết- người cán bộ cách mạng- từ khi càn nhỏ, nên anh đã có lí tưởng cách mạng, anh
hiểu và trung thành tuyệt đối với lí tưởng ấy. Và cụ Mết đã dặn dò: “Người Strá ai có cái tai,
ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ.”. Ta hiểu, trong lời
dặn dò ấy là lời nhắn nhủ tha thiết, bởi nghe và nhớ về cuộc đời Tnú chính là nghe và ghi nhớ
về những năm tháng đau thương nhưng vô cùng vĩ đại của dân làng Xô Man.
Nét tính cách chủ yếu của Tnú là sự mạnh mẽ, quyết liệt, kiên cường, anh dũng mang
đặc trưng tính cách của người dân Tây Nguyên. Tnú vốn là một đứa trẻ mồ côi, anh đã lớn lên
bằng sự cưu mang đùm bọc của dân làng Xô Man. Anh sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng và
đã theo bước dân làng hoà mình vào con dường do Đảng đã vạch ra. Sự can đảm ngoan cường
của Tnú cùng với sự dữ dội quyết liệt của anh đã được thể hiện từ những ngày thơ ấu. Khi
cách mạng bị địch khủng bố ráo riết , chúng treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, chặt đầu bà
Nhan treo đầu súng, Tnú đã không nhụt chí, hoàn cảnh hun đúc thành một con người gan góc,
anh đã cùng với Mai bất chấp mọi nguy hiểm, vào rừng nuôi giấu cán bộ, làm liên lạc đưa thư
cho cán bộ từ xã lên huyện. Có khi Tnú ở luôn ngoài rừng ban đêm vì “ Để cán bộ ngủ ngoài
Trang 17

rừng một đêm, bụng dạ không yên được. Lỡ giặc lùng, ai dẫn cán bộ chạy”. Tnú làm tất cả
những điều đó với một niềm tin: “cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn.”. Niềm tin
giản dị, ngây thơ mà cũng rất chân thành, mãnh liệt.
Sự gan góc của Tnú còn thể hiện ở việc học chữ. Khi học không nhớ chữ, Tnú đã “cầm hòn
đá tự đập vào đầu máu chảy ròng ròng”, nhưng sau khi nghe những lời khuyên của anh Quyết
“ không học chữ sao làm được cán bộ ”, Tnú đã sượng sùng gọi riêng Mai ra phía sau hốc đá
để hỏi xem “Chữ O có móc là chữ chi.”Hành động đó là biểu hiện của niềm tin vào cách
mạng, của sự trung thực trong trái tim một con người tự nhận thức được bản thân.
Học chữ hay quên nhưng Tnú lại rất thông minh và nhanh trí khi làm nhiệm vụ. Lúc đi
liên lạc, Tnú không bao giờ đi đường mòn, bị giặc bao vây khắp các ngả đưòng anh leo lên cây
cao giữa rừng tìm quanh một lượt rồi sau đó xé rừng mà đi. Khi qua sông, Tnú thường chọn
những đoạn có thác dữ cho địch khỏi phát hiện. Hình ảnh chú bé cưỡi lên con thác băng như
một con cá kình là một hình ảnh tuyệt đẹp cho thấy khí phách và bản lĩnh của một thiếu niên
Tây Nguyên ngoan cường, dũng cảm. Có lần khi vựơt qua thác sông Đắc Năng, Tnú đã bị kẻ
thù phục kích bắt được, cậu chỉ kịp nuốt là thư vào bụng để bảo toàn bí mật cho cách mạng.
Thế nhưng Tnú vẫn bị giặc bắt và tra tấn rất dã man. Những vết dao chém dọc ngang trên tấm
lưng Tnú như những vết thương trên thân cây xà nu. Sự tra tấn của kẻ thù không thể hủy diệt
được sức sống bất diệt trong anh mà còn nung nấu thêm ngọn lửa căm thù, ngọn lửa đấu tranh
trong trái tim sục sôi yêu nước ấy. Khi kẻ thù hỏi cộng sản ở đâu, Tnú đã can đảm chỉ tay vào
bụng mà nói : “Cộng sản ở đây ”. Đó không phải là câu trả lời mà là một lời thách thức. Hành
động quả cảm của Tnú đã cho thấy lòng trung thành tuyệt đối của người dân Tây Nguyên đối
với Đảng. Trong những gian khổ hy sinh thử thách tàn khốc thì lòng trung thành ấy càng toả
sáng. Đảng đã ỏ trong tâm hồn những người dân Tây Nguyên bất khuất kiên cường như Tnú .
Hình ảnh Tnú thời thơ âú với tất cả sự ngộ nghĩnh, gan dạ, trung thành, kiên cường, sẵn sang
hy sinh thân mình cho cách mạng cũng chính là hình ảnh của những thiếu niên Việt Nam như
Lê Văn Tám, Kim Đồng…- những anh hùng mà nhà thơ Tố Hữu đã từng ca ngợi:
“ Ôi Việt Nam xứ sở lạ lùng
Đến em thơ cũng hóa nhưng anh hùng
Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí…”

Và một Tnú gan góc, dũng cảm, được tôi luyện ý chí cách mạng từ thuở nhỏ ấy là tiền đề
để tạo nên một Tnú anh hùng về sau.
Giống như một cây xà nu vươn lên một cách kiêu dũng trong đau thương mất mát, sau
những năm bị tù đầy, Tnú đã vượt ngục trở về làng. Anh thực sự đã trưởng thành, trở thành
một chàng trai khỏe mạnh, kiên cường. Nguyễn Trung Thành đã xây dựng hình tượng nhân vật
Tnú với những vẻ đẹp của một con người lí tưởng: một chàng trai với bộ ngực rộng và hai cánh
tay khỏe chắc như lim, như một cây xà nu trưởng thành, cường tráng. Lúc này cán bộ Quyết
cũng đã hy sinh. Tnú đã tiếp tục nuôi dưỡng ngọn lửa đấu tranh CM, chuẩn bị vũ khí cho đồng
khởi. Chính anh đã đi bộ ba ngày đường lên núi Ngọc Linh mang về một gùi nặng đá mài
(không phải là một xà lét đựng đầy đá trắng như trước đây) để dân làng mài giáo mác, phát
nương rẫy và chuẩn bị cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng, núi rừng hùng vĩ. Và anh cũng đã xây
dựng gia đình với Mai, đứa con trai của hai người ra đời đã hứa hẹn trở thành một Tnú trong
tương lai…
Trang 18
Nếu ở những tác phẩm khác, các tác giả đã yên tâm dừng lại thì ở tác phẩm này, câu
chuyện về cuộc đời Tnú mới thực sự bắt đầu. Điều đó có nghĩa tác giả của “Rừng xà nu” đã đi tìm
một vấn đề lớn hơn.
Vâng, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng Tnú với tất cả những gì cần phải có ở một người
anh hung: Anh cường tráng như than cây xà nu, chảy trong huyết quản anh là dòng máu anh hùng
của xứ sở Tây Nguyên. Tâm hồn anh trong sạch như nước suối; mang sức mạnh hào phóng, mênh
mông và hoang dại của núi rừng. Anh thừa gan góc đến bướng bỉnh, thừa kiêu hãnh đến giàu tự ái.
Anh là người không biết sợ hãi, không biết khuất phục trước mũi sung, làn dao…Anh đã có lí
tưởng Đảng từ thuở ấu thơ, có mục đích sống để làm người chân chính. Sức mạnh của anh lại
được hun đúc them bởi tình yêu lớn của một người con gái xinh đẹp, luôn hiền dịu, nhịn
nhường…Vậy mà với chừng ấy cái có, người anh hùng Tnú vẫn phải chịu nhiều mất mát, đau
thương. Anh vẫn rơi vào bi kịch mới. Bi kịch của anh cũng là bi kịch một thời của dân
tộc.
Phần chính của câu chuyện bắt đầu khi quân giặc đã bao vây làng Xô Man quyết bóp chết
mầm CM từ trong trứng nước. Hiểu được vai trò của Tnú, chúng đã tìm mọi cách để bắt anh. Ban
đầu chúng bắt Dít khi cô bé ở ngoài rừng về. Chúng để Dít đứng giữa sân, lên đạn rồi bắn từ từ

từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân của Dít. Cô
bé khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười, Dít chùi nước mắt và im bặt. Đôi mắt Dít nhìn bọn
giặc “bình thản lạ lùng”. Không làm gì được cô bé, kẻ thù đã giở ngón đòn hiểm độc là tra tấn
mẹ con Mai. Từ chỗ nấp, Tnú nhìn thấy rõ mồn một. Hai bàn tay anh bíu chặt lấy gốc cây khi bọn
lính dẫn Mai ra giữa sân. Lòng căm thù, nỗi đau khi chứng kiến cảnh vợ con bị địch tra tấn đã
biến đôi mắt anh thành hai cục lửa lớn. Anh đã xông vào quân giặc nhưng anh đã không giành lại
được vợ con từ tay tử thần.
“ Tnú không cứu sống được Mai”, “Ừ, Tnú không cứu sống được mẹ con Mai”; Tnú
không cứu được vợ con”; “Nhớ không, Tnú , mày cũng không cứu song được vợ mày ” . Tác
giả đã để cho những lời ấy trở đi trở lại bốn lần nhấn mạnh nỗi day dứt như một điệp khúc
thương đau. Tnú phải trải qua những đau đớn tột cùng .Mẹ con Mai chết, anh bị kẻ thù bắt trói,
chúng đã tẩm nhựa xà nu và đốt mười đầu ngón tay anh. “ Mười ngón tay anh đã thành mười
ngọn đuốc”. Tnú không kêu van một tiếng nào, bởi cho đến lúc cận kề cái chết, trong Tnú vẫn
sống mãi câu nói của anh Quyết :“Người cộng sản không them kêu van”. “ Anh không cảm
thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu
anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Bằng những câu văn dồn dập,
giàu xúc cảm, với nhịp điệu mạnh mẽ quyết liệt: “Tnú không thèm, không thèm kêu van.
Nhưng trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi! Cháy! Không, Tnú sẽ không
kêu! Không!” nhà văn đã làm sống dậy phút giây đau thương nhưng kiên cường, bất khuất của
nhân vật. Kẻ thù thật độc ác. Chúng đã gieo rắc bao đau thương trên quê hương, trên đất nước
này, nhưng chúng không thể hủy diệt được lòng yêu nước của dân tộc ta. Nói như Tố Hữu:
“ Chúng muốn đốt ta thành tro bụi
Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơn ngát giữa đầm”
Hãy suy ngẫm nguyên nhân bi kịch của Tnú , tác giả để cho lịch sử phán truyền qua lời
cụ Mết. Cụ đã nhắc lại cho Tnú và mọi người: Tnú không cứu được vợ con và bị bắt vì
Trang 19
“trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng, chúng nó trói mày bằng dây rừng. Tau không
nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không…Tau đi vào rừng tìm bọn thanh

niên…chúng nó đi tìm giáo mác”. Cụ Mết đã khẳng định “Chúng nó đã cầm súng, mình
phải cầm giáo!”. Đó cũng chính là chân lí trong thời kì chống Mĩ- muốn chiến thắng kẻ thù
phải tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang.
Chân lí ấy đã được chứng minh trong những năm tháng tiếp theo của cuộc đời Tnú. Có
thể nói Tnú là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương bất khuất. Từ nỗi đau ấy, Tnú trừng trừng
ném căm giận vào kẻ thù. Mười ngọn đuốc từ đôi tay Tnú đã châm ngòi cho cuộc khởi nghĩa của
làng Xô Man. Tnú thét lên, tiếng thét ấy như một lời hiệu triệu, kêu gọi dân làng cầm vũ khí đứng
lên, “tiếng thét của anh vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn”. Tiếng chân người đạp
trên sàn nhà ưng ào ào. Cụ Mết đã chỉ huy dân làng trang bị giáo mác chém chết tiểu đội lính nguỵ
giải thoát cho Tnú. Khi cụ Mết đã có “lưỡi mác dài trong tay”, thanh niên đã có vũ khí trong tay
thì tình thế hoàn toàn thay đổi: “Thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết”, “lửa đã tắt trên
mười ngón tay Tnú …xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đám lửa …”. Đêm hôm ấy
cũng là đêm đồng khởi của dân làng. Hiệu lệnh đồng khởi được phát ra từ cụ Mết: “Thế là bắt
đầu rồi. Đốt lửa lên!”Một khi kẻ thù đã cầm súng thì chúng ta phải cầm giáo. Chân lý của cuộc
đấu tranh CM đã được tổng kết bằng cuộc đời Tnú. rừng Xô Man ào ào rung chuyển và ngọn lửa
đã bùng cháy khắp núi rừng.
Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú, để rồi sau đó anh trở thành anh giải phóng để
giải phóng buôn làng, giải phóng quê hương, đất nước với một nhận thức sâu sắc hơn. Mặc dù,
mỗi ngón tay chỉ còn lại hai đốt nhưng Tnú vẫn cầm súng, vẫn có thể bóp chết tên chỉ huy đồn
trong một trận chiến đấu. Với anh, thằng giặc nào “cũng là thằng Dục”- kẻ đã giết vợ con anh,
kẻ đã gieo bao đau thương cho dân làng Xô Man. Với Tnú, mối thù chung của Tây Nguyên,
của đất nước cũng là mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó là một nhận thức sâu sắc-
nhận thức mà Tnú rút ra từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng, của đất nước và từ cuộc chiến
đấu của quê hương.
Tuy vậy, Tnú hiện lên trong tác phẩm không chỉ là một anh hùng mang vẻ đẹp sử thi mà
trong anh còn ẩn chứa vẻ đẹp của người anh hùng trong cuộc sống. Anh có một trái tim tràn
đầy tình cảm. Trái tim ấy đã thổn thức để những kỉ niệm về Mai sống dậy khi về đến cây vả
đầu làng. Nơi ấy ngày xưa anh đã nắm lấy bàn tay của Mai. Trái tim ấy đã lặng đi khi nghe
tiếng chày giã gạo sau ba năm đi lực lượng, tiếng chày của Mai, của những người phụ nữ Strá,
tiếng chày đã nuôi anh lớn lên, đó là tiếng chày của tình nghĩa. Trái tim ấy đã đau tận cùng với

nỗi đau của quê hương, của gia đình khi chứng kiến trận đòn dã man của kẻ thù giáng xuống
vợ con anh. Nỗi đau ấy đã biến đôi mắt anh thành “hai cục lửa lớn” và anh đã xông vào giữa
bọn giặc để ôm lấy mẹ con Mai bằng “hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc”. Tnú là
biểu tượng của con người Việt Nam, những con người “Sống hiên ngang mà nhân ái, chan
hòa”. Chính bởi vẻ đẹp ấy mà nhân vật này trở nên rất thân thương, gần gũi.
Khi xây dựng hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt chú ý đến việc khắc hoạ
hình ảnh đôi bàn tay. Hình ảnh bàn tay Tnú là một nghệ thuật có sức ám ảnh lớn, đó là đôi bàn
tay trung thực và tình nghĩa từng cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho, từng cầm đá đập đầu
khi học không nhớ chữ, từng mang công văn đi làm liên lạc hiên ngang đặt lên bụng mà khẳng
định “Cộng sản ở đây”. Đó còn là bàn tay yêu thương, bàn tay nguyên vẹn mà Mai đã cầm lấy
khi Tnú thoát ngục Kon Tum, bàn tay ấy đã ôm lấy vợ con trong giây phút đau thương nhất.
Trang 20
Lúc đó Tnú chỉ có hai bàn tay trắng. Sau giây phút ấy bàn tay nguyên vẹn của Tnú không
còn nữa. Khi lũ giặc đốt mười đầu ngón tay của Tnú thì đôi bàn tay là chứng tích hùng hồn về
tội ác của kẻ thù, lòng căm thù đã khiến đôi bàn tay của Tnú thành ngọn lửa. Với đôi bàn tay
đầy thương tích Tnú vẫn tiếp tục cầm giáo, cầm súng để chiến đấu, với đôi bàn tay ấy, Tnú đã
chiến đấu để giải phóng quê hương.
Câu chuyện bi tráng của cuộc đời Tnú không dừng lại ở số phận cá nhân mà còn mang ý
nghĩa tiêu biểu cho cuộc sống chiến đấu của cả một dân tộc. Rõ ràng Tnú là một nhân vật sử
thi, mang số phận lịch sử của cả một dân tộc. Để khắc họa tính cách nhân vật này, nhà văn đã
sử dụng giọng điệu trần thuật mang màu sắc anh hùng ca; cách trần thuật khéo léo, linh hoạt;
cùng với việc lựa chọn những chi tiết tiêu biểu có ý nghĩa khái quát cao, những chi tiết giàu
chất tạo hình. Chính vì thế mà Tnú không chỉ tạo nên những rung cảm sâu sắc trong lòng
người đọc ở sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt, ở tư thế hiên ngang bất khuất, kiên cường, anh
dũng gan góc, mà còn ở những xúc động, những tình cảm thầm kín, sâu sắc trong trái tim anh.
Bên cạnh đó là nghệ thuật tạo tình huống: Tnú về thăm làng , hai bàn tay anh gợi nhắc lại quá
khứ đau thương. Tác giả kể về cuộc đời Tnú nhưng lồng vào đó là lịch sử anh hùng của dân
làng Xô Man. Từ đó làm nổi bật chân lí: người anh hùng không phải xa lạ mà là những người
được sinh ra từ nhân dân, gắn kết với cộng đồng. Vì thế, cuộc chiến tranh của dân ta là cuộc
chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện.

Trong ngôn ngữ của dân tộc Strá, tên Tnú có nghĩa là: người tài giỏi, người anh hùng
của bộ lạc. Nhân vật Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm, tiêu biểu cho vẻ đẹp của Tây
Nguyên hùng vĩ và bất khuất, kiên cường…Ta như tìm thấy được ở Tnú hình ảnh Đăm Săn,
Xinh Nhã thuở xưa, của anh hùng Núp trong kháng chiến chống Pháp và cũng là hình ảnh của
bao thanh niên miền nam đang trưởng thành trong khói lửa chiến tranh ác liệt. Họ đã xác định
con đường của thanh niên Việt Nam chỉ có thể là con đường cách mạng, đánh đuổi ngoại xâm,
giành độc lập cho dân tộc. Chính vì xác định được lí tưởng đúng đắn ấy mà họ sẵn sàng đối
mặt với cái chết, mỉm cười thách thức khi đứng trước mũi súng của kẻ thù. Hình ảnh Tnú
không thể không gợi nhớ đến anh Lê Hồng Tư, Lê Văn Việt, Lê Văn Vịnh (trong Tiểu đội anh
hùng giết Mĩ) Nguyễn Văn Trỗi với “cái chết làm nên lịch sử”, chị Võ Thị Thắng (với nụ cười
chiến thắng trước tòa án quân thù)…Đó là những con người nguyện dùng trái tim để thắp lên
ngọn lửa cho dân tộc hôm nay và mai sau.
Kết luận:Truyện ngắn “Rừng xà nu” là chuyện của một con người nhưng qua đó ta
thấy số phận của một dân tộc. Từ câu chuyện của Tnú và làng Xô Man, tác giả đã khái
quát lên sự trưởng thành của Cách mạng miền Nam trong những tháng ngày trước và
sau đồng khởi. Đọc “Rừng xà nu” hôm nay, ta vẫn thấy âm vang hào hùng của một thời
chống Mỹ, một thời có những con người đẹp như một huyền thoại, những con người
“Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”.
Trang 21

×