LUẬN VĂN:
Giải pháp phát triển du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn ở Hà Nội
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội hiện đại, du lịch trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời
sống văn hóa - xã hội. Du lịch được xem là một trong những ngành kinh tế quan trọng
hàng đầu vì những lợi ích to lớn về kinh tế - xã hội mà nó đem lại. Nhiều quốc gia trong đó
có Việt Nam đã coi phát triển du lịch là một chiến lược quan trọng để phát triển đất nước và
hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Là một ngành kinh tế quan trọng của Hà Nội, du lịch đã có bước phát triển mạnh
và đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều mặt: hệ thống khách sạn nhà hàng có quy mô
dẫn đầu cả nước, vận chuyển khách du lịch tăng nhanh về số lượng, đổi mới về chất lượng,
kết cấu hạ tầng phục vụ du lịch đã phát triển mạnh, đặc biệt là giao thông vận tải, bưu
chính viễn thông, điện nước. Nhờ đó, lượng khách du lịch trong nước và quốc tế trên địa
bàn Thủ đô tăng lên rõ rệt cả về số lượng và tỷ trọng. Hàng năm, ngành du lịch Thủ đô đã
góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm nâng cao đời sống của
nhân dân.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, sự phát triển của du lịch Hà Nội trong thời
gian qua chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của Thủ đô, của đất nước. Đến nay, nhiều
tiềm năng chưa được khai thác tốt để phát triển ngành kinh tế quan trọng này. Vì vậy, tỷ
trọng doanh thu của du lịch so với các ngành kinh tế khác của Hà Nội còn thấp. Du lịch
chưa trở thành một ngành mũi nhọn như Đại hội Đảng bộ thành phố đã nhiều lần đặt ra.
Để du lịch Hà Nội đóng góp nhiều hơn nữa vào sự nghiệp kinh tế - xã hội, trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, Đại hội Đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ thành phố Hà Nội đã
chỉ rõ: "Tiếp tục đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất, đa dạng hóa các loại hình, nâng cao
chất lượng các sản phẩm du lịch, phấn đấu doanh thu của ngành du lịch hàng năm tăng từ
16 - 18%; đưa du lịch trở thành ngành kinh tế trọng điểm của Thủ đô".
Trong điều kiện hiện nay, với xu thế hội nhập kinh tề quốc tế, giao lưu kinh tế -
văn hóa tăng mạnh, nhu cầu về du lịch tăng nhanh. Do vậy, vấn đề bức xúc đặt ra yêu cầu
phát triển mạnh ngành du lịch. Để du lịch Thủ đô trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, cần
tìm những biện pháp phù hợp nhằm huy động nguồn lực, phát triển hạ tầng du lịch hiện đại.
Vì vậy, việc tìm các giải pháp phát triển du lịch là vấn đề bức xúc, đồng thời là vấn đề có ý
nghĩa cơ bản lâu dài đối với kinh tế Thủ đô. Đó là cũng là lý do chủ yếu của việc lựa chọn
đề tài nghiên cứu: "Giải pháp phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở Hà
Nội".
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do du lịch có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nên đã có rất nhiều ngành, địa
phương và cá nhân quan tâm nghiên cứu. Hiện đã có một số công trình nghiên cứu trong
lĩnh vực này, trong đó có một số công trình tiêu biểu liên quan đến đề tài luận văn như sau:
Những giải pháp chủ yếu phát triển du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũ
nhọn, của TS. Trần Hữu Nam - nguyên Giám đốc Công ty Khách sạn Du lịch Thắng Lợi.
Một số giải pháp chủ yếu đưa du lịch Hà Nội trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
trong tình hình mới, của TS. Nguyễn Quang Lân - nguyên Giám đốc Sở Du lịch Hà Nội.
Mở rộng thị phần lữ hành của Công ty Thương mại Dịch vụ Du lịch Tân Định -
thực trạng và giải pháp, của tác giả Nguyễn Việt Hưng, luận văn thạc sĩ, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
Tuy đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về du lịch Hà Nội, song nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện và dưới góc độ quản lý kinh tế sau khi nước ta chính
thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì gần như
chưa có công trình nào. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải tăng cường nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn để đề xuất những giải pháp
chủ yếu nhằm phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Thủ đô.
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn đặt ra là:
- Làm rõ cơ sở lý luận về du lịch và phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn.
- Đánh giá thực trạng ngành du lịch Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch Thủ đô trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn trên địa bàn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu là phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, trong
đó bao gồm cả phát triển cơ sở hạ tầng du lịch và dịch vụ du lịch.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu tập trung làm rõ ngành du lịch như một bộ
phận kinh tế trên địa bàn Thủ đô. Việc phân tích thực trạng ngành du lịch chủ yếu từ năm
1995 đến nay, các giải pháp định hướng, đổi mới cho giai đoạn 2007 - 2012.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin; trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài dựa trên các phương pháp chuyên ngành như: phương
pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp toán học, phương pháp thống kê, phương pháp xã hội
học. Trong đó, một số phương pháp cụ thể được chú trọng vận dụng trong quá trình nghiên
cứu luận văn gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, mô hình hóa
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Luận văn đã có một số đóng góp về mặt khoa học như sau:
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về du lịch và phát triển du
lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng du lịch trên địa bàn Hà Nội và chỉ rõ những hạn chế,
trở ngại và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp phù hợp và khả thi để thúc đẩy du lịch Thủ đô thành ngành
kinh tế mũi nhọn.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 105 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận về du lịch và phát triển du lịch
thành ngành kinh tế mũi nhọn trong điều kiện hiện nay
1.1. Tổng quan về du lịch và phát triển du lịch
1.1.1. Du lịch và các yếu tố cấu thành của hoạt động du lịch
Du lịch có từ xa xưa, gắn với ước mơ của con người, vì đặc tính cơ bản của con
người là vừa thích quen, vừa thích lạ, vừa muốn đi tìm hiểu cái quen, cái lạ để thưởng thức
cảnh đẹp thiên nhiên, con người của các nền văn hóa khác nhau mà quê hương mình chưa
có hoặc không có, qua đó mà tăng thêm tri thức, tình cảm, sức khỏe.
Đồng thời với sự phát triển của văn minh nhân loại, du lịch ngày càng trở thành
một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống.
Thoạt đầu, con người quan niệm rất đơn giản về du lịch. Họ cho rằng du lịch là đi
chơi, đi dã ngoại. Du lịch trong tiếng Anh là tour, có nghĩa là chuyến tham quan ngắn
vòng quanh thành phố. Trong tiếng Pháp, "tour" là danh từ có nghĩa là vòng (chuyển
động).
Trong tiếng Việt, "du lịch" là từ ghép: "du" là đi chơi, đi dạo và "lịch" là lịch lãm,
từng trải, hiểu biết. Du lịch là biểu thị việc đi chơi của khách, nhằm tăng thêm hiểu biết,
tích lũy kiến thức.
Trên thế giới, trước thế kỷ XIX, du lịch chỉ là hiện tượng đơn lẻ của một số ít
người thuộc tầng lớp giàu có và người ta coi du lịch như một hiện tượng nhân văn, làm
phong phú thêm nhận thức của con người. Sau đại chiến thế giới lần thứ II, khi dòng người
đi du lịch ngày càng tăng thì việc giải quyết những nhu cầu về nơi ăn, chốn ở, phương tiện
vận chuyển, vui chơi giải trí v.v , cho du khách đã trở thành cơ hội kinh doanh cho các
doanh nghiệp. Lúc này, du lịch không chỉ là hiện tượng nhân văn mà còn là một hoạt động
kinh tế. Vì vậy, người ta cho rằng: du lịch là toàn bộ những hoạt động và công việc phối
hợp, kết hợp nhằm thỏa mãn những yêu cầu của khách du lịch. Giáo sư Edmod Picasa
(người Bỉ) cho rằng: "Du lịch là tập hợp các tổ chức và các chức năng của nó, không chỉ
về phương diện khách vãng lai mà cái chính là phương diện về giá trị mà khách du lịch
mang lại".
Khi du lịch càng phát triển, các hoạt động kinh doanh du lịch càng gắn bó và phối
hợp với nhau tạo thành một hệ thống rộng lớn và chặt chẽ. Lúc này, du lịch được coi là một
ngành chuyển các nguồn nhân lực, vốn, nguyên liệu, vật liệu thành những sản phẩm dịch vụ
đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
Hai nhà kinh tế Thụy Sĩ là Claude Kaspa và S.A.Gallen (1971) đã viết: "Du lịch là
tổng hợp những mối quan hệ và những hoạt động tạo ra do sự di chuyển và dừng lại của
những người mà vị trí của nơi dừng không phải là nơi cư trú và cũng không phải là nơi
hành nghề của chính họ" [44].
Như vậy, các tác giả trên đã đưa ra định nghĩa du lịch theo nghĩa rộng. Theo đó,
du lịch không chỉ liên quan đến khách du lịch, mà còn đề cập đến các hoạt động sản xuất,
kinh doanh của các cơ sở và cá nhân phục vụ cho các nhu cầu của khách du lịch tại nơi mà
khách đi qua và ở lại. Các hoạt động này bao gồm: ăn, ở, vận chuyển, vui chơi giải trí,
hướng dẫn tham quan v.v
Luật Du lịch được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua (ngày 14 tháng 6
năm 2005) đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: "Du lịch là các hoạt động có liên quan
đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu
cầu thăm quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định" [29].
Như vậy, du lịch có hai nghĩa: Thứ nhất, du lịch là cuộc hành trình và lưu trú tạm
thời của con người ở một nơi khác (cách xa nơi ở thường xuyên của họ), để nghỉ dưỡng,
chữa bệnh, thỏa mãn các nhu câu về văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, trao đổi công việc. Thứ
hai, du lịch được hiểu là tập hợp các hoạt động kinh doanh nhằm hỗ trợ, giúp đỡ, thực hiện
tốt mọi nhu cầu của khách du lịch. Nói cách khác, du lịch là tập hợp các hoạt động giữa
cung du lịch và cầu du lịch tạo nên ngành du lịch.
Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du
lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch. Trong đó,
chủ thể quan trọng của hoạt động du lịch là khách du lịch. Đó là người đi du lịch hoặc kết
hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.
Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách
du lịch trong chuyến đi du lịch.
Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn
uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu
cơ bản của khách du lịch gồm: nhu cầu lưu trú, ăn uống; nhu cầu vận chuyển đi lại; nhu
cầu giải trí, cảm thụ cái đẹp; nhu cầu mua sắm và các nhu cầu khác. Để thỏa mãn được các
nhu cầu đó, ngành du lịch tổ chức cung cấp các dịch vụ du lịch cơ bản và thường được gọi
tắt là cung du lịch. Các dịch vụ cơ bản về du lịch như Hình 1.1 dưới đây.
Hình 1.1. Các loại hình dịch vụ du lịch
Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của
ngành du lịch thế giới, các nhà khoa học nghiên cứu về du lịch không ngừng đi sâu và đã
đưa ra rất nhiều các quan điểm có tính chất gợi mở. Các học giả người Mỹ như Mathieson
và Wall cho rằng:
Các loại hình
dịch vụ
mua sắm
- Hàng lưu
niệm
- Quà tặng
- Đồ thể
thao
- Hàng hoá
khác
lưu trú,
ăn uống
- Lưu trú:
hotel,
motel,
bungalow,
làng du
lịch,
camping
…
giảI trí
- Tham
quan, vãn
cảnh
- Thăm bảo
tàng
- Thể thao
-
L
ễ
h
ội
vận chuyển
- Đường bộ
- Đường
sắt
- Đường
thủy
- Đường
không
Du lịch là ngành có hàng loạt mối liên quan lẫn nhau để phục vụ khách
du lịch trong và ngoài nước. Du lịch liên quan đến du khách, hình thức lữ hành,
cung cấp ăn, ở, thiết bị và các vật dụng khác, nó cấu thành một khái niệm tổng
hợp không ngừng biến đổi theo thời gian và hoàn cảnh, một khái niệm đang
hình thành và đang thống nhất [7].
Một học giả Mêhicô trong cuốn "Ngành du lịch là một giao lưu của loài người" cho
rằng: "Ngành du lịch có thể được xem là tổng hợp các mối quan hệ được hình thành nên nhằm
cung cấp dịch vụ và các tiện lợi khác cho khách du lịch".
Các khái niệm và định nghĩa về ngành du lịch trên đây tuy không thật giống nhau
nhưng đều có hai điểm tương đồng. Thứ nhất, ngành du lịch là một ngành kinh tế có tính
tổng hợp do hàng loạt ngành liên quan hợp thành; Thứ hai, nhiệm vụ của ngành du lịch là
cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho khách du lịch. Điều 1 Pháp lệnh Du lịch đã chỉ rõ:
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung sâu
sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao; phát triển du lịch nhằm
đáp ứng nhu cầu thăm quan giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và du khách
quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội đất
nước [40].
Dựa vào cách xác định trên có thể hiểu du lịch là ngành kinh tế có tính tổng hợp,
lấy khách du lịch làm đối tượng, cung cấp sản phẩm, dịch vụ du lịch cần thiết cho khách
du lịch.
Cách hiểu này đã một phần lý giải tại sao đối với nhiều quốc gia, trong bảng phân
ngành của nền kinh tế quốc dân đã xếp du lịch là ngành dịch vụ. Hoạt động kinh doanh du
lịch chủ yếu là các dịch vụ, nhằm trợ giúp cho con người trong quá trình đi thăm quan, du
lịch như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ hướng dẫn, dịch vụ làm các thủ tục hải quan liên
quan đến quá trình du lịch, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, dịch vụ vui chơi giải trí Có
thể minh họa qua Bảng 1.1 dưới đây:
Bảng 1.1: Sản phẩm của một số tổ chức kinh doanh du lịch
Cơ sở cung cấp Sản phẩm
Hãng hàng không Dịch vụ vận chuyển hàng không
Tàu biển Dịch vụ vận chuyển đường biển
Tàu thủy Dịch vụ vận chuyển đường thủy
Đường sắt Dịch vụ vận chuyển đường sắt
Đường bộ Dịch vụ vận chuyển bằng ô tô, mô tô
Lữ hành Dịch vụ thiết kế chương trình du lịch, dịch vụ điều
hành du lịch, hướng dẫn du lịch
Khách sạn Dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống và giải trí
Nhà hàng Chế biến và phục vụ các món ăn, đồ uống.
Cơ sở giải trí Dịch vụ phục vụ giải trí
Cơ sở thăm quan Dịch vụ phục vụ thăm quan
Các cơ sở bán hàng hóa Dịch vụ bán hàng
Các cơ sở bưu điện Dịch vụ bưu chính viễn thông
Các ngân hàng Dịch vụ chuyển hoặc đổi tiền
Các công ty bảo hiểm Dịch vụ bảo hiểm
Các cơ sở y tế Dịch vụ y tế
Các cơ sở Dịch vụ
Các hôi trợ Dịch vụ
Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam.
Cách hiểu này cũng có ý nghĩa quan trọng trong quản lý vĩ mô về du lịch của mỗi
quốc gia khi định hướng phát triển dịch vụ du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ
cấu nền kinh tế quốc dân.
Cấu trúc ngành du lịch hiện nay bao gồm:
- Kinh doanh lữ hành nội địa và quốc tế.
- Kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch.
- Kinh doanh dịch vụ ăn uống.
- Kinh doanh các dịch vụ bổ sung.
- Kinh doanh vận chuyển khách du lịch.
1.1.2. Vai trò của du lịch đối với phát triển kinh tế - xã hội
1.1.2.1. Vai trò về mặt kinh tế
Ngành du lịch được các nước trên thế giới coi là ngành công nghiệp không khói, là
"con gà đẻ trứng vàng", tức là ngành thu hồi vốn nhanh, tạo nhiều công ăn việc làm, bán hàng
tiếp thị xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ, ngoại giao và các quan hệ khác. Ngành công
nghiệp du lịch được các nước trên thế giới thừa nhận là một ngành kinh doanh có lợi
nhuận và phát triển với nhịp tăng trưởng cao, là nguồn đóng góp chủ yếu cho kinh tế - xã
hội. Theo tính toán của Hội đồng Du lịch lữ hành thế giới (WTTC), thu nhập của du lịch
bao gồm cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa năm 2005 là 6,2 nghìn tỷ USD, tăng 5,4% so với
năm trước, chiếm 3,8% GDP của thế giới. Nếu tính cả những đóng góp trực tiếp và gián
tiếp thì ngành du lịch chiếm 10,6% GDP toàn thế giới. Hàng năm, ngành này tạo ra 74,2
triệu việc làm, chiếm 2,8% lao động trên toàn cầu [41].
Giá trị của du lịch còn biểu hiện ở chỗ nó là ngành thu ngoại tệ, là ngành xuất
khẩu tại chỗ. ở rất nhiều quốc gia, du lịch là dịch vụ xuất khẩu chủ yếu và trở thành động
lực chủ yếu để phát triển kinh tế. Theo Hiệp hội Du lịch châu á - Thái Bình Dương
(PATA), hàng năm khách du lịch đem lại thu nhập cho khu vực châu á - Thái Bình Dương
khoảng 35 tỷ USD. Trong 3 năm tới, toàn bộ khu vực này sẽ thu được khoảng 110 tỷ USD
từ hoạt động du lịch, trong đó Trung Quốc dự kiến đạt 36 tỷ USD, Thái Lan 13 tỷ USD,
Malaysia 11 tỷ USD và Hàn Quốc khoảng 7 tỷ USD.
ở Mỹ, hoạt động du lịch được coi là động lực kinh tế xuất khẩu. Hàng năm, có trên
46 triệu lượt khách đến nước này, chiếm 6% thị phần khách du lịch thế giới và mang lại
hơn 75 tỷ USD hàng năm [41].
Thực tiễn cho thấy, khách du lịch tiêu thụ một khối lượng lớn nông sản thực phẩm
dưới dạng các món ăn, đồ uống, mua sắm hàng hóa, sản phẩm thủ công mỹ nghệ Nhờ
vậy, các địa phương hoặc quốc gia thông qua hoạt động du lịch thu được ngoại tệ tại chỗ
với hiệu quả cao. Xuất khẩu hàng hóa theo đường du lịch có lợi hơn nhiều so với con
đường ngoại thương. Trước hết, một phần lớn đối tượng mua bán hàng hóa và dịch vụ là
lưu trú, ăn uống, vận chuyển, dịch vụ bổ sung, do vậy xuất khẩu qua con đường du lịch là
xuất đa dạng dịch vụ, đó là điều mà ngoại thương không làm được. Ngoài ra, đối tượng
xuất khẩu của du lịch quốc tế còn là hàng ăn, uống, rau quả, hàng lưu niệm v.v là những
mặt hàng rất khó xuất khẩu theo con đường ngoại thương, đồng thời tiết kiệm được các chi
phí về lưu kho, bảo quản, bao bì, đóng gói, vận chuyển, hao hụt do xuất khẩu.
Hiệu quả kinh tế cao của du lịch còn thể hiện ở thu nhập. Theo tính toán của các
chuyên gia kinh tế, mỗi USD doanh thu từ du lịch sẽ tạo ra từ 2-3 USD thu nhập gia tăng tùy
thuộc vào khối lượng hàng hóa và dịch vụ được các nhà kinh doanh trong nước cung cấp.
Với sự gia tăng thu nhập ngoại tệ, du lịch đã góp phần đáng kể làm cân bằng cán cân thanh
toán của mỗi quốc gia.
Hoạt động du lịch tác động mạnh đến cơ cấu cán cân thu, chi của vùng du lịch, của
một đất nước. Đối với du lịch quốc tế, việc mang ngoại tệ đến đổi và chi tiêu ở khu vực du
lịch làm tăng tổng số tiền trong cán cân thu chi của vùng và của đất nước. Có thể thấy,
nguồn thu nhập ngoại tệ từ khách du lịch quốc tế của nhiều nước ngày càng tăng. Chẳng
hạn, Mỹ luôn là nước đứng đầu thế giới về thu nhập từ du lịch quốc tế. Năm 1990, ngành
du lịch nước này mang lại nguồn thu là 43 tỷ USD, thì đến năm 1996 đã lên tới 64,4 tỷ
USD, đến năm 2002 là 80,7 tỷ USD. Tiếp đến là Tây Ban Nha, năm 1996 thu được 28,4 tỷ
USD, thì năm 2002 con số này lên đến 38,7 tỷ USD. Pháp năm 1996 thu được 28,2 tỷ
USD, năm 2002 thu được 33,5 tỷ USD [43].
Đối với du lịch nội địa, việc tiêu tiền của dân cư ở vùng du lịch mặc dù chỉ gây
biến động trong cơ cấu cán cân thu chi của nhân dân theo vùng, không làm thay đổi tổng
số như tác động của du lịch quốc tế. Song sự phát triển của du lịch nội địa lại sử dụng được
triệt để công suất của các cơ sở vật chất kỹ thuật, đảm bảo cho đời sống của nhân dân địa
phương được sử dụng các dịch vụ của cơ sở kinh doanh du lịch, huy động được tiền nhàn
rỗi của nhân dân, đồng thời cũng là một trong những hình thức tái sản xuất sức lao động
của con người, lại vừa là biện pháp để nâng cao kiến thức, giáo dục chính trị tư tưởng cho
nhân dân lao động, càng làm tăng thêm tình yêu quê hương đất nước.
1.1.2.2. Về mặt xã hội
Trong thời đại hiện nay, việc làm cho người lao động là vấn đề bức xúc nhất của
các quốc gia. Du lịch phát triển tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần đáng
kể giảm tỷ lệ thất nghiệp, thu hút một số lượng lao động rất lớn, nâng cao mức sống của
người dân. Đối với nhiều người, du lịch được nhìn nhận như một nghề kinh doanh béo bở,
dễ làm. Vì vậy, xu hướng chuyển đổi hay chuyển hướng sang kinh doanh du lịch là một
động cơ tốt để mọi người trau dồi, bổ sung các kiến thức cần thiết như ngoại ngữ, giao
tiếp, văn hóa, lịch sử v.v
Theo tính toán của các chuyên gia du lịch, cứ một việc làm trực tiếp trong ngành
du lịch sẽ tạo ra từ 1,3 - 3,3 việc làm của ngành khác. Theo cách tính toán này, lao động
trực tiếp, lao động gián tiếp phục vụ cho ngành du lịch chiếm khoảng 10,7% tổng số lao
động của toàn thế giới. ở Việt Nam năm 2006 có khoảng 70 vạn lao động du lịch (lao động
làm việc trực tiếp và lao động gián tiếp) và hàng năm du lịch cần có thêm 25.000 lao động
mới và cần phải bồi dưỡng, đào tạo lại số lượng lao động tương đương [27, tr. 19]. Phát
triển du lịch góp phần ngăn cản luồng di dân tự do từ nông thôn lên thành phố vì du lịch đã
tạo điều kiện để người nông dân kiếm được việc làm ngay trên quê hương của mình bằng
các nghề chăn nuôi, trồng trọt, làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống phục vụ
khách du lịch.
Phát triển du lịch góp phần nâng cao dân trí, làm phong phú thêm nhận thức, đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đồng thời góp phần mở rộng và củng cố mối quan hệ
hợp tác, ngoại giao, giao lưu kinh tế, văn hóa khoa học, kỹ thuật, tạo mối quan hệ thân
thiện, hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, giữa các quốc gia. Phát triển du lịch sẽ góp phần
xóa đói giảm nghèo, sẽ làm thay đổi diện mạo của một vùng, của một quốc gia ngày càng
văn minh hơn, tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên, hậu quả đầu tiên về mặt xã hội khi phát triển du lịch có thể làm phát
sinh và gia tăng các tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, ma túy. Thậm chí ở một số nước còn
tổ chức nhiều nhà chứa phục vụ khách, nguy hiểm hơn, giờ đây còn xuất hiện ngày càng
gia tăng tình dục trẻ em. Nhiều khách sạn núp dưới chiêu bài dancing, karaoke, cắt tóc thư
giãn, để tổ chức mại dâm.
1.1.2.3. Về mặt văn hóa
Mỗi dân tộc trên thế giới có một nền văn hóa truyền thống riêng, được hun đúc từ
bao đời. Du lịch là một trong những điều kiện quan trọng để các dân tộc giao lưu văn hóa
với nhau. Những yếu tố văn minh trong nền văn hóa nhân loại càng phát triển càng kích
thích phát triển những nét độc đáo của văn hóa dân tộc. Văn hóa dân tộc phát triển góp
phần làm phong phú, đa dạng thêm nền văn hóa nhân loại, nâng cao trí thức của con người.
Khi đi du lịch, khách du lịch luôn muốn được thâm nhập vào các hoạt động văn hóa của
địa phương và con người địa phương.
Đối với các quốc gia, du lịch có vai trò làm tăng cường sự hiểu biết, tình hữu nghị
giữa các dân tộc, là sứ giả của hòa bình và hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc.
Đối với một quốc gia, du lịch là điều kiện để mọi người hiểu nhau hơn, tăng thêm
tình đoàn kết cộng đồng, điều này rất dễ nhận thấy ở lứa tuổi thanh niên, ở những cơ quan
xí nghiệp có chế độ làm việc ít tập trung hay làm việc căng thẳng theo dây chuyền v.v
Những chuyến tham quan du lịch tại các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, có tác
dụng giáo dục tinh thần yêu nước, khơi dậy lòng tự hào dân tộc. Khi tiếp xúc trực tiếp với
các di tích lịch sử, các công trình văn hóa của dân tộc, được sự giải thích cặn kẽ của hướng
dẫn viên, du khách sẽ thực sự cảm nhận được giá trị to lớn của của các di tích, các công
trình văn hóa (có thể không có quy mô đồ sộ trước mắt) mà thường ngày không để ý tới.
Cũng chính nhờ có du lịch mà cuộc sống cộng đồng trở nên sôi động hơn, các nền văn hóa
có điều kiện hòa nhập với nhau, làm cho đời sống văn hóa tinh thần của con người trở nên
phong phú hơn.
Du lịch sẽ là động lực trực tiếp và gián tiếp nhằm chấn hưng, bảo tồn, bảo tàng,
phát triển những tài sản văn hóa quốc gia, sẽ khôi phục và phát triển các di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể, các loại hình nghệ thuật truyền thống, các nghề thủ công mỹ nghệ
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, nhờ du lịch phát triển mà một số công trình kiến trúc như
đền đài, miếu, chùa, cung điện được cứu khỏi sự sụp đổ. Những loại hình nghệ thuật
truyền thống như tuồng, chèo, ca Huế, múa cung đình có nguy cơ bị mai một, lãng quên
nhờ có du lịch nay đã được khôi phục và phát triển.
Nhưng sự phát triển du lịch cũng đã kéo theo cả những nền văn hóa của các nước
khác thông qua khách du lịch trong đó có cả những văn hóa, lối sống trái với thuần phong
mỹ tục, làm xói mòn hoặc mất đi bản sắc văn hóa địa phương, dân tộc.
1.1.2.4. Về môi trường
Phát triển du lịch có tác dụng thúc đẩy cải tạo môi trường, làm cho cảnh quan, môi
trường sinh thái xanh, sạch, đẹp hơn. Mặt khác, phát triển du lịch là động lực thúc đẩy xây
dựng các cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu rừng
quốc gia, các sân chim Là điều kiện tốt để bảo vệ các loài động, thực vật quí hiếm, bảo
vệ môi trường.
Bên cạnh những mặt tích cực, phát triển du lịch có nguy cơ làm hủy hoại, phá vỡ
hệ sinh thái môi trường, làm ô nhiễm nguồn nước, tàn phá các danh lam thắng cảnh, làm
cạn kiệt dần nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Du lịch là ngành hoạt động đòi hỏi môi trường và khoảng không rất lớn, là yếu tố
nội tại của ngành du lịch. Văn hóa và môi trường là nguyên liệu thô của ngành công
nghiệp du lịch. Vấn đề đặt ra cho người lãnh đạo, người quản lý, người kinh doanh là phải
có chiến lược phát triển du lịch đúng đắn để phát huy mạnh mẽ những thế mạnh và hạn chế
đến mức tối đa những mặt tiêu cực do phát triển du lịch đem lại. Đồng thời, đây cũng là
trách nhiệm mỗi người dân, là trách nhiệm chung của toàn xã hội.
1.1.3. Các nhân tố tác động đến phát triển ngành du lịch thành ngành kinh tế
mũi nhọn
1.1.3.1. Các nguồn lực về du lịch
Các nguồn lực du lịch là những tác nhân rất quan trọng tác động mạnh đến phát
triển du lịch. Có nhiều nguồn lực du lịch, dưới đây là một số nguồn lực du lịch chủ yếu.
Một là, nguồn lực thiên nhiên. Nguồn lực này bao gồm vị trí địa lý, tài nguyên
thiên nhiên, khí hậu, rừng, núi, bờ biển, vịnh, hang động, sông, thác nước, suối, môi trường
sinh thái Cụ thể đó là sự thuận lợi do vị trí địa lý mang lại như thông thương với các nước
dễ dàng, có đường biển, đường bộ, đường hàng không là trung tâm của những vùng kinh tế
phát triển năng động trên thế giới. Đây là một nhân tố cơ bản để phát triển du lịch. Quốc
gia nào có nhiều tài nguyên tự nhiên thì quốc gia đó có tiềm năng lớn để thu hút được
nhiều khách du lịch đến tham quan.
Hai là, nguồn lực nhân văn bao gồm bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa, thể
hiện bằng hệ thống các di tích lịch sử, di tích văn hóa, phong tục tập quán, lễ hội, các món
ăn uống dân tộc, các loại hình nghệ thuật, các lối sống, nếp sống của các tộc người mang
bản sắc độc đáo còn lưu giữ được đến ngày nay. Những nguồn lực ấy được phân loại theo
chiều thời gian lịch sử từ cổ đại, trung đại, cận đại, hiện đại. Chẳng hạn, nền văn minh Ai
Cập cổ đại với Kim tự tháp nổi tiếng; nền văn hóa Hy Lạp cổ đại với nhiều thành tựu đặc
sắc về văn hóa nghệ thuật, toán học, vật lý, hóa học v.v , có vai trò rất quan trọng đối với
phát triển du lịch.
Ba là, dân cư và lao động là một nguồn lực để phát triển du lịch thành ngành kinh
tế mũi nhọn, bao gồm hai yếu tố chính là người làm ra sản phẩm du lịch và người tiêu thụ
sản phẩm du lịch.
Thời gian nhàn rỗi và mức sống, thu nhập của người dân là điều kiện quan trọng
nhất tạo nên khối lượng khách du lịch. Điều kiện này phụ thuộc vào chế độ làm việc, vào
sức sản xuất, phát triển sản xuất cũng như thu nhập của người dân mỗi quốc gia. Các
chuyên gia du lịch cho rằng, ở các nước kinh tế phát triển, khi thu nhập của người dân tăng
1%, thì chi phí cho du lịch tăng 1,5%. Dân cư và lao động là nguồn cung cấp lao động cho
các hoạt động dịch vụ du lịch. Thực tế cho thấy việc phục vụ một khách du lịch có thể tạo
ra việc làm cho 3-5 lao động. Với một tỷ lệ đó, rõ ràng một nước muốn phát triển du lịch,
phải có thị trường sức lao động tương ứng.
Trình độ văn hóa của người dân cũng góp phần vào phát triển du lịch. Con người
thân thiện, hiền hòa, mến khách, ứng xử văn minh lịch sự, tạo nhiều thiện cảm cho du
khách, khiến họ truyền bá những điều tốt đẹp về đất nước, con người của điểm đến cho
những người thân quen, có thể tạo thành làn sóng du lịch mới.
Phần lớn những người khách tham gia vào hành trình du lịch, đều là người có trình
độ văn hóa, nhất là những người đi du lịch nước ngoài. Người có trình độ văn hóa càng
cao, thì nhu cầu đòi hỏi đi du lịch càng lớn, đòi hỏi chất lượng dịch vụ càng phải hoàn
thiện và đa dạng.
Bốn là, cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị hạ tầng. Đây là một nguồn lực, một điều
kiện không thể thiếu để phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Cơ sở vật chất kỹ
thuật và kết cấu hạ tầng tốt, đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch, ngược
lại sẽ gây khó khăn cho phát triển du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng bao
gồm:
- Cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị hạ tầng phục vụ ăn uống, lưu trú: là cơ sở vật
chất kỹ thuật nhằm đảm bảo nơi ăn, chốn ở cho khách du lịch. Đây là hai dịch vụ đặc trưng
nhất của hoạt động kinh doanh du lịch, chúng đáp ứng nhu cầu bản năng của con người (ăn
và ngủ), khi họ sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Dịch vụ lưu trú và dịch vụ ăn
uống chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành của các sản phẩm du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của dịch vụ ăn uống: bao gồm toàn bộ các phương tiện vật
chất, tham gia vào việc sản xuất và cung ứng các dịch vụ hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu ăn
uống và giải trí của du khách. Chúng bao gồm tất cả các phòng ăn, phòng trà, nhà kho, nhà
bếp, các trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho việc chế biến và các trang thiết bị, dụng cụ phục
vụ cho khách ăn.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của dịch vụ lưu trú: bao gồm tất cả các phòng ngủ, các tài
sản, trang thiết bị tiện nghi phục vụ khách ngủ qua đêm. Các loại hình cơ sở lưu trú gồm:
hotel, motel, làng du lịch, camping (lều trại), bungalow, biệt thự, nhà trọ.
- Mạng lưới bán hàng: là một thành phần trong cơ cấu cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch về mua sắm, bằng việc bán các hàng hóa đặc
trưng của địa phương mình, của đất nước mình, hàng thực phẩm và các loại hàng hóa
khác. Cơ sở vật chất kỹ thuật này gồm hai phần: một phần thuộc các trung tâm dịch vụ du
lịch, phục vụ khách du lịch là chủ yếu. Phần khác thuộc mạng lưới thương nghiệp địa
phương, với nhiệm vụ phục vụ nhân dân địa phương, đồng thời cũng đóng vai trò quan
trọng đối với phục vụ khách du lịch, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nơi đó.
- Cơ sở thể thao: là một bộ phận của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, có tác dụng
tạo điều kiện thuận lợi cho kỳ nghỉ của du khách, làm cho nó trở nên tích cực hơn. Các cơ
sở thể thao bao gồm cả các công trình thể thao, các phòng thể thao hay các trung tâm thể
thao với nhiều loại khác nhau, các thiết bị chuyên dùng cho mỗi loại thể thao như: bể bơi,
xe đạp nước, sân quần vợt sân bóng đá, sân golf, trường đua ngựa… Ngày nay, công trình
thể thao là một bộ phận không thể tách rời cơ sở vật chất kỹ thuật của các trung tâm du
lịch. Chúng làm phong phú và đa dạng các loại hình hoạt động du lịch, làm tăng sự hấp
dẫn, kéo dài thời thời gian lưu trú của khách, làm tăng hiệu quả sử dụng khách sạn,
camping.
- Cơ sở y tế: nhằm mục đích phục vụ du lịch chữa bệnh và cung cấp dịch vụ bổ sung
tại các điểm du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật ở đây bao gồm: các trung tâm chữa bệnh (bằng
nước khoáng, ánh nắng mặt trời, tắm bùn, các món ăn kiêng), các phòng y tế với các trang
thiết bị như: sauna - massage, thẩm mỹ.
- Các công trình phục vụ văn hóa thông tin: bao gồm các trung tâm văn hóa thông
tin, phòng chiếu phim, câu lạc bộ, phòng triển lãm. Hoạt động văn hóa thông tin có thể
được tổ chức thông qua các buổi dạ hội hữu nghị, dạ hội hóa trang, đêm ca nhạc, tuần lễ
biển, tổ chức các buổi gặp gỡ trao đổi giữa những người khách du lịch có cùng nghề, buổi
chiếu phim, xem kịch, tham quan viện bảo tàng…
- Cơ sở phục vụ các dịch vụ bổ sung khác: bao gồm trạm xăng dầu, thiết bị cấp
cứu (ở biển hoặc núi), xưởng sửa chữa dụng cụ thể thao, phòng rửa tráng phim ảnh, hiệu
cắt tóc, hiệu sửa đồng hồ, hiệu giặt là, bưu điện, dịch vụ Internet, phòng sao chụp.
- Mạng lưới và phương tiện giao thông vận tải: bao gồm đường bộ, đường hàng
không, đường sắt. Mạng lưới giao thông phát triển tạo điều kiện cho việc đi lại của khách
một cách dễ dàng. Đồng thời tạo điều kiện khai thác tối đa tiềm năng du lịch của một
vùng, một địa phương, một đất nước.
- Mạng lưới thông tin liên lạc: đảm nhận việc vận chuyển các tin tức một cách
nhanh chóng và kịp thời, góp phần đắc lực vào thực hiện giao lưu giữa các vùng, các khu
vực, các nước.
1.1.3.2. Các nhân tố về kinh tế, chính trị, pháp luật
Một là, tiềm lực kinh tế. Đó là sự phát triển kinh tế của một nước, từ công nghiệp,
nông nghiệp, xuất - nhập khẩu, giao thông vận tải, tài chính-ngân hàng… Kéo theo nó là sự
gia tăng các doanh nhân, những nhà đầu tư, những nhà tiếp thị đến với nước mình. Chính
nguồn khách này sẽ tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ của ngành du lịch như dịch vụ lưu trú,
dịch vụ ăn uống, dịch vụ vận chuyển, dịch vụ tham quan v.v Một đất nước trong một
năm tổ chức được nhiều Hội chợ quốc tế về thương mại, công nghiệp, thì đồng thời cũng
là nguồn cung ứng khách du lịch. Một bến cảng mà mật độ, khối lượng giao, nhận hàng
hóa với khách hàng quốc tế lớn, thì ở đó số lượng khách lên bờ sẽ nhiều, và như vậy sẽ tạo
điều kiện cho kinh doanh khách sạn, nhà hàng.
Hai là, sự ổn định chính trị. Các nước có nền kinh tế phát triển, chính trị trong
nước ổn định, có đường lối hòa nhập cộng đồng, làm bạn với tất cả mọi người thì nhu cầu
đi du lịch của người dân đến các nước khác cũng như thu hút người dân của các nước khác
đến du lịch ngày càng tăng. Nền kinh tế có nhiều biến động, chính trị bất ổn, đồng tiền lạm
phát người dân đi du lịch giảm, người dân của các nước khác đến du lịch cũng giảm.
Ba là, có đường lối, chính sách phát triển du lịch đúng đắn. Đây là yếu tố rất quan
trọng để phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Bởi lẽ đường lối, chính sách phát
triển du lịch xác định rõ vị trí của ngành du lịch trong tổng thể các ngành kinh tế xã hội và
có định hướng, biện pháp đúng đắn để phát triển ngành này. Tổ chức Du lịch thế giới
(WTO), trong một báo cáo của mình năm 1987 đã nhận xét:
Kinh tế du lịch ở một số nước phát triển mạnh, đây không phải là một
sự ngẫu nhiên, đột xuất mà do một số nước, chính phủ các nước đã quan tâm,
đặt du lịch theo hướng phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn. Do đó, ngành du
lịch phát triển rất năng động trong việc kế hoạch hóa đầu tư thành ngành du
lịch quốc gia liên kết chặt chẽ với nền thương mại du lịch của các nước trên thế
giới.
1.1.3.3. Tiềm năng và nhu cầu của khách du lịch
Khả năng về thu nhập: Du lịch là nhu cầu thứ yếu. Khi các nhu cầu thiết yếu như
ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh đã đầy đủ thì con người mới nghĩ đến nhu cầu đi tham
quan, giải trí tức là du lịch chỉ phát triển khi nhu cầu thiết yếu được thỏa mãn. Thường ở
những nước có thu nhập bình quân đầu người cao thì nhu cầu về du lịch sẽ cao hơn ở các
nước có thu nhập thấp.
Về thời gian nhàn rỗi: Các nền kinh tế khác nhau, thời gian nhàn rỗi của mỗi
người dân cũng khác nhau và họ dành quỹ thời gian đi du lịch cũng khác nhau nhưng quỹ
thời gian dành cho đi du lịch của mỗi người phụ thuộc rất lớn vào quỹ thời gian nhàn rỗi.
1.2. Tiêu chí và vai trò của việc phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi
nhọn ở Hà Nội
Có thể hiểu ngành kinh tế mũi nhọn là một trong những ngành kinh tế quan trọng
bậc nhất trong chiến lược phát triển kinh tế quốc dân, của một đất nước, trong một giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Đó là những ngành kinh tế có tiềm năng tăng trưởng
cao, có thị trường rộng, tạo được nguồn tích lũy lớn và thúc đẩy các ngành kinh tế khác
phát triển theo với việc phát triển yếu tố con người.
1.2.1. Tiêu chí lựa chọn ngành kinh tế mũi nhọn
Xác định ngành mũi nhọn là quá trình phân tích, đánh giá những thuận lợi của
những ngành trong điều kiện hiện tại và triển vọng trong trung hạn cũng như dài hạn, xem
xét vai trò hiện nay và tương lai của ngành đó trong toàn bộ quá trình phát triển kinh tế,
trên cơ sở đó chọn ra những ngành có cơ hội tốt nhất để phát triển trong tương lai và đề ra
các chính sách đảm bảo những nguồn lực khan hiếm và nguồn lực lao động của đất nước.
Về nguyên tắc, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hiệu quả luôn luôn là tiêu
chuẩn cơ bản nhất để lựa chọn ngành mũi nhọn. Việc xa rời nguyên tắc này, đồng nghĩa
với việc phủ nhận trên thực tế vai trò điều tiết của cơ chế thị trường, đặc biệt là vai trò
phân bổ các nguồn lực. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần hiểu khái niệm hiệu quả thế nào
cho phù hợp. Tương quan giữa hiệu quả kinh tế thuần túy và hiệu quả kinh tế - xã hội
trong đó là như thế nào? Có ba điểm đáng lưu ý:
Thứ nhất, hiệu quả phải được xét trên quan điểm dài hạn và được coi là tiêu chuẩn
chủ đạo, điều đó cũng không có nghĩa là bỏ qua những lợi ích ngắn hạn. Song, khi theo
đuổi mục tiêu tăng trưởng cao, lâu bền như là mục tiêu hàng đầu, thì việc ưu tiên bất cứ
ngành nào trong giai đoạn đầu trước hết cũng phải nhằm mục đích tạo dựng cơ sở tăng
trưởng vững chắc cho toàn bộ nền kinh tế ở giai đoạn sau, hướng tới việc nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc tế và trình độ khoa học- công nghệ của đất nước.
Thứ hai, để đảm bảo sự phát triển bền vững theo một mô hình tăng trưởng và phát
triển kinh tế, xã hội bền vững, rõ ràng không chỉ quan tâm đến hiệu quả kinh tế thuần túy
(được đo bằng lợi nhuận hay hiệu suất vốn đầu tư). Các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh
tế - xã hội như: mức độ tạo công ăn việc làm, phân phối lợi ích do tăng trưởng kinh tế
mang lại cho các tầng lớp dân cư khác nhau đặc biệt là cho nông dân, cũng cần được tính
tới như những tiêu thức chủ yếu. Trên quan điểm dài hạn, không hề có sự đối lập hay loại
trừ lẫn nhau giữa các tiêu chuẩn loại này với nhau. Kinh nghiệm của các nước có nền kinh
tế tăng trưởng cao ở châu á cho thấy, hai yếu tố này về cơ bản là có tác động cùng chiều,
thúc đẩy lẫn nhau. ở cấp độ cao hơn, còn có thể nói rằng hiệu quả kinh tế, lợi ích tăng
trưởng kinh tế chỉ có thể đạt mức tối đa khi nó gắn liền với sự đảm bảo một hiệu quả kinh
tế - xã hội cao.
Thứ ba, những ngành được lựa chọn ưu tiên phát triển, cần phải là ngành có hệ số tác
động cao đến sự phát triển trong tương lai đối với nhiều nhiều ngành khác. Nói cách khác
đi, một mức tăng trưởng cao của ngành được ưu tiên sẽ phải kéo theo sự tăng trưởng của
nhiều ngành có liên quan không nằm trong diện ưu tiên. Phạm vi các ngành chịu sự tác động
bị "lôi kéo tăng trưởng" và mức độ tác động đến tốc độ tăng trưởng của ngành "bị kéo" này từ
sự phát triển của một ngành nào đó tạo nên hiệu quả phát triển toàn bộ của nó. Đây được coi là
tiêu chuẩn chung, bắt buộc để lựa chọn ngành mũi nhọn.
Xuất phát từ vấn đề này, câu hỏi cụ thể hơn cần được trả lời là: những tiêu thức
chính, để xác định ngành mũi nhọn là gì? Đó là ngành mà:
- Đóng góp cao vào GDP, là ngành tạo ra đòn bẩy thúc đẩy các ngành khác, ngành
có khả năng tích lũy cao.
- Có tác động thúc đẩy các ngành khác, tạo đà cho tăng trưởng chung, tạo sự
chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực.
- Có điều kiện sử dụng nguyên liệu trong nước.
- Tận dụng được lao động hiện có, thúc đẩy lao động kỹ thuật.
- Có thị trường rộng lớn ở trong nước và nước ngoài.
Các tiêu chí trên có quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau (chế định lẫn nhau), tất
cả chúng đều hướng tới mục tiêu dài hạn của nền kinh tế: tăng trưởng nhanh với hiệu quả
sử dụng vốn cao, tăng nguồn thu nhập ngoại tệ (được coi là nguồn lực quan trọng nhất hiện
nay), tạo nhiều công ăn việc làm, theo định hướng tăng trưởng đã được lựa chọn (định hướng
tăng trưởng xuất khẩu).
Trong nền kinh tế mở, các ngành kinh tế mũi nhọn đều phải đặt vào cạnh tranh
quốc tế hay khu vực, đều phải tự mình có sức cạnh tranh để tồn tại. Điều này đòi hỏi tất cả
các ngành kinh tế mũi nhọn phải có biện pháp nhằm thay thế nhập khẩu, cũng như phải có
công nghệ thích ứng với các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực.
Ngành kinh tế mũi nhọn thường là những ngành "mặt trời mọc". Đó là những ngành
tiên tiến về kỹ thuật sản xuất, có hàm lượng trí tuệ cao, đang từng bước có những đóng góp
lợi nhuận lớn, giữ vai trò quan trọng cho quốc gia trong tương lai.
1.2.2. Vai trò của ngành kinh tế mũi nhọn
Như đã đề cập ở trên, sự lựa chọn các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
quốc gia đã giúp các nước cần thiết phải chỉ ra ngành kinh tế mũi nhọn. Nhưng khi đã xác
định và tạo điều kiện cho ngành kinh tế mũi nhọn phát triển, thì ngành kinh tế mũi nhọn lại
có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quốc gia đó trên các mặt sau:
Thứ nhất, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia. Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa
các ngành và làm thay đổi mối tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đó. Nếu
cơ cấu kinh tế hướng vào mục đích cần đạt được của nền kinh tế thì đầu tư chính là
phương tiện để đảm bảo cho cơ cấu đó được hình thành hợp lý theo mục đích hướng tới
của nó. Tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành khác nhau, sẽ mang lại những hiệu quả khác
nhau, ảnh hưởng trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành và ảnh hưởng chung đến toàn bộ
nền kinh tế. Lý thuyết phát triển ngành không cân đối hay cực tăng trưởng cho rằng, đầu tư
phải được phân bổ cho một số lượng hạn chế cực phát triển để tạo ra khả năng lôi kéo đối
với các ngành khác. Trên thực tế, không thể và không nhất thiết phải đảm bảo tăng trưởng
bền vững bằng cách duy trì cơ cấu cân đối của liên ngành và liên vùng.
Việc tăng trưởng và phát triển với một cơ cấu kinh tế không cân đối sẽ hạn chế sự
kích thích đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất. Những dự án đầu tư vào một số lĩnh vực thì
áp lực đầu tư xuất hiện do cầu lớn hơn cung, đầu tư được lôi kéo theo cấp số nhân. Tuy
nhiên, trong mỗi giai đoạn của thời kỳ công nghiệp hóa, vai trò cực tăng trưởng của các
ngành trong nền kinh tế là không giống nhau. Cần tập trung những nguồn lực khan hiếm
cho một số lĩnh vực trong những giai đoạn nhất định. Đồng thời, ở các nước đang phát
triển rất thiếu vốn, công nghệ, lao động có kỹ thuật và thị trường nên không đủ điều kiện
để cùng một lúc phát triển đồng bộ tất cả các ngành hiện đại. Phát triển cơ cấu kinh tế
không cân đối, lựa chọn cực tăng trưởng là bắt buộc và phù hợp trong điều kiện đó.
Sự thành công của các nước công nghiệp Đông á đã thừa nhận sự hợp lý của lý
thuyết này, với mô hình phát triển mở cửa, hướng ngoại và càng trở nên quan trọng đối với
quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành khi mỗi quốc gia đang phát triển thực hiện những cuộc
bứt phá thông qua việc lựa chọn và phát triển ngành trọng điểm, ngành mũi nhọn.
Thứ hai, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của ngành, địa phương.
Trong thể thống nhất của cơ cấu kinh tế quốc dân, sự phát triển của ngành kinh tế này là
nhân tố thúc đẩy ngành kinh tế khác cùng phát triển. Tuy cùng nằm trong một cơ cấu kinh
tế chung, một số ngành kinh tế có những lợi thế riêng, trong quá trình phát triển trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn và khi đó nó tác động đến sự phát triển của nhiều ngành kinh tế
khác.
Thứ ba, giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn vốn tích lũy cao cho quốc gia.
Các nước NICs và các nước trong vùng Đông Nam á đã khôn ngoan biết rằng vốn liếng có
giá trị nhất của họ chính là nguồn lao động nên đã tìm cách khai thác triệt để lợi thế này và
nghiên cứu chỗ trống "thị trường ngách" trong nhu cầu của thị trường quốc tế, quyết định sử
dụng lao động để sản xuất các sản phẩm nhỏ cần ít vốn đầu tư, nhưng khả năng tiêu thụ trên
thị trường thế giới lại rất lớn. Họ nắm bắt được nhu cầu thị trường, nên chỉ tập trung sản xuất
"cái nhỏ" lại xuất khẩu được khối lượng hàng hóa lớn. Các quốc gia, lãnh thổ này đã biến
những ngành công nghiệp đã "xế chiều" của các nước đã phát triển thành "rạng rỡ bình minh"
cho quá trình công nghiệp hóa của mình. Họ không tham cái lớn khi còn ở ngoài "tầm tay".
Nhờ có sự lựa chọn ngành kinh tế có lợi thế làm mũi nhọn, các nước NICs
và các nước trong
khu vực Đông Nam á không những phát triển được thành ngành kinh tế hướng xuất khẩu mà
còn nhanh chóng vào được thị trường quốc tế, giảm được tỷ lệ thất nghiệp.
Thứ tư, góp phần vào phát triển văn hóa - xã hội của quốc gia. Kinh tế cũng như
văn hóa muốn phát triển, cần phải có sự giao lưu giữa các vùng trong nước, giữa các dân
tộc trong khu vực và trên thế giới. Đối với một quốc gia, ngoài đời sống kinh tế còn có đời
sống văn hóa. Các mặt đó lại gắn bó với nhau tạo thành một chỉnh thể trong hoạt động đời
sống của con người. Do vậy, việc mở rộng thị trường, phát triển giao thông giữa các vùng
trong nước, hoạt động kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia…, chẳng những là điều kiện
quan trọng để phát triển ngành kinh tế mũi nhọn mà còn tác động không nhỏ đến việc phát
triển văn hóa của một quốc gia. Nhất là khi nền kinh tế mũi nhọn đã thể hiện đầy đủ các ưu
thế như tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nguồn tích lũy lớn, đời sống của nhân dân được cải
thiện thì tác động của nó tới sự phát triển văn hóa của một dân tộc còn lớn hơn nhiều, điều
kiện giữ gìn môi trường xã hội và nền văn hóa dân tộc trở nên vững chắc.
Thứ năm, tạo cơ sở ổn định của một quốc gia. Trong một nước, kinh tế và chính trị
thường gắn bó chặt chẽ với nhau, kinh tế đóng vai trò cơ sở còn chính trị là sự biểu hiện
tập trung của kinh tế. Do vậy, việc ổn định cơ bản và lâu dài về chính trị của một quốc gia
suy cho cùng là do cơ sở kinh tế quyết định. Trong cơ sở kinh tế đó thì vai trò tích cực
nhất, hiệu quả kinh tế to lớn nhất do các ngành kinh tế mang lại.
1.2.3. Tiêu chuẩn để đánh giá du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn
Ngành du lịch chỉ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, khi phải được quốc gia đó lựa
chọn làm chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia và có đủ các điều kiện cần thiết
khác như: nguồn lực tự nhiên, nguồn lực nhân văn, nguồn lực cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch, cơ sở hạ tầng, các cơ hội, nguồn lực bên ngoài… Để xác định ngành du lịch có phải là
ngành mũi nhọn của một quốc gia, một địa phương cần làm rõ một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, phân tích sự đóng góp của ngành du lịch vào GDP. Trên giác độ kinh
tế, người ta xếp du lịch là ngành dịch vụ rất được coi trọng ở các nước công nghiệp phát
triển và đã đóng góp một tỷ trọng rất lớn vào GDP của quốc gia. Chẳng hạn như: ở các
nước (ASEAN) du lịch chiếm tỷ lệ trong GDP như sau: Philipines 8-10%; Malaysia 12%;
Thái Lan 16% và Singapore 20%. Ngoài ra, cần tính cả những thu nhập khác của xã hội và
các ngành dịch vụ khác do hoạt động du lịch mang lại. Có rất nhiều ngành tạo nguồn thu từ
du lịch, theo cách tiếp cận từ phía khách du lịch có thể nêu ra một số nhóm ngành sau:
- Từ tài nguyên du lịch: Đó là các phí và lệ phí khác phải trả khi vào nước ta du
lịch (phí thị thực, phí sân bay, phí bến cảng, lệ phí vào thăm quan các di tích, các danh lam
thắng cảnh,…).
- Từ các ngành dịch vụ vận chuyển: (hàng không, đường sắt, đường biển, đường bộ),
hàng hóa bán cho khách, các dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm,… Phục vụ khách du lịch.
- Từ các dịch vụ cơ bản phục vụ khách du lịch: (dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống,
dịch vụ vui chơi giải trí, dịch vụ thể thao, dịch vụ đưa đón, dịch vụ hướng dẫn tham
quan,…).
Thứ hai, mức độ tác động của ngành du lịch đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của nền kinh tế. Phát triển du lịch tạo ra một thị trường tiêu thụ rộng lớn cho cả công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, không chỉ là thị trường tiêu thụ nội địa mà cả thị trường
xuất khẩu tại chỗ. Đây chính là động lực và chất xúc tác để chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, phải tính toán được những chỉ tiêu về định lượng, sự
đóng góp của hoạt động du lịch đối với từng khu vực và đối với từng ngành cụ thể.
Thứ ba, khả năng tạo ra việc làm của ngành du lịch, giải quyết các vấn đề kinh tế -
xã hội của quốc gia. Theo quy luật chung, đối với mỗi quốc gia khi thực hiện công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thì lực lượng lao động ở khu vực I và khu vực
II sẽ giảm rất nhanh, khu vực III là khu vực dịch vụ sẽ đóng một vai trò quan trọng
trong việc thu hút lực lượng lao động của xã hội.
Hoạt động du lịch thu hút nhiều lao động trong xã hội, kể cả trực tiếp phục vụ và
gián tiếp phục vụ, vì nó phải sử dụng con người để phục vụ con người chứ không thể cơ
giới hóa hay tự động hóa trong quá trình phục vụ được. Theo tính toán của các nhà kinh tế,
năm 1995 ngành du lịch của thế giới đã sử dụng 118 triệu lao động trực tiếp, 295 lao động
gián tiếp để phục vụ 563,5 triệu lượt khách du lịch quốc tế. Vì vậy, để tính chỉ tiêu này,
chúng ta hoàn toàn có thể tính toán được thông qua các khách du lịch hàng năm của của
các quốc gia.
Thứ tư, ảnh hưởng của ngành du lịch tới sự phát triển kinh tế của các vùng khó
khăn và thực hiện xóa đói giảm nghèo. Do những điều kiện khách quan, chủ quan về phát
triển du lịch, đồng thời kéo theo nhu cầu thị hiếu của con người về nhu cầu du lịch, các nước
đã tập trung phát triển du lịch ở những vùng hoặc địa phương có khó khăn nhằm phát triển