Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

LUẬN VĂN: Đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10 MB, 94 trang )









LUẬN VĂN:
Đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu
Công nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công
thương Việt Nam







MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế, lĩnh vực tài chính, ngân hàng có vai trò ngày một quan trọng hơn. Hệ thống ngân
hàng thương mại có ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển toàn diện nền kinh tế quốc dân, đặc
biệt đối với các địa bàn có khu công nghiệp mới hoạt động, nơi có nhiều doanh nghiệp đang
ở trong giai đoạn đầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Tại đó, vai trò của các ngân hàng
thương mại còn quan trọng hơn, cung cấp vốn, dịch vụ ngân hàng và hỗ trợ thúc đẩy sự phát
triển của các doanh nghiệp.
Khu Công nghiệp Tiên Sơn là khu công nghiệp đầu tiên của tỉnh Bắc Ninh được
thành lập từ ngày 18/12/1998. Đặc điểm chung của các doanh nghiệp đầu tư vào khu công


nghiệp này là các ngành nghề có công nghệ cao, ngành công nghiệp sạch hoặc ít ô nhiễm
môi trường và có quy mô tương đối lớn. Mặt khác, các doanh nghiệp ở đây do đang trong
quá trình xây dựng và lắp đặt mới nhà xưởng, máy móc nên cần một lượng vốn lớn; do đó
rất cần sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng thương mại đang hoạt động trên địa bàn huyện
Tiên Du và Từ Sơn.
Nằm trong hệ thống các ngân hàng thương mại đang hoạt động tại địa bàn, chi
nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam (sau đây gọi tắt là
chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn) sau ba năm hoạt động đã đóng góp rất lớn vào sự
nghiệp phát triển doanh nghiệp và Khu Công nghiệp Tiên Sơn. Tuy nhiên, trong điều kiện
kinh tế - xã hội của đất nước đã có những bước phát triển mới, hệ thống doanh nghiệp trong
Khu Công nghiệp Tiên Sơn đòi hỏi các ngân hàng thương mại nói chung, chi nhánh Khu
Công nghiệp Tiên Sơn nói riêng phải đổi mới hoạt động của mình. Điều đó không chỉ nhằm
đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp này mà còn là sự đòi hỏi của quá trình hội nhập và
thực hiện các hiệp định kinh tế song phương giữa nước ta với các nước khác trên thế giới.
Trước yêu cầu cấp bách đó, chủ đề "Đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công
nghiệp Tiên Sơn, Ngân hàng Công thương Việt Nam" đã được tác giả lựa chọn làm đề tài


luận văn Thạc sĩ. Tác giả mong muốn thông qua bản luận văn này đóng góp một phần nhỏ
bé vào quá trình không ngừng đổi mới hoạt động của Ngân hàng Công thương Việt Nam nói
chung, chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài đổi mới hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại
đã có một số đề tài cấp Bộ, ngành, luận án tiến sỹ và luận văn thạc sỹ đề cập ở những góc
độ, phạm vi khác nhau. Nhiều giải pháp và đề xuất trong các công trình khoa học trên đã
được ứng dụng vào thực tiễn hoạt động của các ngân hàng thương mại. Dưới góc độ đổi mới
hoạt động của ngân hàng thương mại, khía cạnh gần nhất với đề tài nghiên cứu, có thể kể ra
một số công trình khoa học sau:
Tác giả Lê Thị Hương (2003) với luận án tiến sĩ Kinh tế: "Nâng cao hiệu quả hoạt
động đầu tư của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam" đã thành công trong việc phát triển

các mô hình đánh giá hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các hoạt
động đầu tư chứng khoán và cho vay. Trong đó, tác giả tập trung đánh giá vào sự sinh lời
của các ngân hàng thương mại trong giai đoạn 1996-2001. Tuy nhiên, luận án trên mới chỉ
đề cập đến khía cạnh vi mô của hệ thống ngân hàng thương mại.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn trong một đề tài liên quan đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ
của các ngân hàng thương mại nhà nước đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống cụ
thể tại Ngân hàng Công thương Việt Nam. Tác giả đã phân tích và đánh giá thực trạng hoạt
động này dựa trên một nền tảng vững chắc của những lý thuyết hiện đại nhất. Theo đó, các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ đã được đề xuất một cách
có hệ thống và dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc.
Luận án tiến sĩ Kinh tế với đề tài "Hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng
thương mại Nhà nước ở nước ta hiện nay", tác giả Lê Đức Thọ (2005) đã đề cập đến thực
trạng hoạt động tín dụng của hệ thống các ngân hàng thương mại nhà nước và những tác
động tới quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam. Tác giả đã đề xuất các giải pháp đổi
mới hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam, phù hợp
với yêu cầu đổi mới và gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm


2010.
Ở mức độ chuyên sâu hơn, tác giả Nguyễn Hữu Tuấn đã đi sâu phân tích mặt chất
lượng của hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam. Luận án tiến sĩ Kinh tế với đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kinh
doanh tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam" đã đánh giá toàn
diện các mặt của hoạt động kinh doanh tại ngân hàng thương mại nhà nước đặc thù này.
Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động kinh doanh của ngân hàng này. Tuy nhiên, với đặc thù riêng vốn có của Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam nên hệ thống giải pháp trên khó có
thể đưa ra vận dụng vào các ngân hàng thương mại khác.
Trong các công trình khoa học kể trên, các tác giả đề cập đến sự đổi mới hoạt động
của ngân hàng thương mại bằng cách phân tích tính hiệu quả hoạt động của ngân hàng trên

các mặt khác nhau. Điều đó tạo ra sự chuyên sâu cần thiết nhưng thiếu đi sự toàn diện trong
khi các hoạt động hoặc dịch vụ của ngân hàng thương mại lại có sự hỗ trợ qua lại lẫn nhau.
Thực tế này đã thôi thúc tác giả đi vào phân tích một cách tổng thể những mặt khác nhau
của quá trình đổi mới hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng hoạt động, những
mặt thành công và những yếu kém, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt
động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá và làm sáng tỏ hơn một số vấn đề chung về hoạt động của ngân hàng
thương mại trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích thực trạng hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn từ ngày
thành lập đến nay, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc và nguyên


nhân.
- Đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên
Sơn trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên
Sơn.
Phạm vi nghiên cứu: Từ ngày thành lập chi nhánh (2004) đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện
chứng, các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn gồm: Phương pháp so
sánh, phân tích kết hợp với phương pháp hệ thống hoá để đưa ra nhận xét đánh giá các vấn đề.
Bên cạnh đó, luận văn cũng vận dụng kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên
quan để làm sâu sắc hơn các cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài. Đề tài kết hợp những

vấn đề của kinh tế học hiện đại với tổng kết thực tiễn hoạt động của chi nhánh.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Tổng kết thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng hoạt động của chi nhánh Khu Công
nghiệp Tiên Sơn từ ngày thành lập đến nay.
- Góp phần đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Ngân hàng thương mại và hoạt động của nó trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của chi nhánh Khu Công nghiệp Tiên Sơn.
Chương 3: Định hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động của chi nhánh Khu
Công nghiệp Tiên Sơn.


Chương 1
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất phục vụ công
chúng. Lượng tài sản mà chúng nắm giữ lớn hơn bất cứ một trung gian tài chính nào. Mặt
khác, các ngân hàng còn có vai trò là chiếc cầu chuyển tiếp các chính sách kinh tế của chính
phủ (đặc biệt là chính sách tiền tệ) đến các chủ thể trong nền kinh tế. Sự khan hiếm tín dụng
ngân hàng thường dẫn đến chi tiêu trong nền kinh tế chậm lại và gia tăng thất nghiệp. Ngoài
ra, các biến động về tín dụng ngân hàng cũng có tác động mạnh mẽ đến lạm phát. Nguyên
nhân của nó là lượng tiền gửi ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nguồn cung tiền tệ
được sử dụng bởi người dân. Hơn nữa, mối quan hệ giữa những thay đổi về cung tiền tệ và
giá cả hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế là chặt chẽ.
Tín dụng ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng là nhu cầu thiết yếu của tất cả các chủ

thể trong nền kinh tế. Các ngân hàng cung cấp phần lớn tín dụng tiêu dùng dưới hai hình
thức:
- Hình thức trực tiếp như các khoản vay được thương lượng và lệ phí tính theo thẻ
tín dụng do ngân hàng phát hành;
- Hình thức gián tiếp thông qua các khoản vay mua xe ôtô, đồ đạc nội thất, đồ điện
gia dụng và các loại hàng hoá tiêu dùng khác.
Những doanh nghiệp cần tín dụng thường liên hệ với một ngân hàng trước, đặc biệt
khi có nhu cầu vốn ngắn hạn để dùng vào việc mua hàng hoá, nguyên vật liệu hoặc phí sửa
chữa. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại, thông qua các phòng tín dụng của họ, còn là một
nguồn lực chính trong các thị trường trái phiếu và cổ phiếu công ty.
Ngân hàng theo nghĩa bình thường và truyền thống là một định chế tài chính cung


cấp hai loại dịch vụ chính cho công chúng:
- Tài khoản giao dịch được sử dụng để thanh toán việc mua hàng hoá và dịch vụ và
thường được chấp nhận rộng rãi bởi người dân về chức năng này;
- Cho vay trực tiếp đến các doanh nghiệp, cá nhân và các định chế khác [26, tr.
121].
Định chế tài chính gần gũi với định nghĩa này nhất là ngân hàng thương mại. Tài
khoản thanh toán của ngân hàng thương mại là hình thức thanh toán chủ yếu trong nền kinh tế
và được chấp nhận rộng rãi như là đồng tiền. Mặc dù ngân hàng thương mại có mua chứng
khoán đầu tư (như chứng khoán công ty và nhà nước) được giao dịch trên thị trường mở, nhưng
tài sản chủ yếu của ngân hàng là những khoản cho vay trực tiếp dành cho các doanh nghiệp, cá
nhân và gia đình.
Trong giai đoạn hiện nay, ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò to lớn đối với
nền kinh tế nói chung và đối với cộng đồng dân cư nói riêng. Tuy nhiên, việc định nghĩa ngân
hàng là gì lại đang trở nên khó khăn và nhầm lẫn. Hiển nhiên, chúng ta có thể định nghĩa ngân
hàng thông qua các dịch vụ mà chúng cung cấp cho nền kinh tế. Thế nhưng vấn đề này trở nên
phức tạp do không chỉ các chức năng của ngân hàng thương mại đang thay đổi mà chức năng
của các đối thủ cạnh tranh chính của ngân hàng cũng đang không ngừng biến đổi.

Xu hướng phổ biến hiện nay là nhiều tổ chức trung gian tài chính phi ngân hàng bao
gồm công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty
bảo hiểm đều đang cố gắng cung cấp cho các khách hàng của mình những dịch vụ của ngân
hàng. Ngược lại, các ngân hàng cũng mở rộng phạm vi phục vụ của mình, hướng về phía đầu tư
bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia các hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương
hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác nhằm đối phó với các đối thủ cạnh tranh của mình.
Một ví dụ điển hình hiện nay ở nước ta là việc các công ty bảo hiểm và công ty
chứng khoán đang đệ đơn lên Ngân hàng Nhà nước xin thành lập ngân hàng của mình. Tập
đoàn Tài chính - Bảo hiểm Việt Nam đã có lộ trình hình thành ngân hàng của riêng mình,
trong khi đó, các ngân hàng cũng nhanh chóng tham gia thành lập các công ty bảo hiểm,
công ty đầu tư chứng khoán như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân


hàng Đầu tư phát triển và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt
Nam.
Xu hướng phát triển trên đây tất yếu sẽ dẫn đến những thay đổi về pháp lý và đem
đến sự nhầm lẫn cho công chúng khi phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác. Do
đó, cách tiếp cận hợp lý và đúng đắn nhất là xem xét các tổ chức này trên phương diện
những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Theo đó, ngân hàng được định nghĩa như sau:
Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế [25, tr. 7].
Sự phong phú về dịch vụ và chức năng của ngân hàng đã dẫn đến việc chúng được gọi là
các "bách hoá tài chính".
1.1.2. Vai trò, chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị
trường
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính tương tự như các hội tín dụng, các công
ty bảo hiểm và các tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính khác. Thuật ngữ "trung gian tài chính"
được dùng để chỉ những công việc kinh doanh đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ
chức trong nền kinh tế đó là các cá nhân và tổ chức thiếu hụt chi tiêu, tức là phần chi cho tiêu

dùng và đầu tư lớn hơn thu nhập của họ, do đó cần bổ sung vốn từ bên ngoài bằng cách vay
mượn; các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn
các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Các bằng chứng
thực nghiệm cho thấy hai nhóm cá nhân và tổ chức trên khó có thể gặp nhau trực tiếp trên thị
trường, và họ thường không tin tưởng lẫn nhau. Điều đó đòi hỏi giữa họ cần có một tổ chức
trung gian đứng ra làm cầu nối. Các ngân hàng xuất hiện và nhận nhiệm vụ trung gian đó, thu
hút vốn của các nhóm "thặng dư" bằng các dịch vụ tài chính thuận lợi, và cho nhóm "thiếu hụt"
vay.
Hoạt động trung gian của ngân hàng sẽ diễn ra trong hai trường hợp sau:
- Thứ nhất, có được mức lợi nhuận kỳ vọng dương giữa thu nhập dự tính từ các
khoản cho nhóm "thiếu hụt" vay và lãi suất dự tính phải trả cho nhóm "thặng dư";


- Thứ hai, có được chênh lệch dương giữa các khoản tín dụng và lãi suất phải trả cho
tiền gửi và vốn vay từ nhóm "thặng dư". Nếu quan hệ giữa lãi suất cho vay và chi phí đi vay là
tương quan dương, nó sẽ làm giảm tính rủi ro của lợi nhuận dự tính, khuyến khích ngân
hàng tiếp tục huy động vốn để cho vay.
Một đóng góp quan trọng khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản
cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền.
Qua đó, các ngân hàng cung cấp sự đảm bảo cho các dự án đầu tư và đem lại nhiều phúc lợi
xã hội cho công chúng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, bên cạnh các chức năng, vai trò truyền thống,
ngân hàng thương mại còn có nhiều hoạt động dịch vụ và vai trò quan trọng khác, đó là khả
năng thẩm định thông tin. Một số người cho vay và người đi vay biết nhiều thông tin hơn những
người khác; một số cá nhân và tổ chức có các thông tin bên trong và điều này cho phép họ có
được những quyết định đầu tư đúng đắn và hiệu quả mang lợi nhuận cao. Sự khác biệt trong
khả năng tiếp cận và phân tích thông tin được gọi là tình trạng "thông tin không cân xứng". Sự
không cân xứng đó làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh
lợi to lớn cho ngân hàng thương mại, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các thông
tin tài chính và có khả năng lựa chọn những dự án với các yêu cầu rủi ro thấp nhưng lợi

nhuận hấp dẫn nhất.
Khả năng đặc biệt đó của ngân hàng đã dẫn đến một quan điểm mới trong việc lý
giải tại sao ngân hàng lại tồn tại trong xã hội hiện đại - lý thuyết quản lý uỷ thác. Hầu hết
người vay tiền và người gửi tiền đều muốn giữ bí mật tình trạng tài chính của họ, đặc biệt là
trước các đối thủ cạnh tranh. Lý thuyết này cho rằng các ngân hàng có thể thu hút người đi
vay bởi vì họ cam kết giữ bí mật. Thậm chí ngay những người gửi tiền cũng không có đặc
quyền được biết tình trạng tài chính của người vay tiền. Người gửi tiền thường không có
thời gian cũng như không có kỹ năng trong việc thẩm định người vay vốn. Do đó, họ đã
chuyển quá trình kiểm tra, thẩm định đến các ngân hàng, nơi đã đầu tư nhân lực, tài lực và
vật lực vào quá trình này. Ngân hàng hành động như là một đại lý của người gửi tiền, kiểm
tra điều kiện tài chính của khách hàng xin vay để đảm bảo cho việc người gửi tiền sẽ thu hồi


đủ vốn và lãi. Để đáp lại điều này, người gửi tiền phải trả một khoản phí cho ngân hàng, có thể
nhỏ hơn chi phí mà họ phải bỏ ra nếu họ tự thẩm định người vay vốn.
Trong nền kinh tế hiện đại, ngân hàng thực hiện nhiều chức năng khác nhau, được
thể hiện ở sơ đồ sau:












Sơ đồ 1.1. Những chức năng cơ bản của ngân hàng ngày nay

Nguồn: [25, tr.7].
1.1.3. Các khuynh hướng ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng
Thứ nhất, sự gia tăng nhanh chóng các loại hình dịch vụ
Áp lực của cạnh tranh từ các tổ chức trung gian tài chính khác, sự hiểu biết ngày
một cao của người tiêu dùng và những biến đổi căn bản trong công nghệ ngân hàng đã dẫn
đến sự đa dạng hoá các hình thức dịch vụ ngân hàng. Điều đó đã tạo ra những nguồn thu
mới cho ngân hàng - các khoản lệ phí của dịch vụ không phải trả lãi, một bộ phận có xu
hướng tăng trưởng nhanh hơn so với các nguồn thu truyền thống từ lãi cho vay.
Chức năng uỷ thác

Chức năng tín
Chức năng lập
k
ế hoạch
đ
ầu t
ư

Chức năng
thanh toán
Chức năng
tiết kiệm
Chức năng quản lý tiền mặt

Chức năng
đầu tư và bảo
lãnh
Chức năng bảo
Chức năng môi giới
NGÂN

HÀNG
HIỆN
ĐẠI


Thứ hai, áp lực của cạnh tranh
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở nên quyết liệt khi
ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ. Các ngân hàng địa phương
cung cấp tín dụng, dịch vụ tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là
những dịch vụ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín
dụng, các công ty kinh doanh chứng khoán như Bảo Việt Chứng khoán, Công ty chứng
khoán Sài gòn, các công ty tài chính như Vina Capital và các tổ chức bảo hiểm như Bảo
Việt, Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ
cho tương lai.
Thứ ba, giảm bớt sự kiểm soát của Chính phủ
Cạnh tranh và quá trình mở rộng dịch vụ ngân hàng cũng được thúc đẩy bởi sự nới
lỏng các quy định - giảm bớt sức mạnh kiểm soát của Chính phủ. Một trong những dấu hiệu
dễ nhận biết của quá trình này là việc Chính phủ nâng lãi suất trần đối với tiền gửi tiết kiệm
nhằm phân phối lại cho người dân một mức thu nhập tốt hơn từ khoản tiết kiệm của mình.
Cùng lúc đó, nhiều loại tài khoản tiền gửi mới được phát triển giúp cho công chúng có thể
thu được lợi tức trên các khoản giao dịch. Gần như đồng thời, hiệp hội tín dụng và cho vay
cũng được mở rộng danh mục dịch vụ nhanh chóng và do đó khả năng cạnh tranh của
những tổ chức này cũng được củng cố và nâng cao. Các ngân hàng được nới rộng giới hạn
pháp lý, được cung cấp một số dịch vụ thuộc những tổ chức trung gian tài chính như: dịch
vụ bảo hiểm, dịch vụ đầu tư chứng khoán và tư vấn đầu tư.
Thứ tư, sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất
Các quy định của Chính phủ đối với ngành ngân hàng tạo ra cho khách hàng khả
năng nhận được mức thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng nó mới chỉ là tiềm năng, chỉ có
công chúng mới chuyển hoá các cơ hội đó trở thành hiện thực. Tiền được gửi trong những
tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài khoản giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã được

chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ thu nhập thay
đổi theo điều kiện thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với
những khách hàng có hiểu biết hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền gửi "trung


thành" của họ có thể dễ dàng bị lôi kéo bởi các đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ. Do đó, ngân
hàng phải phấn đấu để tăng cường khả năng cạnh tranh trên phương diện thu nhập trả cho
tiền gửi của người dân và phải nhạy cảm hơn với ý thức thay đổi của xã hội về vấn đề phân
phối các khoản tiết kiệm.
Thứ năm, cách mạng trong công nghệ ngân hàng
Với mục tiêu giảm thiểu chi phí lưu động, nhiều năm gần đây, các ngân hàng đã
tăng cường đầu tư vào hệ thống hoạt động tự động và điện tử, thay thế cho những hệ thống
dựa trên lao động thủ công và đã đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng. Ngân hàng đang trở
thành ngành sử dụng nhiều vốn và chi phí cố định; sử dụng ít lao động. Có nhiều bằng
chứng thực nghiệm cho thấy sự sụt giảm mạnh các cuộc trao đổi trực tiếp giữa ngân hàng và
khách hàng, thay vào đó là hệ thống máy tính kết nối Internet. Khách hàng có thể ngồi ở
một nơi rất xa ngân hàng và ra lệnh chuyển tiền từ ngân hàng đến một tài khoản khác thông
qua hệ thống giao dịch điện tử. Sản xuất và cung cấp dịch vụ sẽ hoàn toàn tự động. Những
bước đi đó sẽ giảm đáng kể chi phí đối với những khu vực có khối lượng giao dịch lớn,
nhưng chúng sẽ tạo ra quá trình phi nhân công hoá ngân hàng và gây ra tình trạng mất việc
làm khi máy móc thay thế người lao động. Tuy nhiên, những kinh nghiệm gần đây cho thấy
viễn cảnh tự động hoá hoàn toàn ngành ngân hàng vẫn còn xa vời. Một tỷ lệ lớn khách hàng
vẫn ưa chuộng các dịch vụ của con người và những cơ hội để nhận được sự tư vấn cá nhân
về các vấn đề tài chính.
Thứ sáu, sự củng cố và mở rộng hoạt động về mặt địa lý
Sử dụng có hiệu quả quá trình tự động hoá và những đổi mới công nghệ đòi hỏi các
hoạt động ngân hàng phải có quy mô lớn. Vì vậy, ngân hàng cần phải mở rộng cơ sở khách
hàng bằng cách vươn tới các thị trường mới, xa hơn và gia tăng số lượng tài khoản. Kết quả
là hoạt động mở chi nhánh ngân hàng diễn ra. Bên cạnh đó, biện pháp sáp nhập và thôn tính
các ngân hàng nhỏ, biến chúng trở thành một bộ phận của các ngân hàng đa trụ sở ngày

càng diễn ra mạnh mẽ. Theo đó, chiến lược hướng về khách hàng đang được các ngân hàng
thương mại ưu tiên. Mô hình ngân hàng cổ điển, thiếu năng động đang được thay thế bởi
một mô hình mới với đặc trưng như là một tổ chức tài chính năng động. Với sự phát triển tự


động hoá, ngày càng có nhiều ngân hàng mở chi nhánh ở những địa phương xa với các thiết
bị viễn thông và máy rút tiền tự động - một phương pháp mở rộng quy mô thị trường, hơn là
xây dựng các cơ sở vật chất mới.
Thứ bảy, quá trình toàn cầu hoá ngân hàng
Sự bành trướng địa lý và hợp nhất các ngân hàng đã vượt ra khỏi ranh giới lãnh thổ
một quốc gia đơn lẻ và lan rộng ra với quy mô toàn cầu. Ngày nay, các ngân hàng lớn nhất
trên thế giới cạnh tranh với nhau trên tất cả các lục địa. Vào những năm 80, các ngân hàng
Nhật, dẫn đầu là Dai-I Kangyo Bank và Fuji Bank đã phát triển nhanh hơn hầu hết các đối
thủ cạnh tranh trên khắp thế giới. Các ngân hàng lớn đã đặt trụ sở tại Pháp (dẫn đầu là
Caisse Nationale de Credit Agricole), tại Đức (dẫn đầu là Deutsche Bank) và tại Anh (dẫn
đầu là Barclay PLC) cũng trở thành những đối thủ nặng ký trên thị trường cho vay Chính
phủ và cho vay công ty. Quá trình phi quản lý hoá đã giúp tất cả các tổ chức này cạnh tranh
hiệu quả hơn so với các ngân hàng Mỹ và nắm được thị phần ngày càng tăng trên thị trường
toàn cầu về dịch vụ ngân hàng. Ngày nay, Canada, Mỹ và Mêxicô đã thực hiện Hiệp ước
Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), trong đó có điều khoản cho phép ngân hàng ở nước này
sở hữu, quản lý các chi nhánh ngân hàng ở nước kia và sức mạnh dịch vụ của các chi nhánh
loại này hoàn toàn so sánh với những chi nhánh sở hữu bởi các ngân hàng trong nước.
1.2. HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG
1.2.1. Các loại dịch vụ ngân hàng
1.2.1.1. Các dịch vụ truyền thống của ngân hàng
Thứ nhất, thực hiện trao đổi ngoại tệ
Trong lịch sử phát triển của ngân hàng, một trong những dịch vụ đầu tiên mà chúng
cung cấp cho khách hàng là dịch vụ trao đổi đồng ngoại tệ lấy đồng nội tệ [25, tr. 8]. Sự trao
đổi đó rất cần thiết đối với những khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy thoải mái, yên tâm hơn và dễ

dàng hơn trong mua sắm khi cầm trong tay đồng bản tệ. Ví dụ, khách du lịch nước ngoài đến
Việt Nam sẽ dễ dàng đến thăm viếng các khu du lịch hay danh lam thắng cảnh hoặc mua các đồ


vật lưu niệm khi họ có trong tay đồng tiền Việt Nam. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay, việc
mua bán và trao đổi ngoại tệ cũng là một hình thức kinh doanh thu lợi của các ngân hàng. Tuy
nhiên, do đây là hoạt động có mức độ rủi ro cao, yêu cầu trình độ chuyên môn sâu nên
thường do các ngân hàng lớn nhất thực hiện.
Thứ hai, chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho
vay đối với các doanh nhân địa phương, những người bán các khoản nợ (khoản phải thu)
của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương
phiếu sang cho vay trực tiếp đối với khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc
xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất.
Thứ ba, nhận tiền gửi
Cho vay là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng, do đó các ngân hàng
thực hiện nhiều chiêu thức quảng cáo khác nhau nhằm thu hút khách hàng gửi tiền. Ngoài
ra, các ngân hàng còn sử dụng nhiều cách thức cạnh tranh truyền thống khác. Biện pháp
hiệu quả nhất cho đến nay mà các ngân hàng thường sử dụng là nâng cao mức lãi suất tiền
gửi tiết kiệm cho khách hàng trong điều kiện cho phép. Trong lịch sử, kỷ lục về lãi suất huy
động thuộc về các ngân hàng Hy Lạp khi họ đã trả lãi suất tiết kiệm lên đến 16%/năm. Sau
đó, họ đã cho các chủ tàu buôn ở Địa Trung Hải vay với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất
tiết kiệm. Ở nước ta, để chống lạm phát, có thời gian chúng ta đã nâng lãi suất tiền gửi tiết
kiệm lên 12%/tháng.
Thứ tư, tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Trong quá trình điều hành nền kinh tế quốc gia, Chính phủ buộc phải đầu tư vào
những dự án đem lại nhiều lợi ích cho xã hội mà các doanh nghiệp tư nhân không làm như:
xây dựng đường sá, cầu cống và cung cấp hàng hoá công cộng khác. Tuy nhiên, không phải
lúc nào ngân sách Chính phủ cũng cho phép tiến hành các hoạt động đầu tư đó. Nếu phát
hành thêm tiền thì sẽ làm tăng lượng cung tiền trong nền kinh tế, dẫn đến lạm phát gia tăng

và nền kinh tế mất ổn định. Do đó, Chính phủ thường phát hành trái phiếu nhằm tranh thủ
nguồn vốn lớn của hệ thống ngân hàng. Thông thường, để được cấp phép hoạt động, các


ngân hàng cần mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi
mà ngân hàng huy động được. Điều đó giúp cho Chính phủ có vốn để thực hiện các hoạt
động đầu tư của mình mà không phải làm thay đổi lượng cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế
quốc dân.
Thứ năm, cung cấp các tài khoản giao dịch
Cuộc cách mạng công nghiệp ở châu Âu và châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những
hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển
trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch - một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi
tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền
gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong dịch vụ ngân hàng
bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh
doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn.
1.2.1.2. Các dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây
- Cho vay tiêu dùng: Trong lịch sử, các ngân hàng thường không chú trọng vào các
khoản cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình, họ cho rằng các khoản vay đó có mức độ rủi
ro cao và quy mô nhỏ. Mặt khác, tỷ lệ sinh lời của chúng thấp nên mức độ hấp dẫn của nó
đối với ngân hàng là không đáng kể. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, tình thế đã thay
đổi, với xu hướng đa dạng hoá danh mục dịch vụ, các ngân hàng đã cân đối lại cơ cấu khách
hàng của mình theo hướng cân bằng các khoản vay: cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp.
Điều đó buộc các ngân hàng phải coi người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng.
Hiện nay, nhiều ngân hàng nước ta đã tiến hành cung cấp các dịch vụ cho vay tiêu dùng khá
phong phú như: cho vay để mua ôtô, sửa chữa và xây mới nhà cửa và cho vay phục vụ giáo
dục như đi du học. Người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vay vốn chủ yếu và tạo ra một
trong số những nguồn thu quan trọng của ngân hàng.
- Quản lý tiền mặt: Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch
vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có lợi ích đối với khách hàng. Một trong những ví dụ

nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng làm dịch vụ quản lý việc thu,
chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các


chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh
toán.
Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hoá vào dịch vụ quản lý
tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hướng đang gia tăng về việc cung cấp các dịch
vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các công ty
môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cung cấp cho người tiêu dùng tài khoản
môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan.
- Cho vay tài trợ dự án: Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài
trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới, đặc biệt là trong ngành công nghệ cao. Do rủi ro
trong loại hình tín dụng này nói chung là cao nên chúng thường được thực hiện qua một
công ty đầu tư là thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các
nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro.
- Bán các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín
dụng cho khách hàng, điều đó đảm bảo trong trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hay
tàn phế. Trong khi các quy định ở nước ta hiện nay còn hạn chế các ngân hàng thương mại
trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều ngân hàng hi vọng có thể đưa ra các hợp đồng bảo
hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh
hoặc các thoả thuận đại lý kinh doanh độc quyền, theo đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt
một văn phòng đại lý tại hành lang của ngân hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập
từ các dịch vụ ở đó.
- Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Trên thị trường tài chính hiện
nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một "bách hoá tài chính" thực sự, cung
cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép hàng hoá thoản mãn mọi nhu cầu tại một địa
điểm. Đây là một trong những lý do khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới
chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán
khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các

ngân hàng thành lập các công ty môi giới chứng khoán như Công ty chứng khoán Ngân
hàng ACB, Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư phát triển, Công ty chứng khoán Ngân


hàng Công thương Việt Nam.
- Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn: Ngân hàng ngày nay
theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và
dịch vụ ngân hàng buôn bán cho các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao gồm xác định
mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng (Ví dụ:
bảo lãnh phát hành chứng khoán), cung cấp công cụ Marketing chiến lược, các dịch vụ hạn
chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ
trợ các khoản nợ do chính phủ và công ty phát hành để những khách hàng này có thể vay
vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay từ các tổ chức cho vay khác.
Thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, ngân hàng đã tạo ra cho các công ty một
kênh huy động vốn mới bên cạnh hình thức cho vay vốn truyền thống. Nhiều công ty đã
đánh giá rất cao nghiệp vụ này của ngân hàng, hơn cả hình thức cho vay truyền thống bởi vì
nó cung cấp cho họ một nguồn vốn dài hạn với chi phí thấp hơn.
Không phải tất cả mọi ngân hàng đều cung cấp nhiều dịch vụ tài chính như danh
mục dịch vụ mà chúng tôi đã miêu tả ở trên, nhưng danh mục dịch vụ ngân hàng đang tăng
lên nhanh chóng. Nhiều loại hình tín dụng và tài khoản tiền gửi mới đang được phát triển,
các loại dịch vụ mới như giao dịch Internet và thẻ thông minh (Smart), bảo hiểm, kinh
doanh chứng khoán đang được mở rộng và được tung ra hàng năm. Nhìn chung, danh mục
các dịch vụ do ngân hàng cung cấp đã và đang tạo ra một sự thuận lợi rất lớn cho khách
hàng. Khách hàng có thể hoàn toàn thoả mãn tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính của mình
thông qua một ngân hàng, tại một địa điểm. Thực sự ngân hàng đã trở thành "bách hoá tài
chính" ở kỷ nguyên hiện đại. Công việc hợp nhất các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, môi giới
chứng khoán, …dưới một mái nhà chính là xu hướng mà người ta thường gọi là Universal
Banking ở Mỹ, Canada và Anh, là Allginanz ở Đức, và là Bancassurance ở Pháp.
1.2.2. Phân tích và đánh giá hoạt động ngân hàng
Để phân tích, đánh giá hoạt động của ngân hàng thương mại chúng ta thường sử

dụng những chỉ số sau:


1.2.2.1. Các chỉ số đo lường mức sinh lời
Các tỷ lệ chủ yếu phản ánh khả năng sinh lời trong hoạt động ngân hàng được sử
dụng hiện nay gồm:
Tỷ lệ thu nhập trên vốn
chủ sở hữu (ROE)
=
Thu nhập sau thuế
(1)

Vốn chủ sở hữu

Tỷ lệ thu nhập trên
tổng tài sản (ROA)
=
Thu nhập sau thuế
(2)

Tổng tài sản

Tỷ lệ thu nhập
lãi cận biên (NIM)
=

I - II
(3)

Tổng tài sản*

I: Thu lãi từ các khoản cho vay và đầu tư chứng khoán.
II: Chi phí trả lãi cho tiền gửi và nợ khác
Tỷ lệ thu nhập ngoài
lãi cận biên
=
Thu ngoài lãi - Chi phí ngoài lãi
(4)

Tổng tài sản
* Nhiều cơ quan quản lý ngân hàng sử dụng tài sản sinh lời để làm mẫu số trong
công thức (3) và (4). Tài sản sinh lời là những tài sản tạo ra nguồn thu cho ngân hàng dưới
dạng thu lãi hoặc thu ngoài lãi chủ yếu là khoản mục đầu tư và cho vay. Bởi vì trong hệ
thống danh mục các tài sản của ngân hàng, không phải tài sản nào cũng sinh lời, do vậy, để
đánh giá thực sự tính hiệu quả của tài sản đối với lợi nhuận của ngân hàng, chúng ta sử dụng
tổng tài sản thay vì tài sản sinh lời để làm mẫu số trong công thức (3) và (4).
Tỷ lệ thu nhập
=

Tổng thu từ hoạt động - Tổng chi phí hoạt động
(5)

hoạt động cận biên Tổng tài sản
Các chỉ số về khả năng sinh lời nêu trên có sự khác biệt không đáng kể. ROA là chỉ
số liên quan đến hiệu quả của công nghệ quản lý mà ngân hàng áp dụng. Nó cho biết khả


năng của ban lãnh đạo ngân hàng trong quá trình chuyển hoá tài sản của ngân hàng thành
thu nhập ròng. Ngược lại ROE phản ánh mức thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng. Nó
thể hiện hiệu quả đầu tư mà các cổ đông có được khi đầu tư vào ngân hàng. Như vậy, ROA
phản ánh quan hệ giữa ngân hàng và ban lãnh đạo trong khi ROE thể hiện mối quan hệ giữa

ngân hàng và cổ đông.
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi
mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và
theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Trái lại, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo
lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi, chủ yếu là nguồn thu phí từ các dịch vụ với
các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (gồm tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành
thiết bị, và chi phí tổn thất tín dụng). Đối với hầu hết các ngân hàng, chênh lệch ngoài lãi
thường là âm - chi phí ngoài lãi nhìn chung vượt quá thu từ phí, mặc dù tỷ lệ thu từ phí
trong tổng các nguồn thu của ngân hàng đã tăng rất nhanh trong những năm gần đây. Tóm
lại, hai chỉ số này phản ánh năng lực của lãnh đạo và nhân viên ngân hàng trong việc duy trì
sự tăng trưởng các khoản thu.
Một biện pháp đo lường hiệu quả chỉ tiêu thu nhập truyền thống khác mà các nhà
quản lý sử dụng để điều hành ngân hàng là chênh lệch lãi suất bình quân (hay chênh lệch lãi
suất đầu vào - đầu ra), được tính như sau:
Chênh lệch
lãi suất bình quân

=

Thu từ lãi
-

Tổng chi phí trả lãi
(6)
Tổng tài sản sinh lời

Tổng nguồn vốn phải trả lãi
Chỉ số chênh lệch lãi suất bình quân dùng để đo lường hiệu quả hoạt động trung
gian của ngân hàng trong quá trình huy động vốn và cho vay, đồng thời nó cũng đo lường
cường độ cạnh tranh của ngân hàng. Sự gia tăng cạnh tranh có xu hướng làm giảm chỉ số

này. Ngoài ra chỉ số này là đưa ra những tín hiệu buộc ban lãnh đạo phải cố gắng tìm ra
những giải pháp nâng cao mức chênh lệch lãi suất bình quân.
Một thước đo khả năng sinh lợi khác là tỷ lệ hiệu suất sử dụng tài sản cố định, bằng
tổng thu nhập hoạt động chia cho tổng tài sản. Tỷ lệ này có thể được chia thành 2 phần quan
trọng, phần thứ nhất là mức thu lãi bình quân trên tài sản và mức thu ngoài lãi bình quân


trên tài sản. Bộ phận thứ hai chủ yếu gồm phí thu từ các dịch vụ. Điều này được thể hiện
như sau:
Tổng thu từ hoạt động
=
Thu nhập lãi
+

Thu nhập ngoài lãi
(7)

Tổng tài sản Tổng tài sản Tổng tài sản
Mức độ cạnh tranh trên thị trường và các khoản cho vay kém chất lượng gia tăng
tạo ra sức ép buộc các ngân hàng phải chú trọng đến việc tăng nguồn thu ngoài lãi để bù
đắp. Điều đó giúp cho ngân hàng có thể tăng thu nhập ròng cho vốn chủ sở hữu của mình.
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, các nhà quản lý ngân hàng hiện đại đang nỗ lực trong
việc giảm tỷ trọng tài sản không sinh lời như tiền mặt, tài sản cố định và tài sản vô hình
trong tổng tài sản. Theo đó, một thước đo quan trọng khác phản ánh mối tương quan tương
đối giữa tài sản không sinh lời và tài sản sinh lời là tỷ lệ tài sản sinh lời: Nếu cho A là các
khoản cho vay, B các khoản cho thuê, C là đầu tư chứng khoán và D là tài sản không sinh
lời thì tỷ lệ này được tính như sau:
Tỷ lệ tài
sản sinh lời


=

Tổng tài sản sinh lời
=

A + B + C
=

Tổng tài sản - D

(8)
Tổng tài sản Tổng tài sản Tổng tài sản
Nhìn chung, khi tỷ lệ tài sản sinh lời giảm, hội đồng quản trị và nhân viên của ngân
hàng cần làm việc tích cực hơn để có thể duy trì mức thu nhập hiện tại.
1.2.2.2. Các mô hình về khả năng sinh lời
Để đánh giá tình hình hoạt động của ngân hàng, người ta thường sử dụng các đẳng thức
thể hiện mối liên hệ giữa các chỉ số sinh lời. Ví dụ: 2 chỉ số quan trọng nhất là ROE và ROA
liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Cả 2 có cùng tử số là thu nhập sau thuế, vì thế, 2 chỉ số này có
mối liên hệ trực tiếp như sau:
ROE = ROA x
Tổng tài sản
(9)

Vốn chủ sở hữu
Nói cách khác:


Thu nhập sau thuế

=


Thu nhập sau thuế
x

Tổng tài sản
(10)

Vốn chủ sở hữu Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu
Nhưng chúng ta lưu ý rằng: thu nhập ròng bằng tổng thu nhập trừ các chi phí hoạt
động (gồm cả chi phí trả lãi) và thuế. Vì vậy:
ROE =
X - Y - Z
-

Tổng tài sản
(11)

Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu
Trong đó: X là tổng thu hoạt động; Y là tổng chi phí hoạt động và Z là thuế.
Mối quan hệ trong công thức (10), (11) cho thấy thu nhập của một ngân hàng rất
nhạy cảm với phương thức tài trợ tài sản - sử dụng nhiều nợ hơn (gồm cả tiền gửi) hoặc
nhiều vốn chủ sở hữu hơn. Thậm chí một ngân hàng có ROA thấp có thể đạt được ROE khá
cao thông qua việc sử dụng nhiều tài sản nợ (đòn bẩy tài chính) và sử dụng tối thiểu vốn chủ
sở hữu.
Trên thực tế, mối quan hệ giữa ROA và ROE thể hiện rõ sự "đánh đổi" cơ bản giữa rủi
ro và thu nhập mà các nhà quản lý ngân hàng phải đối mặt. Ví dụ, nếu ngân hàng đặt mục tiêu
ROE là 10% và dự kiến mức ROA trong năm khoảng 1% thì ngân hàng cần phải có tỷ lệ tài
sản: vốn chủ sở hữu là 10:1.
Theo công thức (9) ta có:
ROE = ROA x

Tổng tài sản
= 0,01 x
10.000.000VND x 100%
=10 %
Vốn chủ sở hữu 1.000.000VND
Tuy nhiên, nếu ngân hàng dự tính ROA giảm xuống còn 0,5%, tỷ lệ 10% của ROE
chỉ có thể đạt được nếu 1 triệu đồng tiền vốn tương ứng 20 triệu đồng tài sản.
Thay đổi công thức (10), chúng ta sẽ có một mô hình hữu ích cho việc phán đoán
các vấn đề trong bốn lĩnh vực quản lý ngân hàng.
ROE = HQ ql thuế x HQ kiểm soát CP x HQ sd tài sản x Tỷ trọng vốn chủ SH (12)
Trong đó:


Hiệu quả quản lý thuế =
Thu nhập sau thuế
(12a)
Thu nhập trước thuế và lãi (lỗ) từ KD chứng khoán

Hiệu quả kiểm soát

chi phí
=

Thu nhập trước thuế và lãi (lỗ) từ KD chứng khoán
(12b)

Tổng thu từ hoạt động

Hiệu quả sử dụng tài sản


=

Tổng thu từ hoạt động
(12c)
Tổng tài sản

Tỷ trọng vốn chủ sở hữu

=

Vốn chủ sở hữu
(12d)
Tổng tài sản
1.3. THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC CHỦ YẾU ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.3.1. Thời cơ chủ yếu
Thứ nhất, ngành ngân hàng Việt Nam có điều kiện tranh thủ sự hỗ trợ về vốn và kỹ
thuật để đổi mới công nghệ, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng. Các trung gian tài
chính trong nước có cơ hội tiếp cận được với thị trường vốn quốc tế trên cơ sở áp dụng các
công cụ tài chính mới, qua đó, sẽ nâng cao sức cạnh tranh của các ngân hàng thương mại
Việt Nam và mở rộng thị phần cả trên thị trường trong nước và ngoài nước. Chi phí vốn
cũng giảm dần nhờ đa dạng hoá rủi ro và các công cụ phòng ngừa rủi ro. Việc tự do hoá tài
khoản vốn cũng là biện pháp giúp các ngân hàng và nhà đầu tư chia sẻ rủi ro. Hệ thống tài
chính nội địa sẽ hoạt động hiệu quả hơn do có tính thanh khoản cao hơn cùng với sự xuất
hiện của đầu tư nước ngoài gián tiếp. Sự lựa chọn của khách hàng về dịch vụ ngân hàng
cũng đa dạng và hấp dẫn hơn.
Thứ hai, tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân
hàng Việt Nam nhằm tránh tụt hậu và thua thiệt so với các nước trong khu vực và trên thế
giới, đáp ứng các yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với các định chế tài chính, các tổ
chức thương mại khu vực và toàn cầu theo hướng nới lỏng các hạn chế hiện tại, tiến tới mở



cửa và tự do hoá toàn diện. Hội nhập cũng cho phép thiết lập chính sách tiền tệ có hiệu lực,
phù hợp với điều kiện và yêu cầu của nền kinh tế mở, có khả năng phòng ngừa rủi ro và
nguy cơ khủng hoảng tài chính. Môi trường pháp lý và kỷ luật thị trường được hoàn thiện
dần, góp phần cải thiện môi trường đầu tư và khuyến khích các luồng vốn vào thông qua
đầu tư nước ngoài và sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài.
Thứ ba, cơ chế quản lý cũng được hoàn thiện dần theo hướng phù hợp với thông lệ
và chuẩn mực quốc tế, nhất là về hệ thống kế toán, kiểm toán, thanh tra và giám sát hoạt
động ngân hàng. Hệ thống thông tin quản lý cũng được cải tiến, góp phần hoàn thiện hoạt
động của hệ thống ngân hàng.
Thứ tư, mở ra cơ hội trao đổi và hợp tác quốc tế về các vấn đề chính sách và quản
lý, đào tạo nguồn nhân lực ngân hàng, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống ngân
hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Thứ năm, sự có mặt của các định chế ngân hàng nước ngoài sẽ tạo điều kiện cho thị
trường tài chính phát triển theo đúng chuẩn mực quốc tế. Hệ thống tài chính vững mạnh sẽ
là tiền đề quan trọng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững.
Thứ sáu, phát triển dịch vụ và tiện ích ngân hàng mới, an toàn hơn, hiệu quả hơn;
tạo ra các kênh huy động vốn và cho vay đa dạng, tin cậy hơn, phục vụ đắc lực cho nhu cầu
tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng của các doanh nghiệp và dân cư.
1.3.2. Thách thức chủ yếu
Sức ép về cạnh tranh ngày càng gay gắt ngay trên lãnh thổ Việt Nam.
+ Cạnh tranh trong dịch vụ "bán lẻ" ngân hàng.
Mở cửa và hội nhập hoạt động ngân hàng là chấp nhận tham gia vào luật chơi chung
bình đẳng áp dụng cho tất cả các nước. Việt Nam hiện đã là thành viên của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO). Thời gian chuyển đổi được phép từ 3-5 năm, như vậy khoảng năm
2010 sẽ không có sự phân biệt giữa các tổ chức tín dụng trong nước với các tổ chức tín dụng
nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng. Ngoài ra, trong thời gian tới, các ngân hàng nước
ngoài tăng cường mở rộng mạng lưới hoạt động tại Việt Nam dưới mọi hình thức. Các chi



nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam hiện nay cũng sẽ từng bước được
nới lỏng và dần trở thành các ngân hàng bán lẻ thực thụ tại Việt Nam. Về dịch vụ ngân hàng
bán lẻ, hiện đã có hai ngân hàng nước ngoài nổi tiếng khu vực đang hoạt động tại Việt Nam
là ANZ và HSBC, như vậy đã xuất hiện sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài trong
khu vực này. Trong tương lai gần, ngân hàng CitiBank của Mỹ cũng tuyên bố sẽ trở thành ngân
hàng bán lẻ tại Việt Nam. Ngoài ra còn có một số ngân hàng lớn như: UOB, Standard
Chartered Bank,… khác cũng tham gia vào khu vực này và sẽ làm cho sự cạnh tranh về dịch vụ
ngân hàng bán lẻ ngày càng khốc liệt hơn.
+ Cạnh tranh trong mở rộng thị phần, đối tượng khách hàng.
Loại hình ngân hàng nước ngoài mang quốc tịch Việt Nam cho phép họ thâm nhập
sâu hơn vào thị trường nội địa, đặc biệt về khả năng sát nhập các ngân hàng yếu kém để mở
rộng thị phần. Cạnh tranh gay gắt cũng sẽ tập trung vào việc mở rộng đối tượng khách hàng
là dân cư dưới một số hình thức hoạt động như tăng vốn thông qua huy động tiết kiệm dân
cư và vốn nhàn rỗi tạm thời của các tổ chức phi kinh tế; mở rộng hoạt động mới, nhất là
dịch vụ thu phí như thanh toán, chuyển tiền, tư vấn, giới thiệu và lưu ký chứng khoán, quản
lý danh mục đầu tư. Khi những hạn chế nới lỏng, sẽ xảy ra tình trạng dịch chuyển thị phần
huy động vốn và cho vay từ các ngân hàng thương mại Việt Nam sang các ngân hàng nước
ngoài, các ngân hàng nước ngoài có thể sẽ thu hút, giành được các khách hàng truyền thống,
có độ tín nhiệm cao từ tay các ngân hàng trong nước.
+ Cạnh tranh trên thị trường tín dụng và các hoạt động dịch vụ khác.
Trên thị trường tín dụng, cạnh tranh về cho vay sẽ tăng dần khi các ngân hàng nước
ngoài đã hiểu rõ thị trường Việt Nam và môi trường pháp lý bảo đảm cho họ xử lý rủi ro để
thu hồi nợ trong trường hợp cần thiết. Việc cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia
hoạt động tái cấp vốn, tái chiết khấu, swap, forward từ ngân hàng nhà nước sẽ giúp họ bù
đắp một phần vốn huy động còn bị hạn chế, cũng như năng động và linh hoạt hơn trong kinh
doanh vốn trên thị trường tiền tệ Việt Nam, khu vực và thế giới. Các ngân hàng nước ngoài
có ưu thế, kinh nghiệm trong giao dịch thanh toán và chuyển tiền, kinh doanh ngoại tệ cả về
loại hình và chất lượng dịch vụ. Sau khi tạo lập được uy tín tại Việt Nam, các ngân hàng



nước ngoài sẽ thu hút thêm nhiều khách hàng Việt Nam. Hiện nay có 5 ngân hàng và tổ
chức tài chính quốc tế tham gia cổ phần tại một số ngân hàng thương mại cổ phần Việt
Nam.
Như vậy, thách thức về cạnh tranh đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam là
rất lớn, nhất là đối với những ngân hàng Việt Nam có phạm vi và quy mô hoạt động trùng
với lĩnh vực hoạt động có ưu thế của các ngân hàng nước ngoài như thanh toán quốc tế, tài
trợ thương mại, đầu tư dự án.
Ngoài ra, hàng loạt nghiệp vụ mới chưa được thực hiện tại Việt Nam như môi giới
tiền tệ, kinh doanh các sản phẩm phát sinh. Sức ép cạnh tranh đối với các ngân hàng thương
mại Việt Nam sẽ tăng dần cùng với việc nới lỏng các quy định về hoạt động của các ngân
hàng nước ngoài, nhất là những ràng buộc về việc nhận tiền gửi VND, phát hành thẻ tín
dụng và các máy rút tiền tự động. Thị phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam có
nguy cơ bị thu hẹp, nhất là tại các thành phố lớn và vùng kinh tế trọng điểm.
1.4. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG VIỆT NAM TRONG ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG
1.4.1. Kinh nghiệm đổi mới hoạt động kinh doanh đối ngoại của chi nhánh Cà
Mau
Thứ nhất, tập trung tạo dựng và duy trì mối quan hệ kinh doanh giữa chi nhánh với các
doanh nghiệp hoạt động trong ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Cà Mau là tỉnh có lợi thế về thuỷ sản, được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của
tỉnh. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, từ 208 triệu USD năm 2000 lên hơn 560 triệu USD
trong năm 2006. Tỉnh Cà Mau cũng đang khẩn trương thực hiện hai chương trình công tác
lớn, đó là: đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường xuất khẩu với
nhiều tham vọng đưa sản phẩm tôm của Cà Mau có mặt tại nhiều thị trường các nước trên
thế giới.
Hiện nay, chi nhánh Cà Mau đang có quan hệ tín dụng và thanh toán với 14 doanh
nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản trong tổng số 18 doanh nghiệp kinh doanh chế biến thuỷ

×