Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

LUẬN VĂN: Quản lý tài chính ở Đại học Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.48 KB, 98 trang )











LUẬN VĂN:


Quản lý tài chính ở Đại học Đà
Nẵng - Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện









mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ. Trình
độ dân trí và tiềm lực khoa học - công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh và
vị thế của mỗi quốc gia. Trên thế giới giáo dục và đào tạo được coi là nhân tố quyết định


sự thành bại của mỗi Quốc gia. Luật Giáo dục đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 4 thông qua ghi rõ “Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan
trọng nhất cho sự phát triển toàn diện của đất nước”, và nhấn mạnh “tăng cường các
nguồn lực cho giáo dục - đào tạo”, “tăng dần tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục - đào
tạo”.
Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo đến năm 2020 cũng ghi rõ: "
Xây dựng một nền giáo dục - đào tạo chất lượng cao đạt chuẩn khu vực và Quốc tế”.
Đại Học Đà Nẵng được thành lập theo Nghị định 32/CP ngày 04/04/1994 của
Chính phủ và Quyết định 477/TTg ngày 5/9/1994 của Thủ tướng Chính phủ; được điều
chỉnh theo Nghị định số 07/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001 của Chính phủ và Quyết định
số 16/001/QĐ-TTg ngày 12/02/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Sự ra đời của Đại học Đà
Nẵng đánh dấu bước đổi mới quan trọng đối với quá trình xây dựng và phát triển nền
giáo dục đại học ở Việt Nam nói chung, ở Đà Nẵng nói riêng trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp với xu hướng phát triển đại học của các nước tiên
tiến trên thế giới, xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học
chất lượng cao của khu vực và cả nước. Để hoàn thành nhiệm vụ trọng đại đó, Đại Học
Đà Nẵng phải phát huy tiềm năng của mình, trên cơ sở sự ưu tiên đầu tư của Nhà nước,
trong đó hoàn thiện quản lý tài chính là bộ phận quan trọng. Với những điều kiện mới,
nhiệm vụ mới, Đại học Đà Nẵng cần phải nâng cao năng lực quản lý tài chính để phối
hợp cùng với các mảng công tác về đào tạo, nghiên cứu khoa học nhằm góp phần nâng

cao năng lực quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng. Vì vậy, đề tài: “Quản lý tài chính ở
Đại học Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” được chọn làm đối tượng
nghiên cứu trong luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết liên quan
đến lĩnh vực quản lý tài chính trong các trường đại học, trên cả nước nói chung và khu

vực miền Trung nói riêng. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau đây:
- Ngân hàng Thế giới, nghiên cứu tài chính cho giáo dục Việt Nam, Hà Nội,
(1996)
- Nguyễn Duy Bắc (2002), “Phát triển giáo dục và đào tạo theo tinh thần xã hội
hoá”, Tạp chí lý luận Chính trị.
- Đỗ Minh Cương - Nguyễn Thị Đoan (1999), Phát triển nguồn nhân lực cho giáo
dục đại học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Công Nghiệp (1996), Xây dựng quy trình lập kế hoạch và cơ chế điều
hành ngân sách giáo dục - đào tạo, Bộ Tài chính.
- Trần Thị Thu Hà (1993), Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý ngân sách hệ
thống giáo dục Quốc dân, Luận án Phó tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà
Nội.
- Trần Xuân Hải (2000), Giải pháp vốn đầu tư phát triển sự nghiệp đào tạo trong
giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân Hà Nội.
- Lê Phước Minh (2001), “Vấn đề thu chi trong giáo dục Đại học và một số ý kiến
về tạo nguồn”, Tạp chí Giáo dục, (7).
- Trần Văn Phong (2001), Nguồn tài chính và quản lý tài chính ở các trường Đại
học công lập trong giai đoạn hiện nay, Luận án Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.
- Phạm Văn Ngọc (2001), Đổi mới quản lý tài chính đáp ứng mô hình Đại học
quốc gia Hà Nội-Thực trạng và giải pháp, Luận án Thạc sĩ Kinh tế,Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.

- Nguyễn Duy Tạo (2000), Hoàn thiện quản lý tài chính các trường đào tạo công
lập ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh.
Các công trình trên tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau và đã đề cập đến nhiều
khía cạnh về đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, nguồn tài chính và quản lý tài chính ở
các trường đào tạo công lập. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách

chuyên biệt về vấn đề quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là thông qua phân tích thực trạng quản lý tài chính ở Đại
học Đà Nẵng, đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực quản lý tài chính ở Đại học Đà
Nẵng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn tới.
Phù hợp với mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về quản lý tài chính phục vụ giáo dục đào tạo,
nhân tố tác động tới việc quản lý tài chính phục vụ giáo dục đào tạo, kinh nghiệm của một số
nước trong việc quản lý tài chính phục vụ giáo dục đào tạo.
- Đánh giá thực trạng quản lý tài chính của Đại Học Đà Nẵng thời gian qua và nêu
ra những tồn tại cần khắc phục, những điểm mạnh cần phát huy.
- Luận chứng giải pháp nâng cao năng lực quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng
trong giai đoạn tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng (đơn vị
sự nghiệp có thu), các yếu tố quyết định năng lực quản lý tài chính ở Đại học Đà Nẵng bao
gồm yếu tố con người, quy chế quản lý và thiết bị hỗ trợ
Phạm vi nghiên cứu trong luận văn:
- Về nội dung: Chủ yếu giới hạn ở các nội dung quản lý tài chính của Đại học Đà
Nẵng.
- Về không gian: Đối tượng khảo sát của luận văn là Đại học Đà Nẵng bao gồm 5
trường thành viên.
- Về thời gian: Từ năm 2000 trở lại đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, bám sát điều kiện thực tế ở địa phương. Trong từng nội dung cụ thể,
còn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, khái quát tài liệu sẵn có kết hợp phương
pháp nghiên cứu thực tiễn: (mẫu phiếu điều tra, phỏng vấn, lấy ý kiến chuyên gia tổng
kết kinh nghiệm), qua đó xử lý số liệu: (dùng phương pháp toán thống kê để xử lý số liệu,

các kết quả điều tra khảo sát) để làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về quản lý tài chính trong đào tạo đại
học.
- Làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề quản lý tài chính trong đào tạo đại
học.
- Nêu ra bức tranh khái quát về quản lý tài chính ở Đại học Đà Nẵng
- Đề xuất những giải pháp quản lý tài chính của Đại học Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được
chia làm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1

một số vấn đề chung về quản lý tài chính
ở trường đại học công lập

1.1. Quản lý tài chính ở trường Đại học công lập
1.1.1. Khái niệm tài chính, nguồn tài chính và quản lý tài chính ở trường Đại
học công lập
1.1.1.1. Khái niệm tài chính
Tài chính không những tượng trưng cho các quan hệ - mặt bản chất bên trong mà
còn tượng trưng cho các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ - Mặt biểu hiện bên ngoài “vỏ
vật chất” của các quan hệ đó. Tài chính phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân
phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị (gọi tắt là các quan hệ phân phối). Là một bộ
phận của các quan hệ phân phối của xã hội.
Bản chất của tài chính - các quan hệ phân phối sản phẩm xã hội - chịu sự ràng
buộc bởi bản chất của quan hệ sản xuất xã hội mà đặc trưng cơ bản là các quan hệ về sở
hữu tư liệu sản xuất.Có nhiều khái niệm về tài chính,nhưng khái niệm về tài chính dưới
đây cho phép chúng ta nhìn nhận đầy đủ,toàn diện về tài chính:
Khái niệm tài chính: Tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra

ở mọi chủ thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh
trong phân phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền
tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
Việc xác định đúng đắn quan niệm tài chính và bản chất tài chính có ý nghĩa quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn. Điều đó tạo cơ sở cho việc vận dụng các quan hệ tài
chính tồn tại khách quan để quyết định chính xác các quyết định tài chính, đồng thời
thông qua các chính sách tài chính để tổ chức các quan hệ tài chính nhằm sử dụng tài
chính tác động tích cực tới các hoạt động và các hoạt động kinh tế - xã hội theo các
phương hướng đã xác định.
1.1.1.2. Khái niệm nguồn tài chính
Nguồn tài chính là khả năng tài chính mà các chủ thể trong xã hội có thể khai thác,
sử dụng nhằm thực hiện các mục đích của mình. Nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng

tiền hoặc tài sản vật chất và phi vật chất. Sự vận động của các nguồn tài chính phản ánh
sự vận động của những bộ phận của cải xã hội dưới hình thức giá trị (tiền tệ). Nguồn tài
chính luôn thể hiện một khả năng về sức mua nhất định. Trong nền kinh tế thị trường,
mỗi chủ thể trong xã hội khi đã nắm trong tay những nguồn tài chính nhất định là nắm
trong tay một sức mua để có thể nắm được những nguồn vật lực hay sử dụng được những
nguồn nhân lực nhất định phục vụ cho mục đích tích lũy hay tiêu dùng của mình.
Nguồn tài chính đầu tư cho sự nghiệp đào tạo nói chung và đào tạo ở các trường
đại học công lập nói riêng là đầu tư cơ bản, đầu tư cho sự nghiệp phát triển của con người
- là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhà kinh tế học Hoa Kỳ Gray
Backer đã khẳng định “Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào
nguồn nhân lực”.
Đầu tư cho đào tạo là đầu tư “lợi ích tương lai”, hiệu quả không thấy ngay được,
lợi ích của việc đầu tư cho sự nghiệp đào tạo có tác dụng như đầu tư cho phương tiện sản
xuất, một loại phương tiện sản xuất tạo ra sản phẩm có tính chất vô hình, sản phẩm đó
không thuộc loại tiêu dùng mà thuộc loại “tạo tiềm năng”. Hiệu quả của việc đầu tư cho
sự nghiệp đào tạo được phát huy trên phạm vi toàn xã hội, đồng thời được xác định đầy
đủ khi những sản phẩm của đào tạo đi vào cuộc sống và thực sự thúc đẩy sự phát triển

kinh tế xã hội của đất nước.
Có thể thấy quan hệ nhân quả giữa đầu tư và phát triển sự nghiệp đào tạo (được
minh hoạ theo Sơ đồ 1.1).

Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển sự nghiệp đào tạo









1.1.1.3. Khái niệm quản lý tài chính
Quản lý tài chính trước hết là quản lý các nguồn tài chính, quản lý các quỹ tiền
tệ, quản lý việc phân phối các nguồn tài chính, quản lý việc tạo lập, phân bổ và sử dụng
các quỹ tiền tệ một cách chặt chẽ, hợp lý và có hiệu quả theo các mục đích đã định.
Đồng thời quản lý tài chính cũng chính là thông qua các hoạt động kể trên để tác động
có hiệu quả nhất tới việc xử lý các mối quan hệ kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình
phân phối các nguồn tài chính, trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các
chủ thể trong xã hội.
Quản lý tài chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng để Nhà nước điều hành
và quản lý nền kinh tế đất nước, hình thành và đảm bảo các cân đối chủ yếu và tỷ lệ phát
triển của nền kinh tế quốc dân.
Quản lý tài chính thực chất là sử dụng và phát huy vai trò của hệ thống tài chính
thông qua Nhà nước. Điều đó được thể hiện thông qua cơ chế hoạt động và vận động của
tài chính phục vụ cho quá trình tái sản xuất xã hội và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của
Nhà nước.
Quản lý tài chính trong trường đại học: Quản lý tài chính trong trường đại học là

quản lý việc thu-chi một cách có kế hoạch, tuân thủ các chế độ tài chính, đã quy định và
tạo ra được hiệu quả chất lượng giáo dục.
1.1.2. Đặc điểm, yêu cầu quản lý tài chính ở trường đại học công lập

Đầu tư cho sự nghiệp Đào
t
ạo


Phát triển đào tạo
Đào t
ạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài
Tăng trư
ởng kinh tế
và tiến bộ xã hội

1.1.2.1. Đặc điểm
Quản lý tài chính ở trường đại học công lập là quản lý hệ thống các nguyên tắc,
các quy định, quy chế, chế độ của Nhà nước về tài chính, nguồn hình thành tài chính…
mà hình thức biểu hiện là những văn bản pháp luật, pháp lệnh nghị định…Ngoài ra nó
còn được thể hiện thông qua các quy chế, quy định của trường đại học đối với các hoạt
động tài chính của trường đại học công lập.
1.1.2.2. Yêu cầu
Các quy định về quản lý tài chính ở trường đại học công lập phải tuân thủ theo các
văn bản pháp quy của Nhà nước có liên quan tới các hoạt động tài chính của trường, vì
tài chính trong trường đại học công lập là sự vận động của đồng tiền để thực hiện mục
tiêu phát triển, mục tiêu đào tạo và bản chất của việc đầu tư cho giáo dục đào tạo nói
chung và giáo dục đào tạo đại học nói riêng là đầu tư cho phát triển, cho sự hoàn thiện
nhân cách con người. Quản lý tài chính trong trường đại học công lập phải đáp ứng được

các yêu cầu sau:
- Nắm vững được các chế độ, chính sách hiện hành
- Xác định được các khoản thu
- Xác định các nguồn thu
- Thanh quyết toán, báo cáo tài chính
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có nghiệp vụ về tài chính
1.1.3. Vai trò của quản lý tài chính đối với sự phát triển của các trường đại
học công lập
Trong điều kiện cơ chế thị trường, các trường đại học công lập có quyền tự chủ (tự
trị) nhất định về huy động nguồn tài chính và quản lý các nguồn tài chính đó. Tài chính
phục vụ cho giáo dục đào tạo ở các trường đại học công lập hiệu quả chủ yếu từ hai
nguồn: Ngân sách Nhà nước (NSNN) cấp và nguồn ngoài NSNN, trong đó nguồn NSNN
có vai trò quan trọng nhất (minh hoạ trên Sơ đồ 1.2).
Sơ đồ 1.2: Nguồn tài chính cho giáo dục đào tạo



Nguồn tài chính cho giáo dục -
đào t
ạo

Nguồn NSNN Nguồn ngoài NSNN












Ngân sách nhà nước: (Điều 1 - Luật ngân sách): là toàn bộ các khoản thu-chi của
Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Trong cơ chế thị trường, NSNN không còn là ngân sách của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, nhưng trong tất cả các nguồn tài chính đầu tư cho sự nghiệp đào tạo thì nguồn
NSNN vẫn giữ vai trò chủ đạo và quan trọng nhất.
NSNN với tư cách là một loại quỹ tiền tệ của Nhà nước có vị trí cực kỳ quan
trọng, phân phối các nguồn tài chính, thể hiện mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà
nước và xã hội.
Quyền lực về NSNN thuộc về Nhà nước, mọi khoản thu-chi tài chính của Nhà
nước đều do Nhà nước quyết định nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước. Bản chất của
NSNN là hệ thống các mối quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội,
phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm thực
hiện các chức năng quản lý và điều hành kinh tế, xã hội của mình, trong đó có các khoản
chi cho bộ máy quản lý của Nhà nước, cho giáo dục - đào tạo, y tế…
Tất cả các khoản chi tiêu tài chính của Nhà nước đều được đảm bảo từ thuế và các
hình thức thu khác vào ngân sách.
Trong nền kinh tế thị trường, NSNN không chỉ đơn thuần là quỹ tiền tệ tập trung
để thoả mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, mà thực sự trở thành công cụ điều tiết vĩ mô

quan trọng của Nhà nước trong quản lý kinh tế. Có thể nói đầu tư từ NSNN là yếu tố
quyết định đối với việc hình thành, mở rộng và phát triển sự nghiệp đào tạo, biểu hiện:
Thứ nhất: Chi phát triển văn hoá - xã hội trong đó có sự nghiệp giáo dục - đào tạo
là những nội dung cơ bản nhất của hoạt động chi ngân sách Nhà nước. Đảng và Nhà nước
ta coi trọng giáo dục - đào tạo là “Quốc sách hàng đầu”, tại điều 89 Luật Giáo dục nêu rõ:
Nhà nước ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, đảm bảo tỷ lệ ngân sách
Nhà nước chi cho giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục. Hiện

nay, nguồn đầu tư của NSNN vẫn chiếm ưu thế trong tổng chi cho sự nghiệp đào tạo. Do
hệ thống trường công còn chiếm tỷ lệ lớn, phát triển các trường bán công, dân lập chưa
nhiều, việc xã hội hoá sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đa dạng hoá các loại hình trường, lớp
chưa phổ biến, chưa có khả năng thu hút nguồn đầu tư khác cho sự nghiệp đào tạo. Song
NSNN duy trì và phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo theo định hướng của Đảng và Nhà
nước là chiến lược chung của Quốc gia.
Đặc biệt chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo được ưu tiên hàng đầu, khoản
chi này tương đối ổn định và chiếm tỷ trọng trong NSNN, gồm
4 nhóm:
Nhóm 1: Chi cho con người: lương, phụ cấp lương, phúc lợi, BHXH, khoản chi
này theo kế hoạch chiếm khoảng 38 - 43% song vẫn chưa đảm bảo cuộc sống cho cán bộ
công nhân viên, vì vậy việc đầu tư cho giáo dục là phải có các chính sách ưu đãi đối với
giáo viên là cần thiết.
Nhóm 2: Chi quản lý hành chính bao gồm: công tác phí, công vụ phí (điện, nước,
xăng xe, hội thảo, hội nghị…) khoản chi này thường chiếm khoảng 22%/Tổng chi thường
xuyên.
Nhóm 3: Chi giảng dạy, học tập: Bao gồm việc mua tài liệu, sách giáo khoa, giáo
trình, đồ dùng học tập, vật liệu, hoá chất thí nghiệm, phấn viết…Đây là khoản chi có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo, chiếm khoảng 13 -14% / Tổng chi ngân sách.
Nhóm 4: Chi mua sắm, sửa chữa: bao gồm chi cải tạo, sửa chữa, nâng cấp trường
lớp, bàn ghế, trang thiết bị, cơ sở vật chất… phục vụ cho việc giảng dạy và học tập.
Khoản chi này chiếm khoảng 20 -21% / Tổng chi ngân sách.

ở mỗi giai đoạn khác nhau thì mức độ, nội dung, cơ cấu chi NSNN cho sự nghiệp
đào tạo cũng có sự khác nhau.
Thứ hai: đầu tư NSNN cho xây dựng cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập,
nghiên cứu khoa học từng bước nâng cao chất lượng đào tạo và cũng là cơ sở để khuyến khích
thu hút đầu tư từ các khâu, đơn vị, doanh nghiệp… Thực hiện “Nhà nước và nhân dân cùng
chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo”.
Thứ ba: NSNN từng bước đảm bảo ổn định đời sống đội ngũ cán bộ giảng dạy,

phục vụ giảng dạy thông qua thang, bậc lương, ngoài ra còn hưởng phụ cấp ưu đãi trong
ngành giáo dục, với mức 30% cho cán bộ trực tiếp giảng dạy, 50% đối với giáo viên ở
các trường sư phạm.
Thứ tư: NSNN đảm bảo học bổng cho học sinh, sinh viên, ưu tiên đối với diện
chính sách, đảm bảo kinh phí cho đào tạo cán bộ giảng dạy và quản lý.
Thứ năm: NSNN có vai trò điều phối cơ cấu của mỗi trường cũng như toàn bộ hệ
thống thông qua định mức chi ngân sách hàng năm giúp cho việc định hướng, sắp xếp cơ
cấu mạng lưới các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân, phát huy tiềm lực đội ngũ
cán bộ giảng dạy, cơ sở vật chất trong việc tạo chất lượng cao và hiệu quả, phân biệt
ngành nghề đào tạo theo khối lượng (y tế, tài chính, kinh tế, tổng hợp…) và tập trung
ngân sách cho mục tiêu chương trình quốc gia như: xây dựng trung tâm đào tạo chất
lượng cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh.
1.1.3.2. Vai trò, vị trí của nguồn ngoài ngân sách nhà nước đối với sự nghiệp
đào tạo
Nguồn thu ngoài ngân sách: bao gồm sự đóng góp của các tổ chức kinh tế – xã
hội, vốn của nhà trường do hoạt động nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất tạo ra,
vốn do nguồn tài trợ của nước ngoài, vốn do sự đóng góp của các tổ chức cá nhân…
Nguồn ngoài NSNN có vai trò và vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo:
Thứ nhất: Tăng đầu tư, nâng cấp cơ sở đào tạo, cải thiện đời sống cán bộ giảng
dạy, sinh viên… nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.
Thứ hai: Khai thác tiềm năng của các thành phần, tổ chức kinh tế đóng góp kinh
phí cho sự nghiệp đào tạo khi NSNN còn hạn hẹp.

Thứ ba: Phát huy tính năng động trong việc huy động các nguồn tài chính đầu tư
cho sự nghiệp đào tạo.
1.2. Nội dung quản lý tài chính trong các trường đại học công lập
Quy trình quản lý tài chính trong các trường đại học công lập phục vụ giáo dục,
đào tạo gồm 4 bước:
Lập kế hoạch: Dựa vào quy mô đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển sự nghiệp
giáo dục - đào tạo của Nhà nước, nắm đầy đủ số lượng biên chế, học sinh – sinh viên, cơ

sở vật chất năm báo cáo để có cơ sở dự kiến năm kế hoạch cho trường. Dựa vào số liệu
chi cho con người, quản lý hành chính, mua sắm, sửa chữa, nghiệp vụ chuyên môn, xây
dựng cơ bản, chương trình mục tiêu của năm báo cáo để làm cơ sở dự kiến năm kế
hoạch cho trường.
Điều hành thực hiện: Cấp phát kinh phí và thực hiện các khoản chi tiêu kịp thời
theo kế hoạch, đảm bảo hoạt động thường xuyên của đơn vị, giám sát việc chi tiêu của
các bộ phận, đảm bảo đúng chế độ, đúng mục đích và có hiệu quả.
Quyết toán kinh phí: là khâu cuối cùng của quá trình sử dụng kinh phí, phản ánh
đầy đủ các khoản chi và báo cáo quyết toán ngân sách đúng chế độ báo cáo về biểu mẫu,
thời gian, nội dung và các khoản chi tiêu. Trên cơ sở báo cáo quyết toán để phân tích,
đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chi tiêu cho công tác đào tạo và rút ra ưu, nhược
điểm trong quá trình quản lý, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch của năm sau sát hơn.
Kiểm tra: Trong quá trình thực hiện kế hoạch, không phải bao giờ cũng đúng như
dự kiến vì vậy đòi hỏi phải có sự kiểm tra thường xuyên để nắm tình hình quản lý tài
chính, nhằm đảm bảo hiệu quả đầu tư và kịp thời đưa ra những giải pháp điều chỉnh sai
lệch, hạn chế rủi ro.
1.2.1. Mô hình quản lý tài chính ở các trường đại học công lập
Trong bối cảnh thực hiện chiến lược giáo dục 2001 - 2010, việc quản lý tài chính
của các trường đại học công lập đòi hỏi phải đáp ứng được đầy đủ những nội dung, yêu
cầu đặt ra. ở mỗi giai đoạn khác nhau mức độ, nội dung, cơ cấu chi NSNN cho sự nghiệp

đào tạo cũng khác nhau. Ta có thể mô tả hoạt động tài chính của các trường đại học công
lập theo mô hình sau:
Sơ đồ 1.3:Mô hình hoạt động tài chính của các trường đại học công lập
ở Việt Nam

















1.2.2. Nội dung quản lý tài chính ở các trường Đại học công lập
- Quản lý các nguồn thu của trường đại học là phải xác định đúng, đủ các nguồn
thu theo quy định của Nhà nước, có kế hoạch khai thác các nguồn thu từ NSNN và nguồn
thu do nhà trường tự huy động được nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính của trường.
- Quản lý việc chi tiêu của trường đại học, trường cần phân bổ và sử dụng các
nguồn tài chính một cách hợp lý nhất, hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất, nhằm đảm bảo sự ổn
định về các nguồn tài chính dài hạn và ngắn hạn, phục vụ các mục tiêu hoạt động tài
chính của nhà trường. Phải căn cứ vào các nguồn thu để lập kế hoạch chi tiêu sao cho
Đầu ra
(M
ục tiêu kế hoạch
đào
t
ạo)

H
ọc sinh tốt
nghi
ệp


các hệ
Các công trình khoa
h
ọc

Sản phẩm, dịch
Đầu vào
Ngu
ồn lực tài
chính


Trường Đào tạo công
lập
NSNN Trung
ương

Ngân sách đ
ịa
phương

Học phí
Đóng góp c
ộng
đ
ồng

Tài trợ nước ngoài


Đào t
ạo
(chính
quy, tại
chức, mở
rộng, hợp
đ
ồng)

Ho
ạt
đ
ộng
ngoài đào
tạo (NCKH,
sản xuất,
dịch vụ…)

đảm bảo thu đủ bù chi và có phần chênh lệch. Nội dung chi phải đúng mục đích, đúng đối
tượng, đúng luật và tiết kiệm nhưng vẫn hiệu quả, đảm bảo chất lượng giảng dạy.
- Phân phối chênh lệch thu-chi: Phần chênh lệch thu-chi hằng năm sẽ được Thủ
trưởng đơn vị trích lập các quỹ, sau khi thống nhất với tổ chức Công đoàn, theo thứ tự:
Quỹ dự phòng ổn định thu nhập, Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi, Quỹ phát triển hoạt
động sự nghiệp. Việc quản lý thu, chi càng tốt phần chênh lệch sẽ càng lớn thì việc trích
lập các quỹ sẽ hợp lý hơn, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên, giáo viên trong
trường, tạo điều kiện tái đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giảng dạy.
Những công việc cụ thể trong quản lý tài chính ở các trường đại học có thể khái
quát như sau:
- Phân tích tình hình
- Xác định nhu cầu

- Nắm vững các chế độ chính sách hiện hành
- Xác định nhiệm vụ cụ thể đối với công tác quản lý tài chính trong trường đại học
- Xây dựng kế hoạch tài chính trên cơ sở phân tích chi phí - lợi ích
- Xác định các nguồn lực cần khai thác
- Tổ chức khai thác các nguồn lực tài chính
- Tổ chức phân bổ nguồn lực tài chính theo các mục tiêu đặt ra
- Chỉ đạo, điều phối các hoạt động tài chính - kế toán
- Kiểm tra, đánh giá
- Đổi mới
1.2.2.1. Quản lý nguồn thu của các Trường Đại học công lập
Giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn
dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản, đầu tư phát triển. Mục tiêu của Giáo dục là
đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ
và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.

Giáo dục - đào tạo cùng với khoa học - công nghệ là nhân tố quyết định tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Chính vì vậy phải tăng cường nguồn tài chính, cơ sở
vật chất cho giáo dục, tăng đầu tư từ NSNN, huy động mọi nguồn lực trong xã hội để
phát triển giáo dục. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính, chuẩn hoá và hiện đại hoá nhà
trường, các trang thiết bị giảng dạy, nghiên cứu và học tập.
Sự chuyển đổi của nền kinh tế đã làm thay đổi một cách căn bản quan điểm đầu tư
cho giáo dục. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo không chỉ từ một nguồn gần như duy nhất là
từ NSNN như trước đây, mà còn xã hội hoá giáo dục, nhất thiết đầu tư cho giáo dục phải
bao gồm từ nhiều nguồn đầu tư:
- Nguồn kinh phí do NSNN cấp
- Nguồn thu từ học phí, các loại phí, lệ phí
- Các nguồn thu hợp pháp khác
* Nguồn kinh phí do NSNN cấp

Giáo dục - đào tạo là của toàn Đảng, toàn dân và của Nhà nước. Để phát triển sự
nghiệp giáo dục, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về giáo dục, nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ CNH-HĐH đất nước, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã giành ưu tiên hàng đầu cho việc bố
trí ngân sách giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục.
Ngân sách chi cho sự nghiệp giáo dục là một trong những nội dung quan trọng
nhất của hoạt động chi NSNN. Luật giáo dục ghi rõ: “Nhà nước giành ưu tiên hàng đầu
cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm tỷ lệ NSNN chi cho giáo dục tăng dần theo
yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục. NSNN chi cho giáo dục phải được phân bổ
theo nguyên tắc công khai, tập trung dân chủ, căn cứ vào quy mô phát triển giáo dục,
điều kiện kinh tế xã hội của từng vùng, miền và thể hiện được chính sách ưu đãi của Nhà
nước đối với các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”. Ngoài ra, Nhà
nước còn giành một phần kinh phí từ ngân sách và sử dụng các nguồn khác để đưa cán bộ
khoa học đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến.

Ngân sách Nhà nước cấp cho các trường Đại học công lập bao gồm các khoản
mục:
- Một phần kinh phí hoạt động thường xuyên của trường Đại học công lập được
NSNN bảo đảm.
- Kinh phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành,
chương trình mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ đột xuất khác được cấp có thẩm quyền
giao, kinh phí thanh toán cho trường Đại học công lập theo chế độ đặt hàng để thực hiện
các nhiệm vụ của Nhà nước.
- Vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động
đào tạo và nghiên cứu khoa học theo dự án và kế hoạch hằng năm, vốn đối ứng cho các
dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt kinh phí đầu tư ban đầu…
Nguồn kinh phí do NSNN cấp hiện vẫn giữ vai trò chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng nguồn tài chính của các trường đại học công lập. Tuy nhiên quy trình cấp
phát ngân sách cho giáo dục đại học vẫn theo lối mòn của cách cấp phát theo nhu cầu

thường niên. Việc cấp phát NSNN cho các trường đại học công lập nằm trong chức năng
điều hành và được thực hiện theo sơ đồ sau.
Sơ đồ 1.4: Điều hành thực hiện thu chi ngân sách Nhà nước













Chính phủ

Bộ KH - ĐT

Bộ Tài
chính

Các B
ộ,
ngành liên
quan


Các đơn vị đào

t
ạo


Kho bạc Nhà nước

Kho bạc tỉnh, thành
ph



Kho bạc quận, huyện





ở nước ta việc cấp phát tài chính cho các trường Đại học công lập: “Dựa trên cơ sở
đầu vào và chủ yếu dựa trên số lượng sinh viên cùng các chi phí của đơn vị, do đó không
khuyến khích được các trường giảm chi phí để nâng cao chất lượng”. Kinh nghiệm ở một
số nước như Australia, Hà Lan, Singapore… thì việc cấp phát tài chính đều dựa trên cơ
sở đầu ra, thông qua số lượng sinh viên đã được đào tạo và tốt nghiệp. Như vậy chất
lượng giáo dục và kết quả được nâng lên rõ nét (vì do số lượng sinh viên bỏ học và lưu
ban).
Quy trình phân bổ tài chính cho các trường Đại học công lập ở nước ta còn bộc lộ
một số yếu điểm sau:
- Các tiêu chí thiếu rõ ràng
- Việc cấp kinh phí còn dựa vào các tiêu chuẩn định mức thô sơ, thiếu tổng hợp và
chưa đề cập đầy đủ các nguồn tài chính khác. Chưa chú ý đến nhu cầu cụ thể của các
trường đại học và những chính sách ưu tiên của Chính phủ, mức độ, cơ cấu chi phí khác

nhau của các trường, các bậc đào tạo, các lĩnh vực, các loại hình đào tạo…
- Chi tiêu NSNN chỉ nhấn mạnh đầu vào, ít chú ý đến mục tiêu cuối cùng là sản
phẩm sinh viên tốt nghiệp
- Thiếu cơ chế khuyến khích các trường đào tạo nâng cao chất lượng và hiệu quả
trong việc thực hiện nhiệm vụ.
Trong những năm qua, đặc biệt là những năm đầu thế kỷ 21, đầu tư cho giáo dục
từ NSNN không ngừng được tăng lên. Năm 2004 đầu tư cho giáo dục đào tạo từ NSNN
đã đạt đến 17,1%/năm trong tổng chi tiêu của NSNN, tăng hơn 3,4% so với năm 2000.
Quy trình đầu tư, phân bổ ngân sách đã có những bước cải cách căn bản làm tăng tính
hiệu quả của đầu tư cho giáo dục
* Nguồn thu từ học phí, các loại phí, lệ phí:

Để tăng cường nguồn lực cho giáo dục, thể hiện đa dạng hoá các nguồn đầu tư cho
giáo dục, Điều 36 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục
và khuyến khích các nguồn đầu tư khác”. Chính sách đó cho phép huy động mọi nguồn
lực trong xã hội cho phát triển giáo dục đào tạo, nhằm chia sẻ bớt gánh nặng đối với Nhà
nước.
Nguồn thu từ học phí, lệ phí… đã góp phần tăng cường kinh phí đầu tư cho giáo
dục. Thông qua việc thu học phí Nhà nước cũng có thể điều tiết quy mô, cơ cấu đào tạo
và thực hiện chính sách công bằng xã hội.
Theo luật giáo dục: Học phí, lệ phí là khoản đóng góp của gia đình người học hoặc
người học để góp phần đảm bảo cho các hoạt động giáo dục. Chính phủ quy định khung
học phí, cơ chế thu và sử dụng học phí đối với tất cả các loại hình trường, cơ sở giáo dục
khác theo nguyên tắc không bình quân, thực hiện miễn giảm cho các đối tượng hưởng
chính sách xã hội và người nghèo. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính căn cứ vào các
quy định của Chính phủ về học phí, hướng dẫn việc thu và sử dụng học phí, lệ phí tuyển
sinh của các trường và cơ sở giáo dục khác trực thuộc trung ương.
Sau khi Nhà nước xoá bỏ bao cấp trong giáo dục, học phí có một vị trí rất quan
trọng, chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng thu của các trường. Thậm chí có những
trường, nguồn thu từ học phí cao hơn gấp hai lần so với NSNN cấp.

Việc thực hiện chính sách học phí mang nhiều ý nghĩa khác nhau.
Thứ nhất, học phí là một trong những nguồn kinh phí quan trọng nhất để phát triển
giáo dục đại học trong điều kiện nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường
Thứ hai: Thông qua chính sách học phí, Nhà nước có thể thực hiện điều tiết quy
mô và cơ cấu giáo dục đại học
Thứ ba: Thông qua học phí, Nhà nước thực hiện chính sách xã hội và thực hiện
công bằng xã hội. Với ý nghĩa như vậy, Nhà nước ta đã nhiều lần điều chỉnh chính sách
học phí. Lần thứ nhất theo Quyết định số: 241/TTg ngày 24/05/1993 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thực hiện thu học phí đối với tất cả học sinh, sinh viên theo học tại các
trường công lập (trừ bậc tiểu học). Đây là lần đầu tiên Nhà nước chính thức quy định
mức học phí đối với giáo dục các cấp. Lần thứ hai, sau năm năm thực hiện Quyết định

241/TTg, mức học phí ở các cơ sở giáo dục - đào tạo công lập được quy định lại theo
Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg ngày 31/03/0998 học phí được phân thành nhiều mức độ
khác nhau, tuỳ thuộc vào loại trường, vùng, miền, địa điểm trường, thời gian và cơ cấu
ngành nghề đào tạo…
* Các nguồn thu khác:
Ngoài hai nguồn thu chính trên, các trường đại học còn có thể huy động sự đóng
góp của các tổ chức kinh tế - xã hội, và các cá nhân, các nguồn tài trợ của nước ngoài,
các nguồn thu do hoạt động nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất tạo ra, các khoản
thu do hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các cơ
sở giáo dục, nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng…, các nguồn thu này sẽ tạo điều
kiện cho các trường nâng cấp cơ sở vật chất, cải thiện đời sống của giảng viên và sinh
viên nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Nó cũng giúp khai thác tiềm năng
của các thành phần, tổ chức kinh tế - xã hội trong việc đóng góp kinh phí khi nguồn kinh
phí NSNN còn hạn hẹp. Đồng thời phát huy tính năng động của các trường đại học trong
việc huy động nguồn tài chính cho giáo dục - đào tạo. Với xu hướng nâng cao tính tự chủ
về tài chính cho các trường đại học công lập như hiện nay, việc tăng cường khai thác các
nguồn vốn này đang trở thành một trong những chiến lược đóng vai trò quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng giáo dục của hệ thống các trường Đại học công lập.

Công tác nghiên cứu khoa học, tư vấn và dịch vụ trong các cơ sở đào tạo hiện
chiếm khoảng 3 -> 4% tổng số nghiên cứu khoa học của cả nước, đây là một tỷ lệ rất
thấp, các sản phẩm nghiên cứu lại không được tiếp thị nên nhiều đề tài rất có ý nghĩa đối
với sản xuất nhưng không được áp dụng, không được trao đổi, mua bán trên thị trường.
Cơ chế đầu tư cho nghiên cứu khoa học nói chung còn bị phân tán, chậm đổi mới. Sự liên
kết giữa cơ sở đào tạo và Viện nghiên cứu nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong công tác giảng dạy
và nghiên cứu còn lỏng lẻo. Mối liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp còn hạn chế,
vì vậy việc triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu rất hạn chế.
để tăng cường nguồn đầu tư cho phát triển giáo dục đào tạo, thực hiện đa dạng hoá
các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục, khuyến khích, huy động và tạo điều
kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục, cần thiết phải tranh

thủ nguồn tài chính vay với lãi suất ưu đãi cho giáo dục từ Ngân hàng thế giới, Ngân
hàng phát triển Châu á, các tổ chức quốc tế và các nước. Thực hiện chế độ ưu đãi về sử
dụng đất đai, vay vốn cho các tổ chức cá nhân, doanh nghiệp đầu tư xây dựng, các cơ sở
giáo dục. Nhờ đó mà nguồn vốn ODA cho giáo dục đào tạo những năm qua đã tăng đáng
kể. Việc ban hành Nghị định 06/2000/NĐ-CP quy định về việc hợp tác đầu tư với nước
ngoài của bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học, với nhiều
điều khoản được ưu đãi như: thuế, bảo đảm cân đối ngoại tệ… đã thu hút nhiều dự án đầu
tư cho giáo dục đào tạo.
Tuy nhiên do còn thiếu kinh nghiệm, vừa học vừa làm nên nhiều chính sách về thu
hút đầu tư còn chưa nhất quán và hay thay đổi gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Việc
triển khai các dự án vốn vay ODA thường chậm trễ do nhiều nguyên nhân như: nội dung
dự án do các nhà tài trợ giúp chưa sát với thực tế Việt Nam, thiếu các văn bản pháp quy
hướng dẫn các thủ tục tiếp nhận và sử dụng ODA.
1.2.2.2. Quản lý nguồn chi của trường Đại học công lập
- Chi thường xuyên: gồm tất cả các khoản phát sinh thường xuyên và liên tục
trong năm, được sử dụng hết trong năm đó, không thể chuyển sang năm sau. Chi thường
xuyên bao gồm các khoản sau:
+ Chi tiền lương, tiền công…

+ Chi học bổng, trợ cấp xã hội
+ Chi quản lý hành chính
+ Chi nghiệp vụ chuyên môn
+ Chi thuê giảng viên, chuyên gia
+ Chi bồi dưỡng nghiệp vụ hè
+ Chi cho công tác giáo dục, an ninh quốc phòng
+ Chi cho thi tốt nghiệp
+ Chi đề tài nghiên cứu khoa học
+ Chi sửa chữa thường xuyên
+ Các khoản chi khác
- Chi cho hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ, thực hiện nghĩa vụ với NSNN.

- Chi thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành,
chương trình mục tiêu quốc gia.
- Chi thực hiện đơn đặt hàng (điều tra, quy hoạch, khảo sát). Chi đối ứng thực hiện
các dự án có vốn nước ngoài, chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được các cấp có thẩm
quyền giao.
- Chi đầu tư, phát triển, gồm: Chi đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm tài sản cố định,
trang thiết bị, chi thực hiện các dự án đầu tư khác theo quy định của Nhà nước.
- Chi trả vốn vay, vốn góp
- Các khoản chi khác
Hiện nay, nguồn đầu tư của NSNN vẫn chiếm ưu thế trong tổng chi cho sự nghiệp
giáo dục, đào tạo do hệ thống trường công chiếm tỷ lệ lớn. Để đảm bảo các nội dung chi
này, các trường đại học chủ yếu dựa vào nguồn cấp phát của NSNN. Mặt khác việc xã
hội hoá giáo dục còn hạn chế nên chưa thu hút được các nguồn đầu tư khác cho hệ thống
giáo dục
Chi NSNN cho giáo dục bao gồm 04 nhóm chi sau:
Nhóm 1: Chi cho con người: Gồm lương, phụ cấp lương, phúc lợi, BHXH. Đây là
khoản chi bù đắp hao phí lao động, đảm bảo duy trì quá trình tái sản xuất sức lao động
cho giảng viên đại học, cán bộ công nhân viên trong trường. Khoản chi này theo kế hoạch

chiếm khoảng 35 -> 45% tổng chi của các trường và trong thực tế thì các trường cũng chi
cao hơn kế hoạch, tuy nhiên vẫn chưa đảm bảo được cuộc sống cho cán bộ, giảng viên.
Nhóm 2: Chi quản lý hành chính, gồm: Công tác phí, công vụ phí, điện nước, xăng
xe, hội nghị… Đây là khoản chi mang tính chất gián tiếp, đòi hỏi phải chi đúng, chi đủ,
chi kịp thời và cần phải quản lý tiết kiệm và có hiệu quả. Khoản chi này thường chiếm
khoảng 20% tổng chi thường xuyên.
Nhóm 3: Chi nghiệp vụ chuyên môn, gồm: Các khoản chi mua giáo trình, tài liệu,
đồ dùng học cụ, vật liệu, hoá chất phục vụ thí nghiệm, phấn viết… tuỳ theo nhu cầu thực
tế của các trường. Khoản chi này nhằm đáp ứng các phương tiện phục vụ việc giảng dạy,
giúp cho giảng viên truyền đạt kiến thức một cách hiệu quả. Đây là khoản chi có vai trò
quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo, chiếm khoảng 15% tổng chi

của trường. Hiện nay, trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển không ngừng, nhu
cầu thay đổi công nghệ phục vụ giảng dạy đang đòi hỏi một nguồn vốn lớn. Vì vậy việc
tăng tỷ trọng chi cho giảng dạy và học tập là một trong những điều kiện để giúp nền giáo
dục đại học nước nhà tránh tụt hậu so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế
giới.
Nhóm 4: Chi mua sắm, sửa chữa, gồm: các khoản chi cho việc sửa chữa, nâng cấp
trường, lớp, bàn ghế, trang thiết bị học cụ trong lớp, nhằm đảm bảo điều kiện cơ sở vật
chất cho việc giảng dạy và học tập dẫn đến ảnh hưởng không tốt đến chất lượng đào tạo.
Vì vậy khoản chi này cũng cần được chú trọng hơn trong thời gian tới.
* Căn cứ vào kết quả hoạt động tài chính, sau khi trang trải các khoản chi phí, thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ với NSNN theo quy định (thuế và các khoản phải nộp), số chênh
lệch thu lớn hơn chi do thủ trưởng đơn vị quyết định trích lập các quỹ, sau khi thống nhất
với tổ chức công đoàn:
- Quỹ dự phòng ổn định thu nhập: mức trích do thủ trưởng đơn vị quyết định,
nhằm mục đích đảm bảo thu nhập tương đối ổn định cho người lao động trong trường
hợp nguồn thu bị giảm sút, không đảm bảo kế hoạch đề ra.
- Quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi: không vượt quá 03 tháng lương thực tế bình
quân trong năm của đơn vị. Quỹ này dùng để chi khen thưởng cho các tập thể và cá nhân

người lao động, chi các hoạt động phúc lợi tập thể. Thủ trưởng đơn vị quyết định việc sử
dụng và mức chi quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi sau khi đã thống nhất với tổ chức công
đoàn.
- Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: Sau khi đã trích lập 3 quỹ trên, quỹ này
được sử dụng nhằm tái đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị, hỗ trợ đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn. Trong phạm vi nguồn của quỹ, thủ trưởng đơn vị
quyết định việc sử dụng vào các mục đích trên theo quy định.
Các trường Đại học công lập không được trích lập các quỹ trên từ các nguồn kinh
phí:
- Kinh phí nghiên cứu khoa học, đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành
- Chương trình mục tiêu Quốc gia

- Tiền mua sắm sửa chữa tài sản được xác định trong phần thu phí, lệ phí được để
lại đơn vị theo quy định.
- Vốn đầu tư XDCB, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản.
- Vốn đối ứng các dự án, vốn viện trợ, vốn vay.
- Kinh phí NSNN cấp để thực hiện tinh giảm biên chế.
- Kinh phí NSNN cấp để thực hiện các nhiệm vụ đột xuất.
- Kinh phí của các nhiệm vụ phải chuyển tiếp sang năm sau thực hiện.
1.2.2.3. Quản lý định mức chi ở các trường Đại học công lập
Việc quản lý và lập định mức chi bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Lập kế hoạch: Dựa vào quy mô đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển sự nghiệp
giáo dục, chỉ tiêu biên chế, số lượng học sinh - sinh viên, cơ sở vật chất để xây dựng kế
hoạch tài chính, cấn đối thu-chi cho phù hợp.
- Điều hành thực hiện: Cấp phát kinh phí và thực hiện các khoản chi tiêu kịp thời
theo kế hoạch, đảm bảo hoạt động thường xuyên của đơn vị, giám sát việc chi tiêu của các
bộ phận theo đúng chế độ, đúng mục đích và có hiệu quả.
- Quyết toán kinh phí: là khâu cuối cùng của quá trình sử dụng kinh phí, phản ánh
đầy đủ các khoản chi và báo cáo quyết toán ngân sách đúng chế độ, báo cáo về biểu mẫu,
thời gian, nội dung và các khoản chi tiêu. Trên cơ sở báo cáo quyết toán, phân tích đánh

giá tình hình thực hiện kế hoạch chi tiêu cho công tác đào tạo, rút ra ưu, nhược điểm
trong quá trình quản lý, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch năm sau sát hơn.
- Kiểm tra: Việc thực hiện kế hoạch không phải bao giờ cũng đúng như dự kiến, đòi hỏi
phải có sự kiểm tra thường xuyên để nắm tình hình quản lý tài chính.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính ở trường Đại học công lập
Giáo dục đào tạo có mối quan hệ chặt chẽ với những thay đổi, phát triển về xã hội,
kinh tế và chính trị. Tác động của những biến đổi này đến trạng thái của hệ thống giáo
dục, đến nội dung giáo dục và cấu trúc của các cấp bậc học là rất đa chiều. Đặc trưng cơ
bản nhất của giáo dục đại học là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho tất cả các lĩnh
vực của xã hội. Sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học một mặt bị tác động, chi phối

đồng thời cũng góp phần thúc đẩy các xu hướng phát triển chung của đời sống văn hoá xã
hội hiện đại.
Quản lý tài chính là một hoạt động rất quan trọng không chỉ đối với các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh mà cả đối với các trường đại học. Nó là một trong những yếu
tố quyết định quy mô, chất lượng đào tạo cũng như uy tín của các trường đại học. Nhất là
trong điều kiện xã hội hoá giáo dục và nâng cao tính tự chủ tài chính của các trường Đại
học công lập như hiện nay. Hoạt động quản lý tài chính phù hợp với điều kiện cụ thể của
mỗi trường đại học sẽ khuyến khích và tạo cơ sở cho các trường đại học phát triển. Do đó
hoạt động quản lý tài chính phù hợp với quy mô và tính chất của từng trường đại học đòi
hỏi phải tính đến tác động của nhiều nhân tố. Nhìn chung hoạt động quản lý tài chính của
trường đại học chịu tác động của các nhân tố cơ bản sau:
1.2.3.1. Điều kiện kinh tế - xã hội - văn hoá
Những thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội, văn hoá và chính sách chi tiêu công
cho giáo dục đại học là các yếu tố tác động đến quá trình đổi mới hệ thống tài chính giáo
dục đại học. Trước hết, đó là sự xuất hiện của nền giáo dục đại học đại chúng, hệ quả là
môi trường chính sách của giáo dục đại học đã từng bước thay đổi và ngày càng gắn chặt
hơn với cấu trúc nền kinh tế - xã hội. Những nhân tố trước đây được xem là phù hợp với
yêu cầu quản lý của các trường đại học thì nay không còn thích hợp và đòi hỏi phải có
những cải cách, đổi mới. Mục tiêu của sự đổi mới là nâng cao chất lượng đào tạo, sự

thích ứng và tính công bằng trong các trường đại học công lập.
Yếu tố lao động và việc làm cũng đang có những thay đổi quan trọng. Trong bối
cảnh toàn cầu hoá và trước yêu cầu phát triển của một nền kinh tế tri thức, nhu cầu về lực
lượng lao động của xã hội đang có sự thay đổi về chất. Trước đây chủ yếu đòi hỏi một
đội ngũ lao động phải được đào tạo trong các trường dạy nghề, trung học kỹ thuật, trước
khi bước vào thị trường sức lao động, thì ngày nay xã hội đang có nhu cầu ngày càng
tăng về lực lượng lao động được qua đào tạo ở trình độ đại học và sau đại học, các nhà
khoa học và các chuyên gia bậc cao.
Để đáp ứng nhu cầu về học tập của xã hội, hệ thống giáo dục đại học ở hầu hết các
nước đều phải mở rộng quy mô nhằm tiếp nhận ngày càng nhiều sinh viên vào học. Kết

×