Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (935.62 KB, 108 trang )











LUẬN VĂN:

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Quảng Nam đối
với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn










Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong cơ
chế thị trường, mở cửa và ngày càng hội nhập đầy đủ hơn là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt
được mục tiêu này trong điều kiện hầu hết các nguồn lực trở nên khan hiếm thì bắt buộc


các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực quản lý và sử dụng các yếu tố đầu vào tiết kiệm,
hiệu quả. Chỉ trên cơ sở SXKD với hiệu quả cao, doanh nghiệp mới có thể đứng vững.
Đối với các NHTM, tín dụng là một hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn
nhất. Để đạt được các mục tiêu đặt ra, trong chiến lược kinh doanh của mình, đòi hỏi mỗi
ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một cơ cấu tổ chức và chính sách tín dụng hợp lý,
hiệu quả. Vì vậy, vấn đề hiệu quả hoạt động tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu, việc
nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng là yêu cầu bức xúc đặt ra, đồng thời là mục tiêu hướng
tới trong hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung.
Nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất lương thực, thực phẩm cho con người và cung
cấp nguyên liệu cho các ngành nghề khác nên có vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội của quốc gia. Việt Nam là nước có gần 80% dân số sống ở nông thôn,
thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp nên NNNT càng có vai trò quan trọng. Bộ mặt
NNNT Việt Nam trong những năm qua có những bước chuyển biến đáng kể, nhiều hộ gia
đình ở nông thôn đã thoát nghèo và trở nên giàu có, cơ cấu kinh tế NNNT có những thay
đổi theo hướng sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, trên thực tế NNNT hiện đang tồn tại những
hạn chế đó là: thiếu vốn, đầu tư thấp, sản xuất chậm phát triển, đời sống nhân dân còn
nhiều khó khăn. Vì thế, nhu cầu vốn đầu tư trong lĩnh vực NNNT rất lớn, cần thiết phải
tăng cường đầu tư vốn cho NNNT, hơn nữa, vốn đầu tư đó phải được khai thác và sử dụng
một cách hiệu quả mới giải quyết được hạn chế này. Trong các kênh vốn đầu tư cho
NNNT, kênh TDNH được xem là kênh quan trọng nhất. Vì vậy, hiệu quả của hoạt động
TDNH sẽ là một trong những cơ sở quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình CNH, HĐH,
nhất là quá trình CNH, HĐH NNNT theo tinh thần của Nghị quyết của Hội nghị Trung
ương lần thứ năm, khóa IX về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn thời kỳ 2001-2010.

Quảng Nam là tỉnh thuần nông, nhu cầu vốn đầu tư trong lĩnh vực NNNT rất lớn
nhưng nông thôn Quảng Nam còn khá nghèo. Là ngân hàng hoạt động trên địa bàn
NNNT, xác định thị trường NNNT là thị trường mục tiêu, NHNo&PTNT Quảng Nam từ
khi thành lập năm 1997 đến nay đã đạt được nhiều kết quả khả quan trong hoạt động tín
dụng như: số hộ giao dịch với ngân hàng ngày càng nhiều, dư nợ qua các năm liên tục

tăng, tỷ lệ nợ xấu và nợ khó đòi do nhiều nguyên nhân (trong đó có thiên tai bất khả
kháng) giảm. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều vấn đề tồn tại, vướng mắc làm giảm hiệu quả
hoạt động tín dụng của Ngân hàng cũng như cản trở việc tiếp cận vốn ngân hàng của
người dân để phát triển NNNT. Do vậy, việc nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động tín dụng đối với lĩnh vực NNNT tại NHNo&PTNT Quảng Nam là cấp thiết và luôn
có ý nghĩa thực tiễn. Đó cũng chính là lý do cơ bản của việc lựa chọn đề tài: “Giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Quảng Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn” làm luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung
và hoạt động tín dụng nói riêng được xác lập và phát triển. Vì vậy, đã có những công trình
nghiên cứu về lĩnh vực hoạt động có liên quan đến TDNH, về hiệu quả của TDNH và
TDNH đối với lĩnh vực NNNT. Trong số đó có một số công trình tiêu biểu như:
- “Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng thúc đẩy
phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh ở thủ đô Hà Nội” (1997), luận văn thạc sĩ kinh
tế của Lê Anh Hào, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp nhằm phát triển nông
nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” (1999), luận văn thạc sĩ kinh tế của Võ
Văn Lâm, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trên địa bàn tỉnh Nghệ An” (2003), luận án tiến sĩ kinh tế của Hà Huy Hùng, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

- “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”(2005), luận văn thạc sĩ kinh tế của
Nguyễn Thiện Quân, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, TS. Võ Văn Lâm, Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 5
(54)/2002 Phân viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Đà Nẵng.

Các công trình này đã làm rõ một số lý luận chung về TDNH, về hiệu quả của
TDNH đối với phát triển NNNT, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sự phát triển lĩnh
vực công nghiệp ngoài quốc doanh. Đến nay, trên địa bàn Quảng Nam chưa có công trình
nào nghiên cứu về nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng NHNo&PTNT đối với lĩnh vực
NNNT.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mục đích nghiên cứu: tìm và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực NNNT tại NHNo&PTNT Quảng Nam.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra gồm:
- Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề lý luận về hiệu quả của TDNH và đặc thù
của hoạt động TDNH đối với lĩnh vực NNNT.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về hoạt động tín dụng và hiệu quả hoạt động tín
dụng đối với lĩnh vực NNNT của NHNo&PTNT Quảng Nam trong thời gian qua. Qua đó,
chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong việc nâng cao hiệu quả hoạt
động tín dụng đối với lĩnh vực NNNT và những nguyên nhân chủ yếu.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động tín dụng đối với lĩnh vực NNNT của NHNo&PTNT Quảng Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hiệu quả hoạt động TDNH đối với lĩnh vực
NNNT.
Về phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu tại NHNo&PTNT ở địa bàn Quảng Nam. Thời
gian khảo sát từ 2001 đến 2005.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài trên, luận văn sử dụng các phương pháp như:

- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;
- Phương pháp thống kê; phân tích và tổng hợp;
- Phương pháp khảo sát thực tế, mô hình hoá, so sánh và đối chiếu,…
6. Những đóng góp của đề tài
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam trong

việc đề ra các giải pháp mang tính khả thi cao đối với hoạt động tín dụng phục vụ NNNT
trên địa bàn Quảng Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn chia làm 3 chương, 7 tiết.


Chương 1
tín dụng ngân hàng và hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn

1.1. Tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp nông thôn
1.1.1. Đặc điểm về kinh tế, xã hội nông nghiệp nông thôn ảnh hưởng đến hoạt
động tín dụng ngân hàng
1.1.1.1. Khái quát về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
Theo quan điểm hiện tại, nền kinh tế của một quốc gia, vùng lãnh thổ được phân
chia thành 3 khu vực: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất có từ lâu đời nhất trên thế giới.
Hoạt động SXNN nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của con người như ăn, uống
Khi xã hội càng phát triển, SXNN không chỉ dừng lại đáp ứng nhu cầu thiết yếu mà nó
còn là nơi cung cấp nguyên liệu cho các ngành khác. Vì vậy, nông nghiệp là một ngành
sản xuất vật chất cơ bản của nền kinh tế quốc dân nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu về lương
thực, thực phẩm cho người dân, nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp và xuất khẩu, ngành
nông nghiệp bao gồm 3 lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp.
Nếu nông nghiệp là một ngành, một lĩnh vực cụ thể được phân chia dựa theo ý
nghĩa kinh tế của sản xuất vật chất thì nông thôn là một khu vực địa lý có giới hạn về mặt
không gian và thời gian. Khi nói đến nông thôn, chúng ta thường liên tưởng đến đô thị,
việc phân chia nông thôn và đô thị được dựa theo các tiêu chí về trình độ phát triển như:
mật độ dân số đông, cơ sở hạ tầng phát triển, mức sống dân cư cao Các tiêu chí này tuỳ
theo trình độ phát triển của mỗi quốc gia và trong mỗi thời kỳ nhất định. Cũng có các tiêu

chí khác đưa ra để phân biệt nông thôn và đô thị là dựa vào tính chất và cơ cấu hoạt động
sản xuất vật chất của vùng lãnh thổ đó, trong đó nông thôn là khu vực có hoạt động SXNN
là chủ yếu. Tiêu chí này đúng nhưng chưa đủ vì cơ cấu kinh tế của khu vực nông thôn cũng
có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch
vụ khi nền kinh tế phát triển.
Tóm lại, khái niệm nông thôn cần phải dựa trên cơ sở kết hợp nhiều tiêu chí trên
đây và có thể hiểu:
Nông thôn là một vùng lãnh thổ, một khu vực có ranh giới địa lý trong đó

dân cư sinh sống chủ yếu là nông dân - những người có hoạt động nghề nghiệp
là nông nghiệp - hay các cư dân không phải là nông dân nhưng có quan hệ nghề
nghiệp mật thiết với nông nghiệp. Nông thôn cũng là nơi có mật độ dân cư, cơ sở
hạ tầng, trình độ sản xuất hàng hoá thấp hơn đô thị theo tiêu chí so sánh của quốc
gia đó [1, tr. 4].
Như vậy, lĩnh vực NNNT là một địa bàn mà ở đó hoạt động SXNN được coi là bao
trùm. Tuy nhiên, với sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, lĩnh vực
NNNT không còn là khu vực hoạt động SXNN thuần tuý mà còn có cả hoạt động công
nghiệp và dịch vụ, khi nền kinh tế càng phát triển thì tỷ trọng của hoạt động SXNN thuần
tuý sẽ giảm đi nhưng con số tuyệt đối không ngừng tăng lên.
1.1.1.2. Vai trò của nông nghiệp nông thôn trong việc phát triển kinh tế, xã hội
Trong những thập niên 40 và 50 của thế kỷ XX, phần lớn các nhà kinh tế không
đánh giá cao vai trò của NNNT trong việc tăng trưởng và phát triển kinh tế nên các chính
sách phát triển kinh tế thời gian này ít quan tâm đến NNNT. Trong quá trình phát triển,
một số nước chỉ chú trọng vào phát triển đô thị, khu công nghiệp hiện đại mà không chú ý
đến việc phát triển NNNT. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế của các quốc gia, tạo ra sự mất cân đối giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa sản
xuất và tiêu dùng.
Năm 1961, trong cuốn sách “ Vai trò của nông nghiệp trong phát triển" của
Johnston và Mellor giới thiệu 5 đóng góp quan trọng của lĩnh vực nông nghiệp trong quá
trình phát triển kinh tế [34, tr.12]. Đó là:

- Nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực và các nguyên liệu đầu vào cho các
ngành khác của nền kinh tế.
- Lĩnh vực nông nghiệp là nguồn thu ngoại tệ quan trọng ở các quốc gia có lợi thế
so sánh sản xuất một số mặt hàng nông sản xuất khẩu.
- NNNT là thị trường quan trọng cho các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế và là
nguồn cung cấp lao động cho khu vực công nghiệp.
- Nông nghiệp tạo ra một lượng vốn thặng dư để đầu tư cho quá trình CNH.
Kể từ thập niên 60, khi cuộc “cách mạng xanh” mở ra khả năng thực tế cân đối an
ninh lương thực thế giới và một số nước dựa vào việc phát triển nông nghiệp để CNH đất

nước. Từ đó, nông nghiệp mới được nhìn nhận đóng vai trò tích cực trong phát triển kinh
tế và cần thiết phải đầu tư.
Việt Nam đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, phát triển NNNT có vai trò hết
sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế đất nước bởi:
- NNNT là nơi sản xuất lương thực, thực phẩm cho nhu cầu cơ bản của nhân dân,
cung cấp nông sản, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu. Trong nhiều năm, nông
nghiệp tạo ra khoảng 40% thu nhập quốc dân và trên 40% giá trị xuất khẩu, góp phần tạo
nguồn tích luỹ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước [36, tr.10].
- NNNT là nơi cung cấp nguồn nhân lực dự trữ dồi dào cho công nghiệp, chiếm
trên 70% lao động xã hội. Trong quá trình CNH, HĐH, lao động nông nghiệp chuyển dần
sang làm công nghiệp, dịch vụ. Vì vậy, phát triển NNNT sẽ góp phần giải quyết việc làm
cho lao động ở nông thôn.
- Khu vực NNNT là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự phát triển kinh tế, nhất là
giai đoạn đầu CNH. Nguồn vốn từ nông nghiệp được tạo ra từ tiết kiệm của nông dân hay
ngoại tệ thu được do xuất khẩu nông sản được đầu tư vào hoạt động phi nông nghiệp.
- Với gần 76% dân số cả nước, nông nghiệp và nông thôn là thị trường tiêu thụ
rộng lớn của công nghiệp. Phát triển NNNT cho phép nâng cao thu nhập cho dân cư nông
nghiệp, từ đó làm tăng sức mua từ khu vực nông thôn và làm cho công nghiệp phát triển.
Nhận thức được vị trí, vai trò của NNNT nước ta trong quá trình phát triển kinh tế
đất nước, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương đổi mới, phát triển NNNT. Quá

trình đổi mới bắt đầu từ năm 1981, sau chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
khoán cây lúa đến nhóm và người lao động, nhất là sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị
khoá VI (4/1988) về đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp, thực hiện khoán ruộng đất đến
hộ nông dân. Với nhiều chủ trương, chính sách mới được ban hành, NNNT Việt Nam có
những bước phát triển đột biến, tốc độ tăng trưởng trong nông nghiệp bình quân từ 1986 -
2002 là 5% năm [7, tr. 4].
1.1.1.3. Đặc điểm về kinh tế, xã hội nông nghiệp nông thôn ảnh hưởng đến hoạt
động tín dụng ngân hàng
Kinh tế khu vực NNNT chủ yếu dựa vào SXNN và một bộ phận phi nông nghiệp.
Bộ phận nông dân sản xuất nhỏ chiếm đa số trong dân cư ở nông thôn nhưng sản lượng lại

chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm của khu vực nông thôn. Phần lớn sản lượng này
phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình, ít được mang ra trao đổi trên thị trường. Một
bộ phận khác trong kinh tế nông thôn sản xuất có tính hàng hoá, sản phẩm làm ra chủ yếu
phục vụ cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Các doanh nghiệp thương mại cung cấp
đầu vào và tiêu thụ đầu ra của SXNN cũng là một bộ phận quan trọng của kinh tế khu vực
NNNT. Nó góp phần phát triển các ngành nghề truyền thống ở nông thôn và tạo ra các
ngành nghề mới. Những đặc điểm kinh tế, xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất và
hình thức của hoạt động TDNH thể hiện như sau:
- Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào chu kỳ sinh học và điều kiện tự nhiên. SXNN
là một trong những ngành sản xuất vật chất quan trọng và cơ bản của nền kinh tế quốc
dân. Khác với các ngành sản xuất khác, nông nghiệp là ngành sản xuất sinh học, phụ
thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên, hay nói cách khác, hoạt động SXNN là sự kết hợp
của hai quá trình tái sản xuất tự nhiên của sinh vật (cây trồng, vật nuôi) và tái sản xuất
kinh tế với sự tham gia trực tiếp của con người. Tuy nhiên, do trình độ dân trí còn thấp, sự
tiến bộ khoa học kỹ thuật chưa đủ mạnh để chế ngự thiên tai nên kết quả của SXNN
thường không chắc chắn như công nghiệp và dịch vụ. Đây là lý do giải thích tại sao lãi
suất cho vay ở khu vực NNNT thường cao hơn so với khu vực thành thị, lãi suất cho vay
ngành nông nghiệp thường cao hơn so với các ngành nghề khác, đồng thời cũng là lĩnh
vực mà hoạt động TDNH cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.

- Đầu ra của sản phẩm nông nghiệp khá khó khăn. Việc tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp thường khó khăn, giá cả lại thiếu ổn định. Điều này gây khó khăn cho người sản
xuất. Để phát triển kinh tế NNNT, cần phải có nhiều hình thức tín dụng nhằm giúp đỡ
nông dân nâng cao năng suất, hạn chế rủi ro. Vì vậy, bên cạnh TDNH, cần có tín dụng ưu
đãi của Nhà nước.
- Nguy cơ rủi ro trong SXNN khá cao nhưng tỷ suất sinh lợi lại khá thấp. Do đối
tượng của SXNN là cây trồng, vật nuôi, là cơ thể sống, hoạt động SXNN chịu sự chi phối
rất lớn của các qui luật sinh học và quy luật tự nhiên nên rủi ro trong hoạt động SXNN rất
lớn. Hơn nữa, năng suất lao động nông nghiệp ở nước ta còn thấp, lợi nhuận trong ngành
nông nghiệp chưa cao. Do vậy, lãi suất cao sẽ dẫn đến người sản xuất không dám vay vốn
ngân hàng, còn nếu lãi suất thấp, ngân hàng sẽ gặp khó khăn. Vì vậy, lãi suất trong cho
vay NNNT cần phải xác định linh hoạt.

- Tính mùa vụ trong SXNN cao. Hoạt động SXNN có sự không trùng lắp hoàn toàn
giữa thời gian sản xuất và thời gian lao động, thể hiện ở chỗ, sức lao động, tư liệu sản xuất
được sử dụng không đồng đều trong thời gian sản xuất, đồng thời giữa chi phí sản xuất ở
mỗi khâu và thu nhập ở mỗi khâu ấy cũng không có sự ăn khớp nhau. Vì vậy, tính thời vụ
trong SXNN là điều không tránh khỏi. Do vậy, cần phải có phương thức nhằm khai thác
được lượng vốn thừa và đáp ứng nhu cầu vốn vay hợp lý của người vay trong SXNN.
- Sản xuất nông nghiệp tính đa dạng, phân tán và nhỏ lẻ. Địa bàn SXNN rộng,
phân tán, sản phẩm đa dạng, tính chuyên môn hoá thấp và diễn ra theo hình thức xen canh,
mùa vụ, dễ gặp nhiều tình huống bất ngờ xảy ra. Hơn nữa, phần lớn món vay nhỏ, số
lượng khách hàng đi vay nhiều. Vì vậy, việc thẩm định, giải ngân và theo dõi nợ vay cũng
như thu hồi nợ cần phải khác với các lĩnh vực cho vay công nghiệp, dịch vụ, hay nói cách
khác, cần phải có hình thức và phương thức cho vay linh hoạt.
1.1.2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp nông thôn
* Về khách hàng vay vốn: Khu vực NNNT rất rộng lớn với số lượng dân số khá
đông, thường chiếm tỷ lệ khoảng trên dưới 80%. Với số lượng lao động lớn như vậy
nhưng thu nhập của khu vực này lại thuộc mức thấp nhất trong xã hội nên nhu cầu tín
dụng của khu vực này thường rất lớn và chủ yếu đáp ứng cho hai mục đích tiêu dùng và

phát triển sản xuất. Tuy nhiên, số khách hàng ở khu vực NNNT phân bố khá phân tán, mật
độ thưa thớt, hơn nữa, đa phần khách hàng lại có trình độ học vấn không cao và đang quen
với nếp sinh hoạt khép kín, làm ăn nhỏ lẻ. Nhiều người trong số họ có tâm lý không muốn
tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là tín dụng do e ngại rằng ngân hàng cũng
không khác gì những người cho vay nặng lãi. Một số khác lại suy nghĩ TDNH như là một
hình thức trợ cấp, cho không của Chính phủ. Chính vì vậy, ngân hàng sẽ gặp nhiều khó
khăn khi tiếp cận, triển khai các hình thức, sản phẩm tín dụng của mình. Do đó, muốn
thành công ở thị trường này, các ngân hàng cần phải giải quyết tốt các vấn đề liên quan
đến mạng lưới chi nhánh, đội ngũ nhân viên, cũng như các vấn đề về thủ tục vay vốn,
phương thức cho vay nhằm đáp ứng được nhu cầu vay vốn, giảm chi phí và tăng hiệu quả
của hoạt động tín dụng.
* Về đối tượng cho vay và quy mô vốn vay: Các khoản tín dụng thuộc khu vực
NNNT khá phân tán và nhỏ lẻ. Đối tượng khách hàng chủ yếu của ngân hàng ở khu vực

NNNT là nông dân. Đối tượng của tín dụng NNNT bao gồm các chi phí sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp, chi phí tiêu thụ sản phẩm, chi phí mua sắm máy móc nông, ngư nghiệp,
chi phí đầu tư, cải tạo đất, đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp,
phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, Với kiểu sản xuất nhỏ lẻ như hiện nay thì nhu cầu
vay vốn để đáp ứng các đối tượng này của mỗi món vay cũng không lớn, chủ yếu là để
chăn nuôi và trồng trọt trên một diện tích nhỏ, đồng thời người dân chỉ có khả năng tích
luỹ những khoản tiết kiệm nhỏ để gửi ngân hàng. Với đặc điểm số lượng khách hàng đông
như đã đề cập ở trên nhưng các món vay và các món tiền gửi lại rất nhỏ nên chi phí
nghiệp vụ của ngân hàng ở khu vực nông thôn thường cao hơn so với ở đô thị. Chi phí tín
dụng cao nhưng tỷ suất lợi nhuận bình quân của khu vực này luôn thấp hơn khu vực công
nghiệp và dịch vụ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của người vay lẫn
hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải có biện pháp để giải
quyết tốt bài toán hiệu quả của người SXNN và hiệu quả hoạt động kinh doanh của chính
bản thân ngân hàng.
* Về thời hạn cho vay: Đối tượng cho vay của NNNT là chi phí cấu thành nên cây
trồng, vật nuôi, đó là các chi phí sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, chi phí tiêu thụ sản

phẩm, chi phí mua sắm máy móc nông, ngư nghiệp, chi phí đầu tư, cải tạo đất, đầu tư phát
triển công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, Tuy
nhiên, đối tượng nuôi trồng lại phụ thuộc vào chu kỳ sinh trưởng và phát triển của nó. Vì
vậy, nhu cầu vay trả của khách hàng thường có tính thời vụ cao, tính chất thời vụ này
thường gắn với chu kỳ sinh trưởng của đối tượng nuôi trồng. Điều đó đòi hỏi ngân hàng
phải có biện pháp để giải quyết tốt các vấn đề về nguồn vốn, về thời hạn cho vay, hình
thức và phương thức cho vay nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng, đồng thời nâng cao
hiệu quả hoạt động của ngân hàng trên địa bàn NNNT.
* Về rủi ro cho vay: SXNN chịu sự chi phối của nhiều yếu tố bất khả kháng như
mùa vụ, thiên tai, dịch bệnh. Mặc dù khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ đã giúp bà con
nông dân rất nhiều nhằm dự báo và phòng tránh những biến cố bất lợi phát sinh nhưng rủi
ro trong SXNN vẫn rất cao và thường diễn ra trên diện rộng. Cùng với tâm lý và trình độ còn
nhiều hạn chế của bà con nông dân, TDNH trong khu vực NNNT được đánh giá là có mức rủi
ro cao. Nguy cơ về rủi ro trong cho vay NNNT xuất phát từ những nguyên nhân sau:

- Rủi ro về biến động giá trong quá trình tiêu thụ: do đặc điểm về thị trường tiêu
thụ hàng nông sản hiện nay làm cho người nông dân luôn ở vị thế bất lợi. Thu nhập của họ
có thể nói là phụ thuộc khá lớn vào thị trường (nhà chế biến). Điều này được thể hiện rõ
nét trên thực tế, tình trạng được mùa, mất giá xảy ra khá phổ biến.
- Rủi ro trong quá trình nuôi trồng: ngoài sự chi phối của giá cả đầu ra, thu nhập
của nông dân còn chịu ảnh hưởng bởi năng suất nuôi trồng. Tuy nhiên, năng suất nuôi
trồng ngoài sự tác động bởi kiến thức, kinh nghiệm, kỹ thuật còn chịu chi phối rất lớn bởi
điều kiện tự nhiên như sự thay đổi khí hậu, thời tiết, thiên tai, Vì vậy, người nông dân
không hoàn toàn kiểm soát được kết quả của quá trình sản xuất.
Với các đặc điểm này, đòi hỏi trong chính sách cho vay đối với NNNT, các ngân
hàng cần phải có các biện pháp phòng ngừa, xử lý rủi ro linh hoạt nhằm đáp ứng được yêu
cầu vừa mở rộng cho vay, vừa giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
* Về lãi suất cho vay: Năng suất lao động nông nghiệp ở nước ta còn thấp, lợi
nhuận của ngành nông nghiệp thấp, tính rủi ro cao, nếu lãi suất cao sẽ dẫn đến người sản
xuất không dám vay vốn ngân hàng, còn nếu lãi suất thấp, ngân hàng sẽ gặp khó khăn. Vì

vậy, ngân hàng cần phải có chính sách lãi suất linh hoạt vừa thu hút khách hàng vay vốn,
vừa đảm bảo hiệu quả cho chính bản thân ngân hàng.
* Về phương thức cho vay: Địa bàn SXNN rộng, phân tán, sản phẩm đa dạng, tính
chuyên môn hoá thấp và diễn ra theo hình thức xen canh, mùa vụ, dễ gặp nhiều tình huống
xảy ra ngoài ý muốn. Hơn nữa, phần lớn món vay nhỏ, số lượng khách hàng đi vay nhiều.
Vì vậy, ngân hàng cần phải có biện pháp thẩm định, giải ngân, theo dõi nợ vay và thu hồi
nợ linh hoạt nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho khách hàng đồng thời giảm được chi
phí cho vay và hạn chế được rủi ro xảy ra.
* Về các quy định pháp lý: NNNT là khu vực được ưu tiên đầu tư của hầu hết các
quốc gia. Do đó, hoạt động tín dụng đối với lĩnh vực này ngoài việc phải chịu sự chi phối
của hệ thống các văn bản pháp quy trong lĩnh vực tín dụng còn phải hướng theo các chủ
trương, chính sách phát triển NNNT của quốc gia trong mỗi thời kỳ. Hiện nay, các quy
định pháp lý trong cho vay NNNT ở nước ta còn phức tạp và phiền hà tỏ ra không phù
hợp với đặc thù về trình độ dân trí ở khu vực nông thôn. Điều này gây khó khăn cho
CBTD trong việc tuyên truyền, giải thích cho bà con nông dân. Nếu thực hiện đúng quy

định thì bà con không hiểu và không chấp nhận, nếu thực hiện khác đi thì vi phạm các
nguyên tắc tín dụng và quy định của pháp luật.
Tóm lại, khách hàng vay vốn ở khu vực NNNT đa phần là hộ nông dân với quy mô
sản xuất nhỏ, đối tượng của tín dụng NNNT là các chi phí cho con, cây giống,… Đây là
đối tượng đầu tư chứa đựng nhiều rủi ro (cả khách quan lẫn chủ quan) đồng thời chi phí
nghiệp vụ cho vay cũng khá lớn. Vì vậy, muốn đáp ứng yêu cầu về vốn của người dân đồng
thời đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh của chính bản thân ngân hàng, các ngân hàng
cần phải nghiên cứu kỹ các đặc thù về NNNT ở mỗi vùng để xác định đối tượng cho vay,
phương thức cho vay, lãi suất vay cũng như các điều kiện khác cho phù hợp.
1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp nông thôn
1.1.3.1. Tổng quan về tín dụng và tín dụng ngân hàng
Tín dụng (Credit) xuất phát từ chữ la tinh là Credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong
thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau [11 tr.19]. Có
một số quan niệm như sau:

- Theo Mác: Tín dụng là sự chuyển nhượng lượng giá trị từ người sở hữu sang
người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu lại được lượng giá trị lớn hơn lượng giá
trị ban đầu. Ông cho rằng: Tiền chẳng qua chỉ rời tay người sở hữu trong một thời gian và
chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt động. Cho nên
tiền không phải được bỏ ra để thanh toán cũng không tự đem bán đi, nó chỉ đem cho vay, tiền
chỉ đem nhượng lại với điều kiện là nó sẽ quay về điểm xuất phát với một kỳ hạn nhất
định.
- Cũng có thể hiểu: “Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả cả
vốn lẫn lãi sau một thời hạn nhất định” [19, tr.190].
- Hay:
Tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định
dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử dụng với một
thời gian nhất định và khi đến hạn người sử dụng phải thanh toán cho người sở
hữu với một lượng giá trị lớn hơn, phần lớn hơn đó gọi là lợi tức [12, tr.333].
Như vậy, về hình thức, tín dụng là một sự vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay
và người đi vay. Về nội dung kinh tế, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử

dụng một lượng giá trị có thể biểu hiện bằng tiền hoặc bằng hiện vật từ chủ thể này sang
chủ thể khác với điều kiện phải hoàn trả theo những thỏa thuận trước. Nội dung thỏa thuận
đó là thời hạn trả, tiền lãi trả, cách thức trả.
Hình thức tín dụng đầu tiên trong lịch sử loài người là tín dụng nặng lãi. Tín dụng
nặng lãi được hình thành ở thời kỳ nô lệ, phát triển mạnh ở thời kỳ phong kiến và tồn tại
cho đến ngày nay. Đặc trưng cơ bản nhất của tín dụng nặng lãi là lãi suất rất cao. Điều
kiện tồn tại của tín dụng nặng lãi là nền sản xuất kém phát triển, tiến bộ kỹ thuật chưa có,
hoạt động sản xuất chủ yếu là nông nghiệp, lệ thuộc tự nhiên, khả năng cung ứng vốn cho
xã hội rất thấp, hơn nữa, nhu cầu vay mượn cao, chủ yếu để tiêu dùng. Khi sản xuất phát
triển, để đáp ứng yêu cầu về vốn của nền kinh tế, nhiều hình thức tín dụng ra đời như tín
dụng thương mại, TDNH, Trong đó, TDNH là loại hình tín dụng phổ biến nhất.
TDNH là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân
hàng) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay

chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận,
bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến
hạn thanh toán. TDNH có các đặc trưng sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ TDNH bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng
tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản).
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản
cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Tức là
TDNH dựa trên mức độ tín nhiệm về khách hàng.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, tức là người đi vay
phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
- Trong quan hệ TDNH, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều
kiện.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động TDNH rất đa dạng và phong phú với nhiều
hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý có hiệu quả TDNH cần phải tiến hành phân
loại tín dụng. Các tiêu thức thường được sử dụng để phân loại như: theo thời hạn (tín dụng
ngắn hạn, trung hạn, dài hạn), theo mục đích sử dụng vốn (tín dụng SXKD, tín dụng tiêu
dùng), theo xuất xứ tín dụng (tín dụng gián tiếp, tín dụng trực tiếp).
Các loại hình tín dụng trong NNNT Việt Nam: Hiện nay ở nông thôn nước ta

còn tồn tại rất nhiều hình thức tín dụng khác nhau.
+ Tín dụng không chính thức: là các hình thức tín dụng ngầm không được pháp luật
thừa nhận, thường là hình thức tín dụng nặng lãi. Hình thức tín dụng này ra đời từ rất lâu
nhưng đến nay vẫn tồn tại và cũng khá phổ biến ở khu vực nông thôn, nhất là các các quốc
gia kém phát triển như Việt Nam. Mặc dù hình thức này có những ưu điểm nhất định
nhưng hạn chế lớn của nó là lãi suất quá cao nên đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất,
hơn nữa, do không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ nên hình thức tín dụng này làm
nảy sinh rất nhiều vấn đề bức xúc về mặt xã hội.
+ Tín dụng chính thức: là hình thức tín dụng được pháp luật thừa nhận bao gồm
các chủ thể tham gia là các NHTM, các quỹ tín dụng nhân dân và các tổ chức tài chính
trung gian khác. Hiện nay, thị trường tín dụng nông thôn nước ta đã có nhiều chủ thể tham

gia, ngoài các NHTM và quỹ tín dụng nhân dân tham gia cung ứng tín dụng thương mại
còn có Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội cung ứng tín dụng chính sách
của Nhà nước nhằm phát triển NNNT. Tín dụng chính sách đối với NNNT nhằm thực
hiện các chương trình kinh tế xã hội, xoá đói, giảm nghèo, giải quyết công ăn việc làm,
phủ xanh đất trống đồi trọc. Sự ra đời của Ngân hàng Chính sách xã hội tạo điều kiện cho
các đối tượng chính sách ở nông thôn tiếp cận tốt hơn loại hình tín dụng này đồng thời
cũng tạo điều kiện cho đồng vốn đầu tư của Nhà nước phát huy hiệu quả hơn. Đây chính
là cơ hội thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả tín dụng của các NHTM hoạt động trên địa
bàn NNNT, đặc biệt là đối với NHNo&PTNT Việt Nam, là ngân hàng cung ứng vốn lớn
nhất và đang chiếm lĩnh thị trường NNNT. Với mạng lưới rộng khắp, NHNo&PTNT Việt
Nam là cầu nối giữa sản xuất và lưu thông hàng hoá, tạo ra động lực thúc đẩy phát triển
sản xuất, tích tụ tập trung vốn, làm tiền đề cho CNH, HĐH NNNT một cách nhanh chóng
và có hiệu quả.
1.1.3.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp nông thôn
Trong nền kinh tế, thường xuyên có một số người thừa vốn cần đầu tư và một số
người thiếu vốn muốn đi vay. Song những người này khó có thể trực tiếp gặp nhau để cho
nhau vay, hoặc có thể gặp nhau thì chi phí rất cao và không kịp thời, nên TDNH đóng vai
trò là cầu nối trung gian giữa người có vốn và người cần vốn và giải quyết thỏa đáng nhu
cầu thừa thiếu này, nghĩa là TDNH thu hút tập trung mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn

rỗi của các tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng
kinh tế, đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, tăng tốc độ chu
chuyển vốn cho xã hội, góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi
cho nền kinh tế phát triển bền vững. Thông qua TDNH, Nhà nước có thể kiểm soát được
khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền
tệ. Mặt khác, TDNH còn thúc đẩy các tổ chức, cá nhân tăng cường chế độ hạch toán kinh
doanh, giúp cho họ khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế trong hoạt động kinh doanh,
đồng thời, TDNH tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, là cầu nối cho
việc giao lưu kinh tế và là phương tiện để thắt chặt mối quan hệ kinh tế với các nước trên
thế giới.

Đối với lĩnh vực NNNT, vai trò của TDNH càng quan trọng, góp phần rất lớn trong
việc thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội NNNT, thể hiện:
- Thứ nhất: TDNH là động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Trong
nông nghiệp, nhất là ở vùng trung du, đồi núi, các hộ nông dân sản xuất theo phương thức
tự cấp, tự túc. Muốn tiến lên sản xuất hàng hoá, cần phải có một sự chuyên môn hoá và
tập trung hoá sản xuất với trình độ công nghệ tiên tiến, có hiệu quả. Để làm được điều
này, đòi hỏi phải có vốn và đặc biệt là sự tài trợ của hệ thống ngân hàng. Nói cách khác,
nhờ vào TDNH mà SXNN và cơ sở hạ tầng nông thôn mới phát triển một cách thuận lợi.
Bởi vì nguồn vốn này được cung ứng đầy đủ, kịp thời và nhanh chóng nhất. Mặt khác, sử
dụng vốn vay ngân hàng có tác dụng thúc đẩy nông dân nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
bởi tính chất của nguồn vốn này là hoàn trả đầy đủ và đúng hạn.
- Thứ hai: TDNH góp phần thúc đẩy việc thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế
NNNT. Thông qua định hướng đầu tư tín dụng, với các chính sách nhất định, TDNH có tác
dụng rất to lớn đến việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với chính sách và định
hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. Thực trạng
kinh tế NNNT nước ta trong giai đoạn đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là một minh chứng
rất rõ nét. Với một chính sách tín dụng hợp lý kết hợp với các chính sách tài chính tiền tệ
khác, trong một thời gian ngắn, kinh tế NNNT nước ta đã có những chuyển biến mạnh mẽ,
từ chỗ phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm trở thành nước xuất khẩu lương thực, các
sản phẩm nông nghiệp đóng góp rất lớn vào tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của nước ta.

- Thứ ba: TDNH góp phần giảm nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn. Hoạt động cho
vay nặng lãi tồn tại từ lâu và hiện vẫn đang tồn tại khá phổ biến ở khu vực nông thôn, nhất
là ở những vùng sâu, vùng xa. Theo khảo sát của ADB năm 1997 thì có khoảng 75% khối
lượng tín dụng ở khu vực nông thôn do các định chế tài chính không chính thức, trong đó
cho vay nặng lãi chiếm tỷ trọng đáng kể. Tín dụng nặng lãi gây ra nhiều tác hại cho người
dân và làm cho SXNN kém phát triển. Việc phát triển hoạt động TDNH ở nông thôn sẽ
góp phần rất lớn vào việc xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi ở khu vực này.
- Thứ tư: TDNH góp phần xoá đói giảm nghèo ở khu vực NNNT. Nước ta là nước
nông nghiệp lạc hậu, kinh tế chưa phát triển, thu nhập của người dân còn rất thấp, nhất là

nông dân nên tỷ lệ nghèo đói còn khá cao. Theo đánh giá của chương trình phát triển liên
hiệp quốc (UNDP) thì “mặc dầu quá trình đổi mới đã giảm bớt nghèo khổ kể từ năm 1986
nhưng tình trạng này vẫn còn phổ biến ở Việt Nam và cho đến nay vẫn là thử thách cấp
bách nhất trong quá trình tiến kịp các nước khác” [34, tr.36]. Cũng theo UNDP, hơn 90%
dân nghèo ở nông thôn, nhất là ở khu vực miền Trung, Tây nguyên. Vì vậy, xoá đói, giảm
nghèo là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta, trong đó, TDNH
đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng sẽ chuyển tải
vốn đến những hộ nghèo thiếu vốn sản xuất mua sắm tư liệu lao động, giúp họ duy trì và
mở rộng sản xuất để thoát nghèo. Thực tế đã cho thấy, nhờ vay vốn ngân hàng mà nhiều
hộ gia đình thoát nghèo và trở nên khá giả và giàu có.
- Thứ năm: TDNH góp phần vào việc thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Thông qua kênh tín dụng NNNT, Nhà nước thực hiện được các chính sách tiền tệ nhằm
phát triển kinh tế đất nước như: khi nền kinh tế có lạm phát, ngân hàng tích cực huy động
vốn trong dân đồng thời giảm cho vay, ngược lại, khi nền kinh tế giảm phát, cần kích cầu
thì ngân hàng giảm huy động và tăng cường cho vay để kích thích đầu tư và tiêu dùng của
người dân.
- Thứ sáu: TDNH góp phần tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ở nông thôn. Thông qua việc đầu tư tín dụng cho NNNT theo các hình thức như
cho vay qua tổ tương hỗ, tổ tín chấp của các Hội đoàn thể, các chính sách chủ trương của
Đảng và Nhà nước được tuyên truyền đến mọi người dân, cả ở những vùng sâu, vùng xa.
Tóm lại, TDNH có vai trò quan trọng đối với NNNT nhất là đối với Việt Nam, nó
giúp cho SXNN tạo ra nhiều hàng hoá để cung cấp cho sản xuất công nghiệp, cho xuất khẩu,

đáp ứng yêu cầu lương thực thực phẩm cho toàn xã hội và tạo điều kiện cho kinh tế NNNT
phát triển, cơ sở hạ tầng NNNT ngày càng hiện đại. Từ đó, tạo điều kiện tiền đề cho sự
nghiệp CNH, HĐH nước ta được hoàn thành một cách cơ bản vào năm 2020. Song điều nầy
phụ thuộc nhiều vào hiệu quả TDNH, cả người huy động vốn lẫn người sử dụng vốn vay.
1.2. Hiệu quả tín dụng ngân hàng
1.2.1. Quan niệm về hiệu quả tín dụng ngân hàng
Bất cứ hoạt động nào cũng đòi hỏi tiêu tốn những chi phí và mang lại những kết

quả nhất định. Theo từ điển Tiếng Việt thì: Hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc làm
mang lại. Vì vậy, có thể khẳng định rằng: Mối quan hệ giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ
ra chính là căn cứ cơ bản để đo lường hiệu quả và được xác định theo công thức sau:
Kết quả đạt được
H = x 100
Chi phí bỏ ra
Hoạt động chỉ mang lại hiệu quả khi và chỉ khi chỉ tiêu này lớn hơn 1, chỉ tiêu này
càng lớn hơn 1 bao nhiêu, hoạt động càng có hiệu quả cao bấy nhiêu. Ngược lại, khi chỉ
tiêu này nhỏ hơn hay bằng 1, hoạt động xem như không đem lại hiệu quả. Đây là quan
niệm chung nhất về hiệu quả. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào chủ thể và mục tiêu đặt ra mà kết
quả đạt được có thể là lợi ích kinh tế hoặc lợi ích xã hội hoặc là cả lợi ích kinh tế lẫn lợi
ích xã hội. Vì vậy, chúng ta thường có hai phạm trù về hiệu quả đó là; phạm trù hiệu quả
kinh tế và phạm trù hiệu quả xã hội.
Đối với các NHTM, hoạt động tín dụng hiện vẫn là hoạt động mang lại phần lớn
thu nhập cho các ngân hàng, vì vậy, hiệu quả tín dụng là vấn đề hết sức quan trọng và luôn là
mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng. Nhưng để nhìn nhận một cách chi tiết, sâu sắc về hiệu
quả tín dụng thì không phải là vấn đề đơn giản. Trong thực tế, đôi lúc chúng ta chưa hiểu
đúng ý nghĩa cụm từ "hiệu quả tín dụng". Từ đó dẫn đến cách nhìn nhận sai lệch trong đánh
giá và quản lý tín dụng. Do vậy, cần phải có cái nhìn đúng đắn về hiệu quả TDNH.
Nếu nhìn từ phương diện chủ thể tham gia, một quan hệ tín dụng giữa ngân hàng
và khách hàng thì đơn giản chỉ là quan hệ giữa người cho vay và người đi vay. Người đi
vay có nghĩa vụ hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn. Người cho vay có trách nhiệm giải
ngân đúng quy trình. Như vậy, giữa hai chủ thể đã hoàn thành trách nhiệm với nhau.

Nhưng xét một cách tổng thể, quan hệ tín dụng không chỉ có vậy mà nó còn đặt trong mối
quan hệ với các mặt khác nhau của xã hội. Chính vì vậy, khi đề cập đến phạm trù hiệu quả
TDNH, chúng ta phải xuất phát từ bản chất của nó, đó là: vốn cho vay của ngân hàng
được khách hàng sử dụng vào quá trình SXKD, dịch vụ một cách hiệu quả nhằm tạo ra
một lượng tiền lớn hơn để hoàn trả cho ngân hàng. Qua quá trình chu chuyển tiền tệ này,
ngân hàng sẽ thu lại được vốn đã cho vay và tiền lãi, khách hàng thì sử dụng vốn đi vay

của ngân hàng để đáp ứng yêu cầu về vốn cho hoạt động kinh doanh của mình một cách
có hiệu quả. Như vậy, có thể hiểu, hiệu quả TDNH vừa thể hiện lợi ích mang lại đối với
ngân hàng (hiệu quả kinh tế) vừa thể hiện lợi ích mang lại đối với xã hội (hiệu quả xã
hội) trong mối quan hệ với đồng vốn ngân hàng đã đầu tư.
Như vậy, khi đánh giá hiệu quả TDNH cần phải đánh giá trên hai góc độ, đó là
hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội như việc làm, thu nhập của người lao động, ổn định
chính trị,
Thứ nhất, vốn đầu tư của ngân hàng đã làm gì để góp phần thực hiện các chỉ tiêu
kinh tế, xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững.
Thứ hai, vốn đầu tư của ngân hàng đã mang lại cho ngân hàng những lợi ích kinh
tế nào.
Giữa hai phạm trù hiệu quả này có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau và không
thể tách rời nhau, quá chú trọng hiệu quả xã hội, coi nhẹ hiệu quả kinh tế sẽ dẫn đến tình
trạng đầu tư tín dụng mang tính chất phục vụ, không mang tính chất kinh doanh, từ đó,
dẫn đến đầu tư tín dụng sẽ tràn lan, nguyên tắc hoàn trả tín dụng sẽ bị vi phạm. Vì vậy,
hiệu quả của đồng vốn tín dụng thấp, thậm chí gây ra những hậu quả xấu. Ngược lại, nếu
quá nhấn mạnh hiệu quả kinh tế, coi nhẹ hiệu quả xã hội, tức là các ngân hàng chỉ đầu tư
vào những nơi mang lợi nhuận cao thì đó cũng là nhận thức phiến diện bởi lợi ích của
các NHTM không thể tách rời lợi ích chung của nền kinh tế, nếu nền kinh tế trì trệ, kém
phát triển sẽ làm giảm khả năng huy động vốn và nhu cầu đầu tư. Hơn nữa, nếu các ngân
hàng chỉ chạy theo lợi ích kinh tế thuần tuý thì sẽ dẫn đến mạo hiểm do rủi ro cao nên
hiệu quả tín dụng đối với NHTM sẽ bấp bênh, không ổn định.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng

Với quan niệm về hiệu quả tín dụng như đã đề cập trên đây, việc đánh giá hiệu quả
tín dụng cần phải dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu nhằm phản ánh khái quát được thực
trạng của khoản tín dụng. Các chỉ tiêu này biểu hiện qua hai nhóm định tính và định lượng
như sau:
* Nhóm chỉ tiêu định tính: Nhóm chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả TDNH được thể
hiện qua khả năng thu hồi vốn đã cho vay trong thời hạn quy định của hợp đồng tín dụng

đối với NHTM, khả năng SXKD của khách hàng vay vốn và tác động của việc sử dụng
vốn đến sự phát triển kinh tế xã hội trong vùng. Do vậy, về mặt định tính, hiệu quả TDNH
thể hiện qua việc cho vay phải tuân thủ đúng các quy định, chế độ, thể lệ tín dụng, các
nguyên tắc căn bản của tín dụng, đó là:
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả lãi và gốc theo thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng.
- Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn tín dụng theo mục đích đã thoả thuận với
ngân hàng.
- Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án hoặc dự án kinh doanh có hiệu quả.
Những nguyên tắc này đã trải qua các thời kỳ khác nhau và được đúc kết thành
chuẩn mực. Các nguyên tắc này hình thành như một quy luật phát triển nội tại của tín
dụng, không thể vi phạm và tách rời trong quan hệ tín dụng và tạo nên sự vững chắc trong
quan hệ tín dụng. Vì vậy, một trong các nguyên tắc bị coi nhẹ hoặc nhấn mạnh sẽ phá vỡ
sự vững chắc đó, làm mất đi vai trò của tín dụng và trở thành vật cản kìm hãm hoặc đẩy
lùi sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, hiệu quả tín dụng phải bắt nguồn từ việc tuân thủ
các nguyên tắc tín dụng, thái độ chấp hành sẽ chi phối đến hoạt động khác. Việc thẩm
định, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay nhằm phát hiện vấn đề nảy sinh trong quan
hệ tín dụng và các điều kiện kèm theo cũng xuất phát từ việc tôn trọng các nguyên tắc đó.
Cũng thông qua cách thức, thái độ tổ chức đảm bảo cho việc thực hiện các nguyên tắc này
của ngân hàng và khách hàng, ta có thể có những đánh giá bước đầu về hiệu quả tín dụng.
Hiệu quả tín dụng thể hiện kết quả thực hiện trọn vẹn ba nguyên tắc tín dụng, được phản
ánh bởi hiệu quả kinh doanh của từng tổ chức kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội qua từng thời kỳ.

* Nhóm chỉ tiêu định lượng: Sử dụng hệ thống chỉ tiêu này để xác định được kết
quả cụ thể là hoạt động đó có mang lại hiệu quả hay không. Các chỉ tiêu định lượng
thường được sử dụng như sau:
* Đối với ngân hàng: Kết quả mang lại cho các NHTM từ hoạt động tín dụng có
thể định lượng được là số tiền ngân hàng huy động được trong kỳ, số tiền cho vay (doanh
số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ), nợ quá hạn, nợ khó đòi hay số lãi cho vay thu được,

lợi nhuận mang lại từ hoạt động tín dụng,… Chi phí bỏ ra của các NHTM để thực hiện
hoạt động tín dụng có thể định lượng được là chi phí trả lãi vay, tiền lương cho nhân viên,
số tiền cho vay (dư nợ),… Vì vậy, để đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đứng trên góc
độ ngân hàng, có thể dùng hệ thống các chỉ tiêu sau:
Một là, các chỉ tiêu phản ánh năng suất lao động trong hoạt động tín dụng: Các chỉ
tiêu này phản ảnh mức vốn huy động hay cho vay bình quân trên một lao động của ngân
hàng. Chỉ tiêu này càng lớn, sẽ góp phần giảm chi phí, tăng thu nhập và nâng cao hiệu quả
hoạt động TDNH.
- Năng suất huy động vốn:
Vốn huy động
Vốn huy động bình quân lao động =
Số lao động
- Năng suất cho vay:
Tổng dư nợ
Dư nợ bình quân lao động =
Số lao động
Hai là, các chỉ tiêu phản ánh hiệu suất sử dụng vốn trong hoạt động tín dụng.
- Hiệu quả sử dụng vốn: chỉ tiêu cho biết hiệu quả sử dụng của đồng vốn huy động
được, dùng để đánh giá khả năng cho vay của ngân hàng so với nguồn vốn huy động. Chỉ
tiêu này càng tiến về 1, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng càng cao.
Hệ số sử dụng vốn =
Dư nợ
Vốn huy động

- Lãi suất huy động bình quân: chỉ tiêu này phản ánh chi phí mà NHTM bỏ ra để
huy động được 100 đồng vốn. Lãi suất huy động vốn bình quân càng thấp sẽ giúp cho
ngân hàng giảm thiểu chi phí trả lãi vay.
Lãi suất huy động bình
quân
=

Chi phí trả lãi
x 100
Vốn huy động

- Lãi suất cho vay bình quân: chỉ tiêu này phản ánh thu lãi mà NHTM đạt được từ
100 đồng vốn cho vay. Lãi suất cho vay bình quân càng cao sẽ giúp cho ngân hàng gia
tăng thu nhập từ lãi vay.
Lãi suất cho vay
bình quân
=
Thu lãi cho vay
x 100
Tổng dư nợ
- Chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân (H1):
chỉ tiêu này phản ánh chênh lệch giữa thu lãi và chi lãi mà NHTM đạt được từ 100 đồng vốn
cho vay như thế nào. Chỉ tiêu này càng lớn cho thấy khả năng ngân hàng có cơ hội để bù đắp
các chi phí khác để đạt lợi nhuận cao.
H1 = Lãi suất cho vay bình quân - Lãi suất huy động bình quân
Ba là, các chỉ tiêu phản ánh mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng:
- Tỷ lệ nợ xấu: là tỷ lệ giữa dư nợ xấu so với tổng dư nợ của NHTM ở một thời
điểm nhất định, thường là cuối tháng, quý, năm.
Tỷ lệ nợ xấu =
Nợ xấu
x 100
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro hiện tại của ngân hàng như thế nào. Xét về
mặt bản chất, tín dụng là sự hoàn trả, do đó tính an toàn (khả năng hoàn trả của người vay)
là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành hiệu quả tín dụng. Khi một khoản vay không
được hoàn trả đúng hạn như cam kết thì nó đã vi phạm nguyên tắc tín dụng với ngân hàng
và khoản nợ sẽ được chuyển sang nợ quá hạn với mức lãi suất cao hơn lãi suất bình

thường. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả hoạt động TDNH càng cao và ngược lại. Trên
thực tế, hoạt động tín dụng của ngân hàng không thể tránh khỏi rủi ro nên các NHTM
thường chấp nhận một tỷ lệ nợ xấu nhất định (dưới 5%) được coi là giới hạn an toàn.

- Tỷ lệ nợ khó đòi: Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu chưa phải là căn cứ tin cậy để đánh giá
mức độ rủi ro mà NHTM phải đối mặt. Chẳng hạn có những hợp đồng vay vốn do
những nguyên nhân nào đó không thực hiện việc trả nợ kịp thời (đúng theo hợp đồng),
nhưng ngân hàng vẫn có thể thu hồi đầy đủ số nợ này. Do vậy, để đánh giá chính xác
hơn về mức độ rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt, người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ
khó đòi. Tỷ lệ nợ khó đòi là tỷ lệ phần trăm giữa dư nợ khó đòi với tổng dư nợ của
NHTM ở một thời điểm nhất định.
Tỷ lệ nợ khó đòi =
Nợ khó đòi
x 100
Tổng dư nợ

Bốn là, các chỉ tiêu phản ánh mức độ sinh lợi trong hoạt độngtín dụng:
- Hệ số thu nhập trên chi phí của hoạt động tín dụng (H2): chỉ tiêu này so sánh thu
nhập đạt được của hoạt động tín dụng với chi phí bỏ ra.
H2 =
Thu nhập của hoạt động tín dụng
x 100
Chi phí cho hoạt động tín dụng
Chỉ tiêu này lớn hơn 1, phản ánh hoạt động tín dụng có hiệu quả và ngược lại, hoạt
động tín dụng của ngân hàng không có hiệu quả. Đây là chỉ tiêu được xem là quan trọng
nhất phản ảnh mức độ hiệu quả của hoạt động TDNH cao hay thấp và là chỉ tiêu phản ảnh
hiệu quả tổng hợp của các chỉ tiêu trên, đồng thời cũng là chỉ tiêu cơ sở để đánh giá các
chỉ tiêu hiệu quả kế tiếp.
- Doanh lợi hoạt động tín dụng: chỉ tiêu doanh lợi hoạt động tín dụng cho biết khi
ngân hàng đầu tư 100 đồng vốn tín dụng thì thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận tín

dụng.
Doanh lợi hoạt động
tín dụng
=
Lợi nhuận
x 100
Dư nợ tín dụng

- Mức sinh lời một lao động: Chỉ tiêu này cho biết khả năng tạo ra lợi nhuận bình
quân trên một lao động tại ngân hàng.
Mức sinh lời một lao động =
Lợi nhuận tín dụng
Số lao động

Các chỉ tiêu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhóm chỉ tiêu thứ tư là chỉ tiêu tổng
hợp, phản ánh kết quả mọi nỗ lực của ngân hàng trong thời kỳ nhất định. Nhóm chỉ tiêu
này chịu ảnh hưởng rất lớn của ba nhóm chỉ tiêu trên, do vậy, có thể xem ba nhóm chỉ tiêu
trên là nguyên nhân và nhóm chỉ tiêu thứ tư là kết quả. Cụ thể như: Năng suất lao động
tăng, hiệu quả sử dụng vốn tăng, mức độ rủi ro thấp tất yếu sẽ làm tăng khả năng sinh lợi
của hoạt động tín dụng và ngược lại, năng suất lao động thấp, hiệu quả sử dụng vốn kém,
mức độ rủi ro cao tất yếu sẽ làm giảm khả năng sinh lợi của hoạt động tín dụng. Vì vậy,
trong quá trình đánh giá hiệu quả TDNH đứng trên góc độ ngân hàng, cần phải đánh giá,
làm rõ ba nhóm chỉ tiêu đầu hơn là nhóm chỉ tiêu thứ tư.
* Đối với khách hàng: Khách hàng là người trực tiếp quản lý sử dụng số vốn của
ngân hàng. Hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng biểu hiện qua những lợi ích mà họ thu
được từ những phương án kinh doanh, cụ thể được phản ánh rõ qua chỉ tiêu doanh thu
tăng từ dự án, lợi nhuận tăng từ dự án Đó là sự thể hiện rõ nét về mặt con số. Hơn nữa,
hiệu quả tín dụng còn thể hiện về mặt giá trị mà người đi vay có được. Đối với cá nhân, họ
có thể cải thiện đời sống, nâng cao mức thu nhập. Đối với doanh nghiệp, họ có thể đổi
mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường, củng cố uy tín, thương hiệu

doanh nghiệp.
Thông qua xem xét hai nhóm chỉ tiêu định tính và định lượng, hiệu quả tín dụng đ-
ược thể hiện tương đối toàn diện, giúp các nhà phân tích nắm bắt được thực trạng các
khoản cho vay để đề xuất phương án thực hiện. Đối với nhóm chỉ tiêu định tính có thể
thực hiện được hay không tuỳ thuộc vào ý thức chấp hành thể lệ tín dụng, tuân thủ quy
trình kỹ thuật cho vay của ngân hàng để có thể đảm bảo được hiệu quả tín dụng. Đối với
nhóm chỉ tiêu định lượng, mặc dù có thể đạt được mức chuẩn theo quy định nhưng chưa
hẳn đủ đảm bảo hiệu quả tín dụng mà cần phải đảm bảo tính chính xác, trung thực trong
thông tin của các chỉ số định lượng. Tất cả các chỉ tiêu phản ánh các mặt khác nhau của
quan hệ tín dụng nên không quá coi trọng một chỉ tiêu nào. Để tăng hiệu quả tín dụng, rất
cần có sự cố gắng tham gia từ cả hai phía trong quan hệ tín dụng là ngân hàng và khách
hàng.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng ngân hàng

Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng đặt trong môi trường đầy những
yếu tố biến động. Nó bị tác động bởi nhiều yếu tố theo chiều hướng khác nhau, có thể
thuộc về bản thân ngân hàng hoặc xuất phát từ phía khách hàng. Do vậy, các nhân tố ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động TDNH được chia thành hai nhóm: bên trong và bên ngoài.
1.2.3.1. Nhóm nhân tố bên trong
* Chính sách tín dụng của NHTM: Chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đến
sự thành công hay thất bại của một NHTM. Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố như
hạn mức cho vay đối với một khách hàng, kỳ hạn của khoản tín dụng, lãi suất cho vay,
mức lệ phí, các hình thức cho vay được thực hiện, tài sản làm đảm bảo nợ, khả năng thanh
toán nợ của khách hàng, hướng giải quyết tín dụng khi phát sinh quá hạn, các khoản vay
có vấn đề Tất cả các yếu tố đó tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới việc mở rộng hay hạn
chế tín dụng của ngân hàng. Một ngân hàng với chính sách tín dụng đúng đắn, hợp lý, linh
hoạt, đáp ứng được tối đa nhu cầu của khách hàng về vốn thì ngân hàng đó sẽ thành công
trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng tín dụng, đảm bảo khả năng sinh lợi dựa trên cơ sở
phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật… Vì vậy, hiệu quả của các khoản tín dụng sẽ được
nâng cao. Ngược lại, nếu như các yếu tố của chính sách tín dụng đều cứng nhắc, không hợp

lý, không đáp ứng được nhu cầu tín dụng đa dạng của khách hàng thì chính sách tín dụng của
ngân hàng đó là bất hợp lý và điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến công tác mở rộng tín dụng và
nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM.
Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh gay gắt xảy ra giữa các ngân hàng trong việc
thu hút khách hàng, thì một chính sách tín dụng đúng đắn, linh hoạt là hết sức quan trọng.
Nếu ngân hàng đưa ra được một chính sách tín dụng cụ thể thiết thực, dễ thực hiện phù
hợp với tất cả các đối tượng khách hàng của ngân hàng thì ngân hàng đó càng gặt hái được
nhiều thành công, và ngược lại.
* Công tác tổ chức quản lý, kiểm soát hoạt động của ngân hàng: Công tác tổ chức
quản lý được tiến hành chặt chẽ, khoa học; các phòng ban chức năng có mối quan hệ chặt
chẽ hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động trên cơ sở tôn trọng những nguyên tắc tín dụng tạo
điều kiện đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, đồng thời giúp ngân hàng theo dõi,
giám sát các khoản cho vay, từ đó làm cho hoạt động tín dụng diễn ra một cách lành
mạnh, có hiệu quả, giảm thiểu rủi ro tín dụng. Ngược lại sẽ tạo khe hở cho CBTD câu kết
với khách hàng gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng. Thực tế cho thấy,

×