Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

LUẬN VĂN:Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.75 MB, 119 trang )








LUẬN VĂN:

Chính sách bảo hiểm thất
nghiệp ở Việt Nam hiện nay
















Mở đầu


1. Tính cần thiết của đề tài


Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội mà hầu hết các nước trên thế giới
phải đương đầu. Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp là một hiện tượng khách quan và
nó được biểu hiện như một đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường. Tác động của thất
nghiệp đến sự phát triển, ổn định kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia là rất lớn, nó
đẩy người lao động bị thất nghiệp vào tình cảnh túng quẫn, lãng phí nguồn lực xã hội, là
một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình trệ. Thất nghiệp gia tăng
làm cho tình hình chính trị xã hội bất ổn, các tệ nạn xã hội và tội phạm gia tăng làm băng hoại
các giá trị đạo đức, văn hóa của gia đình và xã hội. Thất nghiệp dẫn đến những thiệt hại
nghiêm trọng về thu nhập kinh tế quốc dân, sự lãng phí nguồn nhân lực do tỷ lệ thất nghiệp
cao đi liền với sự giảm sút thu nhập do không sản xuất. Đồng thời, thất nghiệp còn làm tăng
chi tiêu của Chính phủ, của doanh nghiệp và xã hội cho các trợ cấp thất nghiệp và các chi
phí có liên quan như chi phí đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, dịch vụ việc làm. Vì vậy, hạn
chế thất nghiệp và đảm bảo ổn định đời sống người lao động trong trường hợp bị thất
nghiệp là mục tiêu chung của các quốc gia và các tổ chức quốc tế và khu vực.
Nước ta, tuy mới bước vào nền kinh tế thị trường nhưng thất nghiệp đã, đang và sẽ
là vấn đề cấp thiết mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội phải tập trung giải quyết.
Nhận thức được điều này, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, ngay từ rất sớm,
Đảng ta đã khẳng định "Từng bước hình thành quỹ bảo trợ thất nghiệp ở thành thị, đảm
bảo công ăn việc làm cho dân là mục tiêu hàng đầu, không để thất nghiệp trở thành căn
bệnh kinh niên…" (Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, năm 1996). Tiếp đó, vấn đề thất
nghiệp và bảo trợ thất nghiệp đã được khảng định lại trong nhiều văn kiện của Đảng và
được cụ thể hoá bằng nhiều chính sách đối với vấn đề này. Đặc biệt, Bộ luật Lao động và
Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) ra đời là những văn bản pháp lý quan trọng của chính sách
bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ở Việt Nam. Từ 01/01/2009, Việt Nam chính thức thực hiện
BHTN. Qua gần hai năm thực hiện, chính sách BHTN đã đạt được những kết quả bước
đầu. Tuy nhiên, chính sách đó đang còn những bất cập và gặp khó khăn trong quá trình

thực hiện. điều đó cho thấy việc nghiên cứu, hoàn thiện chính sách BHTN ở Việt Nam là
một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Chính vì vậy đề tài "Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở
Việt Nam hiện nay" được nghiên cứu với mong muốn góp phần giải quyết yêu cầu thực

tế về hoàn thiện chính sách BHTN ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
- Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Thất nghiệp và lạm phát là hai vấn đề có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đồng thời
cũng là hai vấn đề nan giải và khó giải quyết đối với chính phủ các nước. Bởi vậy, ngay sau
khi ra đời ILO đã phê chuẩn công ước thất nghiệp và những vấn đề có liên quan đến thất
nghiệp như phần trên đã trình bày. Có hai loại chính sách mà nhiều nước đã hoạch định và tổ
chức thực hiện đó là: chính sách BHTN và chính sách BHXH (trong đó có chế độ trợ cấp thất
nghiệp). Để hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách này là hoàn toàn phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế, chính trị và xã hội của từng nước. Tuy nhiên có một số nhà khoa học đã công bố
những công trình nghiên cứu của mình liên quan đến BHTN và trợ cấp thất nghiệp, điển hình
như: ở Cộng hòa Liên bang Đức có Schmid; ở Mỹ có Wernev và Wayne Nafziger; ở Anh có
David và Pearce; ở Nga có V.Paplốp;
Nhìn chung những công trình nghiên cứu của các tác giả mới chỉ tập trung chủ yếu
vào phản ánh thực trạng thất nghiệp, nguyên nhân và hậu quả thất nghiệp trong một giai
đoạn nào đó, ở những nước và những khu vực nào đó trên thế giới. Có một số nghiên cứu
đã tiếp cận với BHTN và trợ cấp thất nghiệp, song mới chỉ đưa ra những định hướng về
đối tượng tham gia, mức trợ cấp và thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp. Do đây là một vấn
đề kinh tế - xã hội đặc thù của từng nước, cho nên những nghiên cứu của các tác giả kể
trên có chăng chỉ để tham khảo trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách
BHTN ở Việt Nam.
- Tình hình nghiên cứu trong nước
ở Việt Nam, trong thời kỳ bao cấp vấn đề thất nghiệp được coi như không tồn tại
và quan niệm thất nghiệp không gắn với chủ nghĩa xã hội mà chỉ chủ nghĩa tư bản mới có

thất nghiệp. Sở dĩ chúng ta quan niệm như vậy là vì xuất phát từ luận điểm: Mọi công dân đều
có quyền có việc làm, có nghĩa vụ phải làm việc và Nhà nước sẽ bảo đảm đầy đủ chỗ làm việc
cho người lao động. Do đó, trong thực tế cũng như trong khoa học và lý luận không đặt ra để
nghiên cứu.
Chỉ từ khi chúng ta chuyển đối cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung

sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
và đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1998 thì vấn đề nghiên
cứu thất nghiệp và BHTN mới thực sự được đặt ra. BHTN là vấn đề mới cho nên các công
trình nghiên cứu chưa nhiều mà chủ yếu là những bài viết khoa học về thất nghiệp, xây
dựng chế độ BHTN, hoặc liên quan đến vấn đề này dưới góc độ lý luận và kinh nghiệm
của các nước trên thế giới như: "Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện
kinh tế thị trường", của TS Nguyễn Văn Định và các cộng sự của bộ môn Kinh tế Bảo
hiểm - Trường đại học Kinh tế Quốc dân thực hiện, 2000; Cuốn sách "Bảo hiểm xã hội -
những điều cần biết", do Nhà xuất bản Thống kê phát hành năm 2001; PGS.TS Nguyễn
Văn Kỷ đã có một bài viết "Luật Bảo hiểm xã hội và vấn đề bảo hiểm thất nghiệp";
"Những vấn đề lý luận và thực tiễn để xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp" (thực
hiện năm 1999) và "Cơ chế tạo nguồn và tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp" (thực
hiện năm 2003), của Vụ Chính sách Lao động và Việc làm, Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội; "Nghiên cứu xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo Luật Lao động sửa đổi,
bổ sung", của Vụ Bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (thực hiện năm
2002); "Nghiên cứu những nội dung cơ bản của bảo hiểm thất nghiệp hiện đại - vấn đề lựa
chọn hình thức trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam" (thực hiện năm 2004), do TS. Nguyễn
Huy Ban và các cộng sự tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam; "Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở
Việt Nam", của PGS.TS. Nguyễn Văn Định, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, 2008
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu, bài viết nhìn chung mới chỉ đề cập tới từng
khía cạnh riêng lẻ, bức xúc trong lĩnh vực việc làm, thất nghiệp và BHTN trong điều kiện
nước ta chưa thực hiện chính sách BHTN. Vì thế chưa có công trình khoa học nào nghiên
cứu toàn diện và đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách BHTN ở Việt Nam, do đó
có thể nói đề tài "Chính sách Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay" là luận văn

thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu về chính sách BHTN đã được triển khai thực hiện ở Việt Nam.
Tuy nhiên chính sách BHTN là vấn đề khó, mới được triển khai thực hiện ở Việt Nam và
là đối tượng nghiên cứu của cả khoa học pháp lý và khoa học kinh tế, cho nên trong luận
văn cũng có sử dụng những tư liệu, những bài viết, những công trình nghiên cứu của các
tác giả, các nhà khoa học đi trước.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Đề tài có mục đích phân tích và làm rõ thêm một số cơ sở lý luận, thực tiễn về thất
nghiệp và chính sách BHTN ở Việt Nam. Từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện
chính sách BHTN ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên đề tài có nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa và phân tích làm rõ thêm cơ sở lý luận về thất nghiệp và chính sách
BHTN.
- Phân tích thực trạng thất nghiệp và chính sách BHTN ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện chính sách BHTN của Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính sách BHTN.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Chính sách BHTN ở đây bao gồm hỗ trợ về tài
chính khi mất việc làm, hỗ trợ đào tạo nghề và cung cấp thông tin tìm kiếm việc làm mới.
Chính sách này áp dụng đối với những người lao động làm công ăn lương, có tham gia vào
quan hệ lao động, có giao kết hợp đồng lao động và người thất nghiệp ở đây là người Việt
Nam.
Về không gian: trên phạm vi toàn quốc.

Về thời gian: đề tài nghiên cứu chính sách BHTN ở Việt Nam (chính sách hỗ trợ
người thất nghiệp trước năm 2009) từ sau khi Luật Lao động được sửa đổi, bổ sung và có
hiệu lực từ năm 2002 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết đề tài, phép biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh được sử dụng với tư cách là phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Ngoài
ra, những phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế, xã hội phù hợp với từng vấn đề của
đề tài cũng được vận dụng như: tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, đối chiếu, diễn giải,
quy nạp

6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa lý luận về thất nghiệp, BHTN và chính sách BHTN.
- Làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, xây dựng chính sách BHTN và
nghiên cứu về BHTN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.

Chương 1
Những Vấn Đề Lý Luận CHUNG
Về Chính Sách bảo hiểm thất nghiệp

1.1. Khái Quát Về Thất Nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1. Khái niệm, phân loại, nguyên nhân và ảnh hưởng của thất nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm thất nghiệp
Lao động được hình thành và phát triển cùng với xã hội loài người. Lao động luôn
được coi là nhu cầu cơ bản nhất, chính đáng nhất của con người đồng thời cũng là nghĩa vụ
cao cả của mọi công dân. Như vậy, mỗi người chúng ta muốn sống, tồn tại thì đều phải lao
động hay nói cách khác là phải có việc làm. Tuy nhiên, ở mọi xã hội, không phải lúc nào
nhu cầu làm việc của các cá nhân đều được đáp ứng được đầy đủ. Trong xã hội luôn có
một bộ phận người không có việc làm, bị mất việc làm, thiếu việc làm. Tuy nhiên, tất cả
những người đó có được coi là thất nghiệp hay không?
Có rất nhiều quan niệm về thất nghiệp:
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số
người trong độ tuổi lao động, muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm với mức
lương phổ biến trong thị trường lao động. Còn người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao
động, có khả năng lao động nhưng không có việc làm, không làm kể cả một giờ trong tuần
lễ điều tra, đang đi tìm việc làm, có điều kiện là họ làm ngay.
Tại Việt Nam, Bộ Luật lao động (sửa đổi năm 2002), ngoài việc quy định về việc
làm, người có việc làm, người thiếu việc làm, đã quy định về thất nghiệp và người thất nghiệp.

Người không có việc làm là người hoàn toàn không làm công việc gì để hưởng
lương, tiền công hay lợi nhuận vì nhiều lý do khác nhau như không tìm được việc làm,
không muốn làm việc, không có nhu cầu làm việc mặc dù trong độ tuổi lao động và có khả
năng lao động.

Người lao động có việc làm là người trong độ tuổi lao động, đang làm việc trong
các ngành kinh tế quốc dân, với thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho
người lao động có việc làm trong tuần lễ điều tra. Tùy theo tình hình kinh tế-xã hội và đặc
điểm của từng nhóm ngành nghề, Nhà nước quy định mức thời gian làm việc chuẩn để
được coi là có việc làm.
Người lao động thiếu việc làm là người trong khoảng thời gian điều tra, có thời
gian làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người có đủ việc làm và có nhu cầu làm việc
thêm. Mức thời gian chuẩn tùy thuộc vào ngành nghề và tính chất công việc do Nhà nước
quy định cụ thể cho từng thời kỳ. Hiện tượng thất nghiệp tạm thời thường xảy ra đối với
lao động làm việc trong các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp.
Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi có một số người trong lực lượng lao động, có
khả năng lao động, muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền lương
tối thiểu.
Người thất nghiệp là những người từ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam, đến 55 tuổi
đối với nữ, làm việc theo hợp đồng lao động, có nhu cầu làm việc, vì những lý do khác
nhau không có việc làm và đang đi tìm việc làm trong tuần lễ điều tra.
Theo định nghĩa này, ở Việt Nam người được coi là thất nghiệp bao gồm:
- Người lao động đang làm việc bị mất việc vì các lý do sau: Doanh nghiệp phá
sản; Doanh nghiệp sắp xếp lại sản xuất hoặc áp dụng công nghệ mới; Doanh nghiệp giải
thể theo quy định của pháp luật; Người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động trước thời
hạn, bị sa thải, hợp đồng lao động hết thời hạn mà doanh nghiệp thôi không tiếp tục ký hợp
đồng.
- Người lao động mới đến tuổi lao động, học sinh, sinh viên mới tốt nghiệp hoặc
thôi học nhưng chưa tìm được việc làm.
- Bộ đội xuất ngũ, thanh niên xung phong hết nghĩa vụ quân sự, người lao động đi

xuất khẩu lao động về nước chưa có việc làm.

- Những đối tượng sau thời gian quản giáo hoặc chữa trị bệnh đang có nhu cầu về
việc làm.
- Những người nghỉ việc tạm thời, không có thu nhập do tính thời vụ sản xuất.
Những người không bị coi là người thất nghiệp bao gồm:
- Những người có việc làm nhưng hiện tại không làm việc vì một lý do nào đó như
nghỉ phép, nghỉ ốm, tai nạn
- Những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng đang đi học
hoặc đang thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước, làm nội trợ hoặc không có nhu cầu về
việc làm.
Như vậy, không phải tất cả những người không có việc làm đều là người thất
nghiệp. Chỉ những người không có việc làm, trong độ tuổi lao động, có nhu cầu tìm việc
làm, mới được coi là người thất nghiệp. Người thất nghiệp được quy định trong Bộ luật Lao
động của Việt Nam bao gồm cả những người lao động đã từng đi làm và cả những người
chưa từng đi làm, có nhu cầu tìm việc nhưng hiện không có việc làm.
Người lao động thiếu việc làm theo quy định của Bộ luật Lao động (năm 2002)
không được coi là người thất nghiệp.
Luật BHXH (năm 2006) của Việt Nam cũng quy định người thất nghiệp là: "Người
đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động,
hợp đồng làm việc nhưng chưa tìm được việc làm".
Đối tượng của BHTN chỉ bao gồm những người thất nghiệp, đã từng làm việc có
hợp đồng lao động (theo Bộ luật Lao động) và những người thất nghiệp được quy định
trong Luật BHXH.
Như vậy, người thất nghiệp chịu sự điều chỉnh của Luật BHXH là công dân Việt
Nam, làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không
xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng, làm việc trong các
đơn vị sử dụng lao động có sử dụng từ 10 lao động trở lên, có đóng BHTN theo quy định

và vì các lý do khác nhau mà bị mất việc làm, chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm

việc, nhưng vẫn có nhu cầu làm việc và chưa tìm được việc làm.
1.1.1.2. Phân loại thất nghiệp
Có nhiều tiêu chí để phân loại thất nghiệp.
a. Căn cứ vào loại hình thất nghiệp, có thể phân chia thất nghiệp thành những loại
sau
- Thất nghiệp theo giới tính.
- Thất nghiệp theo lứa tuổi.
- Thất nghiệp theo vùng lãnh thổ.
- Thất nghiệp theo ngành nghề.
- Thất nghiệp theo dân tộc, chủng tộc.
b. Căn cứ vào lý do thất nghiệp, có các loại thất nghiệp sau
- Thất nghiệp do bỏ việc, họ là những người tự ý xin thôi việc vì những lý do khác
nhau như tiền công thấp, công việc không phù hợp, địa điểm làm việc xa,
- Thất nghiệp do mất việc, là người lao động không có việc làm do chủ sử dụng
lao động cho thôi việc vi một lý do nào đó.
- Thất nghiệp do mới vào, họ là những người lần đầu tiên tham gia vào lực lượng lao
động, nhưng chưa tìm được việc làm, đang tích cực tìm kiếm việc làm.
- Thất nghiệp do quay lại, họ là những người lao động đã rời khỏi lực lượng lao
động, nay muốn quay lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
c. Căn cứ vào nguồn gốc thất nghiệp, có thể thấy những loại thất nghiệp dưới đây
- Thất nghiệp dai dẳng, là mức thất nghiệp tối thiểu không thể giảm được trong
một nền kinh tế năng động. Dạng thất nghiệp này gồm những người tạm thời không có
việc làm trong thời gian chuyển công việc trong một nền kinh tế mà lực lượng lao động và
các công việc tìm người luôn thay đổi.

- Thất nghiệp do cơ cấu, là thất nghiệp do không có sự đồng bộ giữa tay nghề,
trình độ được đào tạo với cơ hội có việc làm khi nhu cầu và sản xuất thay đổi. Nó xảy ra
khi có sự thay đổi cơ cấu kinh tế làm mất cân đối giữa cung và cầu cục bộ trên thị trường
lao động.
- Thất nghiệp do thiếu cầu xảy ra khi cầu chung về lao động giảm xuống. Nguyên

nhân chính của hiện tượng này là do nền kinh tế suy thoái, tổng cầu giảm, kéo theo cầu lao
động giảm.
- Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường xảy ra khi tiền công bị ấn định cao hơn
mức tiền lương cân bằng, nhằm đảm bảo quyền lợi cho bộ phận lao động yếu thế trên thị
trường. Mức tiền lương này do Chính phủ ấn định hoặc do sức ép của công đoàn, nghiệp
đoàn.
- Thất nghiệp do công nghệ do áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ vào sản xuất, máy móc thiết bị thay thế con người, chỉ cần một số ít người vận hành,
một bộ phận người lao động trong các dây chuyền sản xuất bị dôi ra, trở thành thất nghiệp
công nghệ.
- Thất nghiệp chu kỳ. Xuất hiện do kinh tế phát triển mang tính chu kỳ. Trong giai
đoạn suy thoái, mức cầu chung về lao động giảm và do vậy làm gia tăng thất nghiệp. Loại thất
nghiệp này diễn ra theo chu kỳ và mang tính quy luật.
d. Phân loại thất nghiệp theo quan điểm hiện đại
- Thất nghiệp tự nguyện là thất nghiệp do không chấp nhận mức lương hiện hành
của thị trường nên không đi làm, mặc dù họ vẫn có nhu cầu làm việc.
- Thất nghiệp không tự nguyện là thất nghiệp do không tìm được việc làm, mặc dù
có nhu cầu tìm việc và sẵn sàng làm việc với mức lương hiện hành của thị trường lao
động.
- Thất nghiệp tự nhiên. Là mức thất nghiệp xảy ra khi thị trường lao động ở trong
trạng thái cân bằng. ở mức thất nghiệp tự nhiên, nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng lao
động.

Ngoài ra, còn có các loại thất nghiệp khác như thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp do
thời vụ, thất nghiệp bán phần, thất nghiệp toàn phần,
1.1.1.3. Nguyên nhân thất nghiệp
- Chu kỳ sản xuất kinh doanh
Hoạt động sản xuất kinh doanh bao giờ cũng mang tính chu kỳ. Tính chất này ảnh
hưởng tới việc làm phát sinh tình trạng thất nghiệp bởi sự mở rộng hay thu hẹp hoạt động
sản xuất kinh doanh sẽ làm cung cầu trên thị trường lao động thay đổi. Nếu các doanh

nghiệp làm ăn có hiệu quả, mở rộng sản xuất kinh doanh thì cầu lao động tăng, các doanh
nghiệp thu hút thêm lao động. Khi các doanh nghiệp bước vào giai đoạn làm ăn kém hiệu
quả, phải thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, cầu lao động giảm xuống, theo đó xuất
hiện tình trạng một số lao động bị dư thừa. Cung cầu trên thị trường lao động thay đổi
không có sự phù hợp giữa cung và cầu lao động, làm phát sinh hiện tượng thất nghiệp.
- Sự gia tăng dân số
Đây là nguyên nhân ảnh hưởng đến tình trạng thất nghiệp trong dài hạn. Dân số
gia tăng hàng năm sẽ bổ sung một lực lượng lao động rất lớn vào nguồn lực lao động của
mỗi quốc gia. Dân số càng tăng và tốc độ gia tăng càng nhanh thì lực lượng lao động dư
thừa sẽ càng lớn. Thêm vào đó, quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa cũng có tác động
tiêu cực đến thị trường lao động làm một bộ phận người lao động bị thất nghiệp. Nguyên
nhân này thường xuất hiện phổ biến ở các nước đang phát triển và chậm phát triển, những
nước luôn có tỷ lệ gia tăng dân số cao. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân
chính gây ra tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam, cũng như ở nhiều nước đang phát triển
khác.
- Sự thay đổi cơ cấu ngành nghề
ở từng thời kỳ, sự phát triển kinh tế có thể dẫn tới thay đổi cơ cấu kinh tế. Theo
đó, cơ cấu của một số ngành nghề thay đổi. Những ngành nghề làm ăn có hiệu quả hoặc
cần phải được mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc xuất hiện ngành nghề mới sẽ
tạo cơ hội thu hút thêm nhiều lao động. Nhưng lại có những ngành nghề phải thu hẹp sản

xuất, phải sa thải người lao động và một bộ phận người lao động bị thất nghiệp. Trong
trường hợp này, người lao động bị thất nghiệp muốn tham gia vào thị trường lao động
trong những ngành nghề mới đòi hỏi họ phải được đào tạo lại để nâng cao trình độ chuyên
môn, đáp ứng yêu cầu của công việc mới. Trong thời gian đó, họ trở thành những người
thất nghiệp do cơ cấu.
- Sự ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
Ngày nay khoa học kỹ thuật ngày càng không ngừng phát triển phục vụ cho đời
sống con người. Nhưng mặt trái của tiến bộ này có ảnh hưởng không nhỏ tới việc làm gia
tăng tình trạng thất nghiệp. ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là tự động hóa

quá trình sản xuất diễn ra nhanh chóng và ngày càng phổ biến, điều này là hiển nhiên. Bởi
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận luôn được ưu tiên hàng
đầu. Do đó, các chủ doanh nghiệp, các nhà sản xuất luôn tìm cách mở rộng sản xuất, đổi
mới dây chuyền công nghệ, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất,
nâng cao lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, quá trình này làm cho số công nhân bị thay thế bởi
máy móc ngày càng gia tăng, bổ sung một lượng đáng kể vào đội quân thất nghiệp.
- Do các yếu tố ngoài thị trường
Sự thay đổi thể chế chính trị hay việc điều chỉnh chính sách vĩ mô của các nước,
các giải pháp điều hành kinh tế của Chính phủ cũng có thể làm cho nhu cầu sử dụng lao
động có sự thay đổi, theo đó, làm cho tình trạng thất nghiệp thay đổi. Việc quy định mức tiền
lương tối thiểu của Nhà nước hoặc yêu cầu tăng lương của công đoàn, nghiệp đoàn cao
hơn mức tiền lương cân bằng hiện hành của thị trường, dẫn đến làm gia tăng thất nghiệp
không tự nguyện.
- Nguyên nhân từ người lao động
Chính bản thân người lao động cũng tác động không nhỏ tới tình trạng thất nghiệp
của mình. Ví dụ, do người lao động không ưa thích công việc đang làm, hay địa điểm làm
việc, không bằng lòng với vị trí đang đảm đương hay mức lương hiện có nên họ đi tìm
công việc mới đáp ứng yêu cầu đó.

- Một số nguyên nhân khác.
Một loạt các nguyên nhân khác có thể dẫn đến người lao động bị thất nghiệp như
người lao động có kinh nghiệm nhưng bị mất việc vì kỷ luật lao động kém. Những người
lao động trẻ tuổi tìm kiếm công việc lần đầu tiên trong đời không thể kiếm ngay được việc
làm hoặc người lao động lớn tuổi sau một thời gian rời khỏi thị trường lao động nay muốn
quay trở lại lực lượng lao động (như phụ nữ sau khi sinh và chăm sóc con nhỏ). Một
nguyên nhân cũng không kém quan trọng đó là người lao động không còn đủ sức khỏe để
đảm đương công việc đang làm phải tìm kiếm công việc khác phù hợp hơn.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng thất nghiệp trong điều
kiện kinh tế thị trường. Nguyên nhân của thất nghiệp rất đa dạng, phong phú và khác nhau
tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Việc nghiên cứu nguyên nhân và

ảnh hưởng của thất nghiệp đến kinh tế xã hội là rất cần thiết để hoạch định cũng như tổ
chức triển khai chính sách nhằm giảm thiểu thất nghiệp.
1.1.1.4. ảnh hưởng của thất nghiệp
Thất nghiệp không những ảnh hưởng trực tiếp tới bản thân người lao động và gia
đình họ mà còn tác động mạnh mẽ tới tất cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi
quốc gia.
- Đối với bản thân người lao động và gia đình họ: thất nghiệp có thể gây ra
những hậu quả rất trầm trọng. Bởi vì khi bị mất việc làm thường đồng nghĩa với việc mất
đi nguồn thu nhập chủ yếu và đương nhiên khi thất nghiệp kéo dài sẽ dẫn đến sự khó khăn,
nghèo túng. Thất nghiệp gắn liền với sự mất mát thu nhập và dẽ dẫn tới bi kịch. Hậu quả là
họ từng bước bị rơi sâu vào tình trạng dưới mức sống tiêu chuẩn chung của xã hội, sau đó
nếu không có sự trợ giúp nào khác thì phải vay nợ và nếu kéo dài sẽ dẫn đến nợ nần chồng
chất. Sự tác động vào thu nhập cho gia đình phụ thuộc vào tiền thất nghiệp của bản thân họ
nhận được cũng như thu nhập của những thành viên khác trong gia đình còn việc làm.
Thậm chí hậu quả của nạn thất ghiệp còn không tự động xóa bỏ những rào cản đối
với những người có việc làm trở lại, hòa nhập với đời sống xã hội chung. Điều này diễn ra

đối với những người lao động, đặc biệt đối với người sau khi thất nghiệp, phải xác lập một
quan hệ lao động mới, thường đi liền với điều kiện làm việc và điều kiện về tài chính kém
hơn việc làm trước đó. Nạn thất nghiệp cũng không chỉ là hậu quả về tài chính mà còn là hậu
quả về khả năng nghề nghiệp. Khi thất nghiệp kéo dài, hậu quả là họ bị mất đi khả năng
nâng cao trình độ nghề nghiệp. Điều đó sẽ đe dọa không chỉ về phía họ, họ sẵn sàng bị thất
nghiệp, mà còn ngăn cản việc học nghề hay chuyển vào một nghề khác.
- Đối với nền kinh tế: thất nghiệp chính là sự lãng phí nguồn lực xã hội, là một
trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình đốn, chậm phát triển. Vì khi
đó có một bộ phận người lao động trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng vì
lý do khách quan không có việc làm thì dĩ nhiên sức sản xuất trong nước và thu nhập quốc
dân thấp hơn so với khi mọi người đều co việc làm. Ngoài ra, khủng hoảng kinh tế và thất
nghiệp có mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ với nhau, đôi khi tạo thành vòng luẩn
quẩn không thoát ra được. Bên cạnh đó, thất nghiệp có thể làm cho xã hội bất ổn. Đến lượt

nó làm cho kinh tế bị suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hơn và có khả năng phục hồi
chậm.
- Đối với chính trị, xã hội: khi bị thất nghiệp, người lao động luôn ở trong tình
trạng hoang mang, lo lắng, căng thẳng và thất vọng. Đặc biệt nếu người lao động là trụ cột,
nuôi sống cả gia đình thì áp lực tâm lý càng đè nặng lên người lao động. Từng cá nhân là
tế bào của gia đình, mỗi gia đình là tế bào của xã hội, như vậy thất nghiệp tác động đến cá
nhân người lao động có nghĩa là đã tác động đến toàn xã hội. Bởi vì, thất nghiệp sẽ dẫn
đến nhiều hiện tượng tiêu cực của xã hội, đẩy người thất nghiệp đến chỗ bất chấp kỷ
cương, vi phạm pháp luật, hủy hoại đạo đức để kiếm kế sinh nhai, kiếm tiền trang trải cho
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày như trộm cắp, cờ bạc, mại dâm, ma túy…
Thất nghiệp làm cho tình hình chính trị trở nên bất ổn, rối loạn nếu không được can
thiệp kịp thời. Thất nghiệp gây ra các cuộc biểu tình, đình công, là cơ hội cho các thế lực thù
địch tiến hành các hoạt động chống phá nhà nước, chống phá Đảng cầm quyền. Thất nghiệp
còn làm cho người lao động giảm lòng tin vào chế độ, giảm lòng tin vào khả năng lãnh đạo
của chính phủ cầm quyền.

1.1.2. Một số vấn đề về bảo hiểm thất nghiệp
1.1.2.1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm thất nghiệp
Trước thế kỷ thứ XIX, những hình thức nguyên thủy đầu tiên của BHTN được áp
dụng đối với các thợ thủ công thủy tinh ở Bohemia và thợ sản xuất đăng ten ở Basel -
Thụy Sĩ. Những hình thức này chính là khởi thủy của các chương trình BHTN hiện đại
ngày nay được các tổ chức công đoàn ở Châu Âu lúc đó áp dụng nhằm trả trợ cấp mất việc
làm cho các thành viên của mình. Dần dần quỹ BHTN của các tổ chức công đoàn được
hình thành nhằm bảo vệ tất cả các thành viên của mình trong khu vực làm công ăn lương
khi gặp rủi ro mất việc làm.
Sau khi các quỹ thất nghiệp của các tổ chức công đoàn được thành lập, giới chủ ở
các nước công nghiệp lớn đã tham gia vào các chương trình BHTN. Những người sử dụng
lao động này mong muốn thúc đẩy một lực lượng lao động ổn định và giữ được những
người lao động có kỹ năng ở lại với doanh nghiệp của mình. Trong chương trình BHTN
như vậy, người sử dụng lao động đóng góp cho một quỹ liên kết trách nhiệm để chi trả trợ

cấp cho người lao động của mình bị sa thải, bị thất nghiệp tạm thời hoặc bị thất nghiệp một
phần. Nguyên tắc hoạt động của các chương trình này là các chi phí về trợ cấp thất nghiệp
được chuyển sang cho người tiêu dùng như là một phần của chi phí sản xuất. Tuy nhiên,
với chương trình loại này, rủi ro thất nghiệp chỉ được chia sẻ trong phạm vi một doanh
nghiệp và chương trình đã không mấy thành công giống như trường hợp các quỹ BHTN
của công đoàn mong muốn chi trả trợ cấp cho toàn bộ những người lao động làm công ăn
lương.
Những yếu kém của các chương trình BHTN trong phạm vi hẹp như thế này đã tác
động đến chính quyền các cấp với mong muốn củng cố phạm vi bảo trợ đối với người lao
động. Một số chính quyền địa phương đã thành lập các quỹ BHTN tự nguyện cho người
lao động thuộc địa phương mình. Quỹ BHTN tự nguyện đầu tiên được thành lập năm 1893
tại Thụy Sĩ. Tuy nhiên, cùng với triển vọng mở rộng phạm vi của mình đến các thành viên
công đoàn, các quỹ thuộc chính quyền địa phương thành lập đã không chứng minh được sự
thành công do tính tự nguyện tham gia của quỹ. Các quỹ này thu hút chủ yếu những người

không có việc làm ổn định, dễ bị thất nghiệp nên gặp rất nhiều khó khăn về tài chính do
phải chi trả nhiều.
Một số chính quyền địa phương khác đã tham gia vào lĩnh vực bảo trợ một cách
gián tiếp thông qua việc hỗ trợ tài chính cho một số quỹ BHTN, chủ yếu do các tổ chức
công đoàn điều hành, với mục tiêu nâng cao mức trợ cấp mất việc do các quỹ này chi trả.
Hàng năm, khoản hỗ trợ tài chính này được chuyển cho quỹ trên cơ sở tổng trợ cấp đã
được trả của năm trước.
Kinh nghiệm của các chương trình BHTN tự nguyện đã đem lại nhiều thông tin
hữu ích. Sự thành công rất hạn chế của các chương trình như thế này cho thấy rủi ro thất
nghiệp không thể được giải quyết trong phạm vi một doanh nghiệp mà phải được cân nhắc
thông qua chia sẻ rủi ro trong một phạm vi và đối tượng tham gia rộng lớn hơn. Một bài
học được rút ra nữa là BHTN hoạt động trong phạm vi một địa phương không thể thực
hiện theo nguyên tắc tự nguyện vì những nguy cơ vốn có của sự lựa chọn mang tính bất lợi
cho quỹ (chủ yếu những người dễ gặp rủi ro mất việc làm mới tham gia chương trình). Các
chương trình do công đoàn điều hành đã có những thành công nhất định, nhưng thường

xuyên phải đối phó với những khó khăn về tài chính vì chỉ dựa vào sự đóng góp của các
thành viên của mình. Những chương trình này không đáp ứng được yêu cầu khi suy thoái
xảy ra đối với một ngành công nghiệp cụ thể và phạm vi đối tượng rất hạn chế vì không áp
dụng đối với những người lao động ngoài công đoàn, cũng như những người lao động
không có tay nghề - những người có nguy cơ thất nghiệp cao nhất và đòi hỏi được quan
tâm nhiều nhất. Những chương trình do các chính quyền địa phương điều hành chỉ áp dụng
trong một phạm vi địa lý hạn hẹp và do vậy chỉ cần một sự cản trở rất khiêm tốn trong một
khu vực nhỏ cũng đủ làm cạn kiệt các quỹ đã có. Vì vậy sự phát triển mang tính lôgic của
BHTN đó là một hệ thống ở cấp quốc gia.
Hệ thống pháp luật đầu tiên về BHTN được hình thành ở Na Uy và Đan Mạch
trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20. Hệ thống pháp luật này đã hình thành các quỹ BHTN
dựa trên nguyên tắc tham gia tự nguyện và có sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước. Những hệ

thống pháp luật tương tự đã được áp dụng ở các quốc gia châu Âu khác trong và sau Thế
chiến thứ nhất.
Anh là nước đầu tiên thực hiện BHTN dựa trên nguyên tắc bắt buộc (được Quốc
hội Anh thông qua năm 1911). Italy là quốc gia thứ hai trên thế giới áp dụng hệ thống bắt
buộc vào năm 1919. Trong những năm 1920, một loạt các quốc gia ở Châu Âu đã ban
hành pháp luật quốc gia về BHTN bắt buộc. Canada và Hoa Kỳ đã làm như vậy vào những
năm 1930.
Trợ cấp bằng tiền mặt dưới hình thức trợ giúp thất nghiệp được chi trả cho người
thất nghiệp mà các nguồn thu nhập không vượt quá giới hạn quy định lần đầu tiên được
thực hiện vào năm 1921 ở Luxembourg. Năm 1938, New Zeala áp dụng một chương trình
BHTN toàn diện và trợ giúp thất nghiệp được thực hiện trên cơ sở thẩm tra thu nhập của cá
nhân. Australia đã xây dựng một hệ thống tương tự vào năm 1944.
Từ đó đến nay, BHTN bắt buộc đã được triển khai rộng đến các quốc gia khác.
Trợ cấp BHTN được chi trả cho những cá nhân bị thất nghiệp không do lỗi của họ và vì
thế bị mất nguồn thu nhập mà họ và gia đình của họ phụ thuộc vào. Khi bị thất nghiệp
"không tự nguyện" (nghĩa là những cá nhân không tự gây ra lý do để bị sa thải), người lao
động sẽ được nhận trợ cấp BHTN, thông thường chỉ được nhận trong một khoảng thời gian

tương đối ngắn. Tuy nhiên, hạn chế thời gian chi trả trợ cấp BHTN không phải là vấn
đề đơn giản. Nếu không có một sự kiểm soát chặt chẽ đối với những người đề nghị
hưởng trợ cấp BHTN, các cơ quan quản lý BHTN sẽ phải chi trả trợ cấp thất nghiệp trong
một thời gian không có giới hạn. Điều này cũng có thể gắn với nguy cơ của việc giảm hoặc
thậm chí triệt tiêu động cơ tìm kiếm việc làm mới.
Hiện nay có ba loại hình BHTN chủ yếu trên thế giới:
- BHTN bắt buộc trong đó những nhóm người lao động nhất định bắt buộc phải
tham gia;

- BHTN tự nguyện có sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước, sự tham gia là tự nguyện
(chỉ trừ trường hợp các thành viên công đoàn được yêu cầu đóng góp cho các quỹ của
công đoàn);
- Trợ giúp thất nghiệp các quỹ công được hình thành dành cho những người bị mất
việc khi đáp ứng được các điều kiện về thẩm tra thu nhập hoặc tài sản.
1.1.2.2. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp
BHTN là sự hỗ trợ một phần thu nhập cho người lao động bị mất thu nhập do thất
nghiệp và hỗ trợ họ sớm quay trở lại thị trường lao động.
ở đây có một số điểm cần nhấn mạnh.
- Mức hỗ trợ thu nhập dựa trên cơ sở đóng góp của người lao động trước khi bị
thất nghiệp.
- Người lao động tham gia BHTN, khi thất nghiệp sẽ được hỗ trợ về tư vấn giới
thiệu việc làm, đào tạo nghề để có thể sớm tìm được việc làm, gia nhập lại thị trường lao
động.
Như vậy, bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định cuộc sống cho
người lao động trong thời gian mất việc làm thì mục đích chính của BHTN là thông qua các
hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm
được một việc làm mới thích hợp và ổn định.
Nguồn tài chính hỗ trợ cho người thất nghiệp được lấy từ quỹ BHTN.
Quỹ BHTN là quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự đóng góp của các bên
tham gia BHTN, theo nguyên tắc cộng đồng chia sẻ rủi ro, không vì mục đích lợi nhuận.

Quỹ này được dùng để trợ cấp cho người lao động bị thất nghiệp, nhằm đảm bảo ổn định
đời sống cho họ và gia đình.
1.2. Những Vấn Đề CƠ Bản Về Chính Sách bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1. Khái niệm chính sách bảo hiểm thất nghiệp

Bảo hiểm thất nghiệp ra đời mang tính tất yếu khách quan, gắn liền với nền kinh tế
thị trường, khi sức lao động được coi là một loại hàng hóa đặc biệt. Mối quan hệ giữa các
bên tham gia BHTN chỉ tồn tại và phát huy vai trò khi có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý phải sử dụng các công cụ quản lý nhằm đạt được
các mục tiêu chiến lược phát triển của đất nước, trong đó có chính sách BHTN.
Chính sách BHTN là sự tác động của Nhà nước tới các đối tượng tham gia BHTN
thông qua các biện pháp, công cụ chính sách nhằm mục tiêu an sinh xã hội, ổn định và
phát triển kinh tế.
ở đây có ba điểm cần lưu ý:
Thứ nhất, chính sách BHTN là một chính sách công. Do vậy, chủ thể chính sách là
Nhà nước.
Thứ hai, đối tượng của chính sách là những người lao động tham gia đóng BHTN
và chủ sử dụng lao động. Chỉ những người lao động tham gia đóng BHTN bị thất nghiệp
mới được hưởng lợi từ chính sách BHTN. Chủ sử dụng lao động được coi là đối tượng của
chính sách BHTN khi họ phải tuân thủ những quy định của Nhà nước về nghĩa vụ đóng
góp tài chính hỗ trợ cho người lao động trong trường hợp bị thất nghiệp.
Thứ ba, các biện pháp, công cụ chính sách được Nhà nước sử dụng bao gồm các
quy định về quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của những người tham gia BHTN, chủ sử
dụng lao động, quy định về nguồn tài chính, chế độ BHTN,
Chế độ BHTN là một khái niệm có phạm vi hẹp hơn khái niệm chính sách BHTN.
Chế độ BHTN chỉ đề cập tới những quy định về mức đối tượng, điều kiện được hưởng trợ
cấp thất nghiệp, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ tư vấn tìm việc làm, đao tạo nghề
và bảo hiểm y tế. Chính sách BHTN không chỉ bao hàm chế độ BHTN mà còn cả các quy
định về đối tượng tham gia, nguồn hình thành quỹ và các tổ chức chịu trách nhiệm triển
khai thực hiện chính sách BHTN, …

1.2.2. Vai trò, nguyên tắc của chính sách bảo hiểm thất nghiệp
1.2.2.1. Vai trò của chính sách bảo hiểm thất nghiệp

- Chính sách BHTN có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người lao động khi họ
bị mất việc làm
Chính sách BHTN hỗ trợ một phần thu nhập cho người lao động bị thất nghiệp,
giúp họ và gia đình họ có thể tránh rơi vào tình trạng cùng cực, nghèo khổ, giúp người lao
động có cuộc sống ổn định trong thời gian bị thất nghiệp và để tìm việc làm mới.
Chính sách BHTN hỗ trợ họ tìm kiếm việc làm và cơ hội có việc làm thông qua
việc tư vấn, giới thiệu việc làm, đào tạo nghề để giúp họ có điều kiện sớm quay trở lại thị
trường lao động. Ngoài ra, người lao động bị thất nghiệp còn được hưởng nhiều quyền lợi
khác từ chính sách BHTN như được đóng bảo hiểm y tế trong thời gian bị thất nghiệp.
- Chính sách BHTN của Chính phủ hỗ trợ người sử dụng lao động trong việc giải
quyết vấn đề thất nghiệp của người lao động
Chính sách BHTN của Chính phủ hỗ trợ tài chính cho người lao động bị thất
nghiệp, điều đó gián tiếp hỗ trợ cho người sử dụng lao động, giảm áp lực cho họ trong vấn
đề hỗ trợ người lao động bị thất nghiệp. Mặt khác, chính sách cung cấp thông tin, tư vấn
đào tạo cho người lao động bị thất nghiệp tìm việc làm, giúp cho người sử dụng lao động,
những người có nhu cầu lao động và những người thất nghiệp, đang có nhu cầu tìm việc
làm, có nhiều cơ hội gặp nhau hơn. Theo đó, người sử dụng lao động được đáp ứng nhu
cầu lao động phù hợp hơn.
- Chính sách BHTN góp phần vào sự ổn định, phát triển kinh tế xã hội của đất
nước
Thất nghiệp sẽ dẫn đến tình trạng mất thu nhập đột ngột và đương nhiên khi thất
nghiệp kéo dài sẽ dẫn đến sự khó khăn, nghèo túng, người thất nghiệp sống dưới mức tiêu
chuẩn chung của xã hội. Điều đó có thể phát sinh các tệ nạn xã hội, gây bất ổn cho xã hôi.
Chính sách BHTN ra đời nhằm góp phần giảm thiểu tình trang thất nghiệp, giúp người thất
nghiệp và gia đình họ có cuộc sống ổn định trong thời gian bị thất nghiệp, góp phần ổn
định cho xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.


Mục tiêu chính của BHTN là giúp người thất nghiệp sớm quay trở lại thị trưởng
lao động thông qua việc hỗ trợ tư vấn giới thiệu việc làm, đạo tạo nghề, làm giảm thiểu
tình trạng thất nghiệp. Thất nghiệp giảm, có nghĩa là nhiều người lao động tìm được việc
làm. Nguồn nhân lực không bị lãng phí và được sử dụng vào các hoạt động tạo ra của cải
cho xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
1.2.2.2. Một số nguyên tắc cơ bản của chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Chính sách BHTN của các nước được xây dựng và thực thi dựa trên những nguyên
tắc sau:
Thứ nhất, chính sách BHTN dựa trên nguyên tắc cộng đồng chia sẻ rủi ro.
BHTN là "hạt nhân" của chính sách thị trường lao động, nằm trong hệ thống chính
sách kinh tế-xã hội, góp phần đảm bảo lợi ích của các bên trong quan hệ lao động. Do vậy,
BHTN dựa trên sự tương trợ giữa các cá nhân trong xã hội, theo đó số đông bù số ít. Nếu
nguyên tắc này không được đảm bảo thì các khoản trợ cấp thất nghiệp sẽ chỉ đơn thuần là
một khoản "tiền tiết kiệm trả muộn" và ý nghĩa xã hội của BHTN sẽ mất đi.
Chính vì vậy, việc tham gia vào BHTN phải là bắt buộc đối với người lao động và
người sử dụng lao động. Những chủ thể này đều có trách nhiệm tham gia BHTN và đây
được coi là một nội dung trong hợp đồng lao động. Nhà nước chỉ thực hiện chức năng
quản lý và hỗ trợ khi cần thiết.
Thứ hai, chế độ BHTN được xây dựng trên cơ sở quan hệ hữu cơ giữa đóng góp
và thụ hưởng.
Trong cơ chế thị trường, đối với các hoạt động kinh doanh, Nhà nước chỉ thực
hiện chức năng quản lý nên khi xây dựng chính sách BHTN cần có tỷ lệ tương xứng giữa
đóng góp với thụ hưởng của người lao động, hạn chế tới mức thấp nhất sự bù đắp của Nhà
nước đối với quỹ BHTN.
Một trong các vai trò quan trọng của BHTN là hỗ trợ cuộc sống cho người lao
động khi bị mất thu nhập do thất nghiệp gây nên. Do đó, tỷ lệ hưởng và thời gian hưởng
trợ cấp BHTN hàng tháng được quy định trên nguyên tắc đảm bảo mức sống tối thiểu cho

người lao động và được cân đối với mức đóng góp BHTN trước đó của người lao động.
Khi xác định mức hưởng trợ cấp BHTN một mặt căn cứ vào khả năng chi trả của quỹ

BHTN, mặt khác còn đảm bảo khuyến khích người lao động chủ động tìm kiếm việc làm
nhằm thoát khỏi tình trạng thất nghiệp.
Thứ ba, Quỹ BHTN được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai và hạch toán độc
lập.
Do quỹ BHTN được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia là: người sử
dụng lao động, người lao động và Nhà nước nên hoạt động của quỹ phải dựa trên nguyên tắc
quản lý thống nhất, dân chủ, công khai và hạch toán độc lập. Quỹ BHTN do một cơ quan quản
lý thống nhất từ trung ương đến địa phương theo chế độ tài chính của Nhà nước. Quỹ được sử
dụng vào các mục đích như: Chi trả trợ cấp BHTN cho người lao động; Chi cho các hoạt
động tìm việc làm cho người thất nghiệp; Chi cho công tác đào tạo, đào tạo lại, học nghề
cho người thất nghiệp; Chi phí cho hoạt động của bộ máy quản lý BHTN…
Do vậy, quỹ BHTN là một quỹ tài chính độc lập, tự thu, tự chi. Sau khi thành lập,
quỹ này độc lập với ngân sách Nhà nước để chủ động giải quyết vấn đề thất nghiệp. Quỹ
này không được sử dụng để giải quyết các vấn đề xã hội khác.
Thứ tư, Nhà nước thống nhất quản lý chính sách BHTN. Nhà nước thống nhất
quản lý BHTN thể hiện trước hết ở việc Nhà nước trực tiếp ban hành pháp luật về BHTN,
tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện chế độ này. Căn cứ vào tình hình phát triển
kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ mà Nhà nước xây dựng chương trình quốc gia về BHTN,
các qui định pháp luật về như thu hẹp hay mở rộng đối tượng, điều kiện hưởng và mức
hưởng…
Với tư cách là người đại diện và thực hiện các chính sách xã hội, Nhà nước còn có
trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHTN, áp dụng các biện pháp để bảo tồn giá trị quỹ và làm
cho quỹ tăng trưởng. Ngoài ra, Nhà nước thống nhất tổ chức, quản lý sự nghiệp BHTN cho
toàn xã hội nhưng không bao cấp, không lấy ngân sách để chi trả mà chỉ hỗ trợ một phần.

Thứ năm, chính sách BHTN đảm bảo nguyên tắc lành mạnh hóa thị trường lao
động. Để giải quyết thất nghiệp đòi hỏi phải có một chính sách tổng thể, được thiết kế để
kích thích nền kinh tế. Xu hướng chung của các nước hiện nay là, ngoài trợ cấp cho người
lao động, khi thất nghiệp, có điều kiện sinh sống, người ta còn thực hiện thêm biện pháp
đào tạo lại người lao động để họ có điều kiện dễ tìm việc làm mới. Vì vậy, BHTN được

liên kết chặt chẽ với các biện pháp thị trường lao động tích cực như tạo ra chỗ làm việc
mới, bảo vệ chỗ làm việc, nâng cao năng lực cho người lao động, tìm việc làm cho người
thất nghiệp. Các biện pháp này luôn gắn liền với chính sách và chương trình việc làm quốc
gia. BHTN thường được thống nhất với chương trình việc làm quốc gia. Đây như một biện
pháp, chính sách hỗ trợ lao động nhằm đẩy lùi thất nghiệp, nhanh chóng đưa người thất
nghiệp trở lại làm việc.
1.2.3. Nội dung của chính sách bảo hiểm thất nghiệp
1.2.3.1. Mục tiêu của chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Chính sách BHTN có các mục tiêu chủ yếu sau đây:
- An sinh xã hội: Thất nghiệp là vấn đề nan giải đối với bất kỳ nước nào. Thất
nghiệp gia tăng làm cho các tệ nạn xã hội phát triển, người lao động lâm vào tình cảnh
túng quẫn và trở nên nghèo đói. Để giải quyết vần đề thất nghiệp và đảm bảo an sinh xã
hội thì cần phải có nhiều chính sách, trong đó có chính sách BHTN. Chính sách BHTN
không chỉ đảm bảo cho người lao động mất việc làm, có một khoản thu nhập, giúp họ và gia
đình họ ổn định cuộc sống trong một thời gian nhất định mà mục tiêu chính của chính sách
BHTN là giúp người lao động sớm quay trở lại thị trường lao động tìm việc làm và trong
qua trình tìm việc làm người lao động còn được chăm sóc y tế miễn phí.
- ổn định và phát triển kinh tế: Thất nghiệp gia tăng làm cho tình hình chính trị -
xã hội bất ổn, lãng phí nguồn lực xã hội và là một trong những nguyên nhân cơ bản làm
cho nền kinh tế bị đình đốn, chậm phát triển. Chính sách BHTN giúp người thất nghiệp
sớm quay trở lại làm việc, theo đó, nguồn lực lao động của đất nước không bị láng phí.

Việc có nhiều người thất nghiệp tìm được việc làm không chỉ giúp họ tăng thu nhập, ổn
định cuộc sống mà còn thúc đẩy kinh tế phát triển.
1.2.3.2. Những quy định cơ bản của chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Chính sách BHTN của các quốc gia thường đề cập tới những vấn đề sau đây:
a. Đối tượng áp dụng của chính sách BHTN
Xác định đối tượng áp dụng BHTN (những người cần được bảo vệ) là một trong
những vấn đề có tính nguyên tắc được đặt ra khi xây dựng nội dung của BHTN. Để xác
định ranh giới của sự bảo vệ xã hội chống thất nghiệp, người ta xem xét các yếu tố: Nhu cầu

bảo vệ, sự quan tâm về mặt tài chính và quản lý.
Nhìn chung, đa số các nước quy định chỉ những người làm công ăn lương (làm
công cho chủ) mới được tham gia BHTN. Còn những người lao động độc lập thì không
thuộc đối tượng tham gia BHTN. Quy định này được thể hiện tại Điều 2, Công ước số 44
của ILO:
Tuy nhiên, tùy hoàn cảnh mỗi nước có thể đặt thêm các trường hợp ngoại lệ đối
với một số đối tượng thuộc các dạng sau: Các gia nhân (những người giúp việc nhà); người
lao động làm việc tại nhà; công chức nhà nước có việc làm ổn định; người lao động có thu
nhập cao có thể tự mình phòng chống rủi ro thất nghiệp; những người lao động làm việc
theo mùa vụ; những người lao động trẻ, sát cận tuổi lao động theo quy định; những lao động đã
vượt quá tuổi quy định, nghỉ hưu, đang được hưởng trợ cấp hưu trí; người lao động làm
việc tùy dịp hoặc phụ trợ; thành viên trong gia đình của chủ nhân;
Công ước này không áp dụng cho thủy thủ, thủy thủ đánh cá và lao động nông
nghiệp [49].
Sở dĩ có các trường hợp ngoại lệ này là vì nguyên tắc chung xác định đối tượng
cần được bảo vệ là tìm cách đạt được sự cân bằng giữa các yếu tố như nhu cầu bảo vệ, sự
quan tâm về mặt quản lý cũng như về mặt tài chính. Tuy nhiên, đôi khi các yếu tố này lại
không phù hợp với nhau, gây ra khó khăn khi quyết định cho đối tượng gia nhập hay loại

×