Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Đề tài “ Nguyên nhân phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản ( 1960-1973 )” potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.29 KB, 43 trang )

Mục lục
Phần mở đầu.
1.Lí do chọn đề tài.
2.Mục đích nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi ngiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
5. Bố cục.
Phần nội dung:
Chương 1: Tình hình kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới 2 (1945-1960).
1.1 Đôi nét về đất nước con người Nhật Bản.
1.2 Hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hồi kinh tế (1945-1960).
Chương 2: Đặc điểm nền kinh tế Nhật Bản (1960-1973).
2.1 Sự phát triển thần kì của kinh tế Nhật Bản (1960-1973).
2.2 Những nguyên nhân dẫn tới sự phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản.
2.2.1 Tính cách con người Nhật Bản.
2.2.2 Vai trò quản lí và chính sách mở cửa của Nhà Nước.
2.2.3 Cải cách kinh tế.
2.2.4 Đổi mới và phát triển khoa học kĩ thuật.
2.2.5 Ổn định chính trị xã hội.
2.2.6 Chi phí quốc phòng ít.
2.2.7 Các công ti, các nhà kinh doanh năng động tích cực.
2.2.8 Sự hợp tác chủ thợ và lực lượng lao động ưu tú.
2.2.9 Tỉ lệ tiết kiệm cao và ngân hàng cho vay tích cực.
2.2.10 Cơ cấu hai tầng và tư tưởng trong tăng trưởng kinh tế.
2.2.11 Sự kết hợp giữa thị trường và kế hoạch.
2.2.12 Môi trường quốc tế hòa bình.
2.2.13 Cải cách giáo dục.
Chương 3: Ý nghĩa của sự phát triển thần kì.
Phần kết luận.
Phụ lục ảnh.
Phần mở đầu.


1.Lí do chọn đề tài.
Nhật Bản, được mệnh danh là đất nước của “ xứ sở hoa Anh Đào ”. Đến với
đất nước con người Nhật Bản ta học hỏi được truyền thống cần cù, chịu khó,
biết vươn lên. Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu thế giới về khoa học và công nghệ.
Được đánh giá là một cường quốc kinh tế, là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba
toàn cầu tính theo tổng sản phẩm nội địa cũng như theo sức mua tương đương
chỉ sau Mĩ và Trung Quốc. Và Nhật còn là nước đứng thứ 5 thế giới trong lĩnh
vực đầu tư cho quốc phòng, xếp thứ 4 thế giới về xuất khẩu và đứng thứ 6 thế
giới về nhập khẩu.
Nhật Bản còn là một nước đế quốc Quân Phiệt hiếu chiến. Trong chiến tranh
thế giới thứ hai, Nhật Bản là một trong ba lò lửa chiến tranh gồm Đức, Nhật và
Italia. Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là một nước bại trận.
Nền kinh tế Nhật Bản bị tàn phá hoàn toàn. Cả nước bị ném bom tàn phá nặng
nề, đặc biệt là hai quả bom nguyên tử đã được Mĩ ném xuống hai thành phố
Hirôsima và Nagoasaki đã gây ra thiệt hại vô cùng khủng khiếp cả về người và
của đối với Nhật Bản. Sau chiến tranh, cuộc sống của đại đa số người Nhật
không đủ ăn, không có nhà ở, máy móc thiết bị, nhà xí nghiệp bị tàn phá,
nguyên nhiên liệu phục vụ cho sản xuất cũng khan hiếm. Hàng hóa thiếu thốn
trầm trọng, lạm phát phi mã xảy ra. Và yêu cầu cấp thiết lúc này là Nhật Bản
phải tiến hành khôi phục nền kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.
Nói tới Nhật Bản, không ít nhà nghiên cứu Phương Tây cho rằng sự thành
công trong phát triển kinh tế của Nhật Bản là kết quả của sự kết hợp khéo léo
giữa “ công nghệ Phương Tây” và “tính cách Nhật Bản”. Trải qua những bước
thăng trầm trong lịch sử, sự lớn mạnh của nền kinh tế đã làm cho kinh tế Nhật
Bản trở thành một trong những trung tâm kinh tế tài chính lớn nhất thế giới.
Nền kinh tế Nhật Bản đã được phục hồi ngay sau chiến tranh, và từ nửa đầu
thập kỉ 60 cho đến năm 1973 đã duy trì được tốc độ phát triển cao đáng kinh
ngạc người ta gọi đó là “ sự phát triển thần kì ”. Tại sao Nhật Bản là một nước
đi sau trên con đường tư bản chủ nghĩa trong khi nhiều quốc gia Phương Tây đã
bắt đầu tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa, mà Nhật Bản lại có thể

vươn lên và phát triển mạnh mẽ đến vậy? Chúng ta sẽ cùng nhau đi sâu phân
tích những đặc điểm dẫn tới sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản từ 1952-1973.
Và Nhật Bản đã phát triển thần kì như thế nào? Vì sao Nhật Bản lại làm được
điều đó? Những nguyên nhân nào tác động dẫn đến sự phát triển thần kì đó? Sự
thần kì đó có ảnh hưởng như thế nào? Đây là lí do chúng tôi muốn tìm hiểu đề
tài “ Nguyên nhân phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản ( 1960-1973 )”.
Từ những tài liệu thu thập và tìm hiểu được, chúng tôi đã chọn lọc, tổng kết
và rút ra nhận xét đánh giá để hoàn thiện đề tài. Bài viết còn những hạn chế,
thiếu xót, mong bạn đọc đóng góp ý kiến giúp đề tài hoàn thiện hơn.
2.Mục đích nghiên cứu.
Để thỏa mãn niềm đam mê của mình, chúng tôi xin đóng góp một phần nhỏ
vào công trình nghiên cứu về nguyên nhân phát triển thần kì của nền kinh tế
Nhật Bản (1960-1973) qua một vài trang viết.
Nhằm cung cấp cho bạn đọc và những người yêu lịch sử muốn tìm hiểu thêm
về lịch sử đất nước Nhật Bản qua những thông tin khái quát nhất.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu và tìm hiểu về nguyên nhân phát triển thần kì của nền kinh tế
Nhật Bản (1960-1973).
4.Phương pháp nghiên cứu.
Thu thập thông tin từ các nguồn sử liệu sau đó xử lí sao cho phù hợp với nội
dung của bài nghiên cứu nhằm đảm bảo được tính khái quát và chính xác của tư
liệu, tài liệu.
5.Bố Cục.
Phần mở đầu
Phần nội dung:
Chương 1: Tình hình kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới hai (1945-1960).
1.1.Đôi nét về đất nước - con người Nhật Bản.
1.2. Hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hồi kinh tế (1945-1960).
Chương 2: Đặc điểm nền kinh tế Nhật Bản (1960-1973).
2.1 Sự phát triển thần kì của kinh tế Nhật Bản (1960-1973).

2.2 Những nguyên nhân dẫn tới sự phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản.
Chương 3: Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm với Việt Nam.
Phần kết luận.
Tài liệu tham khảo.
Phần nội dung.
Chương 1: Tình hình Nhật Bản sau chiế tranh thế giới hai (1945- 1960).
1.1.Đôi nét về đất nước –con người Nhật Bản.
Vị trí địa lí: Nhật Bản nằm ở phía Đông của Châu Á, là một dãy đảo nằm
giữa biển Bắc Thái Bình Dương và biển Nhật Bản, phía Đông bán đảo Triều
Tiên.
Nhật Bản là một quốc gia hải đảo hình vòng cung, là quần đảo với trên 3000
đảo lớn nhỏ, có 4 đảo chính là: Honshu, Hokkaido, Shikoku, Kyushu. Nhật Bản
thuộc vùng ôn đới có 4 mùa rõ rệt. Vùng đảo này trải dài 2.000 km với chiều
ngang khoảng 300 km.Tổng diện tích khoảng 377.835 km2 tương đương diện
tích của Đức, Phần Lan hay Việt Nam. Phần lớn đảo ở Nhật Bản có rất nhiều
núi lửa như núi Phú Sĩ cao nhất ở Nhật Bản.
Nhật Bản nằm trên đường ranh giới giữa bốn mảng kiến tạo địa chất của
Trái Đất. Tọa lạc ở “ vành đai lửa” Thái Bình Dương, là một vùng đất nhiều núi
non, với khoảng 3/4 diện tích là đồi núi. Với địa thế núi non như vậy nên song ở
đây thường ngắn và có sườn dốc. Những dòng sông này mang phù sa bồi đắp
cho những cánh đồng có diện tích vừa phải.
Với tổng diện tích của Nhật Bản, rừng chiếm 66,7%; diện tích canh tác
chiếm13,9%; diện tích cư trú chiếm 4,4%. Phần diện tích canh tác giảm từng
năm với tốc độ chậm.
Bờ biển Nhật Bản rất đa dạng, lồi lõm rõ rệt với vô số vịnh và bán đảo,
nhưng cũng có những bãi biển dài hàng chục km.
Nhật Bản là quốc gia duy nhất ở phương Đông có sự đồng nhất gần như
tuyệt đối về dân tộc và ngôn ngữ: một dân tộc, một ngôn ngữ. Nó là một trong
những nhân tố quan trọng bậc nhất tạo ra sức mạnh đoàn kết và tính dân tộc cao
cả. Nhật Bản là quốc gia có dân số lớn thứ mười thế giới với ước tính khoảng

128 triệu người. Trong đó 99% là người Nhật. Dân cư Nhật Bản phân bố không
đồng đều trong cả nước. Dân cư tập trung đong nhất ở vành đai Thái Bình
Dương.
Nhật Bản có rất ít tài nguyên thiên nhiên. Các khoáng sản như quặng sắt,
đồng đỏ, kẽm, chì, bạc và các tài nguyên năng lượng quan trọng như dầu mỏ,
than đều phải nhập khẩu. Địa hình và khí hậu cũng khiến người nông dân gặp
rất nhiều khó khăn. Nhật Bản chỉ trồng cấy được một số cây trồng như lúa gạo,
nên khoảng một nửa số lương thực phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Nhật Bản vốn là nước rất nghèo tài nguyên trong khi đó dân số lại quá đông,
phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị phá hủy kiệt quệ trong
chiến tranh. Nhưng với các chính sách phù hợp kinh tế Nhật Bản đã nhanh
chóng được phục hồi trong giai đoạn (1945-1960) và phát triển cao độ trong
giai đoạn (1960-1973) làm thế giới phải kinh ngạc, gọi đó là “ Sự phát triển thần
kì ” của kinh tế Nhật Bản.
Văn hóa Nhật Bản là nền văn hóa tự bản thân mang tính thống nhất cao. Đó
là văn hóa mang sức mạnh của một dân tộc thống nhất. Chính cái đó đã tạo nên
cái gọi là tinh thần dân tộc Nhật Bản.
Người Nhật Bản có tính kỉ luật rất cao. Đặc điểm này có căn nguyên từ môi
trường sống không lấy gì làm thuận lợi của họ. Khí hậu Nhật Bản khá khắc
nghiệt: mùa đông lạnh giá, tuyết phủ đầy ở miền Bắc; mùa hè nóng nực và
nhiều gió bão. Các thiên tai như: động đất, sóng thần, núi lửa,… luôn luôn rình
rập. Có thể nói so với nhiều quốc gia ở Châu Á thì “Nhật Bản không được trời
ban phúc về điều kiện tự nhiên”. Hoàn cảnh ấy tạo cho họ sự lạnh lùng, khắc
khổ, sẵn sàng đón nhận tất cả những khó khăn à thiên nhiên mang lại. Người
Nhật Bản đã từng phải sống trong ngôi nhà bằng giấy, có thể dễ dàng dựng lại
sau một trận động đất hoặc hỏa hoạn, người miền Bắc phải muối rau dưa để ăn
suốt cả mùa đông. Tính kỉ luật của người Nhật khác hẳn với tính tùy tiện của cư
dân nhiều vùng trồng lúa nước ở Đông Nam Á. Chính tính kỉ luật cao ấy đã
giúp người Nhật nhanh chóng thích nghi với nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
Trong cách ứng xử của mình người Nhật hầu như không khoe khoang,

không tỏ ra hơn người. Trong mọi hành vi ứng xử người Nhật tỏ ra “ trung
tính”, với họ cách ứng xử tốt nhất là hòa lẫn với mọi người, không được tỏ ra
sắc sảo hơn, giàu có hơn, ăn diện hơn… nhưng cũng không thể hiện mình là
người kém cỏi, … Cách ứng xử như vậy đã làm giảm căng thẳng không cần
thiết và góp phần hạn chế sự ghen ghét, tính đố kị của con người.
Người Nhật thường dè dặt khép kín. Khi tiếp xúc với người Nhật, người đối
thoại khó biết đượcngười Nhật nghĩ gì, khen chê thế nào,….Chính vì đặc tính
này của người Nhật mà những bí mật của tập đoàn hoặc bản thân được bảo vệ,
thông tin ít bị rò rỉ ra bên ngoài. Người Nhật biết ghìm mình tránh va chạm và
tranh cãi.
Những đức tính đó hầu như không thay đổi cho dù xã hội Nhật Bản luôn
luôn biến động. Và những phẩm chất ấy đã tạo ra một thứ gọi là “ tinh thần
Nhật Bản” mà toàn thế giới phải khâm phục.
1.2.Hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hồi kinh tế (1945-1960).
Nếu Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên giàu có “ rừng vàng biển bạc”
khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho vạn vật cỏ cây phát triển thì điều kiện tự nhiên
của Nhật Bản rất khắc nghiệt, thiên tai, bão lũ, động đất xảy ra thường xuyên,
hơn 2/2 diện tích Nhật Bản là đồi núi trong đó có hơn 30 ngọn núi lửa, đất đai
trồng trọt ít, tài nguyên khoáng sản hầu như không có gì. Đặc biệt sau chiến
tranh thế giới thứ 2 kết thúc nền kinh tế lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng.
Trong suốt những thập niên đầu thế kỉ XX, Nhật Bản bành trướng ra bên
ngoài. Quân đội Nhật đã chiếm được những vùng lãnh thổ rộng lớn. Đến tháng
12/1941, Nhật Bản tấn công căn cứ hải quân của Mĩ ở Trân Châu cảng, Hawaii.
Mĩ bắt đầu tham gia chiến tranh thế giới thứ hai, chống lại Nhật và Đức. Ban
đầu ưu thế thuộc về Nhật nhưng đến năm 1945 các thành phố của Nhật đã ở
trong tầm ném bom của đối phương. Phần lớn các trung tâm công nghiệp của
Nhật Bản đã trở thành mục tiêu ném bom của quân Đồng minh, máy bay ném
bom của quân Đồng minh đã tàn phá các thành phố lớn như Tôkyô, Niigata,
Hiroshima và Nagasaki.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã để lại những hậu quả vô cùng nặng

nề: khoảng 3 triệu người chết, mất tích và bị thương, 9 triệu người không có nhà
ở. Về cơ sở vật chất, 40% đô thị bị tàn phá, 80% tàu bè, 34% máy móc nông
nghiệp bị phá hủy. Tổng giá trị thiệt hại về vật chất là 63,4 tỉ Yên. Là nước bị
trận, Nhật Bản còn mất hết thuộc địa và bản thân lại bị quân Đồng minh chiếm
đóng.
Vấn đề kinh tế - xã hội cũng gặp không ít khó khăn: lương thực, nguyên liệu
thiếu trầm trọng, giá cả đắt đỏ, lạm phát leo thang. Sản lượng công nghiệp năm
1946 chưa bằng 1/3 năm 1930 và chỉ bằng 1/7 năm 1941. Cả nước có tới 13,1
triệu người thất nghiệp. Vụ lúa năm 1945 thất bát, thảm họa đói rét bao trùm
nước Nhật. Hơn 4 triệu người thất nghiệp do ngừng các loại sản xuất quân sự,
7,6 triệu binh sĩ giải ngũ , 1,5 triệu người từ thuộc địa hồi hương, nâng tổng số
người không có việc làm lên 13,1 triệu người, 25% công trình xây dựng bị phá
hủy.
Do chiến tranh, sản xuất bị gián đoạn, thất nghiệp gia tăng, tổng cầu vượt
cung khiến cho lạm phát tăng tốc nhanh chóng. Nạn đói xảy ra trầm trọng tuy
đã được khắc phục nhưng chưa hiệu quả, thức ăn tồi và thiếu gây ra nạn suy
dinh dưỡng và ngộ độc ở nhiều nơi.
Rất nhiều hậu quả của chiến tranh dẫn đến những thách thức to lớn đối với
Nhật Bản nhưng không chỉ khôi phục được hậu quả chiến tranh mà Nhật Bản
còn phát triển vượt bậc. Nhật Bản khôi phục được nhân lực và được sự giúp đỡ
của Mỹ nên Nhật Bản nhanh chóng khôi phục lại đất nước, phục hồi lại nhà
máy từ đống tro tàn của chiến tranh và phát triển kinh tế.
Một thời gian sau chiến tranh Nhật Bản đã bắt đầu tích lũy được một số vốn
và lần lượt xây dựng các nhà máy có công nghệ cao. Những nhà máy cũ bị tàn
phá trong chiến tranh có tác dụng buộc Nhật Bản phải trang bị lại những thiết bị
tối tân nhất. Trong một thời kỳ mà cuộc cách mạng kĩ thuật diễn ra hết sức
nhanh chóng, điều quan trọng là phải đào tạo được những con người thành thạo
kỹ thuật mới và phải có vốn để du nhập những kỹ thuật đó. Nếu thiết bị quá cũ
sẽ là trở ngại cho sự phát triển.
Trong tình hình đó, người Nhật đã nhờ vào viện trợ của Mỹ cùng với nỗ lực

của bản thân. Trong những năm 1945- 1950, Nhật Bản nhận viện trợ và đầu tư
của Mỹ và nước ngoài gần 14 tỉ USD. Mỹ còn đề nghị giảm tiền bồi thường cho
Nhật xuống còn ¼. Một loạt những cải cách xã hội được khẩn trương tiến hành:
ngày 9/10/1945 quân đội đồng minh (Mỹ) chiếm đóng tại Nhật Bản, đã công bố
chính sách “ phi quân sự hóa nền kinh tế”, “ khuến khích các lực lượng dân
chủ”, “ thủ tiêu việc tập trung” trong sản xuất và chiếm hữu tài sản.
Một loạt các đạo luật được công bố: Luật chống độc quyền(4/1947) Luật
công đoàn( 1945), cải cách ruộng đất(1947), luật điều chỉnh quan hệ lao động
(1946)… Những cải cách và biện pháp đó đã tạo ra cho nước Nhật chỉ trong
một thời gian ngắn, đến những năm 1950-1951, đã khôi phục được nền kinh tế
của mình đạt mức trước chiến tranh. Đến năm 1951, tổng sản phẩm quốc dân
đạt mức những năm 1934-1936.
Từ 1952-1960, kinh tế Nhật Bản đã có bước phát triển nhanh. Từ 1952-1958,
tổng sản phẩm quốc gia (GNP) bình quân hàng năm tăng 6,9% và năm 1959 là
hơn 10%. Và sự phát triển của Nhật Bản không chỉ dừng lại ở đây, kinh tế Nhật
Bản bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển thần kì 1960- 1973. Nhật Bản đã đạt
được những thành tựu to lớn trong giai đoạn này.
Sau chiến tranh thế giới hai Nhật Bản là một nước bại trận, đất nướcchìm
trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng .Nhưng với ý chí, tính cách của con
người Nhật Bản cùng các yếu tố khác đã tạo nên nền kinh tế Nhật Bản với một
diện mạo hoàn toàn mới. Thời kì phát triển kinh tế nhanh hiếm có trong lịch sử,
là thời kì Nhật Bản đã có những biến đổi thần kì về kinh tế trong nước cũng như
trong quan hệ với nền kinh tế thế giới.
Chương 2. Đặc điểm nền kinh tế Nhật Bản (1960- 1973).
2.1.Sự phát triển thần kì của kinh tế Nhật Bản (1960- 1973).
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào khủng
khoảng nghiêm trọng: năng lượng thiếu, lạm phát nặng nề… Dù vậy, sau đó
Nhật Bản vẫn vươn lên hàng cường quốc thế giới, đứng thứ 2 sau Mỹ và đạt
được nhiều thành tựu to lớn, phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt là giai đoạn
(1960-1973) là giai đoạn phát triển “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản.

Trong giai đoạn (1960-1973) nền kinh tế Nhật Bản phát triển với nhịp độ rất
nhanh, tốc độ tăng trưởng sản phẩm quốc dân thực tế thường ở mức cao nhất
trong các nước tư bản so với năm 1950 giá trị tổng sản phẩm trong nước năm
1973 tăng 20 lần( từ 20 tỉ USD- 502 tỉ USD) vượt Anh, Pháp, cộng hòa liên
bang Đức. Nhật Bản đã dẫn đầu các nước tư bản về tàu biển, xe máy, máy ảnh,
ti vi,…và nhanh chóng xây dựng lên các ngành kinh tế mũi nhọn dựa trên kỹ
thuật công nghệ hiện đại. Nhật Bản đã khẳng định vị trí của mình, tỏa ánh sang
hào quang và duy trì hình ảnh một siêu cường kinh tế khi bước vào thế kỷ XXI.
Bằng sự cố gắng nỗ lực của toàn nhân dân với chính sách và bước đi đúng
đắn, Nhật Bản đã tạo nên một giai đoạn phát triển nhanh chóng với những biến
đổi có tính chất liên tục và tăng nhanh về chất lượng.
Về tổng sản phẩm quốc gia (GNP) của Nhật Bản, năm 1950 mới chỉ đạt 20 tỉ
USD (bằng 1/3 Anh, 1/2 Pháp, 1/17 Mĩ ), năm 1968 đã vượt các nước Tây Âu
chỉ sau Mĩ với 183 tỉ USD (Mĩ 830 tỉ USD, Cộng hòa Liên Bang Đức 132 tỉ
USD, Anh 120 tỉ USD, Pháp 118 tỉ USD), năm 1973 Nhật đã đạt được 402 tỉ
USD, năm 1989 là 2.828 tỉ USD và năm 2000 lên tới 4.895 tỉ USD. Và đến năm
2003, nếu như tổng trọng lượng kinh tế thế giới là 25.000 tỉ USD thì Nhật Bản
chiếm 4.000 tỉ USD( tức 16%), sau Mỹ và Tây Âu( 36% mỗi khu vực).
Như vậy, trong vòng 50 năm( 1950-2000), GNP của Nhật Bản tăng hơn 244
lần. Tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc gia (GNP) bình quân hàng năm, từ 1952-
1958 tăng 6,9%, năm 1959 tăng lên 10% nhưng vẫn chưa gây được sự chú ý
thật sự của thế giới,từ 1960-1969 tăng 10,8% ( so với Cộng hòa Liên Bang Đức
là 4,6%, Mỹ là 4,3%).
Đến những năm 1970-1973 tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình tuy giảm
xuống chỉ còn 7,8% nhưng vẫn cao hơn rất nhiều so với các nước khác. Thế
giới kinh ngạc, gọi đó là “sự thần kì” về kinh tế của Nhật Bản.Năm 1968, nền
kinh tế của Nhật Bản đã lần lượt vượt qua các nước Anh, Pháp, Cộng hòa liên
bang Đức, Italia, Canađa để vươn lên hàng thứ hai trong thế giới tư bản sau Mĩ.
Nhân tố hàng đầu trong tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản thời kỳ này là sự
phát triển nhanh chóng các ngành công nghiệp chế tạo chỉ số sản xuất công

nghiệp( 1934-1936= 100) tăng từ 160 năm 1955 lên 1345 năm 1970. Sự giảm
bớt sức lao động trong nông nghiệp và lâm nghiệp cung rất đáng chú ý. Nó
giảm từ 16 triệu năm 1955 xuống 8,4 triệu năm 1970 và phần của nó trong tổng
lực lượng lao động giảm 38,3% xuống 17,4% trong cùng thời kỳ.
Trong các ngành công nghiệp khu vực II, sự phát triển của các ngành công
nghiệp nặng và hóa chất( máy móc, kim khí, hóa chất) là nổi bật nhất. Sự phát
triển của công nghiệp cơ khí là đáng chú ý vì chỉ số của nó tăng 14,6 năm 1955
lên 291,6 năm 1970, tăng hơn 20 lần trong 15 năm. Tuy vậy chỉ số của ngành
công nghiệp dệt chỉ tăng tương đối nhỏ: từ 42,2 năm 1955 lên 154,0 năm 1970.
Về cơ cấu, cùng với sự tăng trưởng kinh tế cao độ, từ những năm 1955 cơ
cấu công nghiệp Nhật Bản tiến mạnh theo hướng công nghiệp hóa công nghiệp
nặng và hóa chất với sự tăng nhanh về tỉ trọng: 48% năm 1951 lên 70% năm
1970. Cùng với đó là sự giảm mạnh của công nghiệp nhẹ từ khoảng 52% năm
1951 xuống 30% năm 1970. Chính sự công nghiệp hóa này là động lực cho sự
tăng trưởng kinh tế Nhật Bản.
Ngay chính trong các ngành công nghiệp nặng và hóa chất cũng có những sự
biến đổi đáng kể. Tỉ trọng của nhóm ngành thuộc hệ vật liệu trong tổng giá trị
của ngành công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 26-27%(1951-1970). Mặt khác, tỉ
trọng của nhóm ngành công nghiệp cơ khí tăng đáng kể từ 11% năm 1951 lên
24% năm 1960 và 32% năm 1970.
Vì vậy có thể khẳng định sự phát triển của công nghiệp nặng đạt được dựa
trên cơ sở nòng cốt là phân ngành công nghiệp cơ khí. Bước vào thập kỉ 70, sự
tăng trưởng cao độ đã bộc lộ những mâu thuẫn gay gắt đồng thời công nghiệp
nặng và hóa chất bắt đầu xây dựng nền tảng cho việc chuyển hướng sang cơ cấu
công nghiệp theo mô hình tiết kiệm tài nguyên và năng lượng.
Về quy mô, đi đôi với thay đổi công nghiệp, quy mô của các công ty cũng
có sự thay đổi. Từ 1955-1970 tỉ trọng các công ty vừa và nhỏ dưới 300 công
nhân có xu hướng giảm đáng kể cả trong tổng số nhân viên lẫn kim ngạch bán
ra. Tuy nhiên, các công ty loại này vẫn chiếm tỉ trọng rất cao trong tổng số các
loại công ty. Kim ngạch của chúng năm 1955 là 56,1% năm 1965 là 49,9%,

năm 1970 là 48,9%.
Qua đó, thấy rõ được xu hướng tập trung sản xuất và lực lượng sản xuất
vào các công ty lớn. Đặc biệt là công ty trên 1000 nhân viên có tỉ trọng liên tục
gia tăng. Về tổng số lượng lao động năm 1955 chiếm 14,6% năm 1965 là
16,6%, năm 1970 là 17,5%. Về kim ngạch bán ra năm 1955 là 23,5%, năm 1965
là 28,4%, năm 1970 là 30%. Xét riêng năm 1970 là năm có tỉ trọng công nghiệp
nặng và hóa chất đạt cao nhất, các công ty nhỏ chiếm 90% tổng số các công ty
nhưng chỉ chiếm 16% kim ngạch bán ra. Ngược lại, các công ty khổng lồ chỉ
chiếm 0,1% tổng số nhưng lại chiếm 17,5% tổng số nhân viên và 30% kim
ngạch bán ra.
Điều này cho thấy độ tập trung rất cao. Cùng với đó là sự thống trị của
một số ít các công ty khổng lồ về vốn và đầu tư. Năm 1969, loại công ty có tiền
vốn trên 1 tỉ Yên chỉ chiếm 0,13% tổng số công ty nhưng lại chiếm 60,5% tổng
số vốn. Các công ty này kết hợp với nhau thành các tập đoàn tạo ra sức mạnh
lớn chi phối nền kinh tế.
Về phân bố, từ năm 1955 việc phát triển tốc độ cao đã được chú ý tới.
Theo kế hoạch tăng gấp đôi thu nhập sản xuất công nghiệp được bố trí dọc 2
tuyến Tokai và Sango. Các xí nghiệp nằm chủ yếu trên khu vực vành đai nhưng
hạn chế các khu vực đã công nghiệp hóa cũng do kế hoạch này sự chênh lệch
thu nhập giữa các vùng ngày càng tăng nên Nhật Bản đã đề ra những kế hoạch
phát triển trọng điểm nhằm hạn chế tình trạng trên.
Ngành
1955
1960
1965
1970
Dệt
44,2
68,2
100

154,0
Giấy và bột
giấy
34,1
63,9
100
175,9
Hóa chất
25,2
51,0
100
204,0
Dầu lửa và sản
phẩm than
18,7
47,2
100
216,7
Sắt và thép
24,6
56,3
100
230,9
Kim loại màu
25,9
61,6
100
211,9
Máy móc
14,6

51,2
100
291,6
Tổng
cộng(công
nghiệp chế tạo)
26,0
59,9
100
218,5
Bảng chỉ số sản xuất công nghiệp của các ngành( 1965=100).
(Nguồn: Bộ công nghiệp và mậu dịch quốc tế)
Kết quả của sự phát triển trên là phần của các ngành công nghiệp nặng và
hóa chất trong tổng sản lượng của công nghiệp chế tạo đạt tới 57% năm 1970
cao hơn phần tương ứng ở Tây Đức hoặc ở Mỹ.
Qúa trình tăng trưởng này không phải là sự phát triển nhẹ nhàng, gấp khúc.
Trong thời gian này, nền kinh tế Nhật Bản đã trải qua những thăng trầm khá rõ
rệt, chia ra thành những chu kỳ dài khoảng hơn 3 năm đôi khi 2 năm hoặc 5
năm. Những sự lên xuống này diễn biến có hệ thống và phần lớn theo một lề lối
nhất định. Tính từ năm 1951-1973 có tất cả 7 thời kỳ phồn thịnh và 8 lần suy
thoái. Những lần suy thoái chu kỳ này chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng chậm
lại chứ không phải là giảm sút tuyệt đối. Những nhà kinh tế phân tích theo quan
điểm chu kỳ công nghiệp của Các Mác cho rằng chu kỳ tái sản xuất tư bản ngắn
lại rất tiêu biểu ở Nhật Bản gắn chặt với sự rút ngắn chu kỳ đổi mới kỹ thuật
nhờ tiến bộ khoa học sau chiến tranh.
2.2. Những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển thần kì của kinh tế Nhật
Bản.
2.2.1. Tính cách con người Nhật Bản.
Một trong những chìa khóa tạo ra sự phát triển thần kì của Nhật Bản trong
thế kỉ XX chính là văn hóa làm việc của con người Nhật Bản. Tôn trọng truyền

thống : truyền thống Nhật Bản luôn được kế thừa và phát triển trong cả nếp
nghĩ, hành vi của mỗi công dân. Duy trì đạo đức Nho giáo, người Nhật đối xử
với nhau theo một tôn ti trật tự khá nghiêm ngặt: trật tự trên dưới. Trật tự này
được thể hiện ở mọi hệ thống: chính trị ( lãnh đạo – nhân viên,…), công ti ( chủ
- thợ,…), gia đình ( ông bà- bố mẹ- con cái,…).
Họ trân trọng các di sản tinh thần được gìn giữ từ ngàn xưa. Truyền thống đã
hình thành , ổn định và càng được củng cố hơn trên cơ sở kế thừa và không
ngừng phát triển. Trân trọng các giá trị văn hóa của quá khứ, người Nhật Bản
bảo lưu những tinh hoa của mình đã bám rễ trong cuộc sống. Các truyền thống
mang tính chất gia tộcvẫn được duy trì bảo lưu và có ảnh hưởng hết sức sâu sắc
đến ngày nay.
Tính cộng đồng: lòng kính trọng những bậc cao niên gần như là một biểu
tượng tôn giáo. Tâm lí cộng đồng được nuôi dưỡng qua nhiều thế hệ và được
biểu hiện như một triết lí của con người trong lao động và trong sinh hoạt. Để tạ
ra sự hợp tác và nhất trí trong tập thể của mình người lao động sẵn sàng gạt
sang một bên cái tôi để cho cái chung tồn tại và phát triển. Tinh thần cộng đồng
thể hiện ở sự bình đẳng, chan hòa giữa mọi người: những người quản lí và các
nhân viên trong công ti, trong các doanh nghiệp và mọi người cùng tạo ra sự hài
hòa của các mối quan hệ trong lao động. Tinh thần cộng đồng của người Nhật
Bản có đặc điểm là nó tạo ra một hệ thống trật tự đó là yếu tố quan trọng, tiềm
năng to lớn của dân tộc Nhật Bản trong cuộc chạy đua để dành được vị trí dẫn
đầu trên thế giới ngày nay.
Lòng trung thành: người Nhật Bản đề cao tuyệt đối lòng trung thành, cổ vũ
tinh thần dũng cảm, coi trọng lễ nghĩa, khuyến khích tiết kiệm. Lòng trung
thành chi phối điều tiết hành vi con người trong các quan hệ thứ bậc rõ ràng
trong xã hội và quan hệ máu thịt trong gia đình cũ như trong tuổi tác. Mọi người
trung thành với mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, dốc lòng dốc sức học
tập nghiên cứu lao động để đạt được kết quả cao nhất. Dù ở trong nước hay ở
nước ngoài người Nhật Bản chỉ chăm chú một ý niệm là tiếp thu được nhiều
kiến thức để sau này vận dụng được tốt vào thực tiễn nước mình. Người lao

động luôn gắn bó và sẵng sàng gắn bó suốt đời với công việc, với xí nghiệp. Họ
làm việc cần mẫn, đầy tinh thần tự giác và trách nhiệm nhiều khi không tính cả
thời gian. Chính lực lượng công nhân to lớn giỏi về tay nghề và trung thành
tuyệt đối là nhân tố quan trọng đưa các công ti Nhật Bản lên tầm cỡ thế giới.
Lòng trung thành là một phẩm chất truyền thống của người Nhật Bản nó phát
huy tác dụng mạnh mẽ trong cuộc sống hàng ngày, trong lĩnh vực sản xuất, góp
phần không nhỏ vào sự phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản.
Tính hiếu học: đặc tính này được tạo lập trên cơ sở thói quen đã hình thành
vững chắc, lại được khích lệ bằng động cơ phục vụ sự nghiệp phát triển đất
nước, xã hội một cách đứng đắn và cao cả. Nhật Bản luôn luôn đầu tư cho giáo
dục một cách tối đa. Đây là nước có số lượng sinh viên, các nhà khoa học được
cử ra nước ngoài học tập và nghiên cứu cao nhất, nhì thế giới. Ngày nay ở nhiều
ngành nhiều lĩnh vực Nhật Bản đã vượt xa nhiều nước trong việc sử dụng tri
thức khoa học vào trong sản xuất và đời sống.
Tính sáng tạo: tính sáng tạo là một phẩm chất gắn liền với lòng ham mê lao
động của người Nhật Bản cũng có thể nói rằng người Nhật Bản luôn luôn ham
mê sáng tạo. Đức tính này đòi hỏi một cách tư duy tích cực, một óc tưởng tượng
phong phú. Ở Nhật Bản quan niệm về sáng tạo được hiểu một cách rộng rãi và
mang ý nghĩa thực tiễn. Nó không chỉ giới hạn trong phạm vi sáng tảoa những
gì hoàn toàn mới mẻ mà bao hàm cả việc cải tiến những gì đã có cho ngày một
hoàn thiện hơn.Nhận thức này có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của Nhật
Bản nói chung và sự phát triển kinh tế nói riêng.
Ham mê lao động: ở Nhật Bản lao động thật sự vừa là nghĩa vụ vừa là quyền
lợi không ai có thể thoái thác. Người Nhật Bản từ xưa đã có ý thức sâu sắc rằng
nhờ có lao động mà con người và xã hội với tồn tại và phát triển. Bởi vậy lao
động với được đánh giá là một tính cách cơ bản của mỗi con người chân chính.
Tuy nhiên để có những phẩm chất ấy lại là một điều hết sức khó khăn và phức
tạp. Lòng ham mê lao động đã được dựa trên những cơ sở vững chắc của ý thức
kỉ luật để phát triển năng lực cá nhân phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế
đất nước.

Người Nhật có đầu óc thực tế. Điều này thể hiện ở việc người Nhật không
quan tâm nhiều lắm đến vấn đề lí thuyết quá xa vời mà họ tập trung vào sản
xuất những gì thiết yếu nhất của cuộc sống.
Người Nhật kiên trì, nhẫn nại, không đại khái. Nếu đã làm là làm đến nơi
đến chốn, đã học cái gì là học đến cùng. Gắn liền với tính kiên trì là tính kiên
cường và ý thức tự chủ. Đức tính này bắt nguồn từ lịch sử đấu tranh lâu dài và
gian khổ của cộng đồng người Nhật với thiên nhiên khắc nghiệt: núi lửa, động
đất….Nếu không có đức tính kiên cường và ý thức tự chủ nước Nhật sẽ không
thể phục hồi và lớn mạnh sau cuộc chiến tranh hết sức nặng nề mà Nhật Bản là
kẻ bại trận.
Người Nhật Bản rất nhanh nhạy, linh hoạt. Do sớm mở cửa quan hệ với
phương Tây, tiếp thu truyền thống văn hóa mang tính thành thị và thương mại,
tiếp thu kho học kĩ thuật phương Tây. Dựa vào tính linh hoạt, nhanh nhạy người
Nhật đã nhanh chóng tiếp thu các sang kiến hay,tìm tòi, cải tiến, nghiên cứu nó
rồi đưa vào sản xuất. Trong nhiều lĩnh vực người Nhật không phải là người đầu
tiên phát minh nhưng hơn cả các nhà phát minh họ biết đưa các phát minh lí
thuyết trở thành hàng hóa. Dựa vào phát kiến về máy tính bỏ tíu của người Anh,
người Nhật đã cải tiến nó và tung ra thị trường thế giới các loại máy tính hiện
đại. Hay như người Pháp phát minh ra tàu siêu tốc nhưng chính người Nhật đã
đưa vận tốc của nó từ 200km/h lên đến 300km/h.
2.2.2 Vai trò quản lí và chính sách mở cửa của Nhà nước.
Sự hướng dẫn hành chính : việc chế định pháp luật được tiến hành dưới sự
lãnh đạo của các quan chức cùng các thong tư và chỉ thị của bộ. Phạm vi để họ
được tư do quyết định khá rộng rãi. Trên cơ sở quyền hạn nói giám sát nói
chung các quan chức có thể tham giá ý kiến đến cả những vấn đề không thuộc
quyền hạn về mặt pháp lệnh. Ví dụ: trong thời kì kinh tế Nhật Bảntăng trưởng
với tốc độ caovào những năm 60, sự cạnh tranh trong đầu tư thiết bị có nguy cơ
đi quá xa, không ít những trường hợp Chính phủ quy định cả đến kim ngạch đầu
tư và thứ tự xí nghiệp nào đầu tư thiết bị trước.
Lí do để có khả năng đó là sự tin tưởng vào kiến thức vào năng lực của các

quan chức ở sự trong sáng và sự công bằng, tập quán các xí nghiệp tư nhân
phục tùng sự lãnh đạo của các cơ quan Chính phủ.
Hoạch định kế hoạch: ngoài việc họ phải lập kế hoạch tổng hợp như kế
hoạch tăng thu nhập và kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội, các quan chức ở các
bộ còn phải lập kế hoạch dài hạn trong lĩnh vực do bộ mình quản lí. Trong quá
trình hoạch định này thường lập ra các cơ quan tư vấn, tập hợp các chuyên gia,
các xí nghiệp tư nhân đó là cách để tập hợp kiến thức và đạt tới sự thỏa thuận.
Trong hầu hết các trường hợp lãnh đạo kế hoạch là quan chức.
Để khôi phục và ổn định kinh tế, chính phủ đã phải tiến hành phân phối
lương thực, kiểm soát hành chính đối với giá cả, chống nạn đầu cơ, “ đông
lạnh” tiền gửi ngân hàng, đổi tiền, phát hành trái phiếu chính phủ, tập trung khôi
phục kinh tế và phát triển một số ngành ưu tiên như than, thép, điện lực, năng
lượng, hóa chất, phân bón….
Cuối năm 1948, chính phủ Mĩ cử ông Joseph Dodge sang Nhật Bản để điều
hành nền kinh tế ở đây. Ông này chủ trương cân đối ngân sách thông qua hạn
chế chi tiêu, ngừng kiểm soát giá, cố định tỉ giá hối đoái Yên Nhật/ Đôla Mĩ là
360:1. Nhờ đường lối này nền kinh tế tự do được khôi phục, năng suất năng
động ở Nhật Bản được nâng lên, lạm phát được khống chế.
Một phần trong sự phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản liên quan đến
việc thu hẹp khoảng cách về công nghệ và tri thức. Khía cạnh ngoại ứng và
hàng hóa công cộng của tri thức đã cho ta một cơ sở khách quan về lí thuyết để
giải thích cho vai trò của Chính phủ. Ngoài việc thực hiện thành công các chiến
lược tăng trưởng thì Chính phủ đã theo đuổi các chính sách tích cực nhằm
khuyến khích sản xuất và truyền bá kiến thức, công nghệ, chứ không chỉ dừng
lại ở việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thông qua luật về bản quyền và bằng sáng
chế.
Chính sách đối nội, đối ngoại của Nhật Bản sau chiến tranh cụ thể như sau:
+ Đối nội: Chuyển từ chế độ chuyên chế sang chế độ dân chủ. Các đảng phái
được hoạt động công khai. Đảng Dân chủ Tự Do (LDP) Liên tục cầm quyền.
+ Đối ngoại: Kí hiệp ước An ninh Mĩ- Nhật (9/1951): Nhật lệ thuộc vào Mĩ,

được che chở và bảo vệ dưới chiếc “ô hạt nhân” của Mĩ. Chỉ dành 1% tổng sản
phẩm quốc dân cho chi phí quân sự, còn tập trung phát triển kinh tế.
Nhà nước và chính phủ Nhật Bản biết nắm bắt các thời cơ và lựa chọn các
chiến lược phát triển kinh tế phù hợp với thực tiễn và thực hiện các cải cách dân
chủ sau chiến tranh và quản lí kinh tế ở mức vĩ mô.
2.2.3. Cải cách kinh tế.
Trong quá trình cải cách, việc chế định 3 luật: Luật cải cách ruộng đất, Luật
giải tán các tài phiệt và luật lao động là quan trọng nhất. GHP( bộ tư lệnh quân
Đồng minh sau chiến tranh chiếm đóng Nhật Bản) đã đưa ra rất nhiều quy định
buộc chính phủ Nhật Bản phải tiến hành cải cách triệt để mà không có cách nào
trốn tránh.
*Cải cách ruộng đất.
Công cuộc cải cách kinh tế được bắt đầu ngay sau khi chiến tranh kết thúc
đã có tác dụng to lớn đến sự phát triển kinh tế Nhật Bản. Cải cách ruộng đất
được coi là cải cách quan trọng nhất và đạt hiệu quả cao nhất trong các cuộc cải
cách kinh tế. Với mục tiêu là: “ xóa bỏ những trở ngại kinh tế nhằm khắc phục
và củng cố các thiên hướng dân chủ để phá bỏ sự kìm hãm kinh tế vốn đọa đầy
người nông dân Nhật Bản trong nhiều thế kỉ áp bức phong kiến”.
Đạo luật cải cách ruộng đất được ban hành ngày 11/10/2946. Nội dung cơ
bản của cuộc cải cách ruộng đất là chuyển quyền sở hữu ruộng đất phát canh
cho những tá điền đã từng trồng trọt trên mảnh đất đó, nhà nước mua tất cả
ruộng đất phát canh cả các địa chủ vắng mặt và trong trường hợp các địa chủ
còn sống ở nông thôn thì mua lại một số ruộng. Sau đó phát lại cho các tá điền
khác, việc chuyển quyền sở hữu ruộng đất cho những nông dân trực tiếp canh
tác đã kích thích mạnh tính tích cực sản xuất của nông dân. Họ đã tiến hành cải
tạo ruộng đất, kết hợp với việc áp dụng những kỹ thuật canh tác mới để nâng
cao năng suất nông nghiệp, thu nhập nông dân tăng lên đã góp phần mở rộng
đáng kể thị trường trong nước.
Cuộc cải cách này được thực hiện khá cương quyết từ năm 1946 đến năm
1950 dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của lực lượng chiếm đóng. Đến năm 1948, số

lượng đất chính phủ mua lên đến 163 000 ha. Diện tích phát canh tính đến tháng
8/1950 chỉ còn 10%. Địa chủ vắng mặt đã bị xóa bỏ, 80 đến 90% đất của họ đã
bị chuyển nhượng cho tá điền. Khoảng 70 đến 80% số ruộng đất cho thuê hoặc
canh tác của địa chủ làng xã đã bị chuyển nhượng cho nông dân.
Nhiều nhà chính trị và nghiên cứu Nhật Bản trong và ngoài nước đánh giá
cao những thành tựu của chương trình cải cách ruộng đất. Cuộc cải cách ruộng
đất có tác động rất lớn đối với ý nghĩa phát triển kinh tế Nhật Bản. Vì ruộng đất
ở nông thôn Nhật Bản đã bị xóa bỏ, xóa bỏ luôn tàn dư phong kiến của nền
nông nghiệp và từ đó làm tan rã chế độ đẳng cấp ở nông thôn, làm thay đổi trật
tự xã hội nông thôn. Điều này tạo ra sự phân phối tài sản và thu nhập bình đẳng
hơn. Sauk hi quyền sở hữu ruộng đất đã được chuyển nhượng nông dân đã tiến
hành cải tạo ruộng đất gieo trồng, tích cực áp dụng kĩ thuật canh tác mới, tăng
năng suất lao động nông nghiệp. Những tiến bộ kĩ thuật trong việc trồng lúa và
thu nhập đáng kể của nông dân cũng đã góp phần mở rộng đáng kể thị trường
trong nước. Cải cách ruộng đất còn gián tiếp làm thay đổi toàn bộ chiều hướng
phát triển của làng xã Nhật Bản.
*Giải tán các tập đoàn tài phiệt(Zaibatsu).
Ở Mĩ, phần lớn người ta coi tài phiệt là thủ phạm làm cho Nhật Bản lao vào
cuộc chiến tranh đế quốc theo chỉ thị của GHQ(bộ tư lệnh quân Đồng minh sau
chiến tranh chiếm đóng Nhật Bản ), chính phủ Nhật Bản đã tiến hành giải tán
các tập đoàn tài phiệt vào tháng 10 năm 1945.
Sự tập trung công nghiệp vào một số Zaibatsu gây ra quan hệ nửa phong
kiến giữa chủ, thợ và kìm hãm tiền lương, cản trở sự phát triển công đoàn.
Nhằm thực hiện giải thể Zaibatsu, lực lượng Đồng minh đã lập ra ủy ban giải
quyết vấn đề công ty cổ phần. Ngoài 4 tập đoàn tài phiệt lớn như Mitsu,
Mitsubisi, Sunitomo, Yasuda bị giải tán, có 2500 người trong hội đồng quản trị
có 1600 xí nghiệp có quan hệ với tài phiệt đã buộc phải rời khỏi chức vụ của
mìn, 57 gia đình Zaibatsu phải giao nộp tài sản tổng cộng lên đến 233 triệu cổ
phần và bán cổ phần này cho nhiều công ty, hiệp hội.
Các cổ phần thuộc quyền sở hữu của các công ty tài phiệt và các gia đình tài

phiệt đã bị xử lí dưới hình thức đem ra bán ở thị trường cổ phần. Vì thế đã loại
trừ được sự chi phối của các cá nhân và của chủ cổ phần. Việc giải thể phần lớn
các công ty khổng lồ trong các ngành công nghiệp chủ chốt của Nhật như thép,
đóng tàu … đã làm thay đổi hoàn toàn bản đồ công nghiệp của Nhật Bản.
Nhiều nhà kinh tế đã đánh giá việc giải thể các Zaibatsu góp phần vào việc
xóa bỏ tình trạng tập trung kinh tế, thiết lập một khuôn khổ cạnh tranh và giúp
cho nền kinh tế Nhật phát triển mạnh. Việc thanh lọc kinh tế đã loại bỏ trong
thực tế 1.535 người ở 295 công ty có tư tưởng quân phiệt hiếu chiến, tạo cơ hội
cho các nhà quản lý trẻ tuổi, năng động, táo bạo. Do đó, nền kinh tế Nhật có
điều kiện lấy lại sức sống và phát triển.
Công ty bị chia nhỏ thành những công ty nhỏ với những người lãnh đạo trẻ
tuổi( được gọi là giới lãnh đạo cấp 3). Nhiều người lo ngại rằng liệu toàn người
lãnh đạo cấp 3 như thế có thể gánh vác nổi nền kinh tế Nhật Bản hay không
nhưng ngược lại lớp trẻ đã phát huy tốt tinh thần của các nhà kinh tế do đó nền
kinh tế Nhật Bản đã lấy lại được sức sống của nó.
Việc giải thể các tập đoàn tài phiệt được tiến hành theo luật thủ tiêu tình
trạng tập trung cao độ kinh tế. Có thể nghĩ đó là ý đồ của Mĩ dùng pháp luật để
làm yếu nền kinh tế Nhật. Nhưng mặt khác nó đã làm tăng sức cạnh tranh, giúp
cho nền kinh tế Nhật tăng trưởng mạnh. Giải thể các công ty lung đoạn Zaibatsu
cũng là một nội dung quan trọng của cải cách kinh tế và tác động lớn đến sự
phát triển thần kì Nhật Bản. Việc giải thể này nhằm giải tán các tập đoàn tài
phiệt theo quan hệ gia tộc mang tính phong kiến.
*Chế định ba luật về lao động.
Cùng với các cải cách dân chủ khác là việc thực hiện ngay cuộc cải cách lao
động sau chiến tranh. Chính sách quan trọng của Mỹ là khuyến khích hoạt động
công đoàn. Đó là bảo đảm ngăn chặn sự hồi sinh của chủ nghĩa quân phiệt và
hành vi xâm lược và được coi là biện pháp đề cao tự do và nâng cao đời sống
vật chất của nhân dân Nhật Bản.
Luật công đoàn được đề ra vào tháng 12 năm 1945 và bắt đầu được thực
hiện vào đầu tháng 3 năm 1946, luật công đoàn quy định công nhân có quyền

đoàn kết, quyền thương lượng tập thể, quyền bãi công. Luật điều chính quan hệ
lao động được đề ra vào tháng 7 năm 1947. Luật tiêu chuẩn lao động được đề ra
vào tháng 4 năm 1947. Vì vậy lực lượng công đoàn phát triển nhanh chóng.
Trong những năm 1945-1951 các cuộc cải cách lao động thể hiện chủ yếu
dưới hình thức đòi cải thiện quan hệ chủ, thợ trong xí nghiệp, công ty. Đề cao tự
do, dân chủ, nâng cao đời sống vật chất cho công nhân, tạo nên mối quan hệ
mới có lợi cho sự phục hồi và phát triển kinh tế.
Trên cơ sở đó phong trào công nhân phát triển nhanh chóng, số lượng đoàn
viên tăng mạnh mẽ. Cải cách công đoàn và nhiều nội dung thể hiện trong cải
cách tăng cường quan hệ hợp tác chủ thợ góp phần tạo ra năng suất lao động
cao và khả năng cạnh tranh vào cuối thập kỉ 50 và các giai đoạn sau đó.
Phong trào công đoàn thời kỳ đầu sau chiến tranh mang tính chiến đấu rất rõ
rệt. Bởi vì lúc đó bối cảnh về mặt tư tưởng công nhân có nguy cơ bị tư bản tước
đoạt quyền lợi của mình. Một nguyên nhân nữa là đời song công nhân trong
thời kỳ đó vô cùng khổ cực nếu không đấu tranh đòi tăng lương thì không sống
nổi. Vì thế mà phong trào công đoàn đã dương cao nhiều mục tiêu để tập hợp
công nhân đấu tranh như: truy cứu trách nhiệm chiến tranh, phản đối cuộc giãn
thợ, bảo vệ đời sống về quyền của công nhân, thì ngoài quyền bãi công ra công
nhân đòi quyền tham gia dưới hình thức quản lí. Những cuộc bãi công, đấu
tranh lớn của công nhân sau chiến tranh có thể kể đến như: cuộc bãi công của
công nhân viên báo Yomiuri năm 1945, cuộc bãi công của nhà máy đóng tàu
Tsurumi thuộc tập đoàn sắt thép Nihon Kokan.
Các tổ chức công đoàn đã tiến hành các cuộc bãi công kéo dài đe dọa đến
quản lí sản xuất như manh nha đòi phải có sự giám sát của dân trong kinh tế, đe
dọa sự tồn tại của xí nghiệp. Sau đó qua nhiều cuộc đấu tranh khác nữa, hoạt
động của công đoàn trở nên thực dụng hơn, chuyển sang các nội dung chủ yếu
là về kinh tế ôn hòa hơn và trở thành một cơ sở quan trọng giúp cho nền kinh tế
Nhật Bản đạt được tốc độ tăng trưởng cao.
Như vậy, công cuộc cải cách ruộng đất sau chiến tranh đã mang lại ruộng
đất cho nông dân, và các quyền lợi cơ bản về lao động đã được công nhận.

Những điều này cũng góp phần nâng cao được sự nhiệt tình lao động của người
lao động. Việc giải tán các tập đoàn tài phiệt và chế định Luật cấm lũng đoạn đã
khuyến khích cạnh tranh giữa các xí nghiệp. Việc giải thể “chế độ gia đình” và
công nhận quyền lợi cá nhân đã trở thành cơ sở thúc đẩy mở rộng tiêu dùng.
Những cải cách dân chủ hóa kinh tế này có tác dụng nâng cao vị trí của tư bản
công nghiệp, khuyến khích tinh thần kinh doanh và đầu tư.
2.2.4. Đổi mới và phát triển khoa học kĩ thuật.
Con người muốn tranh thủ được nguồn tài nguyên thiên nhiên phải dựa vào
kĩ thuật. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các ngành điện tử, hóa dầu, sử dụng
năng lượng nguyên tử, hóa học cao phân tử, đã phát triển với tốc độ cực kì
nhanh chóng. Sự phát triển như vũ bão đó được gọi là cuộc cách mạng kỹ thuật.
Nguồn gốc của cuộc cách mạng kĩ thuật từ các nước Châu Âu. Các kĩ thuật
tiên tiến nhanh chóng được đưa vào Nhật Bản, những mặt hàng mới lần đầu tiên
xuất hiện ở thị trường Nhật Bản như nilon, sợi polieste, nguyên tử năng , bán
dẫn, vô tuyến truyền hình, máy tính. Có những mặt hàng được sản xuất từ trước
nhưng nay nhờ có kĩ thuật mới mà phương pháp , chất lượng thay đổi hẳn. Nhật
Bản đã du nhập phương thức sản xuất sắt thép liên hoàn, phương pháp phân giải
dầu mỏ, phương thức đóng tàu theo khối lớn, phương thức sản xuất xe hơi hàng
loạt
Sau chiến tranh, nước Mĩ đã đạt được những tiến bộ khoa học kĩ thuật rất
lớn. Nhờ những kĩ thuật tiên tiến, những phát minh kì diệu ở nước Mĩ trước và
sau chiến tranh được đưa vào Nhật Bản trong thập kỉ 50 mà tốc độ tiến bộ kĩ
thuật ở Nhật Bản cũng nhanh đến mức chưa từng có.
Bước vào thập niên 60 của thế kỉ XX, tiến bộ kĩ thuật diễn ra dưới hình thức
kết hợp với những kĩ thuật đã có. Có nhiều quan điểm về sự kết hợp này các nhà
khoa học tự nhiên thì cho rằng sự kết hợp đókhông hẳn là cách mạng kĩ thuật
còn các nhà kinh tế họcthì cho rằng chính sự kết hợp khoa học kĩ thuật mới với
kĩ thuật sẵn có là cách mạng kĩ thuật có ý nghĩa về mặt kinh tế. Những đổi mới
về mặt kĩ thuật mang tính chất kết hợp này là phổ biến trong thập kỉ 60 và cũng
chính trong thời gian này xuất hiện các liên hiệp hóa dầu, liên hiệp gang thép,

phương thức bán hang tự động tại các siêu thị.
Sự tiếp nhận các tri thức, thành tựu khoa học kĩ thuật phương Tây được phân
tích kĩ lưỡng, thận trọng và có chọn lọc. Các tri thức này đem lại kết quả thiết
thực cho sự phát triển kinh tế, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước.
Những tri thức du nhập này được vận dụng sáng tạo trong điều kiện kinh tế -xã
hội Nhật Bản.
Sự phát triển của các ngành công nghiệp nặng và hóa chất nhờ tiến hành
cách mạng kĩ thuật. Đặc biệt, trong các lĩnh vực hóa dầu, công nghiệp điện tử,
sắt thép… đã du nhập được các kĩ thuật tiên tiến nhất từ các nước phương Tây,
kết hợp với sự cải tiến cho phù hợp với đặc điểm của Nhật Bản, đã trang bị cho
các ngành công nghiệp những kĩ thuật tiên tiến.
Kĩ thuật tiên tiến đã cùng với lực lượng lao động cần cù, có tay nghề cao,
làm hạ giá thành của hàng hóa và trở thành sức mạnh cho hàng hóa Nhật Bản
thâm nhập vào thị trường thế giới. Một điều quan trọng nữa là Nhật Bản đã xác
lập quy trình kĩ thuật quản lí chất lượng sản phẩm , chính vì vậy hàng hóa Nhật
Bản được đánh giá cao.
Nhật Bản biết lợi dụng sự đầu tư của Mĩ để tạo dựng cho Nhật Bản phục hồi.
Sau đó Nhật Bản đã tận dụng sự phát triển của khoa học vào sự phát triển kinh
tế như mua bằng sáng chế của nước ngoài, sử dụng chất xám vào phát triển
khoa học kĩ thuật. Chuyển từ phát triển kinh tế chiều rộng sang phát triển kinh
tế chiều sâu.
Mặt khác, sự ganh đua cũng là một kênh khác mà qua đó thương mại có thể
thúc đẩy tăng năng suất trong cả ngành xuất khẩu lẫn thay thế nhập khẩu. Cạnh
tranh và sự cọ xát với các doanh nghiệp nước ngoài lớn cũng sẽ đẩy mạnh việc
mua sắm công nghệ, và do đó dẫn đến những thay đổi công nghệ nhanh hơn. Vì
việc sao chép hay tiếp thu công nghệ dễ dàng hơn việc tự phát minh, nhất là với
điều kiện của Nhật Bản lúc đó thì việc mua các phát minh là lựa chọn tối ưu
nhất.
Nhật Bản có sức thu hút vốn từ bên ngoài và có khả năng cạnh tranh cao,
khả năng len lách vào các thị trường quốc tế. Luôn áp dụng các thành tựu khoa

học kĩ thuật hiện đại vào sản xuất, không ngừng nâng cao năng xuất, hạ giá
thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã.
2.2.5.Ổn định chính trị-xã hội.
Sau chiến tranh thế giới 2, Nhật Bản bị đặt dưới sự chiếm đóng của Mĩ.
Tháng 12-1945, Hội đồng thường trực về Nhật Bản được thành lập gồm đại
diện 4 nước: Mĩ, Anh , Xô, Trung. Đây là cơ quan tư vấn của Bộ Tư Lệnh tối
cao các lực lượng đồng minh.
Các cuộc cải cách chính trị: thanh trừng phạm tội phát xít, phong trào đòi tự
do hoạt động các đảng phái chính trị đã đi trước một bước tạo tiền đề cho cải
cách, làm trong sạch bộ máy chính trị, chuyển toàn bộ bộ máy chính trị phục vụ
chiến tranh sang phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế, và đã thổi một làn gió
tự do, dân chủ trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho Nhật Bản bước vào kỉ
nguyên tăng trưởng kinh tế. Cải cách chính trị quan trọng nhất ở Nhật Bản sau
chiến tranh là cải cách Hiến Pháp.
Tình trạng hỗn độn sau chiến tranh đã được thừa nhận trong dự thảo sửa đổi
Hiến Pháp được công bố vào thời kì đó. Tháng 10-1945, sau khi Bộ Tư Lệnh
của Mc Aithur bày tỏ ý định cần phải sửa đổi Hiến Pháp, nhiều bản dự thảo
Hiến pháp được công bố. Nội dung chính của Hiến Pháp mới do Đảng Cộng
sản tuyên bố chủ trương bãi bỏ chế độ Thiên Hoàng là điều tất nhiên nếu xét về
tính chất của Đảng.
Sự thất bại của chiến tranh đã mang lại cho Nhật Bản một Hiến pháp hòa
bình. Hiến pháp của Nhật Bản được công bố vào ngày 3/11/1946 và có hiệu lực
kể từ ngày 3/5/1947, quy định rằng nhân dân Nhật Bản thề nguyền trung thành
với các lí tưởng hòa bình và trật tự dân chủ.
Hiến pháp quy định chế độ 2 viện: Hạ viện gồm những đại diện được lựa
chọn qua bầu cử của quần chúng để tránh quyền chính trị tập trung vào nghị
viện; và viện quý tộc bao gồm các nghị sĩ đại diện cho tầng lớp quý tộc và theo
chế độ bổ nhiệm. Để ngăn chặn sự lộng hành của Hạ nghị viện, Hiến pháp còn
quy định thành lập Viện cơ mật bao gồm những cố vấn nắm cã vấn đề cơ mật,
độc lập với nghị viện để xem xét các vấn đề tronhj yếu của đất nước. Thiên

Hoàng có quyền hết sức rộng rãi; được ra những sắc dụ ngoài các luật do nnghij
viện thông qua. Trong trường hợp không thông qua được ngân sách, Chính phủ
có quyền thông qua ngân sách bằng mức của năm tài khóa trước. Do đó, quyền
thảo luận về ngân sách của nghị viện là rất hạn chế.
Ngày 15-8-1945, Chính phủ Nhật Bản đã chấp nhận tuyên ngôn Posdam,
thông báo cho quốc dân đồng bào về việc Nhật Bản đã đầu hàng đồng minh
gồm có Anh, Mĩ, Xô, Trung…Tuyên ngôn Posdam yêu cầu Nhật Bản cần có
Hiến pháp mới, trong đó quy định dân chủ hóa nền Chính trị đất nước, bảo đảm
nhân quyền cơ bản, thành lập chính phủ mới. Khi đã chấp nhận tuyên ngôn này,
Nhật Bản phải sửa đổi Hiến pháp dưới một hình thức nào đó.Ban đầu, Chính
phủ Nhật có thái độ rất tiêu cực đối với việc sửa đổi Hiến pháp. Nhưng Chính
phủ Nhật Bản buộc phải sửa đổi Hiến pháp vì đã chấp nhậ tuyên ngôn Posdam
và hứa thực hiện dân chủ hóa. Vì vậy, tháng 10 năm 1945, nội các đã lập ra “ ủy
ban điều tra vấn đề Hiến pháp” và bắt tay vào việc soạn thảo nội dung Hiến
pháp . Uỷ ban này đã tiến hành các cuộc thảo luận cho đến đầu năm 1946. Ngày
8-2, ủy ban đã chuyển dự thảo cho Bộ trưởng tư lệnh lien quân. Nhưng bản dự
thảo này còn nhiều nội dung rất bảo thủ, chỉ sửa đổi nhỏ so với Hiến pháp Minh
Trị. Khi đó các chính đảng và tổ chức tư nhân được phục hồi sau chiến tranh đã
đưa ra các dự thảo về đề cương cho việc sửa đổi Hiến pháp.
Sauk hi trao đổi đề cương dự thỏa Hiến pháp cho Chính phủ Nhật Bản, Bộ
tổng tư lệnh liên quân tiến hành các cuộc trao đổi giữa 2 bên. Ngày 6-3, đề
cương đó được công bố làm nhiều người Nhật ngạc nhiên và rất phấn khởi
trước nội dung dân chủ, tiến bộ tự do. Vì vậy nó được tuyệt đại đa số nhân dân
ủng hộ.
Nội dung cơ bản trong Hiến pháp Nhật Bản: Hiến pháp Nhật Bản hiện hành
đã thay đổi một cách căn bản Hiến pháp Minh Trị, xác lập 3 nội dung cơ bản là
: nguyên tắc chủ quyền cho nhân dân, bảo đảm nhân quyền cơ bản và tinh thần
hòa bình.Hiến pháp Nhật Bản đã sửa đổi đoạn nói về chủ quyền thuộc Thiên
Hoàng ;đồng thời bãi bỏ tất cả các quyền chính trị của Thiên Hoàng, nêu rõ
nguyên tắc chủ quyền thuộc về nhân dân theo nguyên tắc của các Hiến pháp

hiện đại. Hiến pháp quy định các loại quyền tham gia hoạt động chính trị như
nhân dân có quyền tham gia chính trị, quyền hạn của Quốc hội là cơ quan đại
diện cao nhất và là vị trí tượng trưng của Thiên Hoàng.
Hiến pháp Nhật Bản được xây dựng trên cơ sở phủ định khuynh hướng quân
phiệt và xâm lược của Nhật Bản trong quá khứ, xét đến những bài học kinh
nghiệm nhục nhã về thảm họa của chiến tranh để quán triệt nguyên tắc hòa bình.
Hiến Pháp là sự thỏa thuận giữa hai loại quan điểm và nó đã được ban hành
ngày 7-10-1946 dưới hình thức chế độ Thiên Hoàng là tượng trưng cho chủ
quyền thuộc về nhân dân. Xã hội Nhật Bảnđảm bảo dưới sự ổn định nhờ Hiến
Pháp này mang tính chất tiến bộ lẫn bảo thủ.
Trong suốt hơn 40 năm sau chiến tranh, có những sự kiện đôi lúc đã gây ra
sự chia rẽ trong xã hội. Nhưng nhìn chung đã nhanh chóng được giải quyết. Một
xã hội mà trong đó một số đông nhân dân coi mình thuộc tầng lớp trung lưu đã
được hình thành .Trên chính trường, trừ thời gian nội các Katayama của Đảng
Xã Hội tồn tại được khoảng 7 tháng kể từ tháng 6-1947, còn hầu hết thời gian
sau chiến tranh Chính phủ do Đảng Bảo Thủ nắm giữ. Tình hình trên đây đã có
ưu điểm là mang lại sự ổn định xã hội, duy trì được tính nhất quán của cuộc
sống. Chính sách của Đảng Bảo Thủ không phải cố giữ thể chế đã lỗi thời mà
đã có không ít mặt tiến bộ mang lại sự thay đổi. Có thể đó là một lí do Đảng
Bảo Thủ ở Nhật Bản duy trì được chisng quyền trong một thời gian dài.
Kể từ sau khi thực hiện các cuộc cải cách dân chủ đến khi Nhật bước vào
giai đoạn phát triển thần kì kinh tế, vào cuối những năm 1970 xã hội Nhật Bản
có những sự kiện đôi lúc gây chia rẽ trong xã hội. Phong trào tổng bãi công của
công nhân có thái độ đối đầu với chính phủ vào năm 1946, 1947. Năm 1960 dư
luận đã bị chia rẽ mạnh mẽ khi sửa đổi kéo dài Hiệp ước an ninh Mĩ- Nhật.Các
đảng phái, tổ chức sinh viên, công đoàn, cơ quan ngôn luận đã phản đối mạnh
mẽ sự sửa đổi này … .
Chính phủ Nhật đã tăng cường các biện pháp cưỡng chế và nhiều lí do khác
đã làm cho các phong tào bãi công dịu đi và được giải quyết ổn thỏa. Xã hội
Nhật được coi là xã hội ổn định là một trong những nguyên nhân tạo ra sự tăng

trưởng thần kì của Nhật. Đó là hiệu quả tác động trực tiếp do các cuộc cải cách
Nhật Bản mang lại. Hàng loạt các biện pháp giải quyết cấp bách sau chiến tranh
như: khuyến khích phát triển các tổ chức dân chủ, cho phép thành lập các công
đoàn, hiệp hội và thực hiện một lọat các biện pháp cứu đói, khuyến khích sản
xuất để tạo nên sức mạnh và tinh thần dân tộc Nhật Bản.
Những thành quả của cuộc cải cách lao động đã tạo nên một mối quan hệ
hợp tác tốt đẹp giữa chủ - thợ trong quá trình lao động. Cải cách giáo dục cũng
tạo nên một thế hệ con người mới sau chiến tranh có trình độ học vấn cao, có tư
tưởng hòa bình và phát triển kinh tế. Các cuộc cải góp phần vào việc xây dựng,
củng cố một nền chính trị ổn định.
2.2.6. Chi phí quốc phòng ít.
Theo Hiến Pháp mới của Nhật Bản được ban hành năm 1946, Nhật Bản
tuyên bố từ bỏ chiến tranh. Quy định từ bỏ chiến tranh được ghi trong Hiến
Pháp đã hạn chế đến mức thấp nhất chi tiêu cho phòng thủ ở Nhật Bản và sử
dụng quốc lực vào mục đích phát triển kinh tế. Trong chiến tranh không chỉ
riêng tiền bạc, nhân tài cũng được tổng động viên vào các binh chủng lục, hải
không quân. Trong thời bình được động viên và các ngành kinh tế. Điều đó
cũng được coi là sự đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế.
Tỉ lệ cho ngân sách phòng thủ trong tổng sản phẩm quốc dân từ 3,3%năm
1950 xuống còn 1% năm 1960. Sau đó, việc có nên duy trì ngân sách phòng thủ
ở mức 1% tổng sản phẩm hay không luôn là vấn đề tranh cãi về chính trị. Cho
đến năm 1988, chi phí cho phòng thủ trên thực tế vẫn duy trì trong khoảng 1%
tổng sản phẩm quốc dân.
Sau chiến tranh thế giới 2 thì Nhật Bản hoàn toàn lệ thuộc vào Mĩ về chính
trị quân sự. Ngày 8-9-1951, Hiệp ước an ninh Nhật- Mĩ được kí kết, đặt nền
tảng mới cho quan hệ Mĩ –Nhật. Theo đó Nhật Bản chấp nhận ô bảo vệ hạt
nhân của Mĩ và để cho Mĩ xây dựng các căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật.
Hướng phát triển quân đội Nhật Bản chủ yếu tập trung vào giảm số lượng
nhưng tăng chất lượng, trang thiết bị, tăng khả năng cơ động, mở rộng phạm vi
hoạt động của lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Tăng cường hợp tác với Mĩ, đồng

thời đẩy nhanh các biện pháp củng cố an ninh, phòng ngừa, công khai về quốc
phòng qua các hoạt động, diễn đàn chung về an ninh, giải trừ quân bị. Trao đổi
quân sự với các nước trong và ngoài khu vực.
Vào đầu những năm 50, Mĩ can thiệp vào chiến tranh Triều Tiên và chiến
tranh Đông Dương nên đã dặt hàng quân sự và vũ khí chiến tranh tại Nhật.
Những đơn đặt hàng ấy được coi như những ngọn gió thần thúc đẩy nền kinh tế

×