Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

LUẬN VĂN: Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty Cho thuê Tài chính I Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.07 KB, 77 trang )






LUẬN VĂN:

Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt
động cho thuê tại Công ty Cho thuê Tài chính I -
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam






Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về chính trị cũng như về kinh tế. Đặc biệt
trong những năm 90, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, tốc độ tăng
trưởng hàng năm cao duy trì ở mức 8%, tỷ lệ lạm phát được kiềm chế dưới 10%, đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng
4/2001 có ý nghĩa rất to lớn, mở ra một thời kì mới phát triển đất nước trong những thập kỷ
đầu của thế kỷ XXI.
Đường lối kinh tế của Đảng ta trong thời gian tới là: đẩy mạnh Công nghiệp hóa- Hiện
đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp.
Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (2001- 2005) là nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân
hàng năm là 7,5%. Tổng GDP năm 2005 gấp hai lần năm 1995, tăng tỷ trọng nông lâm- ngư
nghiệp là 20- 21%, công nghiệp và xây dựng 38- 39%, các ngành dịch vụ 41- 42%. Về quan
hệ sản xuất, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều


thành phần trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, để thực hiện được những mục tiêu đề ra, nhu cầu về vốn của toàn bộ nền kinh
tế là vô cùng lớn, ước tính vốn trung bình mỗi năm cho kế hoạch 5 năm tới cần khoảng 30-
35 tỷ USD. Do đó, việc tìm ra giải pháp để huy động tối đa nguồn vốn cho đầu tư phát triển
trở thành một nhiệm vụ quan trọng hiện nay không chỉ của Nhà nước, của ngành ngân hàng
mà còn là của toàn dân. Bên cạnh các kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam
đang sử dụng như vay, phát hành cổ phiếu, trái phiếu thì hiện nay chúng ta đang áp dụng
loại hình tín dụng mới, đó là cho thuê tài chính.
Công ty cho thuê tài chính I- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1998, là một bước tiến quan trọng của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong việc đa dạng hoá các loại hình tín dụng, thúc
đẩy hoạt động của thị trường cho thuê nói riêng và thị trường vốn nói chung tại Việt Nam
nhằm giải quyết vấn đề thiếu vốn của các doanh nghiệp trong nước

Do loại hình cho thuê còn mới mẻ nên việc nghiên cứu nội dung hoạt động, môi trường
kinh doanh, cơ cấu tổ chức và đưa ra các giải pháp nhằm phát triển hoạt động này tại Công
ty cho thuê tài chính I- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam là hết sức
cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong thời gian thực tập tại Công ty em đã chọn
đề tài: Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty Cho thuê
Tài chính I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
Chuyên đề gồm ba chương:
Chương I: Tiếp cận hoạt động cho thuê tại các Công ty Cho thuê Tài chính.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho thuê tại Công ty Cho thuê Tài chính I- Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty
cho thuê tài chính I.

Hoạt động cho thuê tại các công ty cho thuê tài chính

1.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ cho thuê tài sản.

Hình thức tài trợ thông qua cho thuê tài sản đã có lịch sử khá lâu đời và diễn ra trong
hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh, thuộc nhiều lĩnh vực trên thế giới. Theo các thư
tịch cổ, các giao dịch cho thuê tài sản đã xuất hiện từ năm 2800 trước Công nguyên tại thành
phố Sumerian. Các thầy tu giữ vai trò người cho thuê, người thuê là những nông dân tự do.
Tài sản được đem ra giao dịch bao gồm: công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, nhà cửa,
đất ruộng
Vào khoảng năm 1700 tr.C.N, vua Babilon là Hamnurabi đã ban hành nhiều văn bản
quan trọng tạo thành một bộ luật lớn, trong đó có đưa ra những quy định về hoạt động cho
thuê tài sản.
Trong các nền văn minh cổ đại khác như Hy Lạp- La Mã hay Ai Cập cũng đã xuất
hiện các hình thức cho thuê để tài trợ cho việc sử dụng đất đai, gia súc, công cụ sản xuất. Có
thể nói rằng, rất nhiều vấn đề mà các giao dịch thuê mua ngày nay đã gặp phải đã được giải
quyết từ nhiều thế kỉ trước.

Tuy nhiên, các giao dịch thuê tài sản thời cổ thuộc hình thức thuê mua kiểu truyền
thống (Traditional Lease). Phương thức giao dịch của hình thức này tương tự như phương
thức thuê vận hành ngày nay và trong suốt lịch sử hàng ngàn năm tồn tại của nó, đã không có
sự thay đổi lớn về tính chất giao dịch.
Đầu thế kỉ XIX, hoạt động thuê mua đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng và chủng
loại thiết bị, tài sản cho thuê. Đến đầu thập niên 50 của thế kỉ XX, giao dịch thuê mua đã có
những bước phát triển nhảy vọt, nhất là tại Hoa Kì. Nguyên nhân của sự phát triển này là do
sự hoạt động thuê mua đã có những thay đổi về tính chất của giao dịch.
Nhằm đáp ứng những nhu cầu vốn trung dài hạn, nghiệp vụ tín dụng thuê mua thuần
(Net lease) hay thuê tài chính (Finance lease), thuê tư bản (Capital lease) đã được sáng tạo ra
trước tiên ở Hoa Kì. Đó là sự ra đời của công ty tư nhân United States Leasing Corporation.
Sau đó nghiệp vụ leasing phát triển sang châu Âu và đã được ghi vào luật thuê mua
của Pháp (năm 1960) với tên gọi “credit bail”. Cũng năm 1960 hợp đồng thuê mua đầu tiên
đã được thảo ra ở Anh có trị giá 18000USD
Từ khi xuất hiện hình thức cho thuê tài sản, các hoạt động giao dịch thuê mua đã có
những bước phát triển hết sức mạnh mẽ cả về chủng loại tài sản, thiết bị và khối lượng giao

dịch. Trong giao dịch thuê mua ngày nay, các công ty Leasing có thể cho thuê cả những nhà
máy hoàn chỉnh theo phương thức chìa khoá trao tay. Đồng thời về mặt chủng loại hoạt động
cho thuê bao gồm từ thiết bị, dụng cụ văn phòng cho tới những toà nhà lớn, thậm chí cả
những tổ hợp năng lượng nguyên tử. Chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ, tổng số vốn thiết bị cho thuê
năm 1987 ước tính lên tới 107,9 tỷ $ và có tốc độ gia tăng 7% mỗi năm. Ngày nay, ngành
thuê mua thiết bị Hoa Kỳ chiếm khoảng 25% - 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua
bán thiết bị hàng năm. Còn ở Anh, theo một công bố mới đây của hiệp hội tín dụng thuê mua
thiết bị, thuê vận hành chiếm khoảng 20% vốn tài trợ cho các hoạt động thuê mua và năm
1993 tổng giá trị ngành công nghiệp thuê mua đạt 49 tỷ USD.
Tín dụng thuê mua cũng đã có những bước phát triển mạnh mẽ ở Châu á và nhiều khu
vực khác kể từ đầu thập niên 70. Theo một thống kê gần đây cho thấy, ngành công nghiệp
thuê mua thế giới có giá trị trao đổi chiếm khoảng350 tỷ USD vào năm 1994 và đến năm
1998 con số này đã là 450 tỷ USD.

ở Việt Nam, trong điều kiện chuyển đổi sang kinh tế thị trường, nhu cầu vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh là rất lớn và mang tính cấp bách hơn bao giờ hết, thì sự ra đời của
các công ty cho thuê tài chính- một kênh dẫn vốn trung gian- đã bước đầu tạo được chỗ đứng
của mình trên thị trường. Cho đến nay, Việt Nam đã có 9 công ty cho thuê tài chính, với
lượng vốn đầu tư khoảng 850 tỷ VNĐ/ năm. Tuy lượng vốn đầu tư này còn khá khiêm tốn so
với nhu cầu vốn của nền kinh tế song phần nào đã đáp ứng cho việc cung cấp và cải thiện các
loại máy móc thiết bị cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Như vậy, hoạt động cho thuê tài sản được thể hiện trước hết ở thoả thuận thuê tài sản
là thoả thuận mà theo đó, người cho thuê chuyển quyền sử dụng tài sản sang người thuê trong
một thời gian nhất định, được thoả thuận trước để nhận được những khoản tiền thuê.
Một thoả thuận thuê tài sản phải có những đặc điểm sau:
* Thời gian cho thuê là trung hoặc dài hạn, chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài
sảnvà không thể huỷ ngang theo ý muốn của một bên.
* Trong suốt thời gian diễn ra hoạt động cho thuê tài sản, quyền sở hữu pháp lý đối với
tài sản thuộc về người cho thuê, và quyền sử dụng tài sản thuộc về người thuê. Phần lớn các
chi phí bảo trì, bảo hiểm, rủi ro, thuế và các lợi ích phát sinh trong quá trình sử dụng tài sản

được chuyển từ người cho thuê sang người thuê.
* Trong khoản tiền thuê mà người thuê trả cho người cho thuê theo định kỳ bao gồm
tiền vốn gốc, tiền lãi tín dụng, phần lợi nhuận hợp lý và các chi phí quản lý khác. Do đó,
giống như hình thức tín dụng Ngân hàng, hoạt động cho thuê tài sản cũng mang tính hoàn trả,
tính thời hạn và lãi suất. Như vậy về thực chất, hoạt động cho thuê tài sản (leasing) là một
hình thức tài trợ nếu xét từ phương diện người cho thuê.
Như vậy, có thể định nghĩa hoạt động cho thuê tài sản dựa vào Nghị định số 16/2001/
NĐ- CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính là “ Cho thuê
tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết
bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên
cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với
các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời

hạn thuê đã được hai bên thoả thuận”. Có thể nhận rõ hình thức này qua việc so sánh giữa
cho thuê tài sản và thuê mua trả góp thông qua bảng so sánh sau:

Tiêu th
ức

Cho thuê tài
s
ản

Thuê mua tr
ả góp

a
-


Tài s
ản cho thuê



b- Người thuê
c- Thời hạn hợp đồng

d- Huỷ ngang hợp đồng

e- Giá trị còn lại của tài
sản

f- Bảo trì, mua bảo hiểm
g- Mục đích

h- Quyền sở hữu


i- Tính toán để khấu trừ
Bao g
ồm tất cả các loại tài sản
và không có thế chấp.

Các pháp nhân
Có thời hạn khá dài: từ 1 đến
20 thậm chí 30 năm.
Không được huỷ ngang hợp
đồng.
Có thể chuyển giao cho người

thuê khi hợp đồng hết hạn.
Do người thuê thực hiện.
Đảm bảo cho người thuê đổi
mới công nghệ kịp thời.
Thuộc quyền người cho thuê
và có thể được chuyển giao
cho người thuê.
Tổng số tiền thuê.
Bao g
ồm tất cả các loại tài
sản và có thế chấp hoặc
không có thế chấp.
Các pháp nhân và thể nhân.
Có thòi hạn trung bình từ 1
đến 5 năm.
Không được huỷ ngang hợp
đồng.
Chuyển giao cho người thuê
khi kết thúc hợp đồng.
Do người thuê thực hiện.
Tài sản được khấu hao
nhanh và không dễ bị lạc
hậu.
Chuyển giao cho người thuê
vào thời điểm kết thúc hợp
đồng.
Tổng tiền lãi và khấu hao.

Nếu chỉ xem xét về mặt thuật ngữ thôi thì ta thấy rằng đã có rất nhiều vấn đề. Khái
niệm này được chính thức đưa ra đầu tiên trong pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và

công ty tài chính với tên gọi là "tín dụng thuê mua" nhưng không có định nghĩa. Năm 1993,
trong bản nghiên cứu của công ty tài chính quốc tế (IFC) đưa ra thuât ngữ "thuê mua" và "tài
trợ thuê mua". Nhìn chung từ đó đến nay, hai từ "thuê mua" và "tín dụng thuê mua" được
dùng phổ biến. Tuy vậy, vẫn không có một định nghĩa đầy đủ được chấp nhận thống nhất.
Nhiều người quan niệm thuê mua bao gồm cả cho thuê vận hành (quan niệm này dẫn đến

mâu thuẫn trong chính thuật ngữ). Một số khác cho rằng thuê mua không bao gồm cho thuê
vận hành và đưa ra khái niệm "thuê mua thuần" để phân biệt.
Nghị định số 16/ CP của chính phủ ngày 31/05/2001 đưa ra khái niệm "cho thuê tài
chính" và như vậy dùng thay thế từ "tín dụng thuê mua". Tuy nhiên, ngoài các văn bản có
tính chất pháp lý ra thì trên thực tế từ này rất ít được sử dụng. Để đảm bảo tính thống nhất
trong luận văn từ phần này trở về sau, em xin sử dụng thuật ngữ "cho thuê".
1.2. Phương thức cho thuê
Cho thuê là một phương thức tài trợ tín dụng trung, dài hạn không thể huỷ ngang bằng
tài sản chứ không phải bằng tiền. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản,
thiết bị mà người thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua tài sản đó với nhà
cung cấp hoặc người cho thuê cung cấp tài sản của họ cho người thuê. Tuỳ theo quy định của
_ong quốc gia, nghiệp vụ này được coi là cho thuê tài sản khi thời hạn thuê mua thường
chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và giá trị hiện tại ròng của toàn bộ các khoản tiền
thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng.
Thông thường một giao dịch cho thuê thường được chia thành ba phần như sau:
+ Thời hạn thuê cơ bản (Basic lease period): là thời hạn mà người thuê trả những khoản tiền
thuê cho người cho thuê để được quyền sử dụng tài sản. Trong _ong giai đoạn này, người cho
thuê thường kỳ vọng thu hồi đủ số tiền đã bỏ ra ban đầu cộng với tiền lãi trên số vốn đã tài
trợ. Đây là thời hạn mà tất cả các bên không được quyền huỷ ngang hợp đồng nếu không có
sự chấp thuận của bên kia.
+ Thời hạn gia hạn tuỳ chọn (Optional renewal Period): Trong giai đoạn gia hạn thứ hai này,
người thuê có thể tiếp tục thuê thiết bị tuỳ theo ý muốn của họ. Tiền thuê trong giai đoạn này
thường rất thấp so với tiền thuê trong thời hạn cơ bản, thường chiếm tỷ lệ 1- 2 % tổng số vốn
đầu tư ban đầu và thường phải trả trước vào đầu mỗi kỳ thanh toán.

+ Phần giá trị còn lại (Residual Value Share): Theo thông lệ, tại thời điểm kết thúc giao dịch
cho thuê người cho thuê thường uỷ quyền cho người thuê làm đại lý bán tài sản. Người thuê
được phép hưởng phần tiền bán tài sản lớn hơn so với giá mà người cho thuê đưa ra, hoặc
được khấu trừ vào tiền thuê hay được coi như một khoản hoa hồng bán hàng.
Khi thời hạn cho thuê căn bản đáo hạn, người thuê có quyền lựa chọn một trong
những hình thức mua lại tài sản với giá trị hợp lý hay giá tượng trưng tuỳ theo sự thoả thuận

đã được dự liệu trước trong hợp đồng – hoặc người thuê cũng có thể tiếp tục thuê tài sản hoặc
nhận làm đại lý bán tài sản đó tuỳ theo sự uỷ quyền của người cho thuê. Phương thức cho
thuê được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 1.1 Phương thức cho thuê












1.2.1. Phân loại các phương thức cho thuê tài sản:
Nhằm so sánh những đặc điểm của các phương thức thuê tài sản với nhau để từ đó
giúp các bên có liên quan dễ dàng phân loại, nhận diện giao dịch thuộc phương thức thuê nào
để áp dụng các quy chế hạch toán, kế toán, hưởng các ưu đãi (nếu có) và quản lý chúng (đối
với các cơ quan Nhà nước) theo những quy chế đã được Nhà nước quy định. Trong hình thức
thuê tài sản có hai phương thức cho thuê vận hành và cho thuê tài chính hay còn gọi là thuê
ngắn hạn và thuê dài hạn. Bởi cho thuê vận hành là hình thức cho thuê kiểu truyền thống, có

thời hạn rất ngắn (khoảng 1- 5 năm) so với đời sống hữu ích của tài sản. Cho thuê dài hạn hay
còn gọi là cho thuê tài chính có thời hạn cho thuê dài hơn (từ trên 1 năm đến 20 – 30 năm).
Sự khác biệt có thể được xem xét trong bảng sau :

Bảng 1.2 So sánh cho thuê vận hành và cho thuê

ST
Tiêu th
ức

Thuê v
ận hành

Thuê tài chính

Người cho
thuê

Hợp đồng
thuê TS

Quyền sử
d
ụng TS

Trả tiền
thuê TS

Người
thuê



mu
a

n

i
Quyền
sở
hữu
pháp

đối
v
ới
Tr

ti
ền
mu
a

Giao
tài
sản
Bảo
trì

phụ

tùn
g
tha
y
Trả
ti
ền
Bảo
trì

phụ
tùng
Nhà cung cấp

T

1


2


3

4

5


6


7
8


9





10
Quy
ền sở hữu


Thời hạn thuê

Quyền huỷ ngang
hợp đồng
Rủi ro

Chi phí bảo trì, dịch
vụ và mua bảo hiểm

Ưu đãi về thuế

Bồi thường bảo
hiểm
Cung ứng tài sản

thuê.


Tiền bán tài sản.





Các loại tài sản
thường sử dụng
trong giao dịch.
Tách bi
ệt quyền sở hữu pháp lý
và quyền sử dụng
Rất ngắn so với đời sống hữu
ích của tài sản
Được quyền huỷ ngang hợp
đồng

Người cho thuê chịu mọi rủi ro
thiệt hại
Người cho thuê chịu mọi chi
phí vận hành, bảo trì, dịch vụ,
phí bảo hiểm.
Người cho thuê hưởng và khấu
trừ vào tiền thuê.
Người cho thuê hưởng
Tài sản thuê mướn thường do
người cho thuê cung cấp.


Toàn bộ tiền thu được do bán
tài sản thuê thuộc quyền sử
dụng của người cho thuê.



Máy photocopy, máy vi tính, xe
ôtô, đồ đạc trong nhà, văn
phòng….
Như thuê v
ận hành


Thường dài hơn một nửa cho
tới bằng đời sống hữu ích của
tài sản.
Không được quyền huỷ ngang
hợp đồng
Người thuê chịu mọi rủi ro thiệt
hại.
Người thuê chịu mọi chi phí
vận hành, bảo trì, dịch vụ, phí
bảo hiểm.
Tương tự như thuê vận hành.

Người cho thuê hưởng
Tài sản cho thuê thường do
người thuê đặt hàng, giao nhận
và sử dụng.

Phần tiền bán tài sản lớn hơn so
với giá quy định của người cho
thuê được chuyển cho người
thuê hưởng như một khoản hoa
_ong bán hàng hay được khấu
trừ vào tiền thuê.
Bất động sản, xe lửa, tàu biển,
máy bay, thiết bị văn phòng…




Sự phân loại này được dựa trên hai căn cứ cơ bản là :
+ Những rủi ro và biện pháp bảo đảm cho giá trị còn lại của tài sản thuê do bên nào thực hiện.
+ Quyền sử dụng và hưởng dụng toàn bộ các lợi ích kinh tế do tài sản thuê mang lại có được
chuyển giao cho người thuê hay không ?
Dựa trên những cơ sở này, Uỷ Ban Tiêu Chuẩn Kế Toán Quốc Tế (IASC) đã đề ra 4
tiêu chuẩn làm cơ sở chung để phân loại và nhận diện các hợp đồng thuê tài sản thuộc
phương thức nào:
 Quyền sở hữu tài sản thuê có được chuyển giao cho người thuê khi kết thúc hợp
đồng không ? Nếu có thì đó là giao dịch thuê tài chính còn không thì là thuê vận hành.
 Trong hợp đồng có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng với
giá tượng trưng không ? Nếu có là giao dịch thuê tài chính, còn nếu không thì là thuê vận
hành
 Thời gian của hợp đồng thuê có chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản thuê
hay không ? Nừu thoả mãn thì giao dịch thuộc thuê tài chính, các trường hợp còn lại thuộc
thuê vận hành.
 Hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê tối thiểu do người thuê trả có tương
đương hoặc lớn hơn giá trị thị trường của tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng không ? Nếu
có là giao dịch thuê tài chính, nếu không là thuê vận hành.

Tất cả mọi giao dịch thuê tài sản nếu thoả mãn một trong bốn tiêu chuẩn này đều thuộc
phương thức thuê tài chính. Những giao dịch còn lại thuộc thuê vận hành.

Sơ đồ 1.2 tóm tắt quy trình phân loại này






Tài
Quyền sở hữu
được chuyển
giao khi th
ời
Hợp đồng thuê có
quy định quyền
ch
ọn mua theo



Không

















Trên cơ sở các tiêu chuẩn phân loại theo IAS 17 của IASC, mỗi quốc gia đều có những
quy định cụ thể trong luật thuê mua của họ dựa trên cơ sở những điều kiện của mỗi nước.
Những quy định này có những khác biệt nhất định, song về cơ bản chúng không mâu thuẫn
với IAS 17 và tuỳ theo mức độ những quy định này có thể chi tiết cụ thể hơn IAS 17.
1.2.2. Các loại hợp đồng cho thuê:
Tuỳ theo tính chất trong _ong giao dịch thuê mua mà có thể phân loại các thoả thuận
thành nhiều loại hợp đồng khác nhau.
1.2.2.1. Hợp đồng cho thuê trực tiếp:
Trong loại hợp đồng này, người cho thuê sử dụng thiết bị của họ có sẵn trực tiếp tài trợ
cho người thuê. Người cho thuê thường là nhà sản xuất hoặc các định chế tài chính và cũng
có thể là công ty Leasing, sử dụng tài sản của họ tài trợ cho người thuê.
Đây là một hình thức tài trợ mà các nhà sản xuất thường sử dụng để đẩy mạnh tiêu thụ
sản phẩm do họ sản xuất ra .Mặt khác, nhờ luôn cập nhật những công nghệ mới để chế tạo ra
các loại máy móc, thiết bị nên các nhà sản xuất có thể mua lại những thiết bị đã lạc hậu về
mặt công nghệ để tiếp tục cung cấp các loại máy móc mới ,hiện đại do họ chế tạo ra.
Sơ đồ 1.3 – Hợp đồng tài trợ trực tiếp.












Ngư
ời cho thuê

Ngư
ời thuê

1
-

S
ử dụng các máy móc,thi
ết bị của chính
họ để cho thuê.
2- Đảm nhiệm toàn bộ vốn tài trợ.


3- Cung cấp các phụ tùng và dịch vụ bảo trì
cùng với thiết bị theo hợp đồng phụ.
4- Nhận các khoản tiền thuê và những hoản
tiền dịch vụ theo hợp đồng phụ.
5- Nhận lại tài sản đã lỗi thời và cung cấp
thiết bị thay thế.
1
-


Thuê máy móc thi
ết bị từ ng
ư
ời có tài
sản đó
2- Ký kết với nhà cung cấp một phụ kiện
hợp đồng về cung cấp phụ tùng và dịch
vụ bảo trì.
3- Trả tiền thuê theo định kỳ và trả tiền
phụ tùng và dịch vụ.
4- Bán lại thiết bị khi chúng đã lạc hậu và
nhận thuê những thiết bị mới.

1.2.2.2. Hợp đồng cho thuê liên kết:
Loại hợp đồng này bao gồm nhiều bên tài trợ cho người thuê. Sự liên kết này có thể xảy
ra theo chiều dọc hoặc chiều ngang tuỳ theo tính chất của loại tài sản hay khả năng tài chính
của các nhà tài trợ. Trường hợp tài sản có giá trị lớn nhiều định chế tài chính hay các nhà chế
tạo cùng chia nhau hợp tác để tài trợ cho người thuê tạo thành sự liên kết theo chiều ngang.
Còn đối với trường hợp các định chế tài chính hoặc các nhà chế tạo lớn giao tài sản cho chi

Người cho

thuê

hay

Nhà sản
xuất
Thiết bị (quyền

Các lo
ại dịch vụ bảo trì và
phụ tùng
Tr
ả tiền thuê và dịch vụ
phụ tùng

Bán lại các thiết

Người
thuê

Hay

Người
tiêu

thụ

nhánh của họ (dealers) thực hiện giao dịch tài trợ cho khách hàng thì hình thành sự liên kết
theo chiều dọc ( Trust leases)
Các bước và đặc điểm trong giao dịch với người thuê của loại hợp đồng này không có
khác biệt lớn so với hình thức cho thuê thuần tuý hay điển hình.
Ngư
ời cho thuê

Ngư
ời thuê

1/ Có th

ể là sự liên kết giữa các
đ
ịnh chế tài
chính với các nhà sản xuất hay giữa công ty
mẹ với các chi nhánh.
2/ Các loại tài sản _ong trong giao dịch
thường là những loại có giá trị cao.
3/ Các công ty con chuyên kinh doanh cho
thuê có trình độ chuyên môn cao, chuyên sâu
trong _ong lĩnh vực công nghệ hay loại thiết bị
cụ thể.
4/ Các đặc điểm khác tương tự như phương
thức thuê mua thuần.
1/ Là m
ột doanh nghiệp nhận tài sản
thuê.


2/ Thực hiện các nghĩa vụ trả tiền thuê,
bảo quản tài sản, chịu rủi ro, mua bảo
hiểm như trong phương thức thuê mua
thuần.

1.2.2.3. Hợp đồng cho thuê bắc cầu:
Hình thức này xuất hiện trong thời gian gần đây xuất phát từ thực tế các công ty cho
thuê có những hạn chế về nguồn vốn không đủ khả năng tài trợ cho khách hàng . Hình thức
này cho phép người cho thuê đi vay để mua tài sản cho thuê từ một hay nhiều người cho thuê
nào đó ( Tuy nhiên,theo luật pháp của một số quốc gia khoản tiền vay này không được vượt
quá 80% tổng giá trị tài sản dược tài trợ) .Hình thức này được tóm tắt trong bảng sau:



Sơ đồ 1.4 – Thoả thuận thuê mua bắc cầu.




Người cho vay
(Lender)
Tiề
n
trả
n


Tiề
n
cho
vay









Ngư
ời cho vay


Ngư
ời cho thuê

Ngư
ời thuê

1/ Cung c
ấp tín dụng trung và
dài hạn chiếm phần lớn giá trị tài
sản cho thuê.
2/ Nhận tiền trả nợ vay bằng tiền
thuê do người thuê trả theo yêu
cầu của người cho thuê.

3/ Khoản cho vay được đảm bảo
bằng tài sản và tiền thuê.
1/ S
ở hữu chủ tài sản cho thuê
và nhận được sự miễn giảm
thuế.
2/ Mượn đối ứng phần lớn giá
trị tài sản và bảo đảm khoản
vay bằng cả tài sản cùng các
khoản tiền cho thuê nó.
3/ Trả nợ bằng tiền thuê tài
sản. Phần tiền thuê vượt quá
số tiền vay được giữ lại.
1/ Tr
ả tiền thuê tài
sản cho người cho

thuê.

2/ Ngoài ra không có
sự khác biệt so với
hình thức thuê mua
thuần.


Loại hình cho thuê này thường được sử dụng trong các giao dịch thuê mua đòi hỏi một
lượng vốn đủ lớn, chẳng hạn thuê một máy bay thương mại hoặc là một tàu trở hàng hoặc là
một tổ hợp chuyên ngành lớn.
1.2.2.4. Hợp đồng bán và cho thuê lại:
Bán và cho thuê lại là một thoả thuận tài trợ tiêu _ong mà bên A (người thuê) bán một tài
sản của chính họ cho bên B (người cho thuê). Đồng thời, ngay lúc đó một hợp đồng thuê mua
được thảo ra với nội dung bên B đồng ý cho bên A thuê lại chính tài sản mà họ vừa
bán.Trường hợp này xuất hiện khi các doanh nghiệp- nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ-
gặp rất nhiều khó khăn về vốn lưu động. Mà vay vốn sẽ gặp nhiều thủ tục, điều kiện đăng ký
khắt khe mà các doanh nghiệp này khó có thể thoả mãn. Đồng thời, trong trường hợp doanh

nghiệp có nhu cầu phải duy trì năng lực sản xuất nên không thể bán bớt tài sản cố định để
chuyển thành tài sản lưu động. Do đó, hình thức bán và tái thuê có thể đáp ứng được nhu cầu
này.
Sơ đồ 1.5. Thỏa thuận bán và tái thuê.















Ngư
ời cho thuê

Ngư
ời thuê

1- Mua tài sản của người thuê và nắm
quyền sở hữu về mặt pháp lý.
2- Trả tiền cho người thuê theo giá tại
thời điểm thoả thuận mua tài sản.
3- Giao quyền sử dụng tài sản cho người
thuê.
4- Nhận các khoản tiền thuê và thực
hiện các điều kiện thuê tuỳ theo
phương thức thuê mua.
1
-

Bán tài s
ản cho ng
ư
ời cho thuê và
chuyển giao quyền sở hữu về mặt pháp

lý.
2- Nhận được tiền theo giá tại thời điểm
thỏa thuận bán tài sản.
3- Thuê lại tài sản vừa bán cho người cho
thuê - Giữ lại quyền sử dụng tài sản.
4- Trả tiền thuê cho người cho thuê và thực
hiện các điều kiện tuỳ theo phương thức
cho thuê

Công ty leasing




Người mua



Người cho thuê
Tho
ả thuân mua bán tài sản

Quyền sở hữu pháp lý
Tiền mua tài sản

Quy
ền sử dụng tài sản

Ch
ủ sở hữu

ban đầu


Người bán



Người thuê
Tr
ả tiền thuê

Hợp đồng thuê mua

Điều đáng lưu ý là những tài sản được sử dụng vào giao dịch này là những tài sản còn
giá trị sử dụng hữu ích. Giá mua của tài sản tuỳ thuộc vào giá cả hợp lý của tài sản trên thị
trường vào thời điểm lập hợp đồng mua bán. Các loại thiết bị mới hay đă sử dụng đều có thể
được bán và tái thuê, giá của thiết bị mới thường căn cứ vào hoá đơn của nhà cung cấp, còn giá
của thiết bị đã qua sử dụng thì cần được định giá độc lập.
Những tiện ích của dịch vụ này là ngoài mục đích giải quyết nhu cầu vốn lưu động,
những công ty muốn tạo ra lợi nhuận ghi sổ hay lợi nhuận tính thuế với điều kiện giá bán tài
sản cao hơn phần khấu hao còn lại trong sổ sách cũng có thể áp dụng hình thức này.
Ngoài ra, hình thức này cũng còn được sử dụng để tái tài trợ trung, dài hạn đối với
những tài sản trước đó được mua bằng nguồn tiền vay hay được _ong để giảm chi phí huy
động vốn nếu hình thức này có mức lãi _ong thấp hơn các chi phí sử dụng vốn khác. Tại Hoa
Kỳ, hình thức giao dịch này có sức cạnh tranh rất cao trong ngành kinh doanh bất động sản,
còn trong các ngành sản xuất thì tuỳ thuộc vào chủng loại thiết bị mà chúng có sức cạnh tranh
từ vừa đến cao. Tại Việt Nam hiện nay, hình thức này đang được áp dụng tại một số công ty
cho thuê.
1.2.2.5. Hợp đồng cho thuê giáp lưng
Đây là phương thức tài trợ mà trong đó được sự thoả thuận của người cho thuê, người

thuê thứ nhất cho người thuê thứ hai thuê lại tài sản mà người thuê thứ nhất đã thuê từ người
cho thuê.
Hình thức thoả thuận cho thuê này thường được thực hiện dưới dạng hợp đồng hoàn
trả toàn bộ được ký kết giữa người cho thuê với người thứ nhất. Loại hợp đồng này là loại
thoả thuận không thể huỷ ngang . Nhưng do người cho thuê thứ nhất sau khi thực hiện được
một phần của hợp đồng không còn nhu cầu nữa hay vì một lý do nào đó nên phải tìm người
thuê thứ hai để chuyển giao hợp đồng. Bởi nếu không còn cho thuê tiếp được thì dù không sử
dụng tài sản vẫn phải trả tiền thuê.

Sơ đồ 1.6. Thoả thuận thuê mua giáp lưng



Người
cho
thuê
(Less
or)

Quyền sử
dụng tài
Ti
ền
Người
thuê
thứ
nhất
Lessee
Quy
ền sử

d
ụng tài
Ti
ền
Người
thuê
thứ hai
(Lessee
II )





Ngư
ời cho thuê

Ngư
ời thuê thứ nhất

Ngư
ời thuê thứ hai

1
-

Cho thuê tài s
ản và
nhận tiền thuê.
2- Các quyền lợi và

nghĩa vụ khác như
trong thoả thuận thuê
mua thuần.
1
-

Thuê tài s
ản từ ng
ư
ời cho
thuê.
2- Cho người thuê thứ hai thuê
lại tài sản.
3- Không chịu trách nhiệm trực
tiếp đối với các rủi ro, thiệt
hại đối với tài sản.
4- Nhận tiền thuê từ người thuê
thứ hai và trả tiền thuê cho
người cho thuê.
1
-

Thuê tài s
ản từ ng
ư
ời thuê
thứ nhất.
2- Trả tiền thuê cho người
thuê thứ nhất.
3- Các nghĩa vụ và quyền lợi

không khác so với nghĩa
vụ và quyền lợi của người
thuê trong thoả thuận thuê
thuần.

Nhìn chung, hợp đồng cho thuê diễn ra rất đa dạng và khó có thể phân biệt _ong loại
thoả thuận cho thuê một cách rạch ròi. Các hình thức này đan xen vào nhau, nên việc xem
xét, phân tích chúng đòi hỏi phải có sự đánh giá trên nhiều phương diện.
1.3. Điều kiện thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài sản
1.3.1 Về khía cạnh kinh tế:
a. Nhu cầu của doanh nghiệp:
Nghiệp vụ cho thuê ra đời và phát triển là do nhu cầu của các doanh nghiệp về tài trợ
cho các thiết bị trong khi họ không có hoặc không muốn bỏ vốn ra mua sắm để tập trung
nguồn vốn của họ vào các đối tượng thuộc vốn lưu động. Vì vậy, nếu doanh nghiệp không có
nhu cầu thuê tài sản thì nghiệp vụ cho thuê cũng không thực hiện được.
b. Khả năng của bên cho thuê:
Bên cho thuê là các tổ chức tài chính, tín dụng nên có thể huy động nguồn vốn bằng
tiền hoặc tài sản trong nước và nước ngoài dễ dàng hơn các doanh nghiệp khác. Vì vậy họ có
khả năng tài trợ thiết bị bằng nghiệp vụ cho thuê cho các doanh nghiệp có nhu cầu thuê tài
sản.


1.3.2 Về khía cạnh pháp lý:
Nghiệp vụ cho thuê được thực hiện và phát triển dựa trên một môi trường pháp lý
hoàn thiện nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động cho thuê. Ngoài những luật cơ bản chung
cho các hoạt đông của nền kinh tế, liên quan đến các hoạt động cho thuê còn có các luật như:
1.3.2.1. Các chính sách về khuyến khích đầu tư và kinh doanh:
Hầu hết các luật về khuyến khích đầu tư và kinh doanh đều đều áp dụng hình thức
miễn thuế hoặc giảm thuế hải quan đối với hàng nhập khẩu và tiêu dùng bao cấp. Do hoạt
động cho thuê làm gia tăng đáng kể đầu tư trong nước cho nên luật khuyến khích đầu tư

nên áp dụng cho hoạt động này. Sự liên quan của các luật thuế đối với việc thúc đẩy nghiệp
vụ cho thuê là ở chỗ: Liệu các luật này có phải là giải pháp trung hoà lợi ích giữa người chủ
sở hữu và người sử dụng thiết bị cho thuê hay không , tức là pháp luật có công nhận rằng
lợi ích kinh tế các thiết bị cho thuê cũng giống như lợi ích kinh tế có được của cùng thiết bị
ấy nếu được mua đứt bán đoạn và do vậy phải được hưởng các khuyến khích bình đẳng
như nhau hay không .
1.3.2.2. Pháp luật về bên cho thuê:
Sau khi xem xét các cơ sở pháp lý nêu trên thì còn cần phải xem xét nhiều vấn đề liên
quan tới các qui chế chi phối người cho thuê và nghĩa vụ cho thuê, kể cả việc các công ty cho
thuê có cần được Chính phủ cấp giấy phép và thanh tra đặc biệt không? Các vấn đề khác về
mặt quy chế có thể là : Nguồn vốn và thời hạn vốn, yêu cầu về khả năng trả nợ, khả năng
thanh toán, các quy định về thiết bị đủ tiêu chuẩn cho thuê và yêu cầu về kế toán.
1.3.2.3. Pháp luật về hợp đồng kinh tế và sở hữu tài sản:
Cần phải định nghĩa rõ ràng về bản chất của giao dịch cho thuê để bảo vệ lợi ích hợp
pháp của người thuê và người cho thuê (đồng thời cũng buộc họ phải thực hiện các nghĩa vụ).
Đưa ra các phương thức cho thuê cần thiết , bởi có nhiều loại giao dịch cho thuê khác nhau,
bao gồm từ loại mua đứt bán đoạn thiết bị với điều kiện là người mua hoàn thành các nghĩa
vụ cụ thể (chủ yếu là thanh toán từng đợt theo thoả thuận) đến loại nghiệp vụ thuê tài sản mà
trong đó người thuê tạm thời sử dụng tài sản nào đó nhưng không có ý định sẽ sở hữu nó sau
này.

Nếu không phân biệt rõ ràng giữa nghiệp vụ cho thuê với các giao dịch thương mại
hoặc tài chính khác thì hoạt động cho thuê sẽ phải tuân thủ các điều khoản bất lợi trong các
luật khác. Đồng thời các thủ tục pháp lý về chuyển nhượng tài sản và thoả thuận hợp đồng
nên để ở mức tối thiểu cần thiết để thực hiện giao dịch này.
1.3.2.4. Pháp luật về thuế:
Luật thuế của một nước phải có các điều khoản cụ thể về nghĩa vụ thuế và ưu đãi thuế
đối với các bên liên quan đến giao dịch cho thuê, kể cả phần khấu hao . Điều này cho phép
bên thuê có thể đánh giá chi phí thuê so với các chi phí tài trợ thiết bị khác (như vay vốn ngân
hàng, phát hành trái phiếu, cổ phiếu ). Về phía người cho thuê chi phí của họ phải được ưu

đãi tương đối mới có thể thúc đẩy các tổ chức tín dụng đầu tư vào lĩnh vực này.
Bốn vấn đề pháp lý vừa được đề cập ở trên là rất cơ bản đối với việc phát triển dịch
vụ cho thuê và chúng có tầm quan trọng thứ hai sau nhu cầu thực sự về tài trợ cho thiết bị của
một tổ chức nói chung.
Kinh nghiệm cho thấy, nghiệp vụ cho thuê sẽ chỉ phát triển được khi các vấn đề pháp
lý và toàn bộ cơ sở pháp luật cho phép nghiệp vụ cho thuê trở thành biện pháp tài trợ hiệu
quả và cạnh tranh được về mặt chi phí. Có thể ban hành "Luật Cho thuê Tài chính" vì nó xác
định rõ quyền hạn, nghĩa vụ của mỗi bên tham gia giao dịch cũng như xác định chức năng
quản lý của Chính phủ nhằm thúc đẩy hoạt động này. Nếu Chính phủ lần đầu tiên đưa ra hoạt
động cho thuê thiết bị vào nền kinh tế và nếu cơ sở pháp lý cơ bản liên quan đến cho thuê
không rõ ràng thì việc ban hành luật cho thuê tài chính sẽ rất có ích. Nhưng nếu đã có một cơ
sở pháp lý lành mạnh hay có thể sửa đổi ngay được các luật không cần phải có luật cho thuê
tài chính cụ thể.
1.4. Những ưu thế và bất lợi trong nghiệp vụ cho thuê :
Mặc dù hoạt động cho thuê có rất nhiều ưu điểm và cũng nhận thấy rằng cho thuê là
hình thức tài trợ máy móc, thiết bị duy nhất cho các nghiệp vụ mà thị trường vốn còn chưa
phát triển, mặt khác khi đó cần có sự phát triển của hệ thống ngân hàng- tài chính ở một
trình độ nhất định. Song bên cạnh đó, hoạt động này cũng không thể dấu đi những hạn chế
nảy sinh (do điều kiện khách quan hay chủ quan mang lại) cụ thể là:
1.4.1. Đối với bên đi thuê:
Ưu thế:

- Hạn chế sự lạc hậu của máy móc và thiết bị
Do thời gian đi thuê ngắn hơn thời gian hữu dụng của máy móc, thiết bị, vì vậy, nghiệp
vụ cho thuê có thể giúp các doanh nghiệp tránh được sự lạc hậu và lỗi thời của máy móc,
thiết bị trong sự phát triển không ngừng của công nghệ hiện nay.
- Được tài trợ với tỷ lệ cao và đến mức tài trợ toàn bộ cho chi phí mua sắm máy móc
thiết bị.
Việc tài trợ cho thuê được bảo đảm bởi chính bản thân máy móc thiết bị cho thuê. Nghĩa
là, nó cho phép người cho thuê dễ dàng lấy lại máy móc, thiết bị trong trường hợp hợp đồng

bị vi phạm. Do vậy, doanh nghiệp thường không cần phải đặt tiền gửi hoặc thanh toán trước
đối với tài sản đi thuê. Tuy nhiên, trong những trường hợp có mức độ rủi ro cao thì phải đặt
cọc hoặc ký quỹ một khoản tiền. Nhưng những doanh nghiệp như vậy sẽ gặp nhiều khó khăn
hơn khi xin vay với các hình thức cho vay khác. Nói chung, hình thức tài trợ thuê mua chiếm
một tỷ lệ cao trong chi phí mua sắm thiết bị hơn các hình thức tài trợ khác.
- Không hạn bị chế về hạn mức tín dụng:
Tài sản đi thuê được hạch toán ngoại bảng nên không làm tăng số nợ của doanh nghiệp
.Vì vậy không ảnh hưởng tới hạn mức tín dụng của doang nghiệp .
- Không bị đọng vốn trong tài sản cố định:
Do không phải bỏ ngay ra một khoản tiền lớn để mua sắm máy móc thiết bị nhưng doanh
nghiệp vẫn có tài sản để sử dụng nên doanh nghiệp không bị đọng vốn trong tài sản cố định,
tập trung được vốn tự có và vốn vay của ngân hàng để đáp ứng những nhu cầu về vốn lưu
động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Thu hút vốn nước ngoài:
Thông qua tín dụng thuê mua, các doanh nghiệp Việt Nam có thể huy động được vốn
nước ngoài thông qua các công ty cho thuê quốc tế hoặc các công ty liên doanh cho thuê
hoạt động ở Việt Nam. Lợi thế chính là hiện nay mức lãi suất ngoại tệ trên thị trường vốn
quốc tế thấp hơn lãi suất vay ở Việt Nam, do đó thông qua thuê máy móc, thiết bị của các
công ty nước ngoài có thể nhận được vốn tài trợ có mức lãi suất thấp hơn so với lãi suất trên
thị trường vốn Việt Nam bằng VND.
- Đơn giản hơn các hình thức tài trợ khác trong khi xem xét uy tín doanh nghiệp cần
được tài trợ và tài trợ một cách nhanh chóng.

Đối với các công ty nhỏ hoặc ít uy tín trên thị trường vốn thì tài trợ cho thuê được coi
như là hình thức duy nhất để có thể sử dụng những thiết bị lớn trong thời gian dài. Do quyền
sở hữu pháp lý thuộc về người cho thuê nên các công ty cho thuê có thể chấp nhận những
người đi thuê không có uy tín lớn, hơn nữa các công ty nhỏ có thể không có mối quan hệ gần
gũi với ngân hàng và các ngân hàng có thể lưỡng lự khi cho các công ty này vay các khoản
vay có kỳ hạn.
- Cho phép người thuê hoãn thuế

Các khoản tiền thuế phải nộp hàng năm được tính vào chi phí của doanh nghiệp. Do đó
chúng làm giảm thu nhập tính thuế của doanh nghiệp bằng chính những khoản chi phí đó.
Khoản chi phí này được nhân với tỷ lệ chiết khấu sau thuế của doanh nghiệp và nhân với lãi
suất cho vay của ngân hàng, sẽ cho ta biết tỷ lệ tiết kiệm do hoãn thuế bởi thuê mua mang
lại cho doanh nghiệp.
Ví dụ: Tổng số tiền thuế phải nộp của doanh nghiệp hàng năm là 50 triệu đồng, mức
thuế thu nhập doanh nghiệp là 32%, lãi suất ngân hàng là 12%. Khoản tiền tiết kiệm được do
hoãn thuế là:
50 *[ 12% (1-0.32)] = 4.08 triệu
Như vậy, doanh nghiệp đã tiết kiệm được 4.08 triệu đồng do chậm nộp thuế lợi tức để sử
dụng chúng vào đầu tư cho sản xuất kinh doanh mà không phải đi vay và không phải trả lãi
suất vay.

- Thanh toán tiền thuê linh hoạt:
Tuỳ theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và điều kiện lưu chuyển tiền tệ của mình , các
doanh nghiệp đi thuê có thể lựa chọn phương thức trả tiền sao cho phù hợp nhất với tình
hình thực tế kinh doanh của mình như trả tăng dần, giảm dần hay trả theo niên kim cố định
- Cho thuê là hình thức tài trợ không làm thay đổi các hệ số phân tích tài chính:
Hầu hết các nước(trừ Mỹ, Mexico ) kể cả Việt Nam đều coi hoạt động cho thuê là
phương thức tài trợ ngoài bảng cân đối nên người thuê không phải hạch toán tài sản thuê vào
bảng tổng kêt tài sản. Do đó, các hệ số phân tích tài chính của người thuê sẽ được biểu hiện
tốt hơn của người mua tài sản bằng tiền đi vay tuy rằng về bản chất thực tế hoạt động kinh
doanh về cơ bản là giống nhau

- Hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị cho thuê có lợi nhuận cao hơn sử dụng vốn vay
thông thường do doanh nghiệp sẽ:
+ Sử dụng được tối đa công suất thiết bị.
+ Tránh được rủi ro mất giá do lạm phát.
+ Giảm được chi phí quản lý và chi phí nghiệp vụ.
+ Luôn được sử dụng các máy móc thiết bị với công nghệ tiên tiến phối hợp với hoạt động

sản xuất kinh doanh, đáp ứng được thời cơ kinh tế.
Bất lợi:
- Chịu chi phí thuê tài sản cao hơn lãi suất vay vốn của các hình thức tài trợ vốn khác
trên cùng một thị trường vốn.
Do công ty cho thuê thu lợi nhuận trên các khoản tiền mà họ vay để tài trợ cho giao
dịch cho thuê cho nên chi phí và thuế thường cao hơn chi phí vay vốn đầu tư mà doanh
nghiệp phải trả.
- Doanh nghiệp không được hưởng khoản tiền chiết khấu như mua tài sản
bằng tiền mặt.
Vào giai đoạn cuối của hợp đồng cho thuê, dù đã trả gần đủ số tiền thuê nhưng bên
thuê vẫn không được quyền sử dụng tài sản vào mục đích khác.
- Nếu tài sản được hoàn trả cho bên cho thuê ở thời điểm kết thúc hợp đồng, doanh
nghiệp không được hưởng giá trị còn lại của tài sản, bởi trong phí thuê đã tính gộp cả phần
tiền trả cho quyền chọn mua.
- Doanh nghiệp không được hưởng những khoản miễn giảm thuế dành cho tài sản cho
thuê, thiết bị dùng vào việc cho thuê thường được miễn giảm thuế nhập khẩu và bên cho
thuê được hưởng khoản lợi này.
Là khách hàng đi thuê thiết bị, tài sản của người cho thuê hay là người nhận sự tài trợ
tín dụng của công ty cho thuê. Người thuê cũng là người có quyền sử dụng, hưởng dụng
những lợi ích mà thiết bị mang lại và có trách nhiệm trả những khoản tiền thuê theo thoả
thuận. Do đó, sự thành công của một giao dịch cho thuê phụ thuộc nhiều vào năng lực hoạt
động sản xuất kinh doanh và đạo đức của người thuê. Liên quan đến người thuê (và các
trung gian trong hoạt động cho thuê) có thể kể tới một số rủi ro sau đây:

- Người thuê không đủ khả năng thanh toán tiền thuê do tình hình tài chính quá khó
khăn (do năng lực quản trị kém, nguồn nguyên liệu bị biến động hoặc nhu cầu thị trường
biến động quá nhanh, ngành kinh doanh hoặc sản phẩm đang bị suy thoái).
- Rủi ro do sự lừa đảo có chủ ý: Nhằm chiếm dụng vốn tài trợ thông qua các hình thức
như :
+ Hoá đơn khống : Kẻ lừa đảo dùng một hoá đơn xuất hàng khống để lừa đảo nhà tài trợ

, nhưng trên thực tế không có tài sản nào cả.
+ Dùng một tài sản để được tài trợ nhiều lần, kẻ lừa đảo tạo ra nhiều hoá đơn giao hàng
của một tài sản để nhận tài trợ từ nhiều người cho thuê. Mỗi hoá đơn được gửi đến cho một
nhà tài trợ. Loại hoá đơn lừa đảo này rất khó phát hiện bởi mỗi nhà tài trợ đều nhận được hoá
đơn gốc của nhà cung cấp.
+ Thổi phồng giá trị tài sản: Hình thức này thường xảy ra trong hình thức bán và tái
thuê, hay trong trường hợp máy móc thiết bị cũ.
Nếu là thiết bị mới, kẻ lừa đảo thường tìm cách để có đầy đủ bảng báo giá và cataloge
với giá cao hơn thực tế (Nhà tài trợ có thể yêu cầu sự giúp đỡ của một chuyên gia về thiết bị
để chống lại hình thức lừa đảo này).
+ Người thuê tự ý bán tài sản thuê.
+ Cung cấp sai lệch các thông tin tiêu dùng.
- Rủi ro do trung gian: Thông qua hệ thống đại lý (cung cấp tài sản, bảo trì ) người
cho thuê rất có thể không nhận được tiền thuê do sự cố ý hay vỡ nợ của các đại lý. Loại
rủi ro này thường xuất hiện trong các giao dịch cho thuê giáp lưng.
1.4.2. Đối với bên cho thuê:
Ưu thế:
- Cho thuê góp phần đa dạng hoá các phương thức đầu tư :
Nghiệp vụ này góp phần làm đa dạng hoá các hình thức đầu tư của các tổ chức tài
chính, tín dụng. Nó cũng phần nào thay thế các hình thức đầu tư khác phù hợp với khả năng
và nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp ở từng thời kỳ khác nhau trong quá trình phát triển.
Do vậy, thông qua hình thức cho thuê có thể mở rộng diện khách hàng tiếp cận với khu vực
tài chính.
- Cho thuê là hình thức tài trợ tương đối ít rủi ro:

Do người cho thuê luôn giữ quyền sở hữu về tài sản trong suốt thời gian cho thuê nên
người cho thuê có thể tránh được những mất mát, thiệt hại bằng cách thu hồi tài sản ngay khi
người thuê có những biểu hiện không tốt hoặc bị phá sản mà không cần sự phán quyết của toà
án. Vì vậy, việc thu hồi tài sản này thường là thuận lợi, ít tốn kém chi phí hơn so với việc thu
hồi tài sản mà doanh nghiệp thế chấp khi doanh nghiệp vay vốn.

Tài trợ qua nghiệp vụ cho thuê đảm bảo việc sử dụng vốn đúng đắn và hiệu quả do
người thuê tự chọn tài sản cần thuê để phục vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh của mình.
Mặt khác, người đi thuê trả tiền thuê bằng hiệu quả thu được từ việc sử dụng tài sản thuê.
Người cho thuê có nhiều khả năng thu hòi được khoản chênh lệch khi hết thời hạn hợp đồng
mà người đi thuê trả lại máy móc, thiết bị. Bởi vì, thông thường thì thiết bị thu về có giá trị
tái đầu tư cao hơn giá trị còn lại của thiết bị đã dự tính từ đầu.
Phương thức cho thuê giúp người cho thuê linh hoạt trong kinh doanh: Trong thời gian
tài trợ, vốn của người cho thuê bỏ ra để mua máy móc thiết bị cho thuê sẽ được thu hồi dần,
cho phép người cho thuê có thể sử dụng nguồn vốn này để tái đầu tư vào các hoạt động kinh
doanh sinh lợi và giữ vững nhịp độ hoạt động của mình.
- Hồ sơ, thủ tục cho thuê đơn giản hơn nhiều so với hồ sơ xin vay vốn ngân hàng hoặc
những thoả thuận tăng vốn cho doanh nghiệp .
Bất lợi:
Trong hoạt động cho thuê người cho thuê cũng có thể gặp phải một số rủi ro về:
- Rủi ro về tài chính: Loại rủi ro này thường xuất phát từ những nguyên nhân như:
+ Bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn.
+ Tiền thuê nhận được không đủ bù đắp vốn gốc.
- Rủi ro liên quan đến tài sản cho thuê:
+ Tài sản cho thuê được thu hồi về không thể cho thuê tiếp hoặc không bán được chúng.
+ Tài sản do nhà cung ứng giao cho bên thuê không đúng theo hợp đồng, tài sản không
được phép kinh doanh.
+ Rủi ro do sự lừa đảo có chủ ý.
- Rủi ro khách quan:
+ Rủi ro do môi trường kinh doanh đem lại : Do tình hình biến động xấu của nền kinh tế
dẫn tới đình trệ sản xuất và làm giảm nhu cầu thuê thiết bị, máy móc phục vụ sản xuất.

+ Rủi ro do thay đổi tỷ giá: Loại rủi ro này thường xảy ra theo hướng bất lợi cho người
cho thuê đối với loại thiết bị nhập khẩu hay
+ Rủi ro do biến động lãi suất: Do sự biến động lãi suất trên thị trường vốn dẫn tới sự
chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất tài trợ, gây bất lợi cho người cho thuê.

+ Rủi ro do sự biến động của pháp luật.
+ Rủi ro bất khả kháng: Môi trường kinh tế vĩ mô không thuận lợi như: Không có luật
quy định rõ ràng quyền về sở hữu hay không có thông tin mua bán máy móc , thiết bị cũ hoặc
các quy chế xuất nhập khẩu, thuế không chặt chẽ thì nguy cơ bị đọng vốn, mất vốn, gây ra
lỗ trong kinh doanh là điều rất dễ xảy ra.
1.4.3 . Đối với nền kinh tế.
Ưu thế:
- Góp phần giải quyết vốn đầu tư :
Mức độ rủi ro trong hoạt động cho thuê thấp nên có thể khuyến khích các thành phần kinh
tế, cá nhân và nhất là các định chế tài chính đầu tư vốn để kinh doanh. Do đó, hoạt động cho
thuê giải quyết được sự khó khăn về vốn của các doanh nghiệp và nếu mở rộng phạm vi hoạt
động ra khỏi một nước thì cho thuê còn cho phép nền kinh tế thu hút được vốn đầu tư từ bên
ngoài qua máy móc, thiết bị cho thuê. Thông qua vai trò trung gian giữa người cung ứng
thiết bị với người cần thuê thiết bị mà công ty cho thuê đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình
chu chuyển và lưu thông vốn cho nền kinh tế.
- Thúc đẩy đổi mới công nghệ cho sản xuất:
Thông qua nghiệp vụ cho thuê, các doanh nghiệp có thể nhận được các máy móc, thiết bị
với công nghệ mới cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình nên đã góp phần
làm cho nền kinh tế phát triển.
Bất lợi:
Hiện nay, các nước phát triển đang có xu hướng muốn chuyển giao các công nghệ gây
ô nhiễm môi trường, hao tốn nguyên- nhiên liệu, sử dụng nhiều lao động, điều kiện an toàn
không đảm bảo, sản xuất ra sản phẩm có chất lượng kém , sang các nước đang phát triển.
Do đó, nếu không có được chính sách Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đúng đắn, khoa học thì
nghiệp vụ cho thuê sẽ làm tăng sự lãng phí nguồn ngoại tệ hiếm hoi của đất nước, biến đất
nước thành "bãi thải các thiết bị công nghiệp".

×