Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

LUẬN VĂN: Kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán – AASC pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.16 KB, 100 trang )







LUẬN VĂN:

Kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà
nước để cổ phần hoá tại công ty Tư vấn Tài chính
Kế toán và Kiểm toán – AASC








Lời mở đầu

ở nước ta, ngay từ những năm 1986, khi Nhà nước thực hiên chuyển cơ chế quản lý
Nhà nước, nền kinh tế thị trường bắt đầu bung ra phát triển dần dần và mạnh mẽ. Là một
trong các yếu tố quan trong của thị trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở
nên mạnh mẽ. Lúc này, doanh nghiệp nhà nước đã bộc lộ rõ những điểm yếu của mình là bị
động, không tự chủ về tài chính và hoạt động kinh doanh, hoạt động không hiệu quả do được
Nhà nước tài trợ và được bù lỗ khi bị lỗ, bộ máy thì cồng kềnh trong khi việc làm không có…
Nhận ra những điểm yếu trên và các ưu điểm khác, Nhà nước đã đẩy mạnh cổ phần hoá các
doanh nghiệp nhà nứơc nhằm nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại
hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động cho doanh
nghiệp, huy động vốn của toàn xã hội và phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động.


Nghị Quyết Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp Hành TW Đảng khoá IX đã chỉ rõ:
‘…cần thiết phải bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước, trong đó cần sửa đổi phương pháp xác địnhgiá trị doanh nghiệp theo hướng gắn với
thị trường, nghiên cứu đưa ra giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp ”.
Nhà nước ta đã không ngừng cải thiện, đổi mới công tác xác định GTDN. Điều đó đựơc
thể hiện qua các văn bản Thông tư số 36/TC-CN, Quyết định 202/CT ngày 8/5/1992, Thông
tư 50/TC/TCDN ngày 30/8/1996, Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996, Thông tư số 104/1998/TT-
BTC ngày 29/6/1998, Nghị định số 44/1998/NĐ-CP, Nghị định 64/2002/NĐ-CP, Thông tư số
76/2002/TT-BTC, 79/2002/TT-BTC về việc chuyển doanh nghiệp nhà nứơc thành công ty cổ
phần.
Và do đó, chừng nào còn doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá thì công tác xác định
GTDN luôn là một vấn đề nóng hổi và quan trọng. Do đó, em quyết định chọn đề tài: “Kiểm
toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại công ty Tư vấn Tài
chính Kế toán và Kiểm toán – AASC”.


Xác định GTDN là một vấn đề phức tạp từ khi Nhà nước ta thực hiện CFH đến nay. Từ
lý luận đến thực tiễn là một vấn đề lớn. Các văn bản hướng dẫn của Nhà nước không lường
hết được các vấn đề nảy sinh, dẫn đến GTDN được xác định có sự chênh lệch khá lớn giữa
các phương pháp khác nhau và các tổ chức định giá khác nhau.
ở đây, cũng như tên đề tài đã nêu, tác giả đề cập đến vấn đề xác định GTDN có liên
quan đến công tác kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập. Như vậy, kiểm toán xác định
GTDN nhà nước để cổ phần hoá bao gồm hai phần là:
- Kiểm toán từng khoản mục trên BCTC.
- Định giá tài sản.

























Chương 1: Cơ sở lý luận của xác định giá trị
Doanh nghiệp


I. Cơ sở lý luận về xác định giá trị doanh nghiệp
1.1. Giá trị, giá trị hàng hoá và giá trị doanh nghiệp
1.1.1. Quan điểm của Các-Mác về giá trị, giá trị hàng hoá
Theo Các - Mác, hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng, giá trị được xác
định ở mặt chất và mặt lượng:
- Mặt chất của giá trị là hao phí lao động của con người
- Mặt lượng của giá trị được đo bằng thời gian hao phí lao động. Khi trao đổi trên thị

trường, lượng của giá trị được đo bằng thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất
ra hàng hoá. Sự cạnh tranh trong nội bộ ngành hình thành nên giá trị thị trường, cạnh tranh
giữa các ngành sẽ hình thành nên giá cả sản xuất. Khi tiền tệ ra đời thì giá trị của hàng hoá
được phản ánh thông qua giá cả. Do sự tác động của cung cầu mà giá cả tách rời giá trị nhưng
yếu tố quyết định giá cả vẫn là giá trị.
- Giá trị sử dụng là khái niệm dùng để chỉ những công dụng, lợi ích mà hàng hoá có thể
mang lại cho con người khi tiêu dùng nó. Mỗi loại hàng hoá đều có những công dụng riêng
biệt, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào giá cả.
Trên thực tế, do quy luật cung cầu của nền kinh tế thị trường, giá trị của hàng hoá được
đánh giá không chỉ bằng các chi phí thời gian lao động xã hội cần thiết mà còn bởi giá trị sử
dụng dưới quy luật cạnh tranh. Có các khái niệm giá trị hàng hoá sau:
- Giá trị nhượng bán: là giá cả của hàng hoá được hình thành trong điều kiện bình
thường chịu tác động của quy luật cung cầu. Nó tương ứng với khái niệm giá cả của Mác. Giá
trị nhượng bán còn được gọi là giá thị trường.
- Giá trị đổi mới: là khái niệm dùng để chỉ các khoản chi tiêu cần thiết để thay thế mới
một tài sản.


- Giá trị mua vào: giá ghi trên sổ kế toán, đây chính là giá gốc, thường không tính đến
yếu tố thị trường làm thay đổi giá cả
- Giá trị thanh lý: là mức giá chịu sự chi phối của nhiều yếu tố tài chính. Đây thường là hậu quả
đối với các DN bắt buộc phải thanh lý. Tài sản của DN trong những trường hợp như vậy có nguy cơ bị
bán phá giá, tức không theo giá thị trường.
- Giá trị hoạt động: khi bán một DN đang hoạt động, mức giá thu được thường có mức
chênh lệch so với giá trị thanh lý. Khoản chênh lệch giữa hai giá trị đó gọi là giá trị hoạt động,
nó tượng trưng cho giá trị về mặt tổ chức.
- Giá trị theo công dụng: là mức giá chỉ ra các khoản chi tiêu cần thiết để có được một
tài sản tương đương tức có cùng chất lượng, quy cách.
Tóm lại mặc dù có nhiều khái niệm giá trị được đưa ra, nhưng tiêu chuẩn để nhận biết
giá trị hàng hoá trong hoạt động kinh doanh có thể được chia là ba loại:

- Loại 1: Giá trị theo sổ kế toán còn gọi là giá lịch sử (historical cost) hay giá gốc
- Loại 2: Giá trị ước tính theo giá hiện hành – giá thị trường
- Loại 3: Giá trị ước tính theo công dụng của tài sản

1.1.2. Giá trị thời gian của tiền, chi phí cơ hội, chi phí sử dụng vốn vay
Trong nền kinh tế thị trường, luôn có sự biến động trong việc sản xuất hàng hoá, có khi
tại thời điểm này, khi mà nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm xuống thì số lượng hàng hoá
tiêu thụ sẽ bị giảm, các nhà sản xuất sẽ giảm quy mô sản xuất xuống, và ngược lại, khi nhu
cầu tiêu dùng tăng thì các DN lại mở rộng quy mô sản xuất. Cùng với sự lớn lên của giá trị
hàng hoá, nhà nước sẽ phải in thêm số lượng tiền để phù hợp với sức mua hàng hoá của người
tiêu dùng. Do đó, luôn luôn có sự khác biệt về giá trị của đồng tiền giữa các giai đoạn khác
nhau của nền kinh tế.
Nếu ta có một số lượng tiền trong tay, nếu ta dùng để đầu tư và giả sử không gặp rủi ro
về đầu tư, trong tương lai ta sẽ thu được một khoản thu nhập từ số tiền đầu tư đó với lãi suất
lớn hơn lãi suất trái phiếu Chính phủ ở thời điểm hiện hành vì hoạt động đầu tư vào trái phiếu
Chính phủ là hoạt động đầu tư ít rủi ro nhất. Nếu ta không dùng để đầu tư, thì sau đó, trong


tay ta vẫn có từng ấy giá trị tiền. Như vậy, khoản chênh lệch giữa việc đầu tư và không đầu tư
chứng tỏ tiền có khả năng sinh lời, và người ta gọi đó là giá trị thời gian của tiền.
Cũng từ lý luận trên, nếu ta dùng số tiền đó cho đối tượng khác vay để hoạt động kinh
doanh thì sau một khoảng thời gian ta sẽ thu được một số tiền lãi từ việc cho vay. Khoản tiền
mà người đi vay phải trả cho người cho vay gọi là chi phí sử dụng vốn vay.
Chi phí cơ hội là chi phí lớn nhất trong các cơ hội có thể được lựa chọn đã bị bỏ qua.

1.1.3. Doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, giá trị thực tế của doanh nghiệp
a) Doanh nghiệp
DN là một thuật ngữ trong kinh doanh dùng để chỉ các tổ chức kinh tế, cá nhân nhằm
phân biệt nó với các hình thức kinh doanh có quy mô quá nhỏ. Một tổ chức kinh tế chỉ được
coi là DN nếu nó được sự thừa nhận về mặt pháp lý trên một số tiêu chuẩn nào đó.

Các tiêu chuẩn ở đây có thể là mức vốn tối thiểu (vốn pháp định), mục tiêu hoạt động,
ngành nghề, địa điểm, quyền lợi, chủ sở hữu, nhiệm vụ
Xét theo mục tiêu hoạt động, người ta có thể chia DN thành 2 loại: DN công ích và DN
kinh doanh.
- DN công ích: là DN được thành lập ra nhằm mục tiêu chính trị, xã hội. Lợi nhuận chỉ
là mục tiêu thứ yếu, mục đích của nó là mục tiêu xã hội: không chỉ là đóng góp được bao
nhiêu thuế cho nhà nước mà còn được thể hiện ở chỗ giải quyết được bao nhiêu công ăn việc
làm, mang lại bao nhiêu thu nhập cho các nhà cấp vốn, tổng giá trị mà nó đóng góp vào GDP
của nền kinh tế
- DN kinh doanh: là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận. Lợi nhuận của DN kinh doanh là lợi ích mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư. Lợi
ích kinh doanh là ở các khoản thu nhập dưới hình thức như lợi nhuận sau thuế, lợi tức cổ
phần
Theo quan điểm của Nhà nước Việt nam, công ty Cổ phần là doanh nghiệp trong đó
các cổ đông cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu rủi ro tương
ứng với phần vốn góp.Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao


dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện
các hoạt động kinh doanh.
DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt
động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà
nước giao.
DNNN là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN quản lý, có tên gọi,
có con dấu riêng (theo Điều 1, luật Doanh nghiệp nhà nước, 20/04/1995).
Như vậy, ngoài những đặc điểm chung của DN, DNNN còn có những đặc điểm sau:
- DNNN là tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện những mục tiêu do Nhà nước
giao
- DNNN do nhà nước đầu tư vốn nên tài sản trong DN là thuộc sở hữu của nhà nước,

DN quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của chủ sở hữu là nhà nước.
- DNNN có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều kiện của pháp nhân theo quy định của
pháp luật.
- DNNN là DN chịu trách nhiệm hữu hạn
Có 2 loại DNNN là DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích.
- DNNN hoạt động kinh doanh là DNNN hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận.
- DNNN hoạt động công ích là DNNN hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng,
theo các chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh…
Như vậy, DNNN là DN nắm giữ những ngành kinh tế chủ đạo có tác dụng điều hoà nền
kinh tế quốc dân.

b) Giá trị doanh nghiệp
Trước khi xem xét GTDN, ta thấy cần làm rõ một số đặc điểm của doanh nghiệp như
sau:
- DN là một đơn vị, một tổ chức kinh tế hoạt động. Thông qua sự hoạt động mà người ta
nhận ra DN. DN không phải là một tập hợp các loại tài sản. Khi mà nó chỉ đơn giản là một sự
hỗn loạn các tài sản đơn lẻ, rời rạc mà người ta có thể thanh lý, phát mãi từng thứ riêng biệt


như những hàng hoá thông thường thì nó không còn đầy đủ ý nghĩa của một DN. Và do vậy,
khái niệm GTDN là một khái niệm chỉ được dùng cho những DN đang còn hoạt động và sẵn
sàng hoạt động.
- DN là một tổ chức vừa phi vật thể, vừa là vật thể. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị
trường, DN cũng được coi là một loại hàng hoá, nó là một loại hàng hoá đặc biệt. Nó có thể
được đem rao bán trên thị trường và bị ảnh hưởng bởi quy luật giá trị và các quy luật khác
trên thị trường.
- DN là một tổ chức, một đơn vị, một hệ thống và đồng thời cũng là một phần tử trong
hệ thống lớn – nền kinh tế. Do đó, sự tồn tại của DN ở mối quan hệ của nó với các phần tử
khác của hệ thống tức mối quan hệ với các đơn vị, thể nhân và pháp nhân kinh tế khác. Sự tồn
tại của DN không chỉ được quyết định bởi các yếu tố bên trong DN mà còn bởi các yếu tố bên

ngoài như khách hàng, người cung cấp, người cho vay, các luật, chính sách
Doanh nghiệp có tồn tại được hay không là nhờ vào các mối quan hệ trên thị trường.
Các mối quan hệ này mang tính quyết định đến sự phát triển, tồn tại và thành công của doanh
nghiệp. Do đó, khi đánh giá về doanh nghiệp, người ta phải quan tâm đến cả các mối quan hệ
bên trong và bên ngoài doanh nghiệp trên thị trường.
- Nếu nhìn nhận doanh nghiệp bằng con mắt của các nhà đầu tư thì việc mua sắm TSCĐ
và lưu động không ngoài mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả hoạt
động, lợi ích của DN đối với các nhà đầu tư là ở các khoản thu nhập từ hoạt động SXKD. Vì
mục đích của các nhà đầu tư là liệu đặt vốn kinh doanh của mình và thì sẽ thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận trên một đồng vốn. Vì vậy, theo các nhà đầu tư thì giá trị của doanh nghiệp là
giá trị của các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể đem lại cho nhà đầu tư từ các hoạt
động kinh doanh của mình.
Tóm lại, qua việc phân tích trên ta có thể thấy tồn tại hai cách tiếp cận trong việc xác
định GTDN là:
- Trực tiếp đánh giá giá trị của các tài sản trong DN
- Đánh giá giá trị của các yếu tố, tổ chức hoặc bằng một kỹ thuật nào đó để lượng
hoá các khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư.



1.2. Tính cần thiết phải xác định giá trị Doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá.
Trong nền kinh tế thị trường, DN đựơc coi như một loại hàng hoá, chúng có thể được
mua bán, trao đổi. Vì vậy, nhu cầu đánh giá hay xác định giá trị đối với loại tài sản này xuất
hiện là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong việc điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước cũng
như trong hoạt động quản trị kinh doanh của các DN luôn cần thiết các thông tin về GTDN.
Giá trị của DN là bao nhiêu, cao hay thấp luôn là mối quan tâm của các pháp nhân và thể
nhân kinh tế có lợi ích liên quan, gắn bó trực tiếp đến các DN.

1.2.1. Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước là xu hướng tất yếu khách quan
khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường.

Trong nền kinh tế thị trường thì xu hướng CPH một bộ phận các DNNN đã diễn ra như
là một quy luật, điều này có thể được giải thích bởi 2 lý do là:
1) Các DN nhỏ nếu muốn tồn tại trên thị trường cạnh tranh gay gắt với các DN lớn
thì phải góp vốn để tạo ra DN lớn có sức cạnh tranh lớn hơn. Vì ưu thế của DN lớn là có số
lượng vốn lớn, quy mô sản xuất lớn, và có lợi thế trong việc nâng cao năng suất lao động, hạ
giá thành, đổi mới quy trình công nghệ để có sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành rẻ và có
thể tiêu thụ tốt hơn sản phẩm cùng loại.
2) Cũng do sự cạnh tranh và rủi ro trong kinh doanh, các DN lớn tồn tại một khoản
tiền vốn nhàn rỗi, không muốn gặp nhiều rủi ro nên phải phân tán số vốn của mình vào các
DN khác bằng cách góp vốn mua cổ phần ở nhiều DN khác.
Đây là xu hướng sát nhập các DN nhỏ thành DN lớn trên thế giới.
Điều này có nghĩa là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các DN dẫn đến quy luật đào
thải, các DN nhỏ sẽ bị chèn ép dẫn đến phá sản. Các DN nhỏ không muốn phá sản, thì phải
thu hút vốn thêm nhằm mở rộng thị trường, phát triển sản xuất. Cũng do tính cạnh tranh khốc
liệt của thị trường mà trong các DN lớn tồn tại một lượng vốn nhàn rỗi, để giảm rủi ro trong
đầu tư, DN lớn này sẽ phân tán nguồn vốn đầu tư của mình. DNNN với sự quản lý kém, hoạt
động thiếu hiệu quả cũng nằm trong xu thế khách quan đó.
Thực tiễn nhiều thập kỷ qua cho thấy, kinh tế quốc dân kém hiệu quả hơn kinh tế tập thể
và tư nhân. Các DNNN làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ. Nguyên nhân chính là do không thực sự


có động lực để thúc đẩy làm ra nhiều lợi nhuận. Sự thua lỗ này lại được Nhà nước bao cấp, tài
trợ nhằm đảm bảo cho DNNN hoạt động tốt theo chủ trương kế hoạch KTXH của Nhà nước.
Điều này làm mất tính tự chủ của DN và tạo sự ỷ lại vào nguồn vốn Nhà nước.
Từ các thực tế trên cho thấy, xu hướng thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết của nhà
nước trong nền kinh tế thị trường, xu hướng đa dạng hoá các loại hình sở hữu. “Sở hữu nhà
nước không đồng nghĩa với hiệu quả và mục đích của sự phát triển mà chỉ là một công cụ
quan trọng và hữu hiệu cùng với công cụ tài chính và tiền tệ để nhà nước thực hành việc điều
tiết định hướng vào nền kinh tế, khu vực kinh tế nhà nước chỉ nên thu hẹp ở những lĩnh vực có
vai trò quyết định đến sự phát triển và ổn định của nền kinh tế như giao thông vận tải, bưu

điện,…”.
Các DNNN ở Việt nam hoạt động kém hiệu quả. Nguyên nhân là do:
- Hệ thống kế hoạch hoá và tài chính cồng kềnh và cứng nhắc vì được quản lý theo hệ
thống hành chính từ trên xuống theo nhiều cấp trung gian.
- Tính tự chủ trong quản lý và kinh doanh bị hạn chế vì nhiều quy chế liên quan đến
quyền sở hữu của DN.
- Sự độc quyền của các DNNN trên thị trường đựơc pháp luật Việt nam củng cố đã làm
mất đi những động lực nâng cao hiệu qủa SXKD
- Được tài trợ bởi nguồn ngân sách nhà nước, do đó không có động lực nâng cao hiệu
quả kinh doanh để tồn tại trong cạnh tranh với các DN tư nhân vì không thể “bị chết”.
- Hoạt động của DNNN là nhằm đảm bảo cho xí nghiệp có hoạt động dễ chịu và ổn
định, tránh né sự thẩm xét của các cơ quan cấp trên, do đó dẫn đến quan niêu, mua sắm thừa
thiết bị, cơ chế phình to
- Do phải tài trợ cho các DNNN bị lỗ, nên nhà nước bị thâm hụt ngân sách và nợ nước
ngoài nhiều.
Vì vậy, nhà nước ta đã thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường và đã thực hiện chủ trương CPH ngay sau khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường.
Do đó, để cải thiện DNNN cho phù hợp với cơ chế thị trường, cần thiết phải cổ phần
hoá.


Tuy nhiên, CPH không phải là đơn giản, chúng ta phải giải quyết rất nhiều vấn đề phức
tạp:
- Xác định GTDN như thế nào là chính xác
- Đất có tính vào GTDN không và tính như thế nào
- Giải quyết vấn đề lao động như thế nào khi DNNN chuyển sang công ty cổ
phần.
Và một trong những vấn đề bức xúc nhất mà nước ta không ngừng nghiên cứu và hoàn
thiện từ sau đổi mới đến nay là vấn đề xác định GTDN. Việc đưa ra các phương án, đề án

thực hiện khác xa so với thực tế, GTDN qua kiểm kê cho thấy có nhiều chênh lệch và thường
không chính xác.

1.2.2. Cổ phần hoá là giải pháp cơ bản để tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước trong
giai đoạn hiện nay ở nước ta.
CPH là một trong nhiều cách để tư nhân hoá tài sản của DN. Tư nhân hoá là quá trình
chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân. CPH có tác dụng:
- Đa dạng hoá quyền sở hữu và cụ thể hoá chủ sở hữu.
- Thương mại hoá mọi hoạt động của DN (chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính,
cắt bỏ sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động DN).
- Luật pháp hoá các tổ chức quản lý (theo luật Công ty và luật khác ).
- Nâng cao hiệu quả SXKD của DN.
Xét về mặt hình thức, CPH là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần
của mình trong xí nghiệp cho các đối tượng, tổ chức hoặc tư nhân trong và ngoài nước hoặc
cho cán bộ quản lý, công nhân trong xí nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị
trường chứng khoán để hình thành các công ty TNHH hoặc công ty cổ phần.
Xét về mặt thực chất, CPH là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái
kinh doanh một chủ sở hữu (Nhà nước) thành nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình DN
phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu kinh doanh hiện đại.



II. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp

Như vậy, qua trên ta đã có cái nhìn tổng quan về doanh nghiệp thông qua các đặc điểm
của nó. Tuy nhiên, để xác định được giá trị doanh nghiệp, người ta phải quan tâm đến các yếu
tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp.
GTDN được đo lường bằng khoản thu nhập mà DN mang lại cho nhà đầu tư nhưng độ
lớn của thu nhập đó là bao nhiêu thì nó lại phụ thuộc rất lớn vào sự tồn tại của doanh nghiệp
với các mối quan hệ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Đó là các yếu tố vốn liếng, tài sản,

kỹ thuật, khả năng thích ứng của nó với môi trường bên ngoài, các quan hệ hợp tác và các yếu
tố khách quan khác như các chính sách kinh tế, môi trường kinh doanh,

2.1. Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh
Trước hết phải khẳng định GTDN chỉ được đánh giá trong một môi trường kinh doanh
nhất định. Môi trường kinh doanh được chia làm hai loại là môi trường kinh doanh tổng quát
và môi trường đặc thù.

2.1.1. Môi trường kinh doanh tổng quát
Môi trường kinh doanh tổng quát bao gồm: môi trường kinh tế, môi trường chính trị,
môi trường văn hoá - xã hội, môi trường tự nhiên, môi trường kỹ thuật và môi trường dân số

- Môi trường kinh tế:
Môi trường mà DN tồn tại là một môi trường kinh tế cụ thể. DN chịu ảnh hưởng của tốc
độ phát triển kinh tế, mức độ ổn định của nền kinh tế, tốc độ lạm phát, tỷ suất đầu tư, mức độ
ổn định của đồng tiền, tỷ giá trên thị trường chứng khoán,… Các yếu tố trên đều là những yếu
tố khách quan nhưng nó lại có tác động một cách không nhỏ đến sự hoạt động của DN. Một
DN không thể hoạt động tốt trong một môi trường mà lạm phát cao, tỷ suất đầu tư cao,…
Mỗi sự thay đổi nhỏ trong các yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về
DN. Nền kinh tế với tốc độ phát triển cao chứng tỏ nhu cầu đầu tư tiêu dùng cao, ngược lại,
nền kinh tế với mức lạm phát cao, chứng tỏ sự bất ổn định về tỷ giá đồng tiền là dấu hiệu


chứng tỏ sự bất ổn về môi trường hoạt động của DN. Do đó, mọi sự đánh giá về DN, trong đó
có GTDN sẽ bị đảo lộn hoàn toàn.

- Môi trường chính trị:
Hoạt động SXKD chỉ có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường có sự ổn định về
chính trị ở một mức độ nhất định. Những bất ổn trong xã hội (tệ nạn xã hội, chiến tranh,…)
là những yếu tố tác động rất lớn đến hoạt động SXKD của DN.

Các yếu tố của môi trường chính trị liên quan đến SXKD bao gồm
+) Tính đầy đủ, rõ ràng, chi tiết, đồng bộ của hệ thống luật pháp
+) Quan điểm của nhà nước đối với SXKD thông qua các văn bản pháp quy như bảo vệ
SXKD, bảo vệ nhà đầu tư, bảo vệ người tiêu dùng, đầu tư nước ngoài, quan điểm phân biệt
đối xử thực hiện trong luật thuế, luật cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ
+) Năng lực hành pháp của chính phủ và ý thức chấp hành pháp luật của các công dân và
các tổ chức sản xuất. Pháp luật đã được ban hành nhưng không trở thành hiện thực, tệ nạn
buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng nhái là biểu hiện của một môi trường chính trị gây bất
lợi cho sản xuất.
+) Xu hướng, quan điểm trong quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế của chính phủ với
các quốc gia khác trong tiến trình toàn cầu hoá và quan điểm cá nhân của những người đứng
đầu Chính phủ cũng tác động to lớn đến SXKD.
Nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế có sự tham gia quản lý của Nhà nước. Do đó, các
chính sách kinh tế, các luật, các quan điểm kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến SXKD của DN.
Môi trường kinh tế và môi trường chính trị đóng vai trò như những điều kiện thiết yếu để DN
có thể hoạt động. Vì vậy, khi đánh giá DN bao giờ cũng phải xem xét các yếu tố này.

- Môi trường Văn hoá - Xã hội
Mỗi DN tồn tại trong một môi trường văn hoá nhất định. Môi trường văn hoá bao gồm
những hệ tư tưởng của số đông cộng đồng về lối sống, đạo đức, tác phong, quan niệm về
chân, thiện, mỹ, quan niệm về nhân cách, văn minh xã hội, thực hiện trong tập quán sản xuất
và tiêu dùng.


Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi, mật độ sự gia
tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người và hàng loạt các vấn đề mới nảy sinh như ô nhiễm
môi trường, tài nguyên cạn kiệt
Thói quen tiêu dùng, tâm lý tiêu dùng, cơ cấu dân cư, mật độ dân số, thu nhập bình quân
đầu người,… ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và cách thức SXKD. SXKD chỉ có thể tồn tại
khi mà nó đảm bảo các yêu cầu về Văn hoá - Xã hội như đảm bảo không bị ô nhiễm môi

trường, tài nguyên cạn kiệt,… DN ra đời là để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao trong đời
sống vật chất và tinh thần của cộng đồng nơi DN hoạt động. Chính vì thế đánh giá về DN
không thể bỏ qua những yếu tố, những đòi hỏi bức xúc của môi trường Văn hoá - Xã hội
trong hiện mà còn phải thực hiện dự báo được sự ảnh hưởng yếu tố này đến SXKD của DN trong
tương lai.

- Môi trường kỹ thuật, công nghệ
Thời đại ngày nay là thời đại của công nghệ thông tin. Một loạt những phát minh được
ứng dụng trong thực tế gây ảnh hưởng trực tiếp, rõ rệt đến đời sống hàng ngày của con người
như hàng loạt các phát minh mới về công nghệ sinh học: sinh sản vô tính, công nghệ máy
tính,… Những phát minh này không chỉ ảnh hưởng đễn các phương thức sản xuất kinh doanh
trong mỗi doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến nhu cầu sản phẩm và chất lượng sản phẩm
trong DN. Các sản phẩm sản xuất ra ngày càng đa dạng và phong phú, chứa đựng một hàm
lượng lớn tri thức. Đây là xu hướng tiến tới nền kinh tế tri thức trên toàn cầu.

Trên bình diện xã hội, đó là những bước tiến nhảy vọt của nền văn minh nhân loại. Song
trên giác độ DN, trong cơ chế thị trường, đó không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với
sự tồn tại của DN. Việc thiếu nhạy bén trong việc áp dụng những thành tựu khoa học mới
nhất có thể là nguyên nhân đưa DN đến chỗ phá sản.

Chính vì thế, việc đánh giá DN phải xem xét chúng trong môi trường của kỹ thuật công
nghệ. Việc đánh giá phải chỉ ra mức độ tác động của môi trường này đến SXKD và khả năng
thích ứng của DN trước những bước phát triển mới của khoa học công nghệ.



2.1.2. Môi trường đặc thù
Môi trường đặc thù là môi trường có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của DN. Các yếu tố thuộc môi trường này có thể kiểm soát được.
Thuộc môi trường đặc thù có các yếu tố về khách hàng, nhà cung cấp, các hãng cạnh tranh và

cơ quan Nhà nước.

 Quan hệ doanh nghiệp với khách hàng

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh dẫn đễn
nhu cầu đa dạng về các sản phẩm dịch vụ đầu vào. Do đó, mối quan hệ với khách hàng của
DN cũng đa dạng. Yếu tố khách hàng là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của DN.
Khách hàng của DN có thể là các cá nhân, các DN khác hoặc Nhà nước, họ có thể là khách
hàng hiện tại nhưng cũng có thể là khách hàng tương lai.
Để đánh giá về doanh nghiệp, người ta căn cứ vào mối quan hệ bền vững của DN với
khách hàng hay mức độ uy tín thể hiện ở thời gian hợp tác với khách hàng, chất lượng khách
hàng (thể hiện ở tiếng tăm của họ), số lượng của khách hàng và khả năng phát triển mối quan
hệ lâu dài với khách hàng. Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất vẫn là thị phần hiện tại của
doanh nghiệp, thị phần tương lai, doanh số bán ra và tốc độ phát triển của chỉ tiêu này qua các
thời kỳ kinh doanh khác nhau của DN.

DN thường phải trông đợi sự cung cấp từ bên ngoài các hàng hoá, NVL, các dịch vụ
điện, nước, thông tin tư vấn Tính ổn định của nguồn cung cấp đó có ý nghĩa quan trọng đảm
bảo cho sản xuất và tiêu thụ được thực hiện theo yêu cầu mà DN đã định ra. Do tính khan
hiếm của NVL nhiều khi DN cũng gặp phải những khó khăn nếu như không có sự cung cấp
kịp thời và không có NVL thay thế. Vì vậy, để đánh giá sự ổn định trong hoạt động kinh
doanh của DN ta phải quan tâm đến khả năng đáp ứng nhu cầu của DN, mối quan hệ của DN
với các nhà cung cấp.



 Các hãng cạnh tranh.
Cạnh tranh là hoạt động tranh đua nhằm giành giật những điều kiện sản xuất và kinh
doanh có lợi nhất giữa các DN cùng sản xuất và kinh doanh cùng loại mặt hàng hoặc những
mặt hàng có thể thay thế được cho nhau.


Cạnh tranh được thể hiện dưới ba hình thức:
- Cạnh tranh về giá cả
- Cạnh tranh về chất lượng
- Cạnh tranh về dịch vụ bảo hành, sửa chữa (hậu thương mại)

Được sự ủng hộ từ phía nhà nước, hầu hết các lĩnh vực kinh tế, mức độ cạnh tranh giữa
các DN trên thị trường trong nước và quốc tế ngày càng trở nên quyết liệt hơn. Sự quyết liệt
trong cạnh tranh được coi là mối nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của DN. Do đó, đánh gía
năng lực cạnh tranh, ngoài việc xem xét trên 3 tiêu chuẩn trên còn phải xác định được số
lượng DN tham gia cạnh tranh, năng lực thực sự và thế mạnh của họ là gì. Đồng thời phải chỉ
ra được những yếu tố và mầm mống có thể làm xuất hiện các đối thủ mới. Có như thế mới kết
luận được sự đúng đắn về vị thế và khả năng cạnh tranh của DN trên thị trường.

 Các cơ quan nhà nước

Trong cơ chế thị trường, DN tuy được chủ động trong hoạt động SXKD, tuy nhiên
nhưng sự hoạt động của DN luôn phải được đặt dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan nhà
nước như cơ quan thuế, thanh tra, các tổ chức công đoàn… Các tổ chức này có trách nhiệm
kiểm tra giám sát đảm bảo cho hoạt động của DN không vượt ra khỏi những quy ước của xã
hội bằng các luật thuế, môi trường, luật cạnh tranh, luật công đoàn,

DN có mối quan hệ tốt đẹp với các tổ chức đó thường là DN thực hiện tốt nhiệm vụ đối
với xã hội như nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, chấp hành tốt luật lao động, quan tâm giải quyết
vấn đề môi trường sinh thái Đó cũng là biểu hiện của những DN có tiềm lực tài chính vững


mạnh, lợi nhuận thu được không phải bằng cách buôn lậu, trốn thuế, làm hàng hoá giả Vì
vậy, xác định sự tác động của yếu tố môi trường đặc thù đến SXKD còn cần phải xem xét chất
lượng và thực trạng của mối quan hệ giữa DN với các tổ chức đó trong những khoản thời gian

xác định.

2.2. Các yếu tố thuộc về nội tại doanh nghiệp
2.2.1. Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp
Tài sản trong DN là toàn bộ tài sản hữu hình và vô hình nằm trong danh mục bảng cân
đối kế toán tại thời điểm đánh giá. Đây là một quan niệm cần thiết để phân biệt nó với lợi thế
thương mại.
Số lượng và cơ cấu các loại tài sản thường có sự khác nhau giữa các DN ngay cả khi
chúng ở trong cùng ngành SXKD. Khi xác định GTDN, bao giờ người ta cũng quan tâm đến
hiện trạng tài sản vì:
- Tài sản DN là biểu hiện của yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu đối với quá trình SXKD.
Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loại tài sản là yếu tố quyết
định đến số lượng, chất lượng sản phẩm của DN. Tức là, khả năng cạnh tranh của DN phụ
thuộc trực tiếp vào yếu tố này.
- Giá trị tài sản của DN được coi là một căn cứ và là một sự bảo đảm rõ ràng nhất về
GTDN. Vì thay cho việc dự báo các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có thể bán
chúng bất cứ lúc nào để nhận được thu nhập từ tài sản đó.
Do đó, trong thực tế, người ta thường vận dụng phương pháp có liên quan trực tiếp đến
việc xác định giá trị tài sản của DN.

2.2.2. Vị trí kinh doanh
Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với SXKD. Vị trí kinh doanh bao gồm các
yếu tố như địa điểm, diện tích của DN và các chi nhánh của DN, yếu tố địa hình, thời tiết, môi
trường sinh thái, an ninh khu vực, thu nhập dân cư trong vùng, tốc độ phát triển kinh tế và khả
năng cung cấp các dịch vụ cho sản xuất của khu vực đó.


DN hoạt động thương mại có vị trí thuận lợi là DN hoạt động ở khu vực đông dân cư,
trung tâm buôn bán, các đầu mối giao thông quan trọng. Với vị trí thuận lợi, DN có thể giảm
được chi phí vận chuyển, bảo quản, lưu kho, giao dịch… đồng thời DN có những thuận lợi

lớn để tiếp cận với nhu cầu, thị hiếu của thị trường,… Bên cạnh đó, DN phải chịu những chi
phí cao về thuê văn phòng, thuê lao động, và có thể phải di chuyển trụ sở đi nơi khác do sự
quy hoạch của nhà nước.
Những thuận lợi và bất lợi cơ bản của yếu tố vị trí đối với SXKD là lý do chủ yếu giải
thích sự chênh lệch về giá cả đất đai, giá thuê nhà giữa các khu vực với nhau. Và vì thế, khi
nói về yếu tố lợi thế thương mại, người ta thường trước hết đề cập đến yếu tố vị trí. Trong
thực tế, do có sự khác nhau về vị trí kinh doanh mà có sự chênh lệch rất lớn khi đánh giá về
GTDN. Vì vậy, vị trí kinh doanh cần được coi là một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu
khi đưa ra phân tích, đánh giá GTDN.

2.2.3. Uy tín kinh doanh
Uy tín kinh doanh của DN được thể hiện ở sự ổn định của khách hàng, ở sự gia tăng
nhanh chóng thị phần và doanh số bán.
Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của DN nhưng nó lại
được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau từ bên trong DN như: do chất lượng sản phẩm
cao, do trình độ và năng lực quản trị kinh doanh giỏi, do có nghệ thuật quảng cáo, do thái độ
phục vụ tận tình của nhân viên
Trong thực tế, có những DN trong nước có thể sản xuất những mặt hàng có chất lượng
không thua kém gì hàng nước ngoài nhưng không thể bán với giá cao vì chưa gây được uy tín
với khách hàng.
Như vậy, có thể thấy rằng, khi sản phẩm đã được đánh giá cao trong con mắt của khách
hàng thì uy tín đã trở thành một tài sản thực sự, chúng có giá, và người ta gọi chúng là giá trị
của nhãn mác hay thương hiệu. Trong nền kinh tế thị trường, người ta có thể mua bán quyền
dán nhãn mác các sản phẩm, quyền dán nhãn mác có khi được đánh giá rất cao. Vì vậy, uy tín
của DN được đông đảo các nhà kinh tế thừa nhận là một yếu tố quan trọng hình thành nên
GTDN.



2.2.4. Trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động

Một trong những yếu tố quyết định sự thắng lợi trong cạnh tranh là chất lượng sản phẩm
sản xuất ra phải được thị trường đánh giá cao. Chất lượng sản phẩm DN một mặt phụ thuộc
vào trình độ của máy móc thiết bị, một mặt phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật và tay nghề của
nhân viên.
Trình độ kỹ thuật và sự lành nghề của người lao động không chỉ có ý nghĩa quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn có thể làm giảm chi phí SXKD do việc sử
dụng hợp lý NVL, trong quá trình sản xuất, giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng từ đó góp
phần nâng cao thu nhập cho DN.
Để đánh giá về trình độ kỹ thuật tay nghề của người lao động ta không chỉ xem ở bằng
cấp, bậc thợ, số lượng lao động đạt được các chuẩn mực đó mà quan trọng hơn, trong điều
kiện hiện nay, còn phải xem xét hàm lượng tri thức có trong mỗi sản phẩm mà DN sản xuất.
Khi đánh giá khả năng tồn tại và phát triển, khả năng sáng tạo ra lợi nhuận của DN, cần thiết
phải xem xét đến trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động, coi chúng như một yếu tố
nội tại quyết định đến GTDN.

2.2.5. Năng lực quản trị kinh doanh
Một trong những yếu tố quyết định đến hoạt động SXKD, chất lượng sản phẩm, khả
năng cạnh tranh… là khả năng quản lý. Cách tổ chức tốt trong việc sử dụng các nguồn lực sản
xuất, tận dụng, nắm bắt các cơ hội nảy sinh, ứng phó năng động với sự biến động của môi
trường,… là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng tồn tại của DN trên thị trường.
Do đó, năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố quan trọng đặc biệt trong GTDN.
Năng lực quản trị kinh doanh của một DN cần được xem xét về khả năng hoạch định
chiến lược, chiến thuật, trình độ tổ chức bộ máy quản lý, năng lực quản trị các yếu tố đầu vào
và đầu ra của quá trình sản xuất, khả năng quản trị nguồn nhân lực.
Năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố định tính nhiều hơn là yếu tố định lượng. Vì
vậy, khi đánh giá cần phải xem xét chúng dưới sự tác động của môi trường. Ngoài ra, năng
lực quản trị kinh doanh còn được thể hiện thông qua các chỉ tiêu tài chính của DN. Do đó,


thực hiện phân tích một cách toàn diện tình hình tài chính trong những năm gần đây với thời

điểm đánh giá cũng có thể rút ra những kết luận quan trọng về năng lực quản trị và sự tác
động của nó đến GTDN.
Tóm lại,
- GTDN bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài.
- Các yếu tố đã phân tích trên có tác động lẫn nhau, chúng được xác định về mặt định
tính nhiều hơn định lượng. Thực hiện sự đánh giá về chúng, người ta xây dựng các tiêu thức
cơ bản rồi áp dụng phương pháp xếp hạng cho điểm. Tuy nhiên, phương pháp này mang nặng
tính chủ quan của người đánh giá, do đó để hạn chế yếu điểm này, người ta đánh giá chúng
bởi số đông, có thể là một hội đồng. Mặc dù vậy, quyết định xếp hạng không phải lúc nào
cũng đúng. Quyết định khách quan cuối cùng là thị trường.
- GTDN là khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư, người mua DN
không phải là mua lấy những tài sản, uy tín kinh doanh và trình độ quản lý giỏi mà là sự
đánh đổi lấy các khoản thu nhập tiềm năng ở DN. Do đó, ta phải nghiên cứu chúng để phân
biệt các yếu tố tác động tới cấu thành DN và làm cơ sở để xác định GTDN.

III. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
3.1. Xác định giá trị doanh nghiệp là gì?
Ta có các nhận xét sau:
- GTDN có thể khác xa so với giá bán DN trên thị trường. GTDN được đo bằng độ lớn
của các khoản thu nhập mà DN có thể đem lại cho các nhà đầu tư. Giá mua bán của DN hình
thành trên thị trường chịu ảnh hưởng bởi các quy luật trên thị trường như quy luật cung-cầu
DN, cung-cầu về chứng khoán và tiền tệ
- Khi nào còn tồn tại DN với tư cách là một tổ chức pháp nhân thì còn tồn tại khái niệm
GTDN ngay cả khi không còn tồn tại quan hệ mua bán DN. Do đó, GTDN cần bên thứ ba xác
định để đảm bảo yếu tố trung thực khách quan trong việc xác định GTDN.
- Xác định GTDN không đơn giản chỉ để mua bán, sát nhập, hợp nhất, chia nhỏ DN mà
còn có tác dụng cổ phần hoá, xác định vị thế tín dụng, cung cấp cho hoạt động quản lý vĩ
mô,



Như vậy, xác định GTDN hay còn gọi là định giá DN thực chất là việc lượng hoá các
khoản thu nhập mà DN có thể tạo ra trong quá trình SXKD làm cơ sở cho các hoạt động giao
dịch thông thường thuộc thị trường.
3.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
Cùng với sự đa dạng về cách nhìn nhận, đánh giá GTDN ở các góc độ khác nhau dẫn
đến tồn tại nhiều phương pháp xác định GTDN.

3.2.1. Phương pháp giá trị tài sản thuần
a)Cơ sở lý luận
Phương pháp này dựa trên quan điểm : “giá trị của một DN được tính bằng tổng giá thị
trường của số tài sản mà DN hiện đang sử dụng vào SXKD”.
DN có hoạt động được là nhờ vào số vốn và tài sản hiện có trong DN, trong quá trình
hoạt động DN có thể phát triển số tài sản hoặc thâm hụt số tài sản của mình
b) Phương pháp xác định
Trong số tài sản của DN trên Bảng cân đối kế toán, có những tài sản thuộc sở hữu của
DN nhưng có nhiều tài sản không thuộc quyền sở hữu của DN như các khoản phải trả (công
nhân viên, người bán, nhà nước ). Do vậy, khi xác định GTDN ta phải loại bỏ các khoản này,
có nghĩa là, ta phải xác định giá trị tài sản thuần.
V0=Vt-Vn

Vo: Giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu DN
Vt: Tổng giá trị tài sản mà DN sử dụng vào SXKD
Vn: Giá trị các khoản nợ
Do đó, theo cách này, người ta có thể :
1) Xác định GTDN bằng cách dựa vào Bảng cân đối kế toán

Giá trị doanh
nghiệp thuần

=


Tổng tài sản



Tổng các khoản nợ
Ngắn hạn và Dài hạn





2) Xác định giá trị tài sản theo giá thị trường
Cách này có ưu điểm hơn vì:
- Giá trị tài sản phản ánh trên sổ kế toán là giá gốc, có tính lịch sử nên có thể đã bị thay
đổi tại thời điểm xác định GTDN
- Giá trị còn lại của TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán cao hay thấp phụ thuộc vào việc DN
đang sử dụng phương pháp khấu hao nào, thời điểm mà DN xác định nguyên giá và sự lựa
chọn tuổi thọ kinh tế của TSCĐ. Vì vậy, giá trị TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán thường không
phù hợp với giá thị trường tại thời điểm xác định gía trị DN.
- Đối với HTK (hàng hoá, vật tư, công cụ dụng cụ ) hoặc hàng đang dùng trong sản
xuất, một mặt phụ thuộc vào phương pháp tính giá hàng tồn kho, phụ thuộc vào tiêu thức
phân bổ chi phí khác nhau cho số hàng hoá dự trữ, mặt khác chất lượng HTK tại thời điểm
xác định GTDN có thể bị thay đổi do HTK đã để lâu ngày kém, mất phẩm chất, không dùng
được
Để xác định giá trị tài sản theo giá thị trường, trước hết người ta loại ra những tài sản
không cần dùng(nếu vẫn có giá trị vẫn không tính vào tài sản của DN CPH) và không có khả
năng đáp ứng các yêu cầu của SXKD, sau đó tiến hành đánh giá số tài sản còn lại trên nguyên
tắc sử dụng giá thị trường để tính cho từng tài sản hoặc từng tài sản cụ thể:
- Đối với TSCĐ và lưu động là hiện vật thì đánh giá theo giá thị trường nếu trên thị

trường có bán những tài sản như vậy.
Nếu trên thị trường, không tồn tại loại TSCĐ đã cũ, đã qua sử dụng. Khi đó, người ta xác định
giá trị tài sản dựa theo công dụng hay khả năng phục vụ sản xuất của tài sản để áp dụng một
tỷ lệ khấu trừ trên giá trị của một TSCĐ mới.
- Đối với những TSCĐ không còn tồn tại trên thị trường thì người ta áp dụng một hệ số
quy đổi so với các TSCĐ khác loại có tính năng tương đương.
- Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối chiếu số dư trên tài
khoản. Nếu là ngoại tệ sẽ được quy đổi về đồng nội tệ theo tỷ giá thị trường tại thời điểm
đánh giá. Vàng, bạc, kim đá quý cũng được xác định tương tự như vậy.


- Các khoản phải thu: Do khả năng đòi nợ các khoản này ở nhiều mức độ khác nhau nên
bao giờ người ta cũng bắt đầu từ việc đối chiếu công nợ, xác minh tính pháp lý, đánh giá độ
tin cậy của từng khoản phải thu nhằm loại ra những khoản mà DN không có khả năng đòi
được hoặc khả năng đòi được là thấp.
- Đối với các khoản đầu tư ra bên ngoài DN : Về mặt nguyên tắc phải thực hiện đánh
giá một cách toàn diện về giá trị đối với các DN hiện đang sử dụng khoản đầu tư đó. Tuy
nhiên, nếu các khoản đầu tư này không lớn, người ta thường trực tiếp dựa vào giá thị trường
của chúng dưới hình thức chứng khoán hoặc căn cứ vào số liệu của bên đối tác liên doanh để
xác định theo cách thứ nhất
- Đối với các tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản : Tính theo chiết khấu dòng
thu nhập tương lai.
- Các tài sản vô hình theo phương pháp này người ta chỉ thừa nhận giá trị của các tài sản
vô hình đã được xác định trên sổ kế toán và thường không tính đến lợi thế thương mại của
DN.
Ta có công thức sau:
Giá tr
ị tài
sản DN
thuần

=

Giá tr
ị của các
tài sản đã được
xác định
-

Các
khoản
nợ
-

Kho
ản tiền thuế tính trên giá trị
tăng thêm của số tài sản được đánh
giá tại thời điểm xác định GTDN

Phương pháp này có đặc điểm là:
- Không coi DN là một thực thể, bỏ qua các giá trị về lợi thế DN, đánh giá tài sản DN
như một thực thể riêng rẽ, không có mối liên quan với nhau nên không phản ánh được tầm
nhìn chiến lược của DN, triển vọng sinh lời của DN.
- Trong nhiều trường hợp, xác định giá trị tài sản thuần trở nên phức tạp do một tập đoàn
có nhiều chi nhánh lại có số lượng rất lớn các tài sản chi tiết. Do vậy, chi phí đánh giá tốn
kém và không chính xác do phụ thuộc vào thông số kỹ thuật của tài sản mà các nhà kỹ thuật
chuyên nghành đưa ra, vì vậy sai số đánh giá có thể rất cao.


Tuy nhiên, phương pháp này lại phản ánh chính xác giá trị mà người chủ sở hữu có được
trong DN dựa trên giá thị trường của các tài sản, nó làm giá cơ sở cho việc xác định giá bán

DN. Phương pháp này rất phù hợp với những DN có quy mô nhỏ.

3.2.2. Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính trong tương lai
Phương pháp này nhìn nhận xác định GTDN dưới góc độ đánh giá độ lớn các khoản thu
nhập mà DN có thể mang lại cho các nhà đầu tư trong tương lai.

Vo =




nt
t
ti
Ft
1
)1(


Vo: GTDN
Ft: Thu nhập đem lại cho nhà đầu tư ở năm thứ t
i: tỷ suất hiện tại hoá (tỷ suất chiết khấu)
N: thời gian nhận được thu nhập (năm)

Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính tương lai bao gồm:
- Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận
- Phương pháp định giá chiết khấu
- Phương pháp hiện tại hoá các dòng thu nhập của DN trong tương lai

3.2.3. Phương pháp định lượng Goodwill (lợi thế thương mại)

Phương pháp này xác định dựa trên giả định sau:
Một DN A ứng ra một lượng vốn là 100, thu về khoản lợi nhuận là 10 ( 10% tỷ suất
lợi nhuận trên vốn), DN B cũng ứng ra 100, thu về một khoản thu nhập là 15 ( 15% tỷ suất
lợi nhuận trên vốn).
Tại sao DN B cũng ứng ra một lượng vốn như vậy lại sinh ra một khoản lợi nhuận cao
hơn A, chỉ có thể giải thích được rằng vì B có vị trí kinh doanh thuận lợi hơn, mạng lưới hàng
hoá rộng hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn, trình độ quản lý giỏi hơn, Đó là những yếu tố
vô hình, chúng hội tụ lại đã làm nên khoản lợi nhuận vượt trội (5 đơn vị tiền tệ) so với DN A.


Nếu như 10% là tỷ suất lợi nhuận trung bình trên thị trường thì khoản lợi nhuận 5 (5=15-
10) là siêu lợi nhuận.
Như vậy, cơ sở xác định giá trị của tài sản vô hình là giá trị hiện tại của khoản thu nhập
do tài sản vô hình tạo ra. Tức là bằng gía trị hiện tại của các khoản siêu lợi nhuận.

Vo = ANC + GW
Vo: GTDN
ANC: giá trị tài sản thuần
GW: giá trị tài sản vô hình (lợi thế thương mại)

GW =




n
t
ti
AtrBt
1

)1(
*

Bt: lợi nhuận năm t (t=1,n)
At: giá trị tài sản đưa vào kinh doanh
r: Tỉ suất lợi nhuận bình thường của tài sản đưa vào kinh doanh
r*At: lợi nhuận bình thường của tài sản năm t
Bt-r*At: siêu lợi nhuận ở năm t.
3.2.4. Phương pháp định giá dựa vào PER (Price Earning Ratio)
PER được xác định dựa trên các nhận định cơ bản :
- Giá cả chứng khoán phụ thuộc vào cung cầu chứng khoán, đầu cơ, Do đó, giá cả
chứng khoán thường không phản ánh đúng giá trị chứng khoán của DN đã phát hành.
- Thị trường chứng khoán hoàn hảo.


Khi đó:
PER=
P
Vo
=
i
1

Vo: giá trị của DN
P: lợi nhuận thuần hàng năm
i: tỷ suất hiện tại hoá

×