Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

LUẬN VĂN: Những biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tại SGDI ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.66 KB, 80 trang )

LUẬN VĂN:

Những biện pháp nhằm hạn chế rủi
ro tại SGDI ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam


Lời mở đầu
Trong hơn mười năm qua , nhờ vận hành theo cơ chế thị trường mà nền kinh tế của
nước ta đã đạt được những tiến bộ vượt bậc so với nền kinh tế theo cơ chế tập trung trước
kia. Cùng với sự biến chuyển của cả nền kinh tế , hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam , sau khi được tổ chức lại thành hệ thống ngân hàng hai cấp theo nghị định
53/HĐBT , đã có nhiều đóng góp đáng kể trong cơng cuộc xây dựng đất nước . Nhờ sự
thay đổi này mà hệ thống ngân hàng thương mại cũng trở nên độc lập , linh hoạt và hoạt
động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên cơ chế thị trường cũng đặt ra nhiều thách thức cho tất
cả các đơn vị kinh tế nói chung , cũng như các ngân hàng thương mại nói riêng . Rủi ro
luôn là người bạn đồng hành với tất cả các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế thị trường ,
và ngân hàng thương mại với tư cách là một đơn vị kinh doanh tiền tệ cũng không phải là
một ngoại lệ .
Những dịch vụ cũng như các hình thức tín dụng mà ngân hàng cung cấp đã
giúp cho các doanh nghiệp có thể tiến hành một cách dễ dàng hơn hoạt động sản xuất
kinh doanh và mở rộng qui mơ sản xuất. Hiện nay có thể nói khơng có một doanh nghiệp
nào có thể phát triển hoạt động kinh doanh một cách thuận lợi mà không cần các dịch vụ
hay các hình thức tín dụng ngân hàng . Nguồn vốn vay từ ngân hàng ln đóng vai trị
quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , và chiếm tỷ trọng lớn
trong nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp .
Mặt khác hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng mang lại lợi nhuận chủ yếu
cho ngân hàng , cho nên bất kì một rủi ro nào mà doanh nghịêp gặp phải đều có khả năng
mang đến rủi ro cho ngân hàng , và ngược lại bất cứ rủi ro nào mà ngân hàng gặp phải
đều có khả năng gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho bản thân ngân hàng và cho các
đối tác liên quan. Mà trong điều kiện kinh tế đầy biến động như hiện nay những nguy cơ


tiềm ẩn như : sự biến động bất lợi của bối cảnh kinh tế , những kẻ hở pháp luật , vốn vay
bị sử dụng sai mục đích, khách hàng phá sản, ln có thể biến khoản vay tơt thành nợ khó
địi. Đó là nguy cơ mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải đương đầu .


Chính vì thế mà rủi ro và vấn đề phịng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín
dụng của ngân hàng bao giờ cũng là một vấn đề được quan tâm hàng đầu để tránh những
tác động xấu đến hoạt động của các ngân hàng và có thể của nhiều doanh nghiệp hay của
cả nền kinh tế.
Xuất phát từ lý do trên cùng với quá trình thực tập tại sở giao dịch I ngân hàng đầu
tư và phát triển Việt Nam , em xin mạnh dạn chọn đề tài “Những biện pháp nhằm hạn
chế rủi ro tại SGDI ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam”

thương
mại và rủi ro tín dụng
I. Ngân hàng thương mại và tín dụng ngân hàng
trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại xuất hiện trước từ thời trung cổ với hoạt động chủ yếu là
đổi tiền. Tính chất vơ danh của đồng tiền khiến cho những người kinh doanh tiền tệ có
thể chuyển từ việc chỉ giữ hộ tiền (vàng) sang đổi hộ tiền, vận chuyển hộ tiền và dần dần
khi họ tích luỹ được một số vốn nhất định họ sẽ tiến hành cho vay lấy lãi. Để có thể cho
vay nhiều và thu được nhiều lợi nhuận những thương gia kinh doanh tiền tệ sẽ phải
khuyến khích khách hàng gửi tiền nhiều bằng cách khơng thu phí giữ tiền và hơn nữa là
trả lãi .Ngồi ra họ cịn tiến hành nghiệp vụ thanh tốn hộ khách hàng. Khi cả ba nghiêp
vụ nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay) và nghiệp vụ trung gian (thanh tốn) được
hình thành thì lúc đó ngân hàng thực thụ đã xuất hiện. Và kể từ đó ngân hàng ngày càng
phát triển về số vốn, về thị trường , về hoạt động và cả về công nghệ .
Như vậy có thể nói Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ . Hoạt động thường xuyên của nó là huy động vốn, cho vay và thực hiện

những hoạt động trung gian khác .
2. Những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại


2.1. Nghiệp vụ nợ
Nghiệp vụ nợ hay còn gọi là nghiệp vụ tạo nguồn vốn và huy động vốn là một trong
những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại. Thực hiện nghiệp vụ này Ngân
hàng thương mại đã thực hiện được một phần chức năng tạo tiền.
Nếu không có hoạt động của các ngân hàng thương mại thì các doanh nghiệp nhất là
những doanh nghiệp kinh doanh theo mùa sẽ gặp trường hợp có thời gian bị ứ đọng vốn
nhưng lại cũng có khi khơng có vốn để sản xuất. Nhờ hoạt động của các ngân hàng mà
các doanh nghiệp có thể gửi tiền vào khi khơng cần hoặc vay tiền khi thiếu vốn ngoài ra
các doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng để sử dụng các dịch vụ thanh toán
của ngân hàng đây là một nguồn quan trọng mà ngân hàng có thể huy động được . Ngồi
tiền gửi thanh tốn của dân cư và các tổ chức kinh tế với kì hạn và lãi suất khác nhau
ngân hàng cịn có thể tạo nguồn vốn bằng cách phát hành trái phiếu , cổ phiếu hoặc cũng
có thể vay ngân hàng khác hoặc các ngân hàng nước ngồi .
Nếu như ngân hàng thực hiện cơng tác tạo nguồn và huy động một cách thuận lợi
thì các hoạt động khác của ngân hàng , đặc biệt là hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng
ít gặp khó khăn do được cung cấp đầy đủ vốn. Tuy nhiên yêu cầu đặt ra đối với ngân
hàng là : luôn phải đảm bảo một khối lượng tiền gửi phù hợp với khả năng sử dụng của
chính ngân hàng . Nhưng để xác định được nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng cần phải
căn cứ vào nhu cầu của nền kinh tế mà cụ thể là nhu cầu của khách hàng của ngân hàng.
Nếu lượng vốn huy động thừa ngân hàng sẽ phải chi trả một phần chi phí mà khơng mang
lại lợi nhuận, cịn nếu thiếu thì hoạt động của ngân hàng sẽ bị hạn chế.Cho nên có thể nói
hoạt động huy động và tạo nguồn vốn là hoạt động cơ bản có ý nghĩa quan trọng trong
hoạt động kinh doanh của ngân hàng , quyết định tới qui mô sử dụng vốn và cơ cấu sử
dụng vốn của ngân hàng Chính vì vậy mà hoạt động này cần phải được chú trọng

2.2 Ngiệp vụ có



Ngiệp vụ có hay cịn gọi là hoạt động sử dụng vốn là hoạt động mang lại lợi nhuận
chủ yếu cho ngân hàng . Những hoạt động này rất đa dạng và phong phú nhưng có thể
chia thành ba nhóm bao gồm : các hoạt động về ngân quĩ, các hoạt động cho vay, các
hoạt động đầu tư.
a. Các hoạt động về ngân quĩ
Mục đích của các hoạt động về ngân quĩ là nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của
ngân hàng , chính vì thế mà mỗi ngân hàng đều cần phải có một mức độ dự trữ thích hợp.
Quản lý khoản mục dự trữ là một trong những trách nhiệm hàng đầu của ngân hàng , bởi
xuất phát từ trách nhiệm đối với người gửi . Ngân hàng phải có trách nhiệm thanh tốn
tiền gửi cho khách hàng bất cứ lúc nào họ muốn rút vì quyền lợi của chính ngân hàng , vì
nếu ngân hàng khơng thể hồn trả cho khách hàng khi họ có nhu cầu , thì khách hàng sẽ
mất lịng tin và gây khó khăn cho công tác huy động vốn của ngân hàng , cịn nếu ngân
hàng hồn trả kịp thời thì có thể tạo niềm tin cho khách hàng và có thể nhận được nhiều
tiền gửi, cho vay nhiều hơn.
Vì ngân hàng có ảnh hưởng lớn tới hoạt động của nền kinh tế cho nên cần phải có sự
kiểm sốt chặt chẽ của nhà nước để tránh tình trạng ngân hàng cho vay quá nhiều, mất
khả năng thanh toán , gây ảnh hưởng tiêu cực. Thêm vào đó , hoạt động của ngân hàng
cũng tạo thêm phương tiện thanh toán cho nền kinh tế , nhưng dư thừa quá cũng không
tốt, cho nên nhà nước cần phải qui định mức dự trữ của ngân hàng thương mại để khống
chế khả năng tạo tiền , nhằm thực hiện chính sách tiền tệ.
Như vậy khoản mục dự trữ của ngân hàng thương mại có thể được hình thành vì các
lý do khác nhau nhưng có thể chia thành hai bộ phận bao gồm :
- Dự trữ bắt buộc theo qui định của nhà nước
- Dự trữ tự nguyện có thể để phục vụ khả năng thanh tốn , hoặc cũng có thể do
ngân hàng khơng thể cho vay được , hoặc cũng có thể ngân hang để lại để chờ cơ hội có
lợi nhuận cao hơn



Dự trữ của một ngân hàng có thể tồn tại dưới các hình thái : Tiền mặt ở trong két ,
tiền gửi ngân hàng khác , số dư trong tài khoản của khách hàng , giấy tờ có giá ngắn hạn
như tín phiếu kho bạc.
Xác định đúng mức dự trữ phù hợp là một hoạt động quan trọng đối với mỗi một
ngân hàng vì nếu dự trữ khơng đủ thì có thể gây mất khả năng thanh tốn , nhưng nếu dự
trữ dư thừa thì khơng tận dụng được nguồn vốn , làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Để
xác định đúng mức dự trữ cho ngân hàng phải căn cứ vào nhiều yếu tố , trước hết là dự
đoán một cách tương đối chính xác nhu cầu rút tiền của khách hàng dựa trên việc phân
tích những kết quả thống kê trước đó cũng như dựa trên việc phân tích những biến động
có thể có của nền kinh tế , đồng thời cũng phải dựa vào luồng tiền có thể trở về ngân
hàng như : các khoản vay đến kì hạn thanh tốn , các khoản lãi có thể thu được để xác
định mức dự trữ phù hợp. Ngoài ra cịn cần phải xác định các hình thái dự trữ cho phù
hợp sao cho có lợi nhất cho ngân hàng .
b.

Các hoạt động cho vay
Đây là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng nhưng có độ rủi ro rất

cao. Vốn mà Ngân hàng thương mại sử dụng để cho vay chủ yếu suất phát từ nguồn vốn
mà ngân hàng huy động được từ các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế ngoài ra ngân
hàng cịn có thể sử dụng vốn tự có để cho vay. Trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các
ngân hàng thương mại đã và đang thực hiện các chức năng xã hội của mình làm cho sản
phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó dẫn đến lợi nhuận nhiều hơn,
đời sống kinh tế của nhân dân được nâng cao. Rõ ràng tín dụng ngân hàng có ý nghĩa
quan trọng đối với tồn bộ hoạt động của nền kinh tế, nó tạo ra khả năng tài trợ cho hoạt
động công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp của đất nước. Vì thế nên mọi hoạt động
cho vay của ngân hàng đều phải chịu sự giám sát nghiêm ngặt và phải tuân theo những
qui định của các nhà chức trách cũng như các qui định của bản thân ngân hàng .
Do việc cho vay có liên quan chặt chẽ tới bản thân ngân hàng và những khách hàng
mà nó phục vụ nên chính sách cho vay phải được thiết lập một cách cẩn thận sau khi xem



xét đến toàn bộ những yếu tố ảnh hưởng . Hoạt động cho vay của một ngân hàng trước
hết phụ thuộc vào tình hình vốn của nó, vốn của bản thân ngân hàng được xem như là lớp
lá chắn cho các khoản tiền gửi của khách hàng, vì thế nên qui mơ vốn có ảnh hưởng tới
số lượng rủi ro mà một ngân hàng có thể chấp nhận được. Các ngân hàng có qui mơ vốn
lớn có thể cho vay với các kì hạn dài hơnvà nhiều rủi ro tín dụng hơn. Sau khi đã giành
một lượng tài sản thích hợp cho dự trữ , các ngân hàng buộc phải xem xét tới tính ổn định
của các khoản tiền gửi để tiến hành hoạch định chính sách cho vay. Ngồi ra khi hoạch
định chính sách cho vay ngân hàng cũng cần phải tính tới các điều kiện kinh tế và những
ảnh hưởng của chính sách tài chính tiền tệ của quốc gia. Nếu điều kiện kinh tế khơng
thuận lợi thì các khoản vay cũng trở nên tự do hơn so với khi điều kiện kinh tế khơng
thuận lợi.
Chính sách cho vay hợp lý chính là điều kiện quyết định sự thành cơng của một
ngân hàng , nó cho phép ngân hàng khai thác tối đa nguồn vốn mà ngân hàng có và có thể
huy động được đem lại lợi nhuận tối ưu cho ngân hàng.

c.Các hoạt động đầu tư
Khác với hoạt động cho vay ngân hàng chỉ đóng vai trị là chủ nợ,
khơng trực tiếp tham gia q trình sử dụng tiền mà chỉ có thể giám sát , thì khi đâu tư các
ngân hàng có thể can thiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động đầu tư thơng
thường phải chịu rủi ro nhiều hơn hoạt động tín dụng nhưng lợi nhuận lại cao hơn và
khơng dự tính trước một cách rõ ràng vì cịn phụ thuộc vào hiệu quả của q trình kinh
doanh.
Mục đích của hoạt động đầu tư là nhằm cung cấp cho ngân hàng tính đa dạng , lợi
nhuận , và là một khoản dự trữ thứ cấp khi cần thiết. Mỗi ngân hàng đều có một chính
sách đầu tư riêng bởi vì sẽ là khơng khơn ngoan nếu khơng có một hoạt động đầu tư nào
ngồi khu vực nó cho vay do một ngun tắc đầu tiên , cốt yếu của hoạt động đầu tư là



phân tán rủi ro . Chính sách đầu tư của một ngân hàng phụ thuộc vào lợi nhuận , nhu cầu
thanh khoản và mức độ sẵn sàng chấp nhận rủi ro của chính ngân hàng đó.
Các hoạt động đầu tư của ngân hàng có thể dưới dang góp vốn liên doanh hoặc
ngân hàng cũng có thể sử dụng vốn của mình để mua các chứng khốn trên thị trường .
Tuy nhiên dù dưới hình thức nào , và với mục đích nào thì ngân hàng ln phải quan tâm
tới chất lượng và kì hạn của mỗi khoản đầu tư đặc biệt là chất lượng vì hoạt động đầu tư
cũng đóng góp phần khơng nhỏ vào lợi nhuận của ngân hàng. Để đảm bảo chất lượng cho
các khoản đầu tư ngân hàng thương mại phải đa dạng hoá danh mục đầu tư nhằm chống
lại và hạn chế những rủi ro bất ngờ mà nó có thể gặp trong hoạt động đầu tư của mình.
Ngồi ra kì hạn của các khoản đầu tư cũng là yếu tố mà ngân hàng cần phải quan tâm ,
bởi ngồi mục đích lợi nhuận ra , những tài sản này còn phải hỗ trợ cho nhu cầu thanh
khoản của ngân hàng .
Chính sách đầu tư khơng những phải phù hợp với tình hình và nhu cầu của bản thân
mỗi ngân hàng mà còn phải điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình kinh tế và những
thay đổi khác có thể ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư như thay đổi về mặt chính sách , luật
pháp ,và tình hình chính trị .Một chính sách đầu tư đúng đắn là lá chắn an toàn cho mọi
ngân hàng thương mại .
2.3 Nghiệp vụ trung gian
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ , với sự hỗ trợ của
những thiết bị hiện đại , những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng ngày
càng phong phú và đa dạng . Những dịch vụ này ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận và
đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa, nghiệp vụ thanh tốn của ngân hàng
thương mại khơng chỉ đơn thuần là trung gian thanh tốn mà cịn quản lý các phương tiện
thanh tốn một cách có hiệu quả. Hiện nay ở nhiều nước ngân hàng đã và đang trang bị
hệ thống máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật hiện đại khác nhằm làm cho quá trình


thanh toán bù trừ, thanh toán liên hàng được thực hiện nhanh chóng, giảm bớt chi phí và
đạt độ chính xác cao .

Ngồi hoạt động thanh tốn Ngân hàng thương mại còn thực hiện một số dịch vụ
như :nhận bảo quản tài sản cho cá nhân , dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ bảo quản vật có
giá , quản lý chứng từ có giá , tư vấn cung cấp thơng tin về kinh tế cho khách hàng ...
Những hoạt động này luôn phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế và càng
khẳng định sự hữu ích và vai trò quan trọng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
thị trường.

3. Vai trị của tín dụng ngân hàng
3.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Ngày nay , các ngân hàng thương mại là một bộ phận không thể thiếu trong đời
sống kinh tế –xã hội. Thông qua cơ chế thị trường, ngân hàng có khả năng thu hút hầu
hết những nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển giao đúng nơi , đúng lúc, phù
hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Các ngân hàng thương mại , thực hiện
việc cung cấp vốn cho nền kinh tế thơng qua hoạt động tín dụng , đồng thời thông qua
hoạt động này ngân hàng cũng thu được lợi nhuận cho mình.
Về bản chất tín dụng là một quan hệ kinh tế , trong đó các chủ thể chuyển nhượng
cho nhau quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc hoặc hiện vật với những điều kiện do cả
hai bên thoả thuận , những điều kiện đó có thể là những điều kiện về lượng tiền hoặc
hàng hoá , về thời hạn , về lãi trả , phương thức trả , điều kiện đảm bảo.... Như vậy tín
dụng ngân hàng thực chất là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lưọng vốn
nhất định của ngân hàng cho người khác (người đi vay) trong một khoảng thời gian nhất
định với những điều kiện cụ thể về thời gian hoàn trả và về lãi suất.
Trong tất cả các hình thức khác nhau của quan hệ tín dụng thì tín dụng ngân hàng là
loại hình tín dụng phát triển nhanh chóng và đa dạng nhất . Cùng với sự phát triển của


mọi mặt đời sống kinh tế xã hội các hình thức tín dụng ngân hàng ngày càng trở nên
quan trọng và đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh.
3.2 Các loại hình tín dụng ngân hàng
Hiện nay phạm vi hoạt động của tín dụng ngân hàng là khá rộng lớnvà đa dạng ,

việc phân loại chỉ có tính chất tương đối , dựa vào những căn cứ khác nhau mà có thể
phân chia thành các loại tín dụng ngân hàng khác nhau
a. Căn cứ vào thời hạn có thể chia thành
- Tín dụng ngắn hạn : là các khoản cho vay mà thời hạn không quá một năm.
Mục đích chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp về mua nguyên vật liệu , chi phí sản xuât.
- Tín dụng trung hạn : là các khoản vay thường có thời hạn từ trên một năm đến
ba, năm , hoặc bảy năm , tuỳ vào qui định của mỗi quốc gia. Mục đích là vay vốn để sữa
chữa, khắc phục, thay thế tài sản cố định hoặc cải tiến kỹ thuật , hợp lý hoá sản xuất , đổi
mới công nghệ và xây dựng mới những cơng trình loại nhỏ , thời hạn thu hồi vốn nhanh
- Tín dụng dài hạn : Là những khoản vay có thời hạn trên ba, năm , hoặc bảy
năm tuỳ thuộc vào qui định của mỗi quốc gia. Mục đích của những khoản vay này giống
nhưtín dụng trung hạn nhưng với những cơng trình có qui mơ và thời hạn dài hơn.
b. Căn cứ vào mục đích tín dụng
- Tín dụng tiêu dùng : là những khoản vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như
mua chịu hàng hoá , xây dựng nhà ở và các phương tiện cần thiết khác. Thông thường
những khoản vay này được thực hiện cho cá nhân hoặc các hộ gia đình .
- Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thơng hàng hố : là loại tín dụng được cung
cấp cho các nhà sản xuất và kinh doanh hàng hố .Nó đáp ứng nhu cầu vốn trong quá
trình sản xuất kinh doanh để dự trữ nguyên vật liệu , cho vay chi phí sản xuất hoặc đáp
ứng nhu cầu vốn trong quan hệ thanh tốn giữa các doanh nghiệp . Trong tín dụng phục
vụ sản xuất kinh doanh người ta cịn có thể chia thành tín dụng phục vụ kinh doanh


thưong mại , tín dụng phục vụ sản xuất cơng nghiệp , tín dụng phục vụ sản xuất cơng
nghiệp , tín dụng phục vụ sản xuất nơng nghiệp .
c. Căn cứ vào thành phần kinh tế
Căn cứ vào thành phần kinh tế có thể chia thành
- Tín dụng đối với kinh tế ngồi quốc doanh : là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng
và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm : công ty trách nhiệm hữu hạn , công ty

cổ phần , doanh nghiệp tư nhân ,hộ cá thể , tổ sản xuất và hợp tác xã .
- Tín dụng đối với kinh tế quốc doanh : là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các
doanh nghiệp nhà nước.
d. Phân loại theo đặc điểm luân chuyển vốn
- Tín dụng vốn cố định : là loại tín dụng được cung cấp để hình thành nên tài sản cố
định cho các tổ chức kinh tế
- Tín dụng vốn lưu động : là loại tín dụng được cung cấp để bổ sung vốn lưu động
cho các tổ chức kinh tế
e. Căn cứ vào điều kiện đảm bảo
-

Tín dụng có đảm bảo là những khoản vay mà ngân hàng nắm giữ tài sản của

người vay với mục đích xử lý tài sản đó để thu hồi tiền chovay khi khách hàng vi phạm
hợp đồng tín dụgn
-- Tín dụng khơng có đảm bảo :là những khoản vaymà ngân hàng không nắm giữ tài
sản của người vay để xử lý thu hồi , mà thay vào đó là những điều kiện ràng buộc khác.
f. Ngồi ra cịn có một số ngiệp vụ khác
- Ngiệp vụ chiết khấu :là nghiệp vụ mà theo đó ngân hàng cung cấp tiền cho người
mang chứng từ đến ngân hàng chiết khấu trên cơ sở mệnh giá của chứng từ chiết khấu ,
trừ đi một khoản lệ phí chiết khấu . Các chứng từ có thể là kỳ phiếu , hối phiếu , phiếu


gửi hàng trong kho...Đây là một hình thức cho vay , có đảm bảo , độ an tồn cao vì nhiều
người có trách nhiệm trả tiền cho chứng từ chiết khấu và vì uy tín của những người này
khá cao thì chứng từ mới được chấp nhận .
- Nghiệp vụ thuê mua : đây là nghiệp vụ mà ngân hàng tài trợ cho khách hàng dưới
hình thức cho thuê tài sản .
3.3.Vai trị tín dụng ngân hàng
a. Trong nền kinh tế thị trường

Ngày nay tín dụng ngân hàng là địn bẩy quan trọng trong nền kinh tế là nguồn vốn
quan trọng , chủ động để phát triển kinh tế trong nước . Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế theo cơ chế thị trường ở nước ta , tín dụng ngân hàng ngày càng phát huy hết
những lợi thế và vai trị của mình trong q trình phát triển kinh tế .
Một vai trị quan trọng của tín dụng ngân hàng đã được khẳng định thơng qua q
trình tồn tại và phát triển của nó , đó là tác dụng thúc đẩy q trình tích tụ và tập trung
vốn cho sản xuất. Với mục đích tối đa hố lợi nhuận, ngân hàng huy động vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế và lại đưa vốn trở lại những nơi thiếu vốn thơng qua hoạt động tín dụng
.Việc điều hồ vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu thông qua hoạt động tín dụng đã cho thấy
tín dụng ngân hàng được sử dụng như một cơng cụ quản lý tích cực , có tác dụng to lớn
đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân .
Trong nền kinh tế thị trường , các tổ chức sản xuất kinh doanh luôn phải cạnh tranh
gay gắt , do đó nhu cầu đầu tư phát triển luôn được đặt lên hàng đầu . Tuy nhiên khó
khăn đầu tiên đối với các doanh nghiệp khi quyết định đầu tư mở rộng sản xuất bao giờ
cũng là thiếu vốn , và thông thường để giải quyết những khó khăn này các doanh nghiệp
cần phải có sự giúp đỡ từ các ngân hàng . Thông qua việc cho vay, không những ngân
hàng thu được lợi nhuận mà cịn góp phần đẩy mạnh q trình tái sản xuất mở rộng,
đồng thời cịn góp phần giả quyết các vấn đề kinh tế xã hội .


Khi vay vốn ngân hàng nghĩa là các doanh nghiệp đã tự gắn mình với trách nhiệm
hồn trả cả vốn lẫn lãi cho ngân hàng .Nhưng để có thể trả được nợ thì doanh nghiệp
buộc phải làm ăn có hiệu quả , như vậy tín dụng ngân hàng ngồi việc mang lại lợi nhuận
cho ngân hàng cịn có một tác dụng khác là thúc đẩy việc hạch toán kinh doanh , nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp . Tuy nhiên điều này có nghĩa là chỉ có
những doanh nghiệp có triển vọng ,làm ăn phát đạt mới được vay vốn ngân hàng , đó là
điều tất yếu để đảm bảo thu nhập cho ngân hàng . Nhưng trong điều kiện kinh tế nước ta
hiện nay, các khu vực kinh tế cịn phát triển khơng đồng đều, một số khu vực còn khá
yếu kém , cần nhiều vốn đầu tư để phát triển . Để dạt được mục tiêu phát triển đồng đều
đó chính phủ cần phải có những chính sách khuyến khích các ngân hàng thương mại cho

vay hỗ trợ các dự án phát triển của nhà nước . Trong trường hợp này tín dụng ngân hàng
đã trở thành công cụ tài trợ cho các thành phần kinh tế kém phát triển và các ngành mũi
nhọn .
Ngày nay khi mà tất cả các quốc gia trên thế giới có xu hướng chuyển từ đối đầu
sang đối thoại thì việc phát triển kinh tế của một quốc gia khơng thể chỉ bó hẹp trong
phạm vi đất nước mình mà cịn phải hồ nhập vào sự phát triển chung của các quốc gia
trên khu vực và trên phạm vi tồn cầu . Tín dụng ngân hàng là cầu nối quan trọng giữa
các nền kinh tế trên thế giới , đối với các nước đang phát triển thì đây là cơ hội để mở
rộng xuất nhập khẩu hàng hoá và nâng cao uy tín trên trường quốc tế. Để có thể cạnh
tranh được trên thị trường quốc tế thì việc đầu tư đổi mới công nghệ , mở rộng sản xuất là
hết sức quan trọng . Trong điều kiện hiện nay , để tạo điều kiện phát triển kinh tế đối
ngoại thì khơng thể khơng kể đến vai trị của tín dụng ngân hàng là điều khơng thể thiếu.
b. Đối với ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại thường được đinh nghĩa là tổ chức kinh doanh tiền tệ
mà hoạt động chủ yếu của nó là “ đi vay để cho vay’. Điều đó có thể cho thấy vai trị
quan trọng của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động của mỗi ngân hàng thương mại.


Thơng thường để an tồn , các ngân hàng thương mại khơng bao giờ chỉ triển
khai mình hoạt động cho vay mà phải đa dạng hoá các hoạt động đầu tư của mình , nhưng
thơngthường lợi nhuận từ hoạt động tín dụng bao giờ cũng chiếm khoảng trên dưới 70%
tổng lợi nhuận của ngân hàng . Như vậy nếu hoạt động tín dụng ngân hàng khơng tốt thì
khơng những ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân hàng mà còn làm ảnh hưởng tới uy tín
của ngân hàng . Nếu những khoản vay của ngân hàng có vấn đề thì ngân hàng sẽ không
thu được lợi nhuận , không những thế , ngân hàng cịn có thể gặp khó khăn trong q
trình thanh tốn cho khách hàng , vì những khoản vay mà ngân hàng cho vay là xuất phát
từ nguồn vốn mà ngân hàng huy động được từ công chúng. Cho nên ngân hàng phải luôn
thận trọng khi cho vay để đảm bảo duy trì ở mức thấp nhất những thất thốt có thể xảy ra.
Để làm được điều đó ngân hàng phải ln chú ý kiểm tra và có những sách lược đúng đắn
đối với hoạt động tín dụng, và có những biện pháp để hạn chế rủi ro tín dụng .

II. Rủi ro tín dụng
1/ Khái niệm về rủi ro và phân loại rủi ro
Mọi hoạt động của mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội , đều hướng tới một mục đích
nào đó . Song có những trường hợp mục đích đó khơng đạt được do trong quá trình hoạt
động gặp phải rủi ro . Vậy rủi ro là gì ? Đã có nhiều định nghĩa về rủi ro, nhưng nói
chung mọi định nghĩa đều đi đến sự khẳng định : rủi ro là sự kiện xảy ra ngoài ý muốn
và đem lại những hậu quả xấu . Trong kinh tế , rủi ro được coi là những tổn thất mà các
doanh nghiệp có thể gặp phải khi kinh doanh làm giảm lợi nhuận hoặc thậm chí là thua
lỗ. Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ -tín dụng các ngân hàng cũng phải chấp nhận rủi ro,
và thực tế đã chứng minh rằng không một ngành kinh doanh nào mà khả năng dẫn đến
rủi ro nhiều như kinh doanh tiền tệ .
Trong bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống kinh tế xã hội con người luôn phải đối mặt
với nhiều loại rủi ro khác nhau , nếu xét riêng trong lĩnh vực kinh tế rủi ro có thể được
chia thành hai loại rủi ro chủ yếu đó là rủi ro có hệ thống và rủi ro khơng có hệ thống .
Rủi ro có hệ thống là những rủi ro tác động đến hầu hết hoặc toàn bộ các tài sản . Vì thế


nên người ta cịn gọi nó là rủi ro của thị trường . Nguyên nhân dẫn đến rủi ro có hệ thống
là do các điều kiện kinh tế chung như là việc giảm GDP , tăng lãi suất tiền vay , tăng tốc
độ lạm phát , chiến tranh....Còn rủi ro khơng có hệ thống là những rủi ro chỉ tác động tới
một hoặc một nhóm nhỏ các tài sản . Điều đó có nghĩa là , loại rủi ro này chỉ liên quan tới
từng doanh nghiệp cụ thể nào đó và vì vậy người ta cịn gọi là rủi ro một tài sản cụ thể .
Rủi ro khơng có hệ thống được gây ra bởi những nguyên nhân cục bộ , chẳng hạn như sự
kiện cáo , đình cơng ,sự thành cơng hay khơng thành cơng của những chương trình
marketing, sự thắng lợi hay thất bại của những hợp đồng quan trọng , và những sự kiện
khác mà nó là đặc thù riêng đối với một cơng ty.
Vì những rủi ro không hệ thống là những rủi ro bất ngờ khơng lường trước được
nên người ta phải tìm mọi cách để đề phòng và hạn chế những tác hại mà những rủi ro
loại này có thể gây ra.
2- Các loại rủi ro chủ yếu mà ngân hàng thương mại thường gặp.

Chúng ta đều biết rằng hoạt động của ngân hàng là loại hình hoạt động rất cần sự
thận trọng song vẫn thường gặp phải rủi ro. Một ngân hàng thành cơng trong hoạt động
của nó khơng chỉ có những cán bộ chuyên môn giỏi mà cần phải am hiểu nhiều lĩnh vực
và đặc biệt phải có phẩm chất đạo đức tốt , có tinh thần trách nhiệm với cơng việc. Tuy
nhiên vẫn phải khẳng định rằng kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực gặp nhiều rủi ro nhất,
trong đó tập trung vào 5 loại rủi ro sau:
2.1- Rủi ro thuần tuý.
Đó là các rủi ro do tác động của thiên nhiên mang lại như: Thiên tai, hoả hoạn, động
đất, hoặc những rủi ro như lừa đảo, trộm cắp, tham nhũng... Làm thiệt hại hoặc gây thất
thoát tài sản của ngân hàng.
2.2- Rủi ro lãi suất:
Loại này xảy ra khi có sự thay đổi lãi suất trực tiếp tác động tới lợi nhuận của nhà
ngân hàng. Ví dụ, khi lãi suất tiền vay giảm trong khi lãi suất trả cho tiền gửi hoặc trái


phiếu giữ nguyên làm giảm thu nhập của nhà ngân hàng. Những thiệt hại do rủi ro lãi
suất gây ra làm chi phí cho nguồn vốn cao hơn thu nhập sử dụng vốn dẫn đến kinh doanh
của ngân hàng bị lỗ.
2.3- Rủi ro tín dụng.
Đó là loại rủi ro xảy ra khi khách hàng không thực hiện các điều kiện đã kí kết trong
hợp đồng tin dụng . Rủi ro này xảy ra với tất cả các khoản cho vay của ngân hàng, các
khoản đầu tư chứng khốn, tín dụng tài trợ... đến kỳ hạn mà khách hàng, người phát hành
khơng thanh tốn hoặc trả nợ được cho ngân hàng. Đây là loại rủi ro lớn nhất và thường
xuyên xảy ra. Bởi vậy việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm của chính các ngân hàng,
hơn 2/3 số tài sản có của ngân hàng là các món nợ cho vay và đầu tư chứng khoán, đem
lại thu nhập chủ yếu cho nhà ngân hàng. Thêm vào đó các hoạt động ngoại bảng tổng kết
tài sản như: Các giao dịch trên thị trường hối đoái, các hợp đồng trao đổi, bảo lãnh tín
dụng, tín dụng tài trợ... đều rất dễ bị rủi ro, thua lỗ và mất mát.
Nếu các món vay hoặc chứng khốn đến kỳ hạn mà khơng được hoàn trả ngân hàng
sẽ mất cả vốn lẫn laĩ. Nếu giá trị số thiệt hại quá lớn, vượt quá số vốn tự có của ngân

hàng thì chắc chắn ngân hàng sẽ khơng hoạt động được nữa và lâm vào tình trạng khủng
hoảng, có nguy cơ bị phá sản.
2.4- Rủi ro hối đoái.
Đây là loại rủi ro do biến động của thị trường ngoại hối gây ra. hiện nay các ngân
hàng thương mại thường có xu hướng hoạt động đa năng thực hienẹ cả nghiệp vụ kinh
doanh ngoại tệ do đó khi có sự biến động về tỷ giá hối đối thì thường phải chịu ảnh
hưởng ở một mức độ nào đó (nếu sự biến động đó nằm ngồi dự kiến của ngân hàng)
Nhất là với các Ngân hàng thương mại Việt Nam, hiện nay mới đang trong thời kỳ sơ
khai, còn nhiều bỡ ngỡ, kinh nghiệm còn hạn chế do đó vẫn đề rủi ro hối đối đang được
các ngân hàng quan tâm một cách thích đáng.
2.5- Rủi ro nguồn vốn


Thể hiện trên 2 phương diện: Rủi ro do bị đọng vốn và rủi ro thiếu vốn khả dụng.
* Rủi ro bị đọng vốn: là trường hợp ngân hàng huy động vốn mà khơng cho vay ra
được xảy ra tình trạng mất cân đối giữa việc huy động và sử dụng vốn. Rủi ro này xảy ra
có thể do tác động của lãi suất, của cơng cụ hạn mức tín dụng hoặc do chất lượng kinh
doanh của bản thân ngân hàng.
* Rủi ro thiếu vốn khả dụng xảy ra khi ngân hàng khơng đáp ứng được nhu cầu
thanh tốn của khách hàng. Nó xuất phát từ chức năng chuyển hốn các kỳ hạn sử dụng
vốn và gnuồn vốn của ngân hàng. Rủi ro này thể hiện ngân hàng thiếu vốn hoạt động. Do
sự cạnh tranh giữa các thể chế tài chính trên thị trường vốn, nếu khả năng thanh tốn của
ngân hàng kém, ngân hàng lại càng khó lịng huy động được một nguồn vốn dồi dào, từ
đó phạm vi hoạt động của ngân hàng bị thu hẹp, Ngân hàng càng có nguy cơ rủi ro, vỡ
nợ. Vì thế loại rủi ro này rất nguy hiểm đối với nhà quản lý ngân hàng.
Với loại rủi ro này, Ngân hàng luôn đề phịng bằng việc tính tốn, duy trì một hệ
thống vốn khả dụng phù hợp với ngân hàng mình. Hệ số này được xây dựng trên cơ sở
phân tích cụ thể tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn theo tính chất khả chi và khả dụng
thực sự của chúng. Chẳng hạn tiền gửi có kỳ hạn thường ổn định hơn tiền gửi không kỳ
hạn; tiền gửi giữa các ngân hàng thường bấp bênh hơn tiền gửi của khách hàng....

Như vậy, trong năm loại rủi ro kể trên, rủi ro tín dụng là có tác động mạnh mẽ đến
sự tồn tại của ngân hàng. nếu như cho vay là chức năng chính của nhà ngân hàng và nó
đem lại nguồn lợi nhuận lớn thì đi kèm với nó rủi ro tín dụng cũng ln thường trực và
khi đã xảy ra thì sức cơng phá của nó cũng rất nghiêm trọng, nó có thể biến Ngân hàng từ
trạng thái phát dạt đến nguy cơ bị phá sản. Chính vì vậy nghiên cứu về rủi ro tín dụng và
tìm ra các giải pháp cho nó ln là một đề tài khơng bao giờ cũ .
3. Rủi ro tín dụng
3.1 Hậu quả của rủi ro tín dụng


Rủi ro tín dụng nói chung và nợ q hạn nói riêng xảy ra trong kinh doanh của ngân
hàng thương mại tuỳ theo mức độ mà có ảnh hưởng ít hay nhiều tới bản thân Ngân hàng
hay khách hàng của họ. Có thể khái quát trên hai phương diện:
a) Đối với nền kinh tế:
Ngân hàng thương mại hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ , nó có quan hệ
trực tiếp và thường xuyên với các tổ chức kinh tế, do đó khi Ngân hàng gặp phải những
rủi ro thì tất yếu sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế và đời sống xã
hội. Gặp rủi ro làm lợi nhuận trong kinh doanh Ngân hàng giảm, thậm chí Ngân hàng
phải lấy vốn tự có ra để bù đắp, có thể dẫn đến Ngân hàng thiếu vốn khả dụng hoặc mất
khả năng thanh toán làm giảm lòng tin của khách hàng vào ngân hàng. mặt khác, các
ngân hàng thương mại thường có quan hệ chặt chẽ với nhau, khi một Ngân hàng gặp rủi
ro có nguy cơ phá sản tất yếu sẽ kéo theo tình trạng khủng hoảng của toàn bộ hệ thống
các ngân hàngthương mại kiểu phản ứng dây chuyền một Ngân hàng gặp rủi ro có nguy
cơ phá sản tất yếu sẽ gây ra tình trạng mất ổn định trên thị trườngtiền tệ tín dụng. tình
trạng này có thể gây nên sự mất ổn định của nền kinh tế, giá trị đồng tiền giảm gây khó
khăn cho các doanh nghiệp trong sản xuất, tiêu thụ hàng hoá...
b) Đối với bản thân ngân hàng.
Rủi ro xảy ra tác động trực tiếp đến lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng. Khi rủi ro
ở mức nhỏ thì ngân hàng chỉ phải bù đắp bằng lợi nhuận kinh doanh, bằng vốn tự có nên
ngân hàng chỉ bị giảm lợi nhuận kinh doanh hoặc thua lỗ. Song nếu rủi ro gặp phải ở mức

độ nghiêm trọng, nguồn vốn ngân hàng khơng đủ bù đắp thì tất yếu sẽ dẫn ngân hàng đến
bờ vực của sự phá sản. Như vậy rủi ro có thể làm đảo lộn thành quả hoạt động trong
nhiều năm và thậm chí trở thành vấn đề sống còn của nhà ngân hàng.
3.2 Nguyên nhân gây rủi ro tín dụng
a. Ngun nhân khách quan.
*Mơi trường pháp lý kinh tế .


Cơ chế chính sách thay đổi thường xuyên trong thời gian qua (chính sách xuất nhập
khẩu, chính sách đất đai...) làm cho môi trường kinh tế không ổn định, ảnh hưởng đến
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng ngân
hàng, là nguyên nhân tác động mạnh mẽ đến sự bất ổn mà hiện nay các Ngân hàng
thương mại còn đang phải khắc phục hậu quả.
Môi trường pháp lý kinh doanh ngân hàng chưa đầy đủ, chưa đồng bộ , thể hiện ở
việc ban hành và hướng dẫn thực hiện các qui định, thông tư hướng dẫn chưa thống nhất
giữa các ngành liên quan để khi thực hiện tại ngân hàng cơ sở có lúc bị vi phạm.
* Hiệu lực quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước chưa cao.
Hiệu lực của cơ quan hành pháp chưa cao, chưa nhất quán trong việc thực thi những
vấn đề có liên quan đến hoạt động ngân hàng. Quản lý của nhà nước đối với các doanh
nghiệp nhiều lúc còn sơ hở, nhà nước cho phép nhiều doanh nghiệp được sản xuất kinh
doanh với nhiều chức năng, nhiệm vụ vượt quá trình độ năng lực quản lý , qui mô hoạt
động quá lớn so với khả năng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, làm nảy sinh những
điều kiện dẫn đến rủi ro .
*Trường hợp một số doanh nghiệp và nhà sản xuất gặp khó khăn: hàng hố vật tư
tồn đọng, thua lỗ, mất khả năng thanh toán nên phát sinh nợ quá hạn và nợ khó địi, khá
nhiều khách hàng sử dung tiền vay khơng đúng mục đích, khơng trả nợ ngân hàng đúng
hạn (vòng đầu trả nợ nghiêm chỉnh nhưng vòng sau lại mang tiền đi chơi hụi , đánh đề ,
buôn lậu dẫn đến tình trạng khơng đủ khả năng trả nợ tiền vay).
Trường hợp phổ biến là các doanh nghiệp nhà nước do vốn tự có thấp, nhưng lại
"mạnh mẽ " trong việc xây dựng và mua sắm tài sản cố định, khơng những sử dụng hết

vốn tự có , mà cịn sử dụng thêm khối lượng vốn tín dụng ngắn hạn để phục vụ sản xuất
kinh doanh vào mua sắm tài sản cố định . Tình trạng này kéo dài cùng với các hành vi
tiêu cực khác trong quản lý của bản thân doanh nghiệp làm cho tình hình tài chính của
đơn vị đã khó khăn lại càng khó khăn hơn dẫn đến tình trạng nợ quá hạn triền miên,nếu


khơng có biện pháp khắc phục hữu hiệu thì một bộ phận không nhỏ vốn vay của ngân
hàng không thu hồi được.
b. nguyên nhân chủ quan.
Trong số các rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại thì trên 80% xảy ra là do
nguyên nhân chủ quan, chủ yếu là:
* Hạ thấp các tiêu chuẩn cho vay.
mặc dù biết rằng nếu cho vay sẽ có nhiều rủi ro, nhiều điều khoản bất lợi và có sự vi
phạm các nguyên tắc tín dụng lành mạnh nhưng do yếu thế khi giao dịch với các đối
tượng có nhiều quyền thế chịu ảnh hưởng thân quen hoặc tránh va chạm đến lợi ích cá
nhân nên một số lãnh đạo cũng như cán bộ tín dụng của ngân hàng vẫn giải quyết cho
vay.
Đáng chú ý là nhiều đối tượng xin vay vốn nhưng không phục vụ cho mục tiêu tăng
trưởng kinh tế, không tạo ra của cải vật chất, ngoài chế độ quy định miễn sao thu hồi
được gốc và lãi. Cơ chế thị trường tỏ ra linh hoạt nhưng nó cũng có những mặt trái nhất
định, nhất là ở những nơi như thành phố, thị xã có nhiều Ngân hàng thương mại và tổ
chức tín dụng hoạt động. Hơn nữa đối với các Ngân hàng thương mại quốc doanh lại
đang thực hiện chế độ khốn tài chính khơng cho vay thì khơng có lãi và khơng có thu
nhập.
Vì vậy nhiều nơi lợi dụng cơ chế đó đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh khơng lành
mạnh, có những nơi cho vay chỉ cần có tài sản thế chấp, có nơi cho vay bn bán bất
động sản nhà cửa đất đai và số tiền cho vay không phải là nhỏ. Người vay nếu là doanh
nghiệp Nhà nước hay tư nhân bỏ vốn ra kinh doanh lại được sự giúp đỡ tận tình của ngân
hàng và nếu cuộc mua bán "thông đồng bén giọt" lợi nhuận tạo ra cho cả hai bên rất
nhanh chóng, nhưng nếu khơng thành cơng có sự trục trặc hoặc do sự giả mạo của giấy tờ

thì ngân hàng khơng biết đến bao giờ mới đòi hết nợ. Vừa qua liên hiệp dâu tơ tằm Việt
Nam lại được khoanh nợ gần 300 tỷ đồng trong vòng 5 năm do sử dụng vốn sai mục đích
lấy vốn ngắn hạn để đầu tư vào tài sản cố định.


Một nguyên nhân nữa là do tình trạng đảo nợ, cho vay món mới để thu hồi món cũ
vì cịn có khoản lãi cộng vào, do nợ quá hạn phát sinh không thu được. Việc cho vay này
vừa giữ được khách hàng lại vừa đạt các chỉ tiêu cho vay thu nợ, thu lãi. Trường hợp này
Ngân hàng ăn thâm cả vào vốn.
Như vậy trong cơ chế thị trường đầy khắc nghiệt, buộc các ngân hàng phải chủ
động linh hoạt tìm khách hàng nhưng để cho vay được mà hạ thấp các tiêu chuẩn cho vay
quả là vấn đề mạo hiểm. Vì vậy các Ngân hàng thương mại cần phải xem xét lại chính
sách khách hàng nếu khơng muốn tăng các khoản nợ khó địi.
*Thơng tin khơng cân xứng.
Trên thị trường tài chính thì thường người cho vay khơng thể có được đầy đủ thơng
tin về người đi vay Trung tâm thơng tin tín dụng ngân hàng (CIC ) mặc dù đã ra đời và
hoạt động được vài năm trở lại đây nhưng nhìn chung sự đóng góp của nó chưa được là
bao. Điều đó được biểu hiện qua con số nợ q hạn, cụ thể là nợ khơng có khả năng
thanh tốn giảm khơng đáng kể. Các ngân hàng cịn thiếu những thơng tin chính xác về
hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính của khách hàng. Việc người đi vay kinh doanh
thua lỗ đều có dấu hiệu báo trước, ngân hàng không thu được nợ là do ngân hàng khơng
nhận được những thơng tin đó cho nên khơng có sự theo dõi giám sát chặt chẽ .
*Chủ quan trong cho vay .
Cẩn trọng bao giờ cũng là nguyên tắc hàng đầu đối với việc cho vay. Tuy nhiên ở
một số Ngân hàng thương mại Việt Nam đã coi nhẹ nguyên tắc này. Các ngân hàng cho
rằngđó là những khách hàng đã quen thuộc nên khong cần giám sát chặt chẽ, giải quyết
cho vay chỉ cần dựa vào những thơng tin cung cấp qua tờ trình thay cho những số liệu
đáng tin cậy.
* Cho vay ưu đãi quá nhiều.
Một phần không nhỏ trong con số nợ quá hạn ở các Ngân hàng thương mại còn do

nhiều nguyên nhân khác như : các ngân hàng cho vay nội bộ quá nhiều, người được vay


là các thành viên trong ban quản trị điều hành, và thường là những khoản tiền lớn không
lành mạnh, thiếu cơng bằng.
* Q tin tưởng vào vật thế chấp.
Có một thực tế ở các ngân hàng là : vật thế chấp được coi là vật đảm bảo an toàn
nhất khi xét duyệt cho vay. Các ngân hàng đã có vật thế chấp thì rất yên tâm và htiếu sự
giám sát chặt chẽ với các khoản cho vay, trong khi tài sản thế chấp có thể bị đánh giá sai
lệch về giá trị . Trong thực tế thường xảy ra nghịch lý : doanh nghiệp đã mạnh thì tài sản
thế chấp lại rất ngon lành trong khi đó những doanh nghiệp yếu cần tài sản thế chấp thì
tài sản thế chấp của họ thậm chí chẳng có gì mà thế chấp .
*Đội ngũ cán bộ ngân hàng thiếu trình độ và năng lực phẩm chất.
Có thể nói đây là nguyên nhân lớn trong số các nguyên nhân đem đến rủi ro tín
dụng cho nhà ngân hàng. Đội ngũ cán bộ trong ngành ngân hàng vừa thiếu lại vừa thừa.
Thiếu những người cán bộ thực sự có trình độ và năng lực phẩm chất , cịn thừa nhiều
những cán bộ khơng có chun mơn, thiếu năng lực cho nên khơng có khả năng phân tích
và sử lý tình huống để bảo vệ các khoản cho vay . Một số khác đạo đức kém , tự động cắt
bỏ các chỉ tiêu cho vay để thu được lợi ích cá nhân. Những con sâu mọt ấy đã làm thất
thốt của đất nước nói chung và ngành ngân hàng nói riêng hàng trăm tỷ đồng. Bên cạnh
một số cán bộ đã bị ra hầu toà nhưng vẫn còn nhiều con sâu mọt khác đang đua nhau đục
khoét mà vẫn chưa bị lôi ra ánh sáng.
3.3- Những dấu hiệu của rủi ro tín dụng
3.3.1. Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là dấu hiệu đầu tiên và dễ gây ra rủi ro cho nhà ngân hàng . Vì vậy nói
đến ngân hàng , nói đến rủi ro tín dụng thì phải nói tới nợ q hạn.
Có thể hiểu nợ quá hạn là một khoản tín dụng được nhưng không thể thu hồi đúng
thời hạn do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau.



Như chúng ta đã biết, Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, là chiếc
cầu giao lưu kinh tế nối bên thừ vốn với bến thiếu vốn tạo điều kiện cho sản xuất và tái
sản xuất diến ra trơi chảy, chính vì vậy hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng
trực tiếp ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng và khách hàng. Song xét tầm vĩ mơ, nó
cịn ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Do đó nếu nợ quá hạn xảy ra sẽ gây ra khó khăn cho
hoạt động của ngân hàng, khách hàng và rộng hơn nền kinh tế sẽ thiếu vốn trong một
phạm vi thời gian nhất định, nếu nợ quá hạn xảy ra ở quy mô lớn và việc thu hồi gặp khó
khăn có thể sẽ gây áp lực đến lạm phats, làm giá cả tăng, nền kinh tế bất ổn.
3.3.1.1- các loại nợ quá hạn.
Dựa vào khả năng có thể thu hồi chúng ta chia nợ quá hạn thành:
a) Nợ quá hạn có khả năng thu hồi.
Trước khi thực hiện một mục đích kinh doanh nào đó, các cá nhân, doanh nghiệp
thường xây dựng một kế hoạch sản xuất kinh doanh trong đó các vấn đề liên quan được
xem xét cẩn thận đó là chi phí, thu nhập... khi ngân hàng xem xét thấy kế hoạch là khả
thi, Ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho khách hàng. Song trong q trình thực hiện kế hoạch
kinh doanh của mình khách hàng có gặp những khó khăn nhất thời thì cũng là điều dễ
hiểu trong trường hợp này khách hàng thường xin ra hạn nợ vì chưa có khả năng chi trả.
Món tín dụng này được con là một món nợ quá hạn có khả năng thanh tốn vì trong thực
tế khách hàng gặp phải sự bất thuận lợi trong kinh doanh do thời điểm tung hàng ra bán
khơng phù hợp với tính thời vụ khiến hàng bị tồn kho; hàng đã bán được song bên mua
cịn chậm thanh tốn... trong khi tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tốt,
khơng có biến động lớn. Sau khi khách hàng (doanh nghiệp) thu hồi đwocj nợ hoặc bán
được hàng sẽ thanh toán cho ngân hàng. Như vậy, Món nợ quá hạn này cịn có khả năng
thu hồi.
b) Nợ q hạn khơng có khả năng thu hồi.
Loại này thường có ở các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, quản lý yếu
kém, vi phạm nguyên tắc chế độ tài chính, sử dụng vốn tín dụng sai mục đích, tham ơ cố


ý làm trái... một số khác do sự thay đổi của cơ chế chính sách, thiên tai bão lụt... các

doanh nghiệp đến kỳ hạn trả nợ nhưng khơng có khả năng thanh toán với ngân hàng, phải
xin ra hạn hoặc tìm cách "đảo nợ". Khả năng thu hồi vốn của ngân hàng trong những
trường hợp này là rất hiếm.
3.3.1.2- Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn.
- Các nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn... đây chính là rủi ro mà cả
bên ngân hàng cũng như khách hàng khơng thể lường trước được đối với khoản tín dụng
của mình, khi rủi ro xảy ra, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gặp cú sốc, đối với
khách hàng "mạnh" thì cũng phải có thời gian để ổn định sản xuất kinh doanh mới có khả
năng trả nợ ngân hàng cịn với khách hàng "yếu" thì khoản tín dụng trên lâm vào tình
trạng xấu, khách hàng rất có thể chậm trả và thậm chí khơng có khả năng trả nợ gây ra
gánh nặng cho hoạt động tín dụng của ngân hàng.
- Khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích: Việc khách hàng sử dụng vốn sai mục
đích cũng thường xảy ra. Một số trường hợp gặp thuận lợi, kinh doanh có lãi song một số
do sử dụng sai mục đích đã tự gây ra những khó khăn tài chính cho mình đó là những
khách hàng ham lợi lớn, sau khi vay đượcvốn ngân hàng thì chuyển hướng kinh doanh
sản xuất, hay khi vốn vay hết vòng nhưng chưa đến thời hạn trả nợ đem sử dụng vào mục
đích kinh doanh khác nhưng kinh doanh thua lỗ hoặc đến kỳ hạn trả nợ chưa thu hồi được
vốn khiến các khoản tín dụng Ngân hàng khơng được trả nợ đúng hạn.
- Về phía ngân hàng, khi cho vay cán bộ tín dụng đã vi phạm các nguyên tắc tín
dụng:
+ Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích hiệu quả
+ Vốn vay phải có vật tư, hàng hố tương đương bảo đảm.
+ Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc, lãi đúng thời hạn.
Đây là 3 nguyên tắc quan trọng cần linh hoạt áp dụng song vì quá lạm dụng sự linh
hoạt này mà gây ra "trục trặc" đối với vốn tín dụng của ngân hàng.


- Đánh giá phương án kinh doanh của khách hàng khơng tốt: Đây là cơ sở để khách
hàng có thể lợi dụng mà vay quá khối lượng tín dụng cần thiết cho phương án kinh doanh
của mình để sử dụng sai mục đích hay vì hạn chế trong lĩnh vực thẩm định dự án của

khách hàng mà ngân hàng không phát hiện được những lỗi trong dự án để kịp thời góp ý
với khách hàng có hướng điều chỉnh cho dự án. Do đó khi dự án đi vào hoạt động gặp
những trục trặc khiến cho khách hàng lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, khả năng
trả nợ kém, phát sinh nợ quá hạn và tồi tệ hơn gây ra khó địi, khơng có khả năng thanh
tốn cho ngân hàng.
- Định kỳ hạn nợ không phù hợp: Do ít hiểu biết về hoạt động sản xuất kinh doanh
của khách hàng, về ciệc chu chuyển vật tư hàng hoá, tiền vốn của đơn vị ... mà người cán
bộ tín dụng định kỳ hạn nợ không hợp lý. Nếu kỳ hạn nợ nhỏ hơn thời gian 1 vòng quay
của vốn khiến khách hàng khơng có khả năng trả nợ đungs hạn gây ra nợ quá hạn hoặc
định kỳ hạn lớn hơn thời gian quay vòng của vốn, khi kết thúc vòng quay vốn, khách
hàng thu được vốn và lãi song do chưa đến kỳ hạn trả, họ lại đầu tư vào vịng quay khách
hay mục đích khách khiến đến hạn nợ khách hàng cũng chưa có khả năng thanh tốn.
* Đối với ngân hàng nợ quá hạn xảy ra sẽ ảnh hưởng đến sự an tồn hiệu quả đồng
vốn tín dụng. Trong trường hợp nghiêm trọng như khách hàng khôgn thể trả nợ, khách
hàng bị phá sản thì ngân hàng có thể bị mất trắng khoản tín dụng đó.
Nợ q hạn sẽ làm giảm vòng quay vốn của ngân hàng, ảnh hưởng đến việc điều
hồ vốn trong kinh doanh tín dụng của ngân hàng. nếu tỷ trọng nợ quá hạn trong tổng dư
nợ cao để dẫn tới mất khả năng thanh tốn của ngân hàng và nghiêm trọng hơn có thể dẫn
tới xụp đổ, phá sản của ngana hàng đó. Do ngân hàng là một trung gian tài chính, hoạt
động của nó mang tính rộng khắp với mạng lưới chằng chịt các mối quan hệ với các
doanh nghiệp khác, Ngân hàng khác nên sự đổ vỡ của một ngân hàng tất yếu sẽ tác động
tiêu cực đến cả hệ thống ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế xã hội.
* Đối với xã hội nợ quá hạn ở mức độ thấp sẽ không gây những tác động lớn song
nếu nợ quá hạn cao sẽ dẫn tới sự khan hiếm vốn một cách giả tạo gây áp lực đối với lạm


×