Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

LUẬN VĂN: Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.36 KB, 98 trang )













LUẬN VĂN:

Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn với việc phát triển
làng nghề tại tỉnh Quảng Nam










Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tiền tệ cho phát triển kinh tế - xã


hội là một trong những giải pháp quan trọng nhất và được quan tâm hàng đầu trong chiến
lược và chính sách kinh tế của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
hiện nay. Điều này lại càng cóư nghĩa đối với một tỉnh duyên hải miền Trung như Quảng
Nam khi mà thu nhập bình quân đầu người còn ở mức thấp hơn so với nhiều tỉnh lân cận,
đời sống của người dân còn rất nhiều khó khăn, mâu thuẫn giữa tích luỹ và tiêu dùng còn
cực kỳ gay gắt.
Hai mươi năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) tỉnh Quảng Nam đã có nhiều cố gắng
trong việc góp phần phát triển thị trường vốn tín dụng (TD) phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở địa phương. Bằng các hoạt động TD
thương mại với cơ chế linh hoạt và chính sách ưu tiên phát triển, NHNo&PTNT tỉnh
Quảng Nam đã trở thành trung tâm cung ứng vốn TD chủ yếu cho các cơ sở sản xuất và
dân cư phục vụ cho việc khôi phục và phát triển các làng nghề trên địa bàn. Bộ mặt của
một số làng nghề đã có những chuyển biến đáng phấn khởi. Đã xuất hiện một số mô hình
làng nghề truyền thống và làng nghề mới phát triển năng động trong kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, hoạt động TD của NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam nhằm phục vụ cho
phát triển các làng nghề của tỉnh còn bộc lộ nhiều hạn chế và gặp phải không ít khó khăn,
quy mô nguồn vốn còn nhỏ, chưa thật "bám rễ" sâu vào các đối tượng làng nghề, hiệu
quả TD thấp, hoạt động TD đứng trước nguy cơ có nhiều rủi ro và có thể dẫn đến phát
triển không bền vững trong mạng lưới phục vụ. Hơn nữa trong bối cảnh khoa học và
công nghệ phát triển nhảy vọt hiện nay và xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế
ngày càng sâu rộng, cạnh tranh gay gắt trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của các
làng nghề, đòi hỏi TD của NHNo&PTNT phải có những đổi mới để nâng cao hiệu quả
hoạt động.
Trước vấn đề bức xúc trên, để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
TD, phục vụ tốt nhất chủ trương, nghị quyết của Tỉnh đảng bộ Quảng Nam về đẩy mạnh
phát triển làng nghề, tạo việc làm và thu nhập cho người dân, tôi chọn đề tài: " Tín dụng

của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại
tỉnh Quảng Nam " để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ kinh tế chuyên ngành kinh tế

chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đề cập đến vấn đề TD
ngân hàng đổi với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, trong
đó đáng chú ý là một số công trình sau đây:
- “Tín dụng ngân hàng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam” (1996), Luận án phó tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Thanh Đảo, tại Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- “Tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa
bàn Hà Nội” (1996), Luận án phó tiến sĩ kinh tế của tác giả Hoàng Việt Trung, tại Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- “Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá,
hiện dại hoá đất nớc” (1997), Tài liệu tổng kết cuộc thi ngân hàng Việt Nam với việc
huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Hà Nội.
- “Thị trường vốn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”
(2001), Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Đỗ Đức Quân, tại Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
- “Đổi mới chính sách tín dụng theo cơ chế thị trường nhằm góp phần đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta” (2001), Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Đào
Minh Tú, Học viện Ngân hàng, Hà Nội.
- “Marketting trong ngân hàng” (1996), Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
- “Giải pháp xử lưí nợ xấu trong tiến trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại
Việt Nam”, (2003), Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- “Lịch sử 15 năm xây dựng và trưởng thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam” (2003), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

- “Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trên địa bàn Nghệ An theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá” (2003), Luận án tiến sĩ
Kinh tế của tác giả Hà Huy Hùng, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

- “Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại Việt Nam”
(2003), Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Lê Thị Hương, Trường Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội.
Ngoài ra, còn có một số công trình khoa học khác nghiên cứu về những vấn đề có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động TD hoặc hoạt động kinh doanh nói chung
của NHTM, trong đó có NHNo&PTNT Việt Nam đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
phát triển làng nghề.
Nhìn chung, các công trình và bài viết trên đã có những cách tiếp cận khác nhau
hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp vấn đề TD NHNo&PTNT đối với việc phát triển làng nghề
ở Việt Nam nói chung, một tỉnh nói riêng trong những năm gần đây. Nhưng chưa có công
trình nào nghiên cứu vấn đề TD NHNo&PTNT với việc phát triển làng nghề ở tỉnh
Quảng Nam dưới góc độ kinh tế chính trị. Đề tài tác giả lựa chọn để nghiên cứu không
trùng lặp với các công trình và bài viết đã công bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu:
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư TD của NHNo&PTNT Quảng
Nam trong phát triển làng nghề trên địa bàn, để đề xuất giải pháp nhằm phát huy tốt hơn
vai trò của nó trong phục vụ phát triển làng nghề ở tỉnh Quảng Nam thời gian tới.
Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động TD của NHNo&PTNT và vai trò của nó
trong phát triển làng nghề.
- khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động TD của NHNo&PTNT
Quảng Nam trong phục vụ quá trình phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động TD của
NHNo&PTNT nhằm đảm bảo phục vụ có hiệu quả cho quá trình phát triển làng nghề trên
địa bàn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu hoạt động TD của NHNo&PTNT Quảng Nam với hai hoạt
động cơ bản là thu hút vốn và cấp TD cho phát triển các làng nghề tỉnh Quảng Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu ở góc độ kinh tế chính trị đối với hoạt động TD của
NHNo&PTNT đối với việc khôi phục và phát triển làng nghề, không đi sâu vào những vấn
đề kỹ thuật nghiệp vụ của hoạt động TDNH và cũng không đi sâu vào nghiên cứu cơ chế
chính sách và phương thức phát triển các làng nghề.
Phạm vi về không gian: Địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Phạm vi về thời gian: Từ năm 2001 đến nay (tháng 6/2006).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối và chính sách đổi mới của Đảng và
Nhà nước về TDNH trong nền kinh tế thị trường, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu đề ra, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp hệ thống hoá lý luận - thực tiễn.
Phương pháp điều tra, khảo sát, so sánh; phân tích, tổng hợp tình hình thực tiễn về
hoạt động TD thương mại phục vụ việc khôi phục và phát triển làng nghề của
NHNo&PTNT Quảng Nam.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động TD thương mại của NHNo&PTNT
Quảng Nam trong việc phục vụ khôi phục và phát triển làng nghề của tỉnh từ năm 2001 đến
nay.
- Đề xuất và kiến nghị phương hwớng và giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động TD
của NHNo&PTNT Quảng Nam nhằm phục vụ tốt hơn quá trình khôi phục và phát triển
làng nghề trên địa bàn.
7. Kết cấu của đề tài


Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.


Chương 1
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn và vai trò của nó
trong phát triển làng nghề

1.1. Tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và đặc điểm hoạt
động của nó trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Đã có một thời chưa có TD. Trong các nền kinh tế tổ chức sản xuất theo lối tự cấp
tự túc, không có TD. TD chỉ ra đời và phát triển trong nền kinh tế hàng hoá và khi nền
kinh tế đó đã phát triển đến một trình độ nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, sự ra đời và phát triển của TD không phải là ngẫu nhiên hay do ý muốn chủ quan
của bất kỳ ai, mà nó được quyết định bởi các điều kiện khách quan trong nền kinh tế hàng
hóa. Sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự xuất hiện chế độ tư hữu làm cho
việc sản xuất của người nông dân và thợ thủ công không chỉ nhằm tự thỏa mãn nhu cầu
tiêu dùng của bản thân người sản xuất, mà còn nhằm trao đổi, mua bán, tức là ra đời và
phát triển kinh tế hàng hóa. Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hóa là quá trình phân hóa
xã hội, của cải tập trung vào trong tay người giàu, có quyền thế, trong khi những người
nghèo không đủ thu nhập để đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho đời sống của mình. Mặt khác,
do điều kiện thiên nhiên và điều kiện sản xuất luôn luôn có rủi ro đòi hỏi phải có sự vay
mượn nhau để vượt qua những khó khăn của cuộc sống và phát triển sản xuất. Trong điều
kiện đó, quan hệ TD ra đời.
Lúc đầu quan hệ này còn sơ khai dưới hình thức hiện vật để người giàu cho người
nghèo vay đảm bảo cuộc sống. Theo đà phát triển của kinh tế hàng hóa, nhu cầu đầu tư
tìm kiếm lợi nhuận và nhu cầu tiêu dùng ngày càng gia tăng, quan hệ TD càng được mở
rộng. Mặt khác, do đặc điểm tuần hoàn vốn của từng doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh tế

trong quá trình phát triển làm xuất hiện tình trạng khi thừa, khi thiếu, tạo nên sự không ăn
khớp về mặt thời gian và không gian đầu tư. Có những doanh nghiệp lúc này thừa vốn,
nhưng lúc khác lại thiếu vốn. Đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì có doanh
nghiệp này tạm thời có vốn nhàn rỗi chưa sử dụng, trong khi lại có những doanh nghiệp

cần vốn bổ sung nguồn vốn cho dự án đầu tư. Để giải quyết mâu thuẫn này, dòng luân
chuyển vốn từ nơi “thừa” đến nơi “thiếu” xuất hiện. Hình thức TD ra đời làm cầu nối
trung gian giữa nơi thừa và nơi thiếu vốn. Nói cách khác, TD ra đời là kết quả tất yếu của
quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế thị trường và là
hiện tượng có tính quy luật.
Trong kinh tế thị trường, nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh đòi hỏi cần phải có
nguồn vốn trong xã hội để đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất, tái sản xuất tài sản cố định.
Nguồn cung vốn cho hoạt động TD chủ yếu được huy động từ các khoản tiền nhàn rỗi
trong xã hội, bao gồm vốn tiết kiệm của cá nhân, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của
các nhà kinh doanh nhưng chưa dùng, ngân sách nhà nước cho các tổ chức TD vay Điều
này có nghĩa là sự phát triển của TD còn được bắt nguồn từ nhu cầu tiết kiệm và đầu tư.
Thực chất, TD là cầu nối giữa các khoản tiết kiệm và các khoản đầu tư trong nền kinh tế.
TD đã từng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Nhưng ở bất kỳ
phương thức sản xuất nào, nó cũng biểu hiện ra ngoài như là sự vay mượn lẫn nhau tạm
thời một vật hoặc một số tiền nhất định. Hoạt động của TD được diễn ra trên thị trường
vốn. Đây là một bộ phận cấu thành rất quan trọng của hệ thống các loại thị trường trong
nền kinh tế. Nó là kênh dẫn vốn, góp phần giải quyết sự mất cân đối giữa cung và cầu về
vốn trong nền kinh tế. Có thể khái quát vận động của vốn giữa các chủ thể trong nền kinh
tế thông qua hai phương thức: tài trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp.
Tài trợ trực tiếp là phương thức chuyển vốn từ người có vốn (cung vốn) sang
người cần vốn bằng cách người cần vốn phát hành các chứng khoán và bán cho người có
vốn thông qua thị trường tài chính. Tuỳ theo từng loại chứng khoán mà người sở hữu
chúng có được mối quan hệ với người phát hành ra chứng khoán đó và gọi tên cho loại
chứng khoán đó. Ví dụ, có loại chứng khoán được gọi là cổ phiếu, nhưng loại khác lại gọi
là tín phiếu, trái phiếu, công trái Với phương thức này, người có vốn cũng như người

cần vốn hoàn toàn có thể chủ động lựa chọn phương án nào tối ưu cho mình.
Tài trợ gián tiếp là phương thức chuyển vốn từ người có vốn đến người cần vốn
thông qua người thứ ba gọi là tổ chức trung gian tài chính. Tổ chức này có chức năng làm
“cầu nối” dẫn vốn từ người có vốn đến người cần vốn. Phương thức này sẽ khắc phục
đáng kể những hạn chế mà phương thức tài trợ trực tiếp không thể giải quyết được, vì nó
có khả năng tập hợp được vốn từ những người có số vốn nhỏ, tạo điều kiện cho họ có cơ

hội tiếp cận với hoạt động sinh lợi và tạo điều kiện cho những người cần số tiền nhỏ vẫn
có thể vay được vốn. Ngay cả những người có vốn hoặc cần vốn với số lượng lớn cũng
có lợi vì họ sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận với các kênh dẫn vốn. Thêm vào
đó, không phải ai cũng có thể hoặc cũng muốn sử dụng những sản phẩm của thị trường
tài chính, vì nhiều lý do khác nhau mà họ chỉ có thể hoặc chỉ muốn đầu tư số vốn nhàn
rỗi của mình, hoặc là vay mượn vốn thông qua các trung gian tài chính. Nếu không có
các trung gian tài chính, thì thị trường tài chính sẽ không thể mang lại lợi ích trọn vẹn cho
các chủ kinh tế. Các trung gian tài chính còn là cần thiết vì nó có thể có được những chi
phí thong tin và chi phí giao dịch lớn trong quá trình lưu chuyển vốn mà chỉ có nó mới
giải quyết được; vì nó có một đội ngũ chuyên nghiệp đánh giá rủi ro để có những biện
pháp hữu hiệu trong tài trợ vốn. Các trung gian tài chính có thể liên kết với nhau trong
hoạt động tài trợ vốn, tạo điều kiện dễ dàng cho sự vận động của vốn có hiệu quả. Do sự
ra đời và phát triển của các trung gian tài chính làm hình thành các quan hệ TD có tính
chuyên nghiệp.
Trong thực tế, quan hệ TD có thể được diễn ra trực tiếp giữa chủ có vốn với chủ
cần vốn. Nhưng hai chủ này không thể khi nào cũng gặp được nhau để giải quyết nhu cầu
về vốn, xác định số lượng vốn, thời gian cho vay và sử dụng vốn, và nếu có gặp được
nhau thì cũng phải mất nhiều thời gian và chi phí tìm kiếm. Để thoả mãn được nhu cầu
của cả hai bên, cần thiết phải có một bên thứ ba đứng ra làm cầu nối. Công việc của bên
này là tập trung tất cả số vốn của những người tạm thời thừa hoặc cần đầu tư kiếm lãi, rồi
phân phối nó cho các nhu cầu đầu tư dưới hình thức cho vay. Đây chính là các tổ chức
TD có tính chuyên nghiệp.
Theo nghĩa thông thường, TD là một sự tín nhiệm lẫn nhau. Hay nói cách khác,

đó là lòng tin, là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Dưới
góc độ kinh tế chính trị, TD là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay,
là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị hay hiện vật theo những điều kiện
mà hai bên cùng thỏa thuận. Nó được thực hiện thông qua sự vận động của vốn với các
giai đoạn:
- Giai đoạn phân phối vốn TD dưới hình thức cho vay. ở giai đoạn này, vốn tiền
tệ hoặc giá trị vật tư hàng hóa được chuyển từ tay người cho vay sang tay người đi vay.

- Giai đoạn sử dụng vốn trong quá trình tái sản xuất. ở giai đoạn này, vốn vay
được sử dụng trực tiếp (nếu vay bằng hàng hóa) hoặc được sử dụng để mua hàng hóa
(vay bằng tiền) để thỏa mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của người đi vay. Tuy
nhiên, người đi vay không có quyền sở hữu về giá trị đó, mà chỉ có quyền sử dụng tạm
thời trong một thời gian nhất định.
- Giai đoạn hoàn trả vốn TD. Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của
TD. Nghĩa là sau khi hoàn thành một chu kỳ sản xuất T - H - T để trở về với hình thái
tiền tệ thì vốn TD được người vay hoàn trả lại người cho vay. Hoàn trả là một đặc điểm
của TD và là cơ sở để phân biệt nó với các phạm trù kinh tế khác.
Sự hoàn trả của TD là quá trình quay trở về với tư cách là một lượng giá trị được
vận động. Sự hoàn trả luôn luôn phải được đảm bảo giá trị và có phần tăng thêm dưới hình
thức lợi tức. Trong trường hợp có lạm phát, sự hoàn trả về mặt giá trị cũng phải được tôn
trọng thông qua cơ chế điều tiết bằng lãi suất.
C. Mác cho rằng:
Tiền được bỏ ra với tư cách là tư bản, có đặc tính là quay trở về tay
người đã bỏ tiền ra, về tay người đã chi nó ra với tư cách là tư bản, vì H – T –
H’ là hình thái nội tại của sự vận động tư bản, nên chính vì vậy người sở hữu
tiền mới có thể đem tiền cho vay với tư cách là tư bản, nghĩa là đem tiền cho
vay với tư cách là một vật có đặc tính là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó
mà vẫn giữ nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn thêm lên trong quá
trình vận động [16, tr.534].
Tiền được đem cho vay như vậy, nghĩa là có sự chuyển nhượng tạm thời một

lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về
với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Đó chính là TD.
Thực chất, TD là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay một
khoản tiền thông qua sự vận động của giá trị. Vốn TD được biểu hiện dưới hình thức tiền
tệ được chuyển từ tay người cho vay sang người đi vay trong một thời gian nhất định rồi
quay về người chủ cho vay với lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Hay nói cách khác,
TD là một phạm trù của nền kinh tế thị trường, phản ánh quan hệ kinh tế giữa chủ sở hữu
với chủ sử dụng đối với các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên
tắc hoàn trả đúng kỳ hạn và kèm theo lợi tức.

Đến nay, ở nước ta cũng như các nước trên thế giới, đã có nhiều hình thức TD
khác nhau.
- Nếu căn cứ vào phương thức thực hiện các quan hệ TD theo đối tượng, TD có
các hình thức chủ yếu sau: TD thông qua vốn hàng hoá, TD thông qua vốn tiền tệ và TD
vốn tài sản.
+ TD thông qua vốn hàng hoá (còn gọi là TD thương mại) là hình thức mua bán
chịu hàng hoá đến kỳ hạn mới thanh toán, kèm theo lợi tức. Nó được thực hiện thông qua
các công cụ kỳ phiếu hoặc hối phiếu thương mại. Đây là hình thức khá phổ biến trong
kinh tế thị trường.
+ TD thông qua vốn tiền tệ (gồm TD NH, TD nhà nước và TD tập thể) được thực
hiện thông qua các trung gian tài chính. Ví dụ, TDNH được thực hiện thông qua các NH
bao gồm NHTM, NH thực hiện các chính sách xã hội. NHTM bao gồm NH Công
thương, NH Ngoại thương, NH Đầu tư và phát triển, NHNo&PTNT TD tập thể là hình
thức tự nguyện góp vốn của những thành viên để cho nhau vay, hoặc góp vốn cùng kinh
doanh, được thực hiện thông qua các tổ chức TD hợp tác (NH hợp tác xã, quỹ TD nhân
dân, hợp tác xã TD ).
+ TD thông qua vốn tài sản là TD được tồn tại dưới dạng cho thuê tài sản tài
chính (trung hạn, ngắn hạn). Khi hết thời hạn thuê, khách hàng có thể thuê tiếp hoặc mua
lại theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng.
- Nếu căn cứ vào tính chất pháp lý, thì TD có hai hình thức: TD chính thức và TD

không chính thức.
+ TD chính thức là hình thức TD được pháp luật thừa nhận. Loại TD này được
thực hiện thông qua các tổ chức: NHTM nhà nước, NH nước ngoài, NH liên doanh,
NH cổ phần, hợp tác xã TD và các tổ chức trung gian tài chính khác.
+ TD không chính thức là hình thức TD “ngầm” không được luật pháp thừa nhận.
Hình thức này ra đời và tồn tại gắn liền với lịch sử phát triển của kinh tế hàng hóa thường
diễn ra giữa các cá nhân (người có nhu cầu TD) và các nhân (người cho vay nặng lãi)
hoặc người bán chịu (TD thương mại trong nhân dân). Đến nay ở nước ta, hình thức TD
này vẫn tồn tại tương đối phổ biến ở nông thôn nước ta dưới các dạng cho vay bằng tiền
lãi suất cao (15 - 30%/năm), cho vay bằng vàng, cho vay thóc theo vụ 1 thùng (10kg) =
1,4 thùng/ vụ (ở Bắc Bộ) hoặc 1 công = 2 giạ lúa/vụ (ở Nam Bộ), cho vay bằng phân (1

bao urê cuối vụ trả 10 - 12 giạ lúa), bán lúa non (lãi 30 - 50%), cho vay "nóng" theo ngày
(lãi suất 1%/ngày)
Trong các nền kinh tế kém phát triển, do sản xuất hàng hóa còn ở giai đoạn
đầu, có nhiều yếu tố sơ khai, nên để duy trì mức sống bình thường tối thiểu cần thiết,
người ta có thể đi vay với bất cứ hình thức nào và với mức lãi suất là bao nhiêu cũng
phải chấp nhận. Hình thức này ngăn cản sự phát triển của sản xuất. ở nước ta, sản xuất
nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn nhiều yếu tố lạc hậu, khi hệ thống TD chính
thức không đáp ứng nổi nhu cầu đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, thì đây là miếng
đất màu mỡ cho kênh TD “ngầm” hoạt động, mặc dù cho vay nặng lãi có những hạn
chế nhưng xét cho cùng nó cũng có những đóng góp tích cực để giải quyết vấn đề vốn
cho hộ sản xuất nông nghiệp và các hộ trong hoạt động kinh tế ở nông thôn.
Trong hai hình thức trên, TD chính thức là nguồn cung ứng vốn lớn nhất và dần
dần chiếm lĩnh thị trường nông thôn mà NHNo&PTNT là nòng cốt. Hình thức này đang
hoạt động mạnh mẽ và thực sự mang lại lợi ích cho các hộ kinh doanh nông nghiệp và
các hộ hoạt động kinh tế khác ở nông thôn.
TD chính thức được phân chia thành 3 loại theo đối tượng thực hiện TD gồm: 1)
TD thông qua vốn tiền tệ (TD NH, TD nhà nước và TD tập thể); 2) TD thông qua vốn
hàng hóa (hay còn gọi là TD thương mại) và 3) TD thông qua vốn tài sản (cho thuê tài

sản tài chính trung hạn và dài hạn).
TDNH là một loại hình TD dụng chính thức. Nó là quan hệ kinh thế dưới hình
thức tiền tệ, hàng hoá và dịch vụ giữa một bên là NH và một bên là các tổ chức kinh tế,
xã hội và dân cư theo nguyên tắc hoàn trả đúng kỳ hạn và kèm theo lợi tức. Trong hình
thức này, ngân hàng đóng vai trò trung gian giữa chủ cho vay và chủ đi vay trên thị tr-
ường nhằm đáp ứng cầu vốn cho các hoạt động của các tổ chức kinh tế, xã hội và cá
nhân.
TDNH được thực hiện thông qua trung gian tài chính là các NH. Nó bao gồm
NHTM và NH thực hiện chính sách xã hội. NHTM gồm có NHNo&PTNT, NH Công
thương nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Ngoại thương Đây là hình
thức chủ yếu để huy động vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.
TD NHNo&PTNT là một hình thức trung gian tài chính thuộc hệ thống ngân
hàng thương mại. Khác với các hình thức trung gian tài chính khác, hoạt động của hình

thức này là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng phục vụ cho hoạt động của kinh tế
nông nghiệp và khu vực nông thôn với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
của các tổ chức cá nhân có vốn, sử dụng vốn này để cấp TD cho những tổ chức, cá nhân
cần vốn, và cung ứng các dịch vụ thanh toán nhằm mục đích thu lợi nhuận.
ở nước ta, TD NHNo&PTNT so với các hình thức TDNH, có sự ra đời chậm hơn.
Theo tinh thần Nghị định 53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính
phủ) ngày 26 tháng 3 năm 1988, Vụ Tín dụng Nông nghiệp thuộc NH nhà nước Việt
Nam đã được phân tách để thành lập NH Phát triển Nông nghiệp Việt Nam. Đây chính là
tiền thân của NHNo&PTNT Việt Nam. Ngay từ khi được thành lập, NH Phát triển Nông
nghiệp đã được xác định là NHTM giữ vai trò chủ đạo, chủ lực trong thị trường tài chính
nông thôn với nhiệm vụ tiếp tục đầu tư TD thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Lúc đầu, hoạt động của loại TD này hầu như chỉ đơn nhất là TD theo cơ chế bao
cấp, hoạt động TD phải cho vay theo chỉ định và theo kế hoạch định sẵn nhà nước. Đối
tượng cho vay chỉ bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
Cùng với công cuộc đổi mới, tháng 9/1990, Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh:
Pháp lệnh NH nhà nước và Pháp lệnh NHTM, hợp tác xã TD và công ty tài chính, hệ

thống NH nước ta được chia thành hai cấp : NH nhà nước và NHTM. Theo Pháp lệnh
này, NH Phát triển Nông nghiệp Việt Nam chuyển thành NHNo&PTNT Việt Nam. Hoạt
động TD của NHNo&PTNT đến nay đã có nhiều đổi mới và đã có những bước phát triển
quan trọng.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam
NHNo&PTNT Việt Nam là một loại hình tổ chức trung gian tài chính hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ NH với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
của các tổ chức, cá nhân có vốn, sử dụng số vốn này để cấp TD cho các tổ chức, cá nhân
cần vốn và cung ứng các dịch vụ thành toán nhằm thu lợi nhuận. Nó là một doanh nghiệp, có
tổ chức bộ máy độc lập để quản lý và điều hành kinh doanh, có nguồn tài sản riêng, có mua
vào, bán ra, có chi phí, thu nhập và kết quả kinh doanh độc lập; có nghĩa vụ nộp thuế cho
ngân sách Nhà nước, tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh. Phạm vi
hoạt động của NH này là ngành kinh doanh nông nghiệp và khu vực nông thôn. Do chức

năng, nhiệm vụ của nó, nên NHNo&PTNT gắn bó hữu cơ với nông nghiệp, nông thôn, hoạt
động có hiệu quả hay kém hiệu quả của NHNo&PTNT có ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng
tới ngành và khu vực kinh tế này. Mặc dù không trực tiếp sản xuất ra hàng nông sản hay các
sản phẩm vật chất khác từ nông thôn, nhưng NHNo&PTNT có thể tạo điều kiện thúc đẩy
quá trình sản xuất và tái sản xuất của ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
1.1.2.1. Mục tiêu hoạt động tín dụng
Cũng như các NHTM khác, mục tiêu hoạt động của NHNo&PTNT và lợi nhuận.
Trong cơ chế thị trường, mức lợi nhuận cao và thu được lâu bền là cái đích mà các doanh
nghiệp kinh doanh cần và muốn đạt tới. Nguồn thu nhập chủ yếu của NHNo&PTNT là từ
lãi cho vay, đầu tư chứng khoán và các phí dịch vụ; trong khi nguồn chi chủ yếu là trả
tiền lãi cho nguồn vốn huy động và đi vay. Ngày nay, chi phí cho việc trang bị và hiện
đại hoá hệ thống cơ sở vật chất, công nghệ NH là những khoản chi chiếm tỷ trọng đáng
kể trong danh mục chi phí của NHNo&PTNT.
Mục tiêu hoạt động của NHNo&PTNT là lợi nhuận, không có nghĩa là nó theo
đuổi mục tiêu đó bằng mọi giá, bất chấp việc tuân thủ các nguyên tắc đảm bảo an toàn.

Sở dĩ như vậy là vì, cũng như các doanh nghiệp khác, hoạt động của NHNo&PTNT phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh, môi trường tâm
lý xã hội, hoạt động đầu tư của người vay vốn Sự biến động của các yếu tố này có thể
gay ra những rủi ro trong hoạt động của hệ thống NHNo&PTNT. Hoạt động của NHTM
nói chung có tác động đến sự phát triển của nền kinh tế, nhưng tình trạng của nền kinh tế
cung tác động đến hoạt động của hệ thống NHTM.
Thực tế thị trường vốn ở các nước trong khu vực vừa qua cho thấy hoạt động của
hệ thống NHTM là rất nhạy cảm. Hướng và cơ cấu đầu tư sai tạo nguy cơ đổ vỡ của hệ
thống NH; ngược lại những rủi ro nảy sinh trong hoạt động của hệ thống NH có tính chất
lan truyền và gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với hệ thống kinh tế. Nó không chỉ
ảnh hưởng xấu đến một quốc gia, mà có khi còn lan truyền ra các nước trong khu vực.
Những hậu quả trực tiếp và dễ nhận thấy là sự chao đảo, đổ vỡ hệ thống thị trường vốn,
đảo lộn giá trị đồng tiền của quốc gia, từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế và lan từ quốc
gia này sang quốc gia khác.
Do mục đích hoạt động TD của NHNo&PTNT là lợi nhuận, nên nó phải tính toán

chi phí "đầu vào" và thu hồi "đầu ra" theo nguyên tắc tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá
doanh thu để tối đa hoá lợi nhuận. Do theo đuổi mục đích đó, việc quản trị của
NHNo&PTNT phải trở thành một hoạt động tất yếu, có ý nghĩa rất quan trọng. Để tồn tại,
phát triển và vì lợi ích chung của cộng đồng, NHNo&PTNT buộc phải tuân thủ một cách
nghiêm ngặt những tỷ lệ an toàn như khả năng tự chủ tài chính, khả năng thanh toán,
thanh khoản, sinh lợi, chất lượng tài sản có mà những tỷ lệ này đã trở thành tiêu chuẩn
và thông lệ quốc tế. Cũng vì thế, mà trong chính sách kinh tế của bất kỳ quốc gia nào,
chính phủ cũng đều quan tâm và coi trọng các biện pháp bảo đảm cho hoạt động của hệ
thống NHNo&PTNT cũng như các NHTM nói chung phát triển an toàn, hiệu quả và bền
vững.
Để đạt được mục tiêu lợi nhuận, NHNo&PTNT cũng phải được quyền tự chủ,
phải chịu trách nhiệm trong hoạt động của mình, bảo đảm kinh doanh có hiệu quả và phù
hợp với những quy định của pháp luật, không thể chấp nhận bất cứ sự can thiệp trái pháp
luật hoặc can thiệp "phi thị trường" vào hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT. Tuy

nhiên, do tính đa dạng và nhạy cảm của lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và dịch vụ NH, mà
Nhà nước phải đưa ra những nhuôn khổ pháp lý đồng bộ để quản lý và điều tiết hoạt
động này, bảo đảm cho hệ thống NH phát triển bền vững.
1.1.2.2. Phương thức dẫn vốn tín dụng
Hoạt động của NHNo&PTNT ngày nay đã trở nên rất đa dạng với rất nhiều loại
dịch vụ. Nếu xét ở góc độ thực hiện chức năng dẫn vốn, hoạt động kinh doanh TD của
NHNo&PTNT bao gồm 3 nhóm chính: thu hút vốn, cấp TD và đầu tư chứng khoán.
Một là, thu hút nguồn vốn:
Phương thức này được thực hiện thông qua các biện pháp sau:
- Cung cấp các khoản tiền gửi có thể phát séc.
Đây là những tài khoản ở một NH mà người sở hữu chúng có quyền được phát
séc để rút tiền hoặc thanh toán cho việc mua hàng hoá, dịch vụ. Tài khoản này còn được
gọi là tài khoản tiền gửi giao dịch hay tiền gửi thanh toán. Việc đưa ra loại tài khoản tiền
gửi này là một trong những bước đi quan trọng nhất của hoạt động NHTM, bởi nó cải
thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở
nên dễ dàng hơn, nhanh chóng và an toàn hơn.

Tiền gửi có thể phát séc là tiền gửi có thể thanh toán theo yêu cầu, tức là người
gửi có thể yêu cầu thanh toán bằng cách viết ra một tờ séc và NH sẽ thực hiện thanh toán
ngay cho người đó. Đây là công cụ mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, đặc biệt là
trong việc bảo quản, kiểm đếm, vận chuyển tiền mặt, quản lý tài chính doanh nghiệp,
thanh toán hoặc chuyển đổi ra tiền mặt. Tiền gửi có thể phát séc là một nhuồn vốn quan
trọng của NHNo&PTNT, vì nó là nguồn vốn mà NH có phí tổn thấp nhất do những người
sở hữu chúng sẵn sàng bỏ qua một số tiền lãi nhất định để có được một tài sản có "lỏng"
có thể sử dụng bất cứ lúc nào. Nền kinh tế càng phát triển, thì càng có nhiều khách hàng
mở tài khoản séc ở NHTM, NH càng có cơ hội để huy động nguồn vốn này và mở rộng
các hoạt động kinh doanh của mình.
- Cung cấp các tài khoản tiền gửi phi giao dịch.
Tài khoản này có đặc tính chung là được hưởng lãi, rút vốn theo định kỳ và người
sở hữu chúng không được quyền phát séc. Do người sở hữu tài khoản không được quyền

phát séc nên nó được gọi là tài khoản phi giao dịch. Mức lãi suất của loại tiền gửi này
thường cao hơn nhiều so với tài khoản tiền gửi có thể phát séc, vì mục đích chính của
những người sử dụng loại tài khoản này là lợi nhuận. Tiền gửi phi giao dịch thường
chiếm phần lớn trong cơ cấu nguồn vốn của NHNo&PTNT, nó bao gồm hai khoản chính
là tiền gửi tiết kiệm và chứng chỉ tiền gửi.
Tiền gửi tiết kiệm lại bao gồm tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn. Tài khoản này nhằm mục đích chính là huy động nguồn tiết kiệm của các
chủ thể trong xã hội nên NH phải trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi có thể phát séc. Về
nguyên tắc, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn không được rút ra khi chưa đến hạn, nhưng do sự
cạnh tranh thu hút tiền gửi, các NHTM thường cho phép người gửi có thể rút tiền trước
thời hạn và khi đó sẽ phải giảm một lượng tiền lãi nhất định.
Chứng chỉ tiền gửi cũng có nhiều loại kỳ hạn, có thể đến hơn 5 năm. Về thực
chất, chứng chỉ tiền gửi được coi như những công cụ vay nợ của các NHTM nói chung
(như kỳ phiếu, trái phiếu ) và là một nguồn vốn quan trọng của NHTM, nó có thể được
phát hành trên thị trường tài chính. Xét ở cùng thời điểm, so với tiền gửi tiết kiệm thì
thông thường chứng chỉ tiền gửi là nguồn vốn có chi phí lớn hơn, nhưng tính ổn định lại
cao hơn. Do đó, chứng chỉ tiền gửi có thể đem bán lại được ở thị trường thứ cấp nên nó
được các công ty tài chính nắm giữ như là những tài sản đầu tư có tính lỏng cao.

- Đi vay vốn.
Ngoài nguồn vốn tự huy động, hoạt động TD của NHNo&PTNT còn có thể thông
qua việc đi vay trên thị trường liên NH, vay các tổ chức tài chính, tổ chức TD khác hoặc
vay NH trung ương. Vay vốn trên thị trường liên NH chủ yếu được sử dụng để đáp ứng
nhu cầu thanh khoản, các khoản vay liên NH thường có thời hạn là qua đêm, vài ngày
hoặc có thể dài hơn nhưng là vay ngắn hạn. Ngoài ra, trong thực tế, có những tổ chức tài
chính, chẳng hạn các công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm cũng có những khoản vốn tạm
thời nhàn rỗi chưa có kế hoạch sử dụng, do đó, các NHNo&PTNT có thể đi vay các
nguồn vốn này.
Các NHNo&PTNT còn có thể đi vay tái chiết khấu và đi vay tái cấp vốn tại NH
trung ương. Thời hạn vay vốn cụ thể phụ thuộc vào những yếu tố như điều kiện của NH

đi vay, tình hình kinh tế - xã hội, tình hình thực hiện chính sách tiền tệ, mục đích sử dụng
vốn vay nhưng thường cũng là ngắn hạn. Ngoài ra, NHNo&PTNT cũng có thể vay NH
trung ương với thời hạn rất ngắn để giải quyết khó khăn tạm thời trong hoạt động thanh
toán, hoặc trong một số trường hợp nó còn có thể vay vốn của NH trung ương để cho vay
một số đối tượng cần thiết theo chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn
theo yêu cầu của Chính phủ.
- Tăng vốn tự có.
Vốn tự có bao gồm vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Vốn điều lệ là
nguồn tiền được đóng góp bởi những chủ NH, còn quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ là
nguồn tiền được hình thành bằng việc trích lập từ lợi nhuận hàng năm. Vốn tự có của
NHNo&PTNT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tuy chỉ chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ
trong tổng nguồn vốn hoạt động, nhưng nó lại thực hiện những chức năng không thể thay
thế được, chẳng hạn như việc cung cấp nền tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng NH, giúp
NH chống lại rủi ro, duy trì niềm tin của công chúng và của các cổ đông vào khả năng
phát triển của mình.
Vốn tự có của NHNo&PTNT là một nguồn lực có ý nghĩa sống còn đối với việc
duy trì các hoạt động hàng ngày và bảo đảm cho NH phát triển lâu dài. Quy mô vốn tự có
quyết định quy mô huy động vốn, đi vay, quy mô tài sản có và một số hoạt động khác của
NH. Vì thế mà một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất của NHNo&PTNT là việc
thường xuyên phải duy trì được lượng vốn tự có ở mức hợp lý. Về nguyên tắc,

NHNo&PTNT có thể tăng vốn tự có bằng cách tăng thêm vốn góp của các chủ sở hữu,
phát hành cổ phiếu, phát hành giấy nợ thứ cấp có khả năng chuyển đổi và nâng cao năng
lực tự tích luỹ từ lợi nhuận của NH. Mặt khác, chính sự hoạt động có hiệu quả của
NHNo&PTNT cũng góp phần làm tăng thêm vốn, tức là phần giá trị thị trường của các
cổ phiếu vượt quá mệnh giá của nó và đó cũng là cách thức quan trọng làm tăng vốn tự
có thực của NH.
Các hoạt động thu hút vốn nêu trên làm hình thành một vế trong bảng cân đối tài
sản của NHNo&PTNT, đó là tài khoản nợ và vốn.
Hai là, cấp tín dụng:

Đây là chức năng cơ bản nhất của NHNo&PTNT, là các giao dịch về tài sản giữa
các bên cho vay là NH với bên đi vay là các tổ chức kinh tế, xã hội và dân cư trong khu
vực nông thôn. Trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong
một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện
vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. NHNo&PTNT chủ yếu cấp TD
cho các tổ chức kinh tế và hộ trong các ngành nông nghiệp và khu vực nông thôn.
Cấp TD là nguồn sinh lợi lớn nhất của NHNo&PTNT, nhưng cũng là nơi có
nhiều rủi ro nhất. Một NHNo&PTNT gặp khó khăn về tài chính thường phát sinh từ các
khoản cho vay khó đòi, mà nguyên nhân của nó là do quản lý kém, cho vay không tuân
thủ đúng nguyên tắc TD, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài
dự kiến của ngành kinh tế nông nghiệp và các ngành kinh tế khác thuộc khu vực nông
thôn.
Nếu nhìn từ góc độ các hình thái giá trị và các hoạt động nghiệp vụ cụ thể của TD,
Luật các tổ chức TD của Việt Nam (sửa đổi) có giải thích: "Hoạt động đầu tư là việc tổ
chức TD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp TD" và "Cấp TD là việc tổ
chức TD thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc hoàn trả bằng
các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh NH và các nghiệp vụ khác"
[21, tr.105-106].
- Cho vay bằng tiền
Đây là nghiệp vụ chủ yếu của hoạt động TD của NHNo&PTNT. Nó bao gồm
nhiều loại, có thể theo các căn cứ:
Một là, căn cứ vào mục đích vay vốn của khách hàng, có 5 nhóm:

Cho vay kinh doanh (còn gọi là cho vay công nghiệp và thương mại) nhằm cung
cấp vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các hộ gia đình ở
nông thôn. Hỗ trợ vốn cho nông dân trang trải các chi phí trong sản xuất nông nghiệp;
Cho vay cá nhân và hộ gia đình nhằm tài trợ tiêu dùng;
Cho vay kinh doanh bất động sản ở nông thôn là loại cho vay liên quan đến việc
mua sắm và xây dựng bất động sản;
Cho vay đối với các tổ chức tài chính, tổ chức TD khác ở nông thôn;

Cho vay khác.
Phân loại như trên có tác dụng giúp NHNo&PTNT thiết lập danh mục cho vay
hướng về khách hàng (thị trường) cho phù hợp với mục tiêu phục vụ của NH này, giúp
NH có thể nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay bằng cách chuyên môn hoá cung ứng các
sản phẩm cho vay theo mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Ngược lại, khách hàng
cũng dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn TD. Đồng thời, nó cũng là cơ sở để
đưa ra những giới hạn an toàn trong hoạt động TD và là một phần quan trọng trong việc
xác định chiến lược cho vay có tính cạnh tranh của một NHTM nói chung.
Hai là, căn cứ vào thời hạn cho vay và theo quy định hiện hành của Nhà nước,
hoạt động cho vay có thể chia thành 3 loại: cho vay ngắn hạn (dài nhất là 12 tháng), cho
vay trung hạn (từ 1- 5 năm), và cho vay dài hạn (thời hạn trên 5 năm). Cách phân loại này
có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Dựa vào đó, NH có thể xác định được cơ cấu thời hạn
cho vay, cân đối kỳ hạn hoàn vốn và kỳ hạn hoàn trả, nâng cao hiệu quả quản trị tài sản
có và tài sản nợ của NH, đặc biệt trong việc quản lý khe hở kỳ hạn, khe hở lãi suất và khả
năng thanh khoản để phòng tránh rủi ro.
Ba là, căn cứ vào tính chất bảo đảm của khoản vốn vay, có thể chia làm 2 loại:
cho vay có đảm bảo bằng tài sản (khách hàng phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo
lãnh của bên thứ ba), và cho vay không có bảo đảm bằng tài sản (cho vay dựa vào tín
nhiệm của NH đối với khách hàng). Bảo đảm tiền vay là biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng cho vay và hạn chế rủi ro TD cho NH. Về hình thức, cho vay có bảo đảm bằng tài
sản có mức độ rủi ro ít hơn so với cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nhưng thực tế
không hoàn toàn như vậy. Điều này thường thấy khi các NH tuyệt đối hoá vai trò của tài
sản bảo đảm, coi nhẹ các điều kiện TD khác. Trong những trường hợp này, NH còn có
thể bị mất đi những khách hàng tốt. Điều này có nghĩa là, cho vay có bảo đảm bằng tài

sản là cần thiết, nhưng không thể coi đó là điều kiện tiên quyết khi cho vay. Xét về hiệu
quả kinh tế, nếu cho vay không có bảo đảm về tài sản được mở rộng, thì đó là tín hiệu tốt
và thể hiện triển vọng của nền kinh tế (tất nhiên là phải có những khách hàng đủ điều
kiện, có uy tín). Hiện nay, trong khu vực nông nghiệp và nông thôn, tình trạng khách
hàng thiếu tài sản bảo đảm khi vay vốn là phổ biến. Điều này đã làm cho hoạt động TD

của NH gặp nhiều khó khăn. Cần có những giải pháp hợp lý và dài hạn nhằm khắc phục
có hiệu quả tình trạng này.
Bốn là, căn cứ vào cách thức cho vay, có hai loại: cho vay trực tiếp và cho vay
gián tiếp. Cho vay trực tiếp là việc NH cấp vốn trực tiếp cho người đi vay và người đi
vay trực tiếp hoàn trả nợ cho NH. Đây là hình thức cho vay chủ yếu và có tính truyền
thống của NHNo&PTNT. Nó có thể thực hiện bằng nhiều phương thức như cho vay từng
lần, cho vay theo hạn mức TD, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn, cho vay trả
góp, cho vay theo hạn mức TD dự phòng, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành thẻ
TD
Cho vay gián tiếp là việc NH mua lại các chứng từ có giá, khế ước nợ hoặc chứng
từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Đây là hình thức NH tái cấp vốn cho
những người đi vay thông qua chiết khấu thương phiếu, mua các hợp đồng bán trả góp,
mua các khoản nợ của DN.
Cách phân loại này tạo điều kiện cho NH có thể chuyên môn hoá kỹ thuật, nghiệp
vụ và cấp TD, từ đó có thể nâng cao hiệu quả cấp TD bằng sự chuyên sâu và những kỹ
năng đã được chuyên môn hoá.
Năm là, căn cứ vào quy mô các khách hàng đi vay, có thể phân chia thành ba
loại: cho vay khách hàng là doanh nghiệp lớn, cho vay khách hàng là doanh nghiệp
nhỏ, và cho vay khách hàng là hộ gia đình và cá nhân ở nông thôn. Việc phân loại này
thường dựa vào quy mô vốn và tài sản của chủ đi vay. Nó giúp cho NHNo&PTNT có
chính sách và cơ chế TD phù hợp và là cơ sở để đưa ra những cải cách trong quản lý
TD theo quan điểm hướng về khách hàng.
Ngoài những cách phân loại cho vay trên, còn có những cách phân loại khác như
theo mục đích và yêu cầu của quản lý TD. Ví dụ, phân loại cho vay theo cơ cấu kinh tế,
có cho vay ngành kinh tế, vùng kinh tế hoặc cho vay theo tính chất sở hữu của khách
hàng.

Việc phân loại cho vay nói trên có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, nó là căn cứ để
NHNo&PTNT xây dựng chính sách hợp lý, nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, đồng
thời đó là cơ sở để hình thành chiến lược kinh doanh có tính cạnh tranh và mang đặc

trưng riêng của NHNo&PTNT Việt Nam.
- Cho vay bằng hàng hoá:
Đây là hình thức giao dịch TD được thực hiện bằng hàng hoá cụ thể. Hàng hoá
của loại TD này thường là cho thuê tài chính. Theo cách này, NH cấp TD trực tiếp bằng
hàng hoá cho người đi vay (gọi là người đi thuê), người vay phải hoàn trả nợ cho NH bao
gồm cả gốc và lãi. Theo quy định của Luật tổ chức TD, thì "cho thuê tài chính" là hoạt
động TD trung hạn và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê là
tổ chức TD với khách hàng thuê" [21, tr.106].
Cho thuê tài chính là một phương thức tài trợ vốn quan trọng cho các tổ chức kinh
tế không chỉ ở các nước phát triển mà ngày nay đã được triển khai rộng rãi ở các nước
đang phát triển. Nó mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nói chung, nông nghiệp và
nông thôn nói riêng. Nó tạo điều kiện cho người đi thuê có được cơ sở vật chất kỹ thuật
cần thiết ngay trong điều kiện nguồn vốn của họ còn ít không thể đáp ứng trong việc mua
được những tài sản này; đồng thời đây cũng là cách phân tán rủi ro - một cơ chế đặc thù
của kinh doanh hiện đại. Nó cũng tạo cơ hội cho bên cho thuê trong việc quản lý và kiểm
soát tài sản nhằm mục đích an toàn TD, tránh được tình trạng sử dụng vốn không đúng
mục đích, hạn chế rủi ro. Hình thức này thường được thực hiện thông qua các công ty
cho thuê tài chính. Tuy nhiên, NHNo&PTNT có thể hình thành những bộ phận loại này
để phục vụ cho phát triển kinh tế nông nghiệp và khu vực nông thôn theo hướng đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, đó là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay ở nước ta.
- Bảo lãnh NH:
Đây là một nghiệp vụ TD mà NHNo&PTNT cấp cho khách hàng trên cơ sở uy tín
của mình. Với nghiệp vụ này, NH không phải cung cấp tiền hay hàng, nhưng khi người
được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh phải thay
thế dể thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Vì vậy, bảo lãnh của NH còn được gọi là TD chữ
ký. Hình thức TD này đã được ghi trong Luật các tổ chức TD của nước ta.
Hình thức này được sử dụng khá phổ biến trong các giao dịch thương mại. Nó có
hai chức năng chủ yếu: 1) là công cụ bảo đảm đối với người hưởng thụ bằng việc cam kết

thực hiện nghĩa vụ đối với người hưởng thụ khi xảy ra sự vi phạm hợp đồng của người

được bảo lãnh, nó giúp cho các giao dịch về hàng hoá được thực hiện một cách thuận lợi.
2) là công cụ tài rợ về tài chính cho người được bảo lãnh. Thông qua hình thức này mà
người được bảo lãnh không phải xuất quỹ mà được vay nợ, trả chậm tiền hàng hoá, dịch
vụ, chậm nộp thuế nghĩa là mặc dù không trực tiếp cấp vốn, nhưng bảo lãnh NH đã
giúp cho khách hàng được hưởng những lợi ích tài chính như khi được NH cho vay. Đây
là một trong những hoạt động cho vay có nhiều tác dụng, bởi nó đáp ứng những nhu cầu
đa dạng của các hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ nông dân và người lao động ở
khu vực nông thôn và tạo thuận lợi cho các chủ thể trong các giao dịch kinh tế.
Năm là, đầu tư chứng khoán
Đây là hoạt động kinh doanh quan trọng của NHNo&PTNT. Trong hoạt động
này, NH cung ứng vốn cho các chủ kinh tế (tài trợ vốn) thông qua hoạt động mua chứng
khoán. Nó có thể đầu tư chứng khoán bằng cách mua các loại trái phiếu chính phủ, công
trái, trái phiếu đô thị, tín phiếu kho bạc, trái phiếu doanh nghiệp hay các loại chứng
khoán khác.
Mục đích của dầu tư chứng khoán là để sinh lợi, tăng vường khả năng thanh
khoản, hỗ trợ cho các hoạt động TD và đa dạng hoá hoạt động kinh doanh để phân tán rủi
ro. Các chứng khoán đều mang lại thu nhập cho người sở hữu chúng. Nhờ hoạt động này,
NHNo&PTNT có thể chủ động dùng nguồn vốn của mình để lựa chọn mua loại nào cho
thích hợp và có hiệu quả. Trong các danh mục đầu tư chứng khoán, thì tín phiếu kho bạc
và trái phiếu chính phủ là những chứng khoán được các NHTM nói chung ưa chuộng
nhất, bởi tính an toàn cao và nó là loại "lỏng" nhất, có thể được mua bán hoặc chuyển đổi
thành tiền một cách dễ dàng với chi phí giao dịch thấp.
Đầu tư chứng khoán là một hướng quan trọng trong đa dạng danh mục tài sản có
sinh lợi của một NHTM, tạo điều kiện phân tán rủi ro, không bị phụ thuộc quá lớn vào
hoạt động TD. Tuy khả năng linh hoạt trong điều chỉnh danh mục đầu tư chứng khoán là
tốt hơn so với danh mục TD, nhưng nếu tuyệt đối hoá vai trò của khoản đầu tư này thì
NHNo&PTNT không còn đúng nghĩa với tên gọi của nó.
1.2. làng nghề ở quảng nam và Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn đối với sự phát triển làng nghề


1.2.1. Làng nghề và nhu cầu về vốn cho phát triển các làng nghề ở Quảng
Nam
1.2.1.1. Làng nghề và đặc điểm của làng nghề
- Làng nghề:
Làng là một phạm trù dùng để chỉ một khối dân cư ở nông thôn làm thành một
đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt, và là đơn vị hành chính thấp nhất thời phong kiến
[29, tr.522]. Làng ở Việt Nam đã xuất hiện từ thời Hùng Vương. Nó được hình thành trên
cơ sở những công xã nông thôn, trong đó mỗi công xã gồm một số gia đình, có một tinh
thần cộng đồng, cộng cảm, sống quây quần trong một khu vực địa lý nhất định. Sự tập
trung đó là do nghề trồng lúa nước (đã có ở nước ta vào khoảng thế kỷ thứ VII TCN) phải
thường xuyên chống thiên tai mà công việc này một gia đình không thể đảm đương được,
cần có sự liên kết của cộng đồng, gắn bó với nhau và cùng chung sống chết.
Lúc đầu, nguồn sống cơ bản của người dân trong các làng là sản phẩm nông
nghiệp. Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất làm cho sản xuất nông nghiệp có của
dư thừa, làm ra đời kinh tế hàng hoá. Dần dần trong làng có những người làm nghề buôn
bán, rồi có những người chế tác công cụ lao động, sản xuất đồ mộc, đan lát đồ dùng, nuôi
tằm, kéo tơ, dệt vải tức là chuyển sang sản xuất thủ công. Trong thời kỳ đầu, sản xuất công
nghiệp chỉ ở quy mô gia đình và bị phụ thuộc kinh tế tự nhiên giống như cách mô tả của V.I.
Lênin: "ở đây, nghề thủ công với nông nghiệp chỉ là một mà thôi" [15, tr.411-412]. Theo đà
phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và kinh tế hàng hoá, những
người sản làm nghề thủ công vốn coi công việc của mình là một nghề phụ trong nghề
nông chuyển sang thành một nghề độc lập. Tuy họ đã rời bỏ sản xuất nông nghiệp, nhưng
vẫn gắn chặt với làng quê, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và sống bằng nghề thủ công
nghiệp. Bên cạnh những người này, trong làng vẫn có những người làm nông nghiệp
kiêm thợ thủ công. Trong quá trình phát triển, số người trong làng chuyển hẳn sang sản
xuất các mặt hàng thủ công dần tăng lên, có đội ngũ thợ, có quy trình công nghệ, quy mô
sản xuất hàng thủ công tăng lên đến một mức độ nhất định làm cho làng làng thuần nông
chuyển biến thành các làng nghề.
Làng nghề là một khái niệm chứa đựng hai bộ phận cấu thành là "làng" và
"nghề". Đến nay, ở nước ta có một số quan niệm khác nhau về làng nghề. Chẳng hạn,

theo giáo sư Trần Quốc Vượng, "làng nghề là làng tuy vẫn trồng trọt theo lối tiểu nông và

chăn nuôi nhỏ, cũng có một số nghề phụ khác, song đã nổi trội một số nghề cổ truyền
tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp. có
phường, có ông trùm, có phó cả cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy
trình công nghệ nhất định "sinh ư nghệ, tử ư nghệ", "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", sống
chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra các mặt hàng thủ công" [30, tr.27].
Đây là quan niệm tuy đúng với làng nghề truyền thống, nhưng lại không thích
hợp với các làng nghề nói chung và càng không phải là làng nghệ mới được đi vào hoạt
động. Nếu cho rằng phát triển làng nghề phải có nghề cổ truyền nổi trội, tinh xảo với một
tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp thì ngày nay rất khó có được một loại làng nghề như
vậy.
Một quan niệm khác cho rằng, "làng nghề là những làng đã có từ 50 hộ hoặc từ
1/3 tổng số hộ hay lao động của địa phương trở lên làm nghề chiếm phần chủ yếu trong
tổng thu nhập của họ trong năm" [8, tr.15]. Còn trong Dự thảo Nghị định của Chính phủ
về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn được Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đệ trình tháng 5/2005, thì "làng nghề là thôn, ấp, bản có
trên 35% số hộ hoặc lao động tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn và thu nhập từ
ngành nghề nông thôn chiểm trên 50% tổng thu nhập của làng".
Các định nghĩa trên đã khắc phục được nhước điểm của quan niệm thứ nhất, quan
tâm dến phải có tỷ lệ người làm nghề và thu nhập từ ngành nghề, nhưng lại cố định tiêu chí
xác định làng nghề và việc cố định những tiêu chí trong khái niệm sẽ làm cho các nhà
hoạch định chính sách khó xử lý khi chế độ ưu đãi đối với làng nghề đã thay đổi thì phải
chăng khái niệm cũng thay đổi.
Quan niệm thứ tư của TS Dương Bá Phượng, "làng nghề là làng ở nông thôn có
một (hay một số) nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập" [20, tr.13-
14]. Quan niệm này đã nêu được hai yếu tố cơ bản cấu thành của làng nghề là làng và
nghề, nêu được vấn đề nghề trong làng tách ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập,
nên phù hợp với điều kiện mới hơn, tránh được hạn chế của quan niệm thứ hai, nhưng
vẫn mắc phải hạn chế của quan niệm thứ nhất.

Theo tác giả, có thể hiểu đơn giản làng nghề là làng có hoạt động thủ công
nghiệp. Song, không phải bất cứ quy mô nào của nghề cũng đều được gọi làng đó là làng
nghề. Làng được gọi là làng nghề khi các hoạt động thủ công nghiệp đủ lớn ở mức độ

nào đó mang tính ổn định. Quan niệm làng nghề phải được xác định cả về mặt chất và
mặt lượng. Mặt chất, làng nghề phải là làng có sự khác biệt so với các làng thuần nông
hoặc với phố nghề ở thành thị. Mặt lượng, làng nghề phải được thể hiện ở một quy mô
nhất định và có tính ổn định tương đối cao. Vì có điểm xuất phát là làng gắn với nông
nghiệp, nên khi quy mô thủ công nghiệp của làng phát triển đến mức độ nào đó mới được
gọi là làng nghề. Việc xác định quy mô nghề, phải vừa xem xét bản thân hoạt động thủ
công nghiệp, vừa phải đặt nó trong quy mô làng về số hộ, số lao động, thu nhập từ hoạt
động kinh tế của nghề.
Có nhiều chỉ tiêu phản ánh quy mô các hoạt động thủ công nghiệp, trong đó có
hai chỉ tiêu cơ bản là giá trị sản xuất và lao động làm nghề thủ công nghiệp. Song, do
nghề gắn với làng vốn có điểm xuất phát là nông nghiệp, nên phải so sánh tỷ lệ lao động
(hay hộ) và thu nhập của thủ công nghiệp với tổng số lao động và tổng thu nhập của làng.
Nghĩa là, tỷ lệ lao động làng nghề và tỷ lệ thu nhập do nghề mang lại so với lao động và
thu nhập của làng là tiêu thức xác định làng đó có phải là làng nghề hay không.
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu các điểm hợp lý của các qun niệm nêu trên và nghiên
cứu của bản thân, có thể hiểu làng nghề là làng ở nông thôn có một (hay một số) nghề thủ
công hầu như được tách hẳn ra khỏi nông nghiệp, kinh doanh độc lập và đạt tới một tỷ lệ
nhất định về lao động và thu nhập của làng. Tên gọi của làng nghề gắn liền với tên gọi
của các nghề thủ công như nghề gốm sứ, đúc đồng, ươm tơ, dệt vải, dệt tơ lụa Trước
đây, làng nghề chỉ bao hàm các nghề thủ công nghiệp. Ngày nay, do sự phát triển mạnh
của ngành kinh tế dịch vụ, nên ở các tỉnh còn có các nghề buôn bán dịch vụ trong nông
thôn cũng được gọi là làng nghề. Trong một làng nghề có thể chỉ có một nghề, nhưng
cũng có thể có nhiều nghề. Điều này là tuỳ theo số lượng ngành nghề thủ công nghiệp và
dịch vụ chiếm tỷ lệ ưu thế có trong làng.
- Đặc điểm của làng nghề:
Khác với làng thuần nông và phố nghề, làng nghề được ra đời và phát triển ở

nông thôn, có mối quan hệ chặt chẽ với nông nghiệp, lao động mang tính chất thủ công
và chủ yếu là lao động tại chỗ; vốn ít, kỹ thuật và công nghệ lạc hậu và mang tính chất
thủ công; hộ gia đình là hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu, đa số sản phẩm được sản
xuất có tính chất đơn chiếc và nhiều sản phẩm mang bản sắc văn hoá của vùng, của dân
tộc.

×