Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

LUẬN VĂN: Một số giải pháp tăng cường quản lý hoạt động cho vay đối với DNV&N tại ngân hàng Công Thương ( NHCT) chi nhánh tỉnh Hà Tây potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (817.08 KB, 86 trang )












LUẬN VĂN:

Một số giải pháp tăng cường quản lý hoạt động
cho vay đối với DNV&N tại ngân hàng Công
Thương ( NHCT) chi nhánh tỉnh Hà Tây






LỜI MỞ ĐẦU

Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) có vai
trò rất quan trọng trong việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế ở nước ta, góp
phần không nhỏ đối với việc tăng trưởng kinh tế, ngoài việc cung cấp các sản phẩm
hàng hóa cho nhu cầu thị trường còn xuất khẩu nhiều mặt hàng sang các nước trong
khu vực và trên thế giới như: hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ cao cấp, hàng nông lâm
sản như hạt tiêu, hạt điều, thủy sản đông lạnh. Vì thế, phát triển DNV&N đang là
vấn đề được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, được coi là một trong những nhiệm vụ


trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Các DNV&N đang ngày càng có vai trò
quan trọng và trở thành động lực phát triển kinh tế. Đặc biệt là khi nước ta bước vào
hội nhập từ một nền kinh tế chưa phát triển.
Nghiên cứu về mối quan hệ tín dụng với ngân hàng, các DNV&N được coi là
nhóm khách hàng có nhiều lợi thế của các tổ chức tín dụng, là bạn hàng cùng kinh
doanh giữa một bên là sản xuất hàng hóa, kinh doanh thương mại và dịch vụ, và một
bên là kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Nhưng việc đầu tư cho loại
hình doanh nghiệp này thường có độ rủi ro cao và chi phí giao dịch lớn. Do vậy các
ngân hàng vẫn nhìn nhận DNV&N là khách hàng có nhiều rủi ro nên họ rất thận
trọng trong cho vay. Mặt khác, trong những năm gần đây, cùng với sự ra tăng về số
lượng của các DNV&N là xu hướng mở rộng đầu tư tín dụng đối với loại hình
doanh nghiệp này của các ngân hàng. Do đó hoạt động quản lý tín dụng cũng cần
phải được tăng cường, đổi mới về phương pháp nhằm phòng tránh những rủi ro
không đáng có, tránh thiệt hại cho ngân hàng.
Vì lý do đó, em đã lựa chọn đề tài: “ Một số giải pháp tăng cường quản lý
hoạt động cho vay đối với DNV&N tại ngân hàng Công Thương ( NHCT) chi
nhánh tỉnh Hà Tây”.

1. Mục đích nghiên cứu của đề tài là:
- Lý giải tính tất yếu của hoạt động quản lý cho vay đối với DNV&N tại các
ngân hàng thương mại.
- Phân tích thực trạng quản lý cho vay DNV&N tại chi nhánh NHCT tỉnh Hà
Tây.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý hoạt động cho vay DNV&N tại
chi nhánh NHCT tỉnh Hà Tây.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: hoạt động quản lý cho vay DNV&N tại
chi nhánh NHCT tỉnh Hà Tây.
- Phạm vi nghiên cứu:
 Quan hệ tín dụng của chi nhánh NHCT tỉnh Hà Tây với các DNV&N.

 Thời gian nghiên cứu từ năm 2005 đến năm 2007.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Bài viết đã sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp biểu đồ, phân tích và
đánh giá.
4. Nội dung bài viết.
Bài viết gồm có ba phần : lời mở đầu, phần thân bài, phần kết luận. Phần thân
bài được bố cục gồm ba chương:
- Chương I. Lý luận cơ bản về quản lý hoạt động cho vay đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại.
- Chương II. Thực trạng quản lý hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng Công Thương tỉnh Hà Tây.
- Chương III. Một số giải pháp tăng cường quản lý hoạt động cho vay đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng Công Thương tỉnh Hà Tây.
Để có thể hoàn thành được bài viết, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn
tận tình của thầy giáo GS.TS. Đàm Văn Nhuệ và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô
chú, anh chị tại chi nhánh ngân hàng Công Thương tỉnh Hà Tây đã giúp đỡ em rất
nhiều trong thời gian thực tập vừa qua.


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
1.1.1.Đặc điểm, vai trò của DN&VN trong sự phát triển kinh tế quốc gia.
1.1.1.1.Khái niệm DNV&N.
Doanh nghiệp có thể được hiểu một cách chung nhất là một tổ chức kinh tế
được thành lập nhằm sản xuất, cung ứng sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ trên thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hình doanh nghiệp cùng tồn tại,

phát triển và cạnh tranh lẫn nhau.Tuy nhiên để thuận lợi cho việc quản lý, hỗ trợ các
doanh nghiệp phát triển người ta thường phân chia các doanh nghiệp thành các loại
hình doanh nghiệp khác nhau, trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ở hầu hết các nước, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển thì việc đầu
tư phát triển các DNV&N đang là vấn đề được quan tâm đặc biệt. Sự thành đạt về
kinh tế- xã hội của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của các doanh
nghiệp, trong khi đó các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ lại có ý nghĩa vô cùng
quan trọng ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường. Tuy nhiên, theo điều kiện
của từng quốc gia, từng loại hình sản phẩm và ý đồ chính sách, khả năng hỗ trợ của
từng chính phủ ở từng thời kỳ…mà có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về
DN&VN. Trong thực tế, việc xác định DNV&N của một nước thường được cân
nhắc đối với từng giai đoạn phát triển kinh tế -xã hội, tình hình việc làm nói chung
trong cả nước và tính chất phát triển kinh tế hiện hành của nước đó. Như vậy, việc
xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ không có tính chất “ cố định” mà có xu hướng
thanh đổi theo tính chất hoạt động của nó, mục đích của việc xác định và mức độ
phát triển doanh nghiệp.
Tiêu chuẩn để xác định DNV&N là: tổng vốn đầu tư được huy động vào sản
xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định, số lao động được sử dụng thường xuyên, giá
trị bằng tiền của sản phẩm bán hoặc dịch vụ, lợi nhuận , vốn bình quân cho một lao
động…
Đối với nước ta, mặc dù đã quan tâm đến DNV&N và có nhiều hoạt động hỗ trợ
nó, song vẫn chưa có khái niệm chính thức. Các chuyên gia kinh tế thì cho rằng :
“doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có mức vốn đầu tư từ 100-300 triệu đồng và từ 5 -
50 lao động. Doanh nghiệp vừa là những doanh nghiệp có mức vốn đầu tư 300 triệu
đồng trở lên và có lao động trên 50 người’.
Ngoài ra, ngân hàng Công Thương Việt Nam cũng đã nhận định rằng: “ doanh
nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có số lao động thường xuyên dưới 500
người, giá trị tài sản cố định dưới 10 tỷ đồng, số vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và
doanh thu dưới 20 tỷ đồng/ năm”.
Có thể thấy rằng, việc đưa ra tiêu chí để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ mới

chỉ mang tính ước lệ Có nhiều quan điểm khác nhau về các đối tượng, chủ thể kinh
tế được coi là thuộc hoặc không thuộc khu vực DNV&N. Theo Nghị Định của
Chính Phủ số 90/2001/NĐ- Chính Phủ ngày 23 tháng 11 năm 2001 thì “doanh
nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng và số lao động trung
bình hàng năm không quá 300 người”. Nghị định quy định đối tượng áp dụng bao
gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp nhà
nước.
- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo luật Hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo nghị định số 02/2000 NĐ-CP ngày 3
tháng 2 năm 2000 của Chính Phủ về đăng ký kinh doanh.
1.1.1.2.Vai trò của DNV&N trong nền kinh tế.
Tuy có nhiều tiêu chí, cách xác định, đánh giá khác nhau trong các nước song
tất cả đều cho rằng DNV&N là xương sống của nền kinh tế, có vị trí và vai trò quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế và đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển
kinh tế- xã hội của Quốc gia. Ở nước ta, qua mười năm đổi mới, nền kinh tế đã thu
được những thành tựu đáng khích lệ, trong đó sự đóng góp của DNV&N là đáng kể,
các doanh nghiệp này có vai trò hết sức quan trọng đối với việc ổn định phát triển
kinh tế, xã hội, đặc biệt là đối với sự phát triển kinh tế địa phương.
a.Cung cấp một lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ đáng kể cho nền kinh tế.
Các DNV&N có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế, góp phần làm
tăng thu nhập quốc dân. Theo đánh giá của viện nghiên cứu quản lý kinh tế TƯ thì
hiện nay khu vực DNV&N của cả nước chiếm khoảng 25% - 26% GDP. Năm 1993,
các DNV&N đã tạo ra được khoảng 25% giá trị tổng sản lượng ngành công nghiệp
và 54% giá trị công nghiệp địa phương, tăng 11% so với năm 1992 và tăng 63% so
với năm 1990. Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt hơn 29.000 tỷ đồng, bằng 78% tổng
mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hóa. Trong nhiều nghành nghề như
gỗ xẻ, chiếu cói, giầy dép… DNV&N sản xuất 100% sản phẩm. Nhiều nghành nghề

truyền thống được khôi phục và phát triển đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu.
Hiện nay, các DNV&N chiếm khoảng 90% tổng số hơn 230.000 doanh nghiệp
trên toàn quốc. Tỷ trọng GDP cung cấp cho nền kinh tế của các DNV&N có xu
hướng ngày càng tăng lên. Nếu năm 1999 tỷ trọng GDP của các DNV&N chỉ chiếm
8,01%, năm 2002 chiếm 9,02%, đến năm 2004 tỷ lệ này khoảng 24%-25% và năm
2006 tỷ trọng đóng góp khoảng 26% GDP.
b.Tạo việc làm cho người lao động và tăng thu nhập của dân cư.
Để thấy rõ vai trò giải quyết việc làm của các DNV&N, chúng ta xem tỷ trọng
lao động lao động ở một vài nước.
Các doanh nghiệp DNV&N ở Đài Loan đã đóng vai trò quan trọng về tạo
việc làm và mở rộng xuất khẩu; DNV&N chiếm 97% tổng số doanh nghiệp, con số
tương ứng của các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông và Mỹ là 98%. Mặc dù
số lượng của các DNV&N của Đài Loan thấp hơn, nhưng điều không bình thường là
nó tạo ra tỷ lệ việc làm và kim ngạch xuất khẩu cao hơn Hàn Quốc và Hồng Kông.
Cụ thể là nó đã tạo ra được 66,4% tổng sản phẩm xuất khẩu của ngành gia công chế
biến và 6,39 triệu việc làm chiếm 78,7% tổng số việc làm năm. Tỷ lệ này đã bị giảm
xuống còn 70% những năm đầu thập kỷ 90.
Các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển có số lượng các doanh
nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chiếm khoảng 97%- 98% tổng số doanh nghiệp trong
cả nước, giải quyết việc làm cho khoảng 2/3 lực lượng lao động công nghiệp từ (
62%- 76%).
Việc làm là vấn đề cấp bách ở Việt Nam. Với tốc độ tăng dân số trên 2%, hàng
năm cả nước có thêm một triệu người đến tuổi lao động có nhu cầu việc làm. Đó là
chưa kể những người thất nghiệp và bán thất nghiệp hiện nay do cơ cấu lại nền kinh
tế, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Trong điều kiện như vậy, các DNV&N
đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có vai trò quan trọng trong việc
thu hút lao động. Tính đến tháng 8/1993, cả nước có 7000 doanh nghiệp nhà nước,
6728 doanh nghiệp tư nhân, 2750 công ty trách nhiệm hữu hạn, 91 công ty cổ phần,
và khoảng 638 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động, tổng cộng có
17.027 doanh nghiệp. Trong đó có 96,5% là DNV&N, đã giải quyết việc làm cho

gần 2 triệu lao động. Năm 2002, cả nước tạo ra được 1,42 triệu việc làm mới thì
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thu hút được 79,1% tổng số việc làm. Hàng
năm khu vực doanh nghiệp này thu hút hàng chục vạn lao động, góp phần giải quyết
các vấn đề xã hội của đất nước. Theo số liệu ước tính năm 2006 khu vực DNV&N
tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và chiếm khoảng 25%-
26% lực lượng lao động trong cả nước. Tuy nhiên, do khu vực sản xuất nông nghiệp
ỏ nông thôn vẫn chiềm một tỷ trọng lớn trong toàn bộ nền kinh tế nên xem xét tổng
thể thì tổng số lao trong các DNV&N chiếm tỷ trọng chưa cao trong tổng số lao
động xã hội hiện nay.
Đặc điểm của nước ta là một nước là một nước nông nghiệp, năng suất sản xuất
cũng như thu nhập của dân cư thấp. Việc phát triển các DNV&N ở thành thị cũng
như ở nông thôn là phương hướng cơ bản nhằm tăng nhanh năng suất, tăng nhanh
thu nhập, và đa dạng hóa thu nhập của dân cư. Kết quả điều tra cho thấy tại những
vùng có doanh nghiệp phát triển thì thu nhập gấp 4 lần thu nhập của dân cư tại
những vùng thuần nông nghiệp. Điều quan trọng là thu nhập của dân cư được đa
dạng hóa vừa có ý nghĩa nâng cao mức sống dân cư, vừa làm cho cuộc sống giảm
bớt rủi ro hơn nhất là tại những vùng thiên tai.
c.Thu hút vốn đầu tư trong nền kinh tế.
Vốn là một nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò rất quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế của cả nước cũng như đối với từng doanh nghiệp.
Nhờ có vốn mới kết hợp được các yếu tố lao động, đất đai, công nghệ và quản lý.
Thực tế cho thấy, để đầu tư cho một chỗ làm ở Việt Nam, trung bình phải mất 5-10
triệu đồng. Tuy nhiên một nghịch lý hiện nay là các doanh nghiệp thiếu vốn trầm
trọng, trong khi đó vốn trong dân còn tiềm ẩn nhưng huy động được chưa nhiều. Có
nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do môi trường đầu tư không ổn định và không
được thuận lợi. Trong tình hình đó thì chính các DNV&N là người trực tiếp tiếp xúc
với người cho vay, gây được niềm tin nên có thể huy động vốn, hoặc chính người có
tiền đứng ra đầu tư kinh doanh.
Hiện nay Nhà nước có chủ trương bán, khoán, cho thuê và cổ phần hóa các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Chủ trương này có tác dụng thúc đẩy hoạt

động đầu tư vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi người dân bằng việc
mua lại các doanh nghiệp, mua cổ phần hoặc thành lập DNV&N mới.
Trong năm 2002, riêng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã có 7.600 doanh
nghiệp được thành lập với tổng số vốn đăng ký trên 12.550 tỷ đồng, tăng 11% về số
lượng doanh nghiệp và 16% về vốn so với năm 2001, trong đó doanh nghiệp tư
nhân là 1.760 với số vốn đăng ký là 915 tỷ đồng; 5.200 công ty trách nhiệm hữu hạn
và vốn đăng ký trên 7.600 tỷ đồng; 604 công ty cổ phần với số vốn đăng ký trên
4000 tỷ đồng. Qua đó có thể thấy các DNV&N đã thu hút được khá nhiều các khoản
tiết kiệm trong dân cư.
Tính riêng năm 2002, đầu tư khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 28,8% tổng
vốn đầu tư trong toàn xã hội; trong tổng số 2.808 dự án được cấp giấy phép ưu đãi
đầu tư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước đã có 2.225 dự án thuộc khu vực
kinh tế tư nhân, với tổng số vốn thực hiện trên 16.244 tỷ đồng, chiếm 38,7% tổng
vốn đầu tư thực hiện, thu hút 234.899 lao động.
Tính đến cuối tháng 12 năm 2004 số doanh nghiệp thực tế hoạt động sản xuất
kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế ( không bao gồm các hợp tác xã nông lâm,
ngư và hộ kinh doanh cá thể) là 91.755 doanh nghiệp, trong đó nếu xét theo tiêu chí
lao động thì có 88.233 DNV&N, nếu xét theo tiêu chí vốn thì có 79.420 doanh
nghiệp.
Đến tháng 6/2005, cả nước đã có trên 125 nghìn doanh nghiệp thành lập với
tổng vốn đăng ký hơn 240.000 tỷ đồng, đưa tổng số doanh nghiệp cả nước lên đến
gần 190.000 doanh nghiệp với số vốn đăng ký trên 398.000 tỷ đồng.Riêng Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm tới 52% số doanh nghiệp thành lập mới với
50% tổng số vốn đăng ký so với cả nước.
d.Hoạt động của các DNV&N góp phần làm cho nền kinh tế năng động, đạt
hiệu quả kinh tế cao.
Vì số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày một tăng lên, làm tăng tính
cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế, đồng thời làm tăng số lượng
và chủng loại hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Mặt khác, các doanh nghiệp này
có khả năng thay đổi về mặt hàng, công nghệ, và chuyển hướng kinh doanh nhanh

làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của các DNV&N có tác dụng hỗ trợ
cho các doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiệu quả hơn: làm đại lý, làm vệ tinh cho
các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hóa và cung cấp các đầu vào, thâm nhập
vào mọi ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn không vào được.
Mặt khác, vốn của các DNV&N, trong phần lớn là của khu vực kinh tế tư nhân
chủ yếu chỉ đầu tư vào những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao. Vì thế sự gia tăng
các cơ sở này sẽ làm cho hiệu quả kinh tế của đất nước tăng nhanh. Tuy nhiên nếu
doanh nghiệp có quy mô quá nhỏ thì thì hiệu quả kinh tế khó tăng nhanh được.
e.Khai thác tiềm năng phong phú trong dân và có khả năng tận dụng các
nguồn lực xã hội.
Có rất nhiều tiềm năng trong dân cư chưa được khai thác triệt để như: trí tuệ,
lao động, vốn, bí quyết tay nghề, điều kiện tự nhiên, …Việc phát triển các doanh
nghiệp sản xuất, các ngành nghề truyền thống trong nông thôn hiện nay là một trong
những hướng quan trọng để xử dụng tay nghề tinh xảo, thu hút lao động trong nông
thôn, phát huy lợi thế của từng vùng.
Về tiềm năng vốn, các DNV&N thường bắt đầu bằng nguồn vốn ít ỏi, hạn hẹp
của các cá nhân. Do đó nên các doanh nghiệp này dễ được đông đảo nhân dân tham
gia hoạt động, vì thế thu hút được nguồn vốn trong dân vào sản xuất kinh doanh.
Ước tính trên 400.000 doanh nghiệp công nghiệp ở mọi thành phần kinh tế đã thu
hút khoảng 25.000 tỷ đồng, chưa kể hàng nghìn tỷ đồng nhàn rỗi khác phục vụ cho
nhu cầu về vốn ngắn hạn của doanh nghiệp.
Về lao động, DNV&N thường nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ
nhu cầu tiêu dùng của dân cư, sử dụng nhiều lao động, ít vốn, với chi phí thấp, do
vậy lao động trong khu vực này không đòi hỏi trình độ cao, chỉ cần bồi dưỡng ngắn
hạn là có thể tham gia vào sản xuất của doanh nghiệp.
Về kỹ thuật, DNV&N thường lựa chọn các kỹ thuật phù hợp với trình độ lao
động khả năng về vốn, kết hợp kỹ thuật thủ công với kỹ thuật đơn giản mà mọi
người có thể nhanh chóng tiếp thu và làm chủ trong sản xuất, ít sử dụng kỹ thuật
tiên tiến hiện đại, do đó phần lớn trang thiết bị đều là các sản phẩm trong nước.
Về nguyên vật liệu, nguồn nguyên vật liệu được sử dụng ở các DNV&N chủ yếu

là thuộc phạm vi địa phương, dễ khai thác, qua đó cũng tạo điều kiện việc làm trong
khu vực, rất ít các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại.
f. DNV&N góp phần to lớn vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có tác
dụng quan trọng đối với quá trình CNH_HĐH đất nước.
Việc phát triển các DNV&N có ý nghĩa lớn trong việc phát triển công nghiệp
và dịch vụ ở nông thôn, xóa dần tình trạng thuần nông và độc canh. Do đó góp phần
thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp
phát triển mạnh, thúc đẩy các ngành thương mại, dịch vụ phát triển, việc phân bổ
các doanh nghiệp hợp lý hơn về mặt lãnh thổ cả nông thôn, thành thị, miền núi và
đồng bằng:
- Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi: các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng
lên nhanh chóng, các doanh nghiệp nhà nước được cơ cấu lại, kinh doanh có hiệu
quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
- Cơ cấu ngành: phát triển nhiều ngành nghề đa dạng, phong phú cả ngành
nghề hiện đại và truyền thống theo hướng lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo.
Ngoài ra các DNV&N còn có vai trò gieo mầm cho tài năng kinh doanh. Đây
là vấn đề rất quan trọng đối với nước ta, vì trong nhiều năm qua đội ngũ kinh doanh
gắn liền với cơ chế bao cấp, chưa có kinh nghiệm với kinh tế thị trường. Sự phát
triển của các DNV&N có tác dụng đào tạo, thử thách, có chọn lọc qua thực tế đội
ngũ các nhà kinh doanh trên mặt trận sản xuất sản xuất, kinh doanh.
1.1.2.Những lợi thế và hạn chế của DNV&N.
1.1.2.1 Lợi thế của các DNV&N.
Các DNV&N có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thỏa mãn nhu cầu có
hạn trong những thị trường chuyên môn hóa, khuynh hướng sử dụng nhiều lao động
với trình độ kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là sự mềm mại và nhanh chóng thích
nghi với những nhu cầu và thay đổi của thị trường, DNV&N có thể bước vào thị
trường mới mà không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp lớn và sẵn sàng phục
vụ ở những nơi xa nhất hoặc các khoảng trống vừa và nhỏ của thị trường. Sau đây là
một số điểm mạnh có thể nhìn thấy ở các DNV&N:
 Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường. Chỉ cần một

lượng vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp các DNV&N có thể khởi sự
doanh nghiệp.
 Dễ phát huy bản chất hợp tác.
 Thu hút nhiều lao động, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp.
 Không có hoặc có ít xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao
động.
 Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh.
 Có thể phát huy tiềm lực thị trường trong nước.
 Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng.
 Nhanh chóng giảm bớt nạn thất nghiệp.
 Là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp và là cơ sở kinh tế ban
đầu để phát triển các doanh nghiệp lớn.
1.1.2.2. Những hạn chế của DNV&N.
Các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ, vốn ít nên có những mặt hạn chế:
 Khó khăn trong đầu tư công nghệ mới, đặc biệt là những công nghệ đòi
hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng và hiệu quả, hạn
chế khả năng cạnh tranh trên thị trường.
 Có nhiều hạn chế về đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, đầu tư cho
nghiên cứu… do đó khó nâng cao khả năng suất và hiệu quả kinh doanh.
 Thường bị động trong các quan hệ thị trường, khả năng tiếp thị.
 Khó khăn trong việc thiết lập và mở rộng.
1.1.3.Hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNV&N.
1.1.3.1.Nội dung về hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNV&N.
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của các NHTM thì nghiệp vụ tín dụng giữ
vai trò trọng yếu nhất. Cho vay cũng là một trong các hình thức tín dụng của ngân
hàng và đóng vai trò là nguồn thu chủ yếu. Có thể định nghĩa hoạt động cho vay của
NHTM như sau:
 Cho vay là một mặt của hoạt động tín dụng ngân hàng, thông qua hoạt
động cho vay ngân hàng thực hiện điều hòa vốn trong nền kinh tế dưới
hình thức phân phối nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi huy động được từ

trong xã hội để đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất kinh doanh và đời
sống.
 Cho vay là quyền của ngân hàng với tư cách là người cho vay yêu cầu
khách hàng của mình thực hiện những điều kiện bắt buộc, những điều
kiện này là cơ sở để ràng buộc về mặt pháp lý đảm bảo cho hoạt động
cho vay có thể thu hồi được vốn sau một thời gian nhất định.
 Cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ NHTM sang
người vay, sau một thời gian nhất định lại quay về với lượng giá trị lớn
hơn lượng giá trị ban đầu.
 Cho vay cũng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một
bên là NHTM chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong
một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết trả
vốn gốc và lãi cho NHTM vô điều kiện theo thời hạn đã thỏa thuận.
Từ các khái niệm về cho vay, có thể đưa ra khái niệm về cho vay đối với các
DNV&N: “ Hoạt động cho vay của NHTM đối với DNV&N là một giao dịch về tiền
hoặc tài sản được chuyển nhượng từ NHTM đến đối tượng là DNV&N trên cơ sở có
hoàn trả (cả gốc lẫn lãi) mà thực chất là là sự vay mượn dựa trên cơ sở tin tưởng,
tín nhiệm lẫn nhau”.
Hoạt động cho vay, của NHTM đối với các DNV&N bao gồm:
 Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng VND và ngoại tệ đối với các tổ chức
kinh tế và dân cư.
 Tài trợ xuất nhập khẩu: chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất.
 Đồng tài trợ và cho vay hợp vốn đối với những dự án lớn, thời gian hoàn
vốn dài.
 Cho vay, tài trợ, uỷ thác theo chương trình của các tổ chức quốc tế, tổ chức
phi chính phủ, các hiệp định tín dụng khung;
 Thấu chi, cho vay tiêu dùng.
 Hùn vốn liên doanh liên kêt với các tổ chức tín dụng và các định chế tài
chính trong nước và quốc tế.
1.1.3.2.Tác động của hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNV&N.

a. Hỗ trợ sự ra đời và phát triển hoạt động sản xuất của các DNV&N.
Để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh của mình thì yếu tố đầu tiên quan
trọng nhất đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng
chính là vốn. Trong khi đó các DNV&N lại có nguồn vốn tự có rất ít, mức vốn tự có
của các doanh nghiệp này thường chiếm khoảng 5%- 10% vốn luân chuyển, không đủ
để tài trợ cho các hoạt động sản xuất có hiệu quả, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao.
Nhất là khi doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô sản xuất, nâng cấp trang thiết bị kỹ
thuật để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường. Ngoài
ra, các doanh nghiệp cũng cần có một lượng vốn để dự trữ hàng hóa, trang trải các chi
phí lưu thông…Hầu hết các doanh nghiệp đều có thể huy động vốn từ nhiều nguồn
như phát hành cổ phiếu, trái phiếu, hoặc thu hút vốn từ thị trường chứng khoán, từ các
ngân hàng. Thế nhưng đối với việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu thì đòi hỏi doanh
nghiệp phải có một khoảng thời gian nhất định. Mặt khác các DNV&N lại thường
không có đủ các điều kiện để tham gia vào thị trường chứng khoán, vì thế việc huy
động vốn từ thị trường chứng khoán là rất khó khăn. Trong hoàn cảnh này thì ngân
hàng lại trở thành nguồn cung ứng về vốn tốt nhất đối với các DNV&N, giúp cho các
doanh nghiệp này ra đời, tồn tại và phát triển. Ngân hàng có thể cung cấp vốn cho
doanh nghiệp nhanh chóng nhất, giúp cho các doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội kinh
doanh.
b.Góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNV&N.
Với cơ chế hoạt động cơ bản của các khoản vay ngân hàng là “ vay có sự hoàn
trả cả vốn gốc và lãi theo đúng thời hạn quy định”, nếu quá hạn sẽ phải chịu lãi suất
cao, chính vì thế thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,
tạo lập uy tín đối với ngân hàng.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cho các DNV&N nhiều cơ hội để
mở rộng thị trường, mở rộng quy mô sản xuất. Nhưng bên cạnh đó, cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp lại trở nên ngày càng gay gắt, chuyển từ cạnh tranh về giá cả sang
cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, mẫu mã. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải
liên tục đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Chỉ có các
NHTM mới có thể huy động vốn từ các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, cho phép

các DNV&N vay trung,dài hạn để đầu tư đổi mới công nghệ.
c.Điều chỉnh cơ cấu ngành, nghề, khuyến khích phát huy lợi thế về tài nguyên
và kỹ thuật truyền thống.
Thông qua công cụ chính sách tiền tệ quốc gia, ngân hàng nhà nước có thể yêu
cầu các ngân hàng thương mại thực hiện tăng hoặc giảm hạn mức tín dụng cung cấp
cho các DNV&N, hoặc thay đổi mức lãi suất đối với các doanh nghiệp kinh doanh,
hoạt động trong lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích hoặc kìm hãm. Ngoài ra cũng
có thể thông qua các chính sách khác như áp dụng điều kiện vay vốn, ưu tiên ngoại
tệ nhập khẩu, ổn định tỷ giá khi thu nợ ngoại tệ…Việc khuyến khích mở rộng hay
thu hẹp các ngành nghề sẽ tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, định hướng sự phát triển cho
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Như vậy, mặc dù kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, các NHTM trở thành người
đi vay để cho vay, song điều đó vẫn không thể phủ nhận được vai trò điều tiết vĩ mô
của nhà nước, tham gia vào điều chỉnh cơ cấu và khuyến khích phát triển DNV&N
theo mục tiêu của Đảng và Nhà nước.

d. Công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động, khơi dậy các tiềm năng kinh tế địa phương, phát huy và làm sống lại nhiều
ngành nghề truyền thống.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nước ta phải đương đầu với rất nhiều vấn
đề như: nạn thất nghiệp, lạm phát, sự phân hóa giai cấp…Muốn giải quyết được việc
làm, xóa đói giảm nghèo thì hoạt động cho vay của các ngân hàng có ý nghĩa rất
quan trọng qua việc đầu tư cho các dự án phát triển sản xuất kinh doanh, thu hút
nhiều lao động. Các NHTM đã giành một lượng vốn đầu tư lớn, thực hiện chính
sách ưu đãi cho vay đối với các DNV&N.
Tóm lại, hoạt động cho vay của các NHTM là một nguồn vốn quan trọng đối
với DNV&N, có tác động quyết định đối với quá trình tái sản xuất nói chung cũng
như đối với từng DNV&N nói riêng.
1.1.3.3.Các hình thức cho vay của NHTM đối với DNV&N.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay của các NHTM rất đa dạng và

phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Việc áp dụng từng loại cho vay phụ thuộc
vào đặc điểm kinh tế của các doanh nghiệp nhằm sử dụng và quản lý có hiệu quả và
phù hợp với sự vận động cũng như đặc điểm kinh tế khác nhau của các doanh
nghiệp.
a. Cho vay ngắn hạn đối với các DNV&N.
Cho vay ngắn hạn đối với DNV&N là các khoản cho vay có thời hạn từ hạn từ
12 tháng trở xuống. Ngân hàng cho vay ngắn hạn nhằm mục đích đáp ứng các nhu
cầu về vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Cho vay ngắn hạn có thể được phân chia thành nhiều loại theo nhiều tiêu thức
khác nhau, ví dụ :
 Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay, cho vay ngắn hạn gồm có:
o Cho vay công nghiệp và thương mại: giúp cho doanh nghiệp trang trải các chi
phí hoạt động, như chi phí mua hàng, trả lương, nộp thuế…
o Cho vay ngắn hạn các công trình: tạm ứng vốn cho bên thi công trong giai
đoạn thi công các công trình xây dựng.
o Cho vay khác: kinh doanh chứng khoán…
 Căn cứ vào phương pháp cho vay:
o Cho vay từng lần.
o Cho vay theo hạn mức tín dụng.
o Cho vay khác: cho vay theo hạn mức thấu chi, cho vay theo hạn mức tín
dụng dự phòng…
 Căn cứ vào bảo đảm tiền vay:
o Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của
người thứ ba , bảo đảm bằng tài sản được hình thành từ nguồn vốn vay.
o Cho vay có bảo đảm không bằng tài sản: tín chấp, bảo lãnh bằng tín
chấp…
b.Cho vay trung, dài hạn đối với các DNV&N.
Cho vay trung hạn là những khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm,
nhằm giúp các doanh nghiệp đầu tư vốn để tái sản xuất mở rộng tài sản cố định và

thiết bị sản xuất. Hình thức cho vay này gắn liền với các dự án đầu tư theo chiều
rộng và chiều sâu của doanh nghiệp.
Cho vay dài hạn: là những khoản vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích cho vay
là giúp các doanh nghiệp xây dựng, mua sắm các tài sản cố định và máy móc thiết
bị. Thường gắn liền với những kế hoạch đầu tư của các doanh nghiệp được Nhà
nước chỉ định nguồn vốn có lãi xuất ưu đãi.
Khi cho vay trung và dài hạn cần chú ý một số điểm sau:
- Vốn chủ sở hữu tham gia: do tính chất của các khoản vay trung và dài hạn là
thời gian vay tương đối dài, độ rủi ro cao hơn so với cho vay ngắn hạn, vì thế để
giảm bớt rủi ro ngoài việc quy định vay phải có bảo đảm, các NHTM còn có những
quy định khác như quy định các doanh nghiệp phải có vốn chủ sở hữu tham gia vào
quá trình sản xuất, kinh doanh. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tham gia phụ thuộc vào tính
chất của từng dự án, mức độ rủi ro và hiệu quả của dự án. Riêng ngân hàng Công
Thương Việt Nam quy định mức vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án như sau:
 Tối thiểu 10% tổng mức vốn đầu tư đối với phương án, dự án cải tiến kỹ
thuật, mở rộng sản xuất, hợp lý hóa sản xuất.
 Tối thiểu 30% tổng mức vốn đầu tư (sau khi đã trừ đi phần vốn lưu động dự
kiến) đối với dự án xây dựng mới.
 Tối thiểu 30% tổng mức vốn đầu tư sau khi đã trừ phần vốn lưu động dự kiến
trong tổng mức vốn đầu tư) đối với dự án phục vụ đời sống.
 Thời hạn trả nợ, cách thanh toán và nguồn hạn trả nợ:
 Thời hạn trả nợ vốn vay phụ thuộc vào tính chất đặc điểm của dự án đầu tư
nhưng thời hạn trả nợ cũng có thể rút ngắn trong trường hợp dự án mang lại hiệu
quả cao và được sự đồng ý của ngân hàng. Do việc trả nợ trước hạn đôi khi giúp
ngân hàng thu được nợ nhưng nhiều lúc lại ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn
của ngân hàng.
 Cách thanh toán được áp dụng là: mỗi kỳ trả một phần nợ gốc bằng nhau.
Hoặc là số tiền gốc trả mỗi kỳ không bằng nhau. Ngoài ra, trong một số trường hợp
khách hàng phải duy trì một khoản tiền nhất định trong suốt thời gian vay vốn,
khoản tiền này có tính chất như một khoản phí cam kết, giúp hạn chế rủi ro trong

ngân hàng.
 Nguồn trả nợ đối với các khoản vay này thường khác so với các khoản vay
ngắn hạn. Nguồn trả nợ chính là từ các khoản vay khấu hao và một phần lợi nhuận
do dự án đầu tư mang lại.
- Giải ngân trong cho vay: có thể được tiến hành một lần hoặc nhiều lần nhằm
đảm bảo cho khách hàng nhằm đảm bảo cho khách hàng sử dụng đúng mục đích.
Khoản vay được rút một lần trong trường hợp vay để mua sắm máy móc, thiết bị.
Đối với tài sản được hình thành trong một thời gian dài thì việc giải ngân được thực
hiện theo tiến độ công việc hoàn thành.
- Lãi suất cho vay: thường cao hơn lãi xuất vay ngắn hạn, có thể là lãi suất cố
định trong trong suốt thời kỳ vay vốn, cũng có thể là lãi suất biến đổi tùy thuộc vào
sự biến đổi của thị trường. Sự biến đổi của lãi suất có thể dựa trên lãi suất cơ bản
của ngân hàng, hoặc lãi suất liên ngân hàng. Việc thu tiền lãi có thể được tiến hành
theo kỳ hạn tháng, quý, năm dựa vào số dư ở mỗi kỳ hạn trả nợ và lãi suất cho
vay.Khách hàng có thể trả tiền lãi cùng nợ gốc tại mỗi kỳ hạn trả nợ hoặc trả tiền lãi
vào một ngày nào đó trong kỳ hạn theo thỏa thuận.
1.2.Quản lý hoạt động cho vay đối với các DNV&N của các NHTM.
1.2.1.Khái niệm và đặc điểm quản lý hoạt động cho vay đối với DNV&N.
1.2.1.1. Khái niệm quản lý hoạt động cho vay đối với DNV&N.
Chúng ta có thể hiểu quản lý ở nhiều góc độ khác nhau, như quản lý con người,
quản lý sinh vật, quản lý giới vô sinh ( nhà xưởng, máy móc, thiết bi, sản
phẩm )…Nhưng có thể hiểu: “ quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến động
của môi trường”.
Từ khái niệm về hoạt động quản lý, có thể định nghĩa về quản lý hoạt động cho
vay của các ngân hàng như sau:
- Xét trên quan điểm theo cách tiếp cận chiến lược:“quản lý hoạt động cho vay
của các NHTM đối với các DNV&N là quá trình xây dựng và thực thi các chính
sách và biện pháp quản lý cho vay nhằm đạt được mục tiêu an toàn, hiệu quả và
phát triển bền vững”.

- Xét trên quan điểm tác nghiệp: “ quản lý hoạt động cho vay là sự tác động
của chủ thể quản lý là NHTM vào hoạt động cho các doanh nghiệp vay vốn nhằm
thực hiện các dự án phát triển sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống và các mục
tiêu khác”.
1.2.1.2.Đặc điểm của quản lý hoạt động cho vay đối với DNV&N.
Trong hoạt động quản lý, lúc nào cũng tồn tại hai chủ thể là: chủ thể quản lý và
đối tượng bị quản lý. Chủ thể quản lý ở đây chính là các ngân hàng thương mại,
đóng vai trò là các tác nhân tạo ra các tác động quản lý nhằm dẫn dắt đối tượng quản
lý là các DNV&N có những hướng đi đúng, đạt đến mục tiêu cuối cùng. Trong hoạt
động cho vay của các NHTM thì:
o Chủ thể quản lý thường là các cán bộ tín dụng.
o Đối tượng quản lý là các hình thức của hoạt động cho vay đối với DNV&N.
Quản lý là một quá trình thông tin vì thế trong hoạt động quản lý cho vay, cán
bộ tín dụng phải luôn thu thập thông tin về khách hàng: tình hình kinh doanh, tình
hình sử dụng các khoản vốn vay, uy tín trên thương trường…, bên cạnh đó cũng cần
phải tìm hiểu thông tin về những biến đổi của môi trường đầu tư, tình hình chính trị-
kinh tế… Tiến hành chọn lọc, xử lý thông tin, bảo quản thông tin, truyền tin và ra
các quyết định đến các hình thức cho vay, xử lý tình huống nhằm đem lại cho các
doanh nghiệp những dịch vụ tín dụng tối ưu nhất, đa dạng nhất, đem lại lợi nhuận
cho ngân hàng và tránh rủi ro cao.
Hoạt động quản lý lúc nào cũng phải mang tính thích nghi, phản ứng lại trước
những thay đổi của môi trường cả về quy mô lẫn mức độ phức tạp, phải thường
xuyên điều chỉnh, đổi mới cơ cấu, phương pháp, công cụ và hoạt động của mình.
1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý hoạt động cho vay đối với DNV&N.
Trong hoạt động ngân hàng, cho vay là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu, đồng
thời cũng có nguy cơ rủi ro cao nhất của ngân hàng. Có vô số các rủi ro khác nhau
khi cho vay, bắt nguồn từ nhiều yếu tố khác nhau và có thể dẫn đến việc không hoàn
trả những khoản vay khi đến hạn. Các thiệt hại này đôi khi nảy sinh từ nhiều nguyên
nhân như: thiên tai, những thay đổi về nhu cầu tiêu dùng, hoặc về kỹ thuật của của
một ngành công nghiệp có thể làm sụp đổ cả cơ đồ của một hãng kinh doanh và đặt

người vay đã có thời làm ăn có lãi lâm vào cảnh thua lỗ. Rủi ro đối với người đi vay
cũng chính là rủi ro đối với những khoản đầu tư cho vay của ngân hàng. Có thể làm
giảm lợi nhuận, và cũng có thể đẩy ngân hàng tới chỗ phá sản.
Do đặc điểm của các DNV&N là quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, trang thiết
bị công nghệ còn lạc hậu… Vì thế các ngân hàng nhiều khi vẫn còn e ngại trong
việc cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này. Việc quyết định cho vay phải được
nghiên cứu kỹ càng, nhằm tránh trường hợp doanh nghiệp lừa đảo, kinh doanh
không có lãi…
Vì vậy mối lo lắng lớn nhất trong hoạt động này của các ngân hàng là làm thế
nào để hạn chế rủi ro thấp nhất. Để có thể hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất thì các
ngân hàng phải quản lý cho vay thật tốt và hiệu quả.
1.2.3.Nội dung của quản lý hoạt động cho vay đối với DNV&N.
Hoạt động quản lý được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng do giới
hạn của bài viết nên em xin phép được đi sâu vào quản lý theo cách tiếp cận tác
nghiệp.
Hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động quản lý cho vay nói riêng đòi hỏi
phải được tiến hành nghiêm nghặt theo sát quy trình cho vay vốn.
1.2.3.1.Thiết lập hồ sơ cho vay.
Hồ sơ tín dụng của một ngân hàng là các tài liệu bằng văn bản về mối quan hệ
tổng thể của ngân hàng với doanh nghiệp vay vốn. Các hồ sơ tốt hoàn toàn cần thiết
cho một nghiệp vụ cho vay tốt. Chất lượng của khoản cho vay phụ thuộc rất lớn vào
sự hoàn chỉnh và chính xác của hồ sơ cho vay.
Một hồ sơ đầy đủ phải đáp ứng được bốn yêu cầu:
- Phải chứa đựng đầy đủ các thông tin tài chính để giúp cán bộ tín dụng xác
định được sức mạnh tài chính của doanh nghiệp xin vay và dễ dàng nắm bắt xu
hướng tình trạng tài chính của doanh nghiệp.
- Phải vạch ra được các điều khoản của hợp đồng cho vay với doanh nghiệp
một cách chi tiết và lập ra một thỏa thuận hoàn trả đầy đủ.
- Phải giúp người sử dụng thẩm định hoạt động kinh doanh trong quá khứ của
doanh nghiệp.

- Chỉ ra được mọi yếu điểm hiện có hoặc tiềm tàng trong khoản vay một cách
chi tiết.
Một hồ sơ phải có đầy đủ một số tài liệu cơ bản sau:
1) Báo cáo tài chính: gồm có bảng tổng kết tài sản và báo cáo thu nhập. Các
báo cáo này phải được doanh nghiệp cung cấp ít nhất là hàng năm và được sắp xếp
theo thứ tự thời gian.Ngoài ra còn phải có một bảng mở rộng tóm tắt hoạt hoạt động
tín dụng của doanh nghiệp coi như là bảng tổng kết các báo cáo khác nhau.
2) Danh mục bảo đảm: một số thiết bị tồn kho hiện đại, danh sách các khoản
phải trả theo thời hạn, danh sách bồi thường bảo hiểm….
3) Các dự án: Hồ sơ cần có các dự toán dòng tiền hiện đại về hoạt động sản
xuất kinh doanh và dự toán thu nhập.
4) Các hợp đồng: có thể dưới dạng hợp đồng tín dụng chính thức hoặc ít nhất
phải là bản ghi nhớ do cán bộ tín dụng viết.Hợp đồng hoàn trả vốn vay phải được
vạch ra rõ ràng và chi tiết.
5) Các báo cáo nhận xét: Cán bộ tín dụng phải định kỳ lưu trữ tất cả các thông
tin nào có liên quan đến khoản vay, cũng như đánh giá của mình về tình trạng hiện
có của khoản vay.Báo cáo trong hồ sơ phải chứa đựng thông tin về bản thân doanh
nghiệp và thông tin trước đó về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
6) Phân tích thông tin tín dụng: gồm có các chỉ số và các nhận xét của người
phân tích. Những thông tin này phải được lưu vào trên cơ sở có hệ thống và phải
vạch ra bất kỳ điểm yếu hoặc các vấn đề tiềm ẩn trong khoản vay rõ ràng.
7) Các chứng từ bảo đảm tín dụng: Gồm có các khoản thế chấp có thể chuyển
nhượng và một số khoản thế chấp không thể chuyển nhượng.
8) Thư từ trao đổi và các giấy tờ khác: Bản sao tất cả các giấy tờ liên quan trao
đổi giữa doanh nghiệp và những người khác có liên quan đến doanh nghiệp.
1.2.3.2.Phân tích tín dụng.
Mục tiêu của phân tích tín dụng là xác định khả năng và ý muốn của người vay
trong việc hoàn trả tiền vay, phù hợp với điều khoản của một hợp đồng tín dụng.
Bao gồm việc thu thập thông tin có ý nghĩa đối với việc đánh giá tín dụng, việc

chuẩn bị và phân tích thông tin thu thập được, sưu tầm và lưu lại thông tin để sử
dụng cho tương lai.
Các yếu tố cần được xem xét khi phân tích tín dụng:
a. Năng lực vay nợ: các ngân hàng không chỉ quan tâm đến khả năng hoàn trả
mà còn quan tâm đến năng lực pháp lý của doanh nghiệp khi đi vay. Cần phải xem
xét điều lệ và luật địa phương để khẳng định rằng ai là người có khả năng thay mặt
cho công ty đi vay.
b. Uy tín: không chỉ có ý nghĩa sẵn lòng trả nợ mà còn có ý nghĩa là phản ánh
ý muốn kiên quyết thực hiện tất cả các giao ước trong hợp đồng tín dụng.Các hồ sơ
quá khứ của một doanh nghiệp khi xin vay trong việc thực hiện các hợp đồng tín
dụng thường có giá trị khi đánh giá uy tín về tín dụng.
c. Khả năng tạo ra lợi tức: đối với doanh nghiệp kinh doanh thì việc tạo ra lợi
tức tùy thuộc vào tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến lượng bán, giá bán, giá thành, chi
phí. Những yếu tố này gồm có địa điểm của hãng, chất lượng hàng hóa, tính hữu
hiệu của quảng cáo, chất lượng cạnh tranh, phẩm chất của lực lượng lao động, khả
năng khai thác, giá thành của nguyên liệu và chất lượng quản trị.Trong đó chất
lượng quản trị được coi là yếu tố chính để quyết định có cấp tín dụng không.
d. Mục đích khoản vay: nếu khoản vay tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng
thêm thu nhập thì chính điều đó đã làm tăng thêm nằng lực hoàn trả và cải thiện tình
hình tài chính của doanh nghiệp.Khi đó cả ngân hàng và doanh nghiệp đều có lợi.
Do đó các ngân hàng thường muốn cho vay để mua máy móc cần thiết hơn là mua
chiếc xe mới cho giám đốc hoặc cho vay để mua vốn lưu động để tăng doanh thu
hơn là cải tạo lại văn phòng.
e. Quyền sở hữu các tích sản: như vốn và vật thế chấp là một trong các tiêu
chuẩn tín dụng. Giá trị thực của doanh nghiệp là một tiêu chuẩn đo lường sức mạnh
tài chính và là yếu tố quyết định đến khối lượng tín dụng mà ngân hàng sẵn lòng
thực hiện cho doanh nghiệp vay.
f. Các điều kiện kinh tế: ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của người vay
nhưng chúng thường vượt quá sự kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.Nhân
viên tín dụng trở thành nhà dự đoán kinh tế. Kỳ hạn của khoản nợ càng dài thì việc

dự đoán càng trở nên quan trọng.Ngân hàng cần phải quan tâm đến hoạt động kinh
tế mà ngành kinh doanh của doanh nghiệp thực hiện và tầm quan trọng của nó trong
ngành công nghiệp ấy.
g. Tầm quan trọng của các yếu tố tín dụng: Các nhà quản trị ngân hàng đều
cho rằng vật thế chấp cho một khoản vay nói chung là ít quan trọng nhất. Khoản tín
dụng được cấp với hy vọng là sẽ được hoàn trả như thỏa thuận chứ không phải là
các tích sản thế chấp sẽ bán đi để trả nợ. Dưới toàn bộ lăng kinh phân tích tín dụng
thì uy tín nổi lên như yếu tố quan trọng nhất.

1.2.3.3.Quyết định cho vay.
a.Đưa ra quyết định cho vay.
Việc phân tích các yêu cầu xin vay đều nhằm mục đích chính là đưa ra một
quyết định cho vay đúng.Khi cán bộ đã tập hợp đầy đủ thông tin sẵn có thì bước tiếp
theo trong quá trình cho vay là tổ chức thông tin theo một phương thức khoa học để
các thông tin này có thể được phân tích nhanh chóng và đưa ra kết luận chính
xác.Một cán bộ tín dụng thiếu kinh nghiệm có thể thấy khó khăn trong việc đưa ra
quyết định cho vay khi xác định điểm mạnh hoặc yếu của doanh nghiệp.Do đó chính
sách tín dụng của ngân hàng cần phải cung cấp một vài hướng dẫn về việc đánh giá
này cho doanh nghiệp.
Quyết định phải được đưa ra đúng kỳ hạn và doanh nghiệp phải được thông
báo ngay.Nếu khoản vay bị từ chối thì cũng phải báo cho doanh nghiệp được biết lý
do. Nếu chấp thuận phải lập tức trao cho doanh nghiệp danh mục các chứng từ cần
thiết để ký kết khoản vay và đưa ra ngày dự kiến ký kết.
Quyết định cho vay có thể được đưa ra bởi cán bộ tín dụng hoặc bởi một hội
đồng tín dụng gồm có các cán bộ hoặc các thành viên bên ngoài. Khi liên quan đến
hội đồng tín dụng, cán bộ tín dụng đã thụ lý các yêu cầu cho vay cần phải đưa ra
được tờ trình tín dụng.
b. Ký hợp đồng tín dụng.
Trước khi ký, các điều kiện của các khoản vay phải được xem xét lại chi tiết
giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Ngân hàng phải cho phép doanh nghiệp được kiểm

tra lại toàn bộ giấy tờ vay vốn, phải giải thích ý nghĩa của mỗi chứng từ. Phải chú ý
là tất cả các giấy tờ của văn bản tài trợ hoặc hợp đồng tín dụng đều phải được ký
vào ngày ký kết.
c.Giải ngân.
Sau khi đã ký kết hợp đồng cho vay ngân hàng thực hiện việc giải ngân khoản
vay theo một lần hoặc theo từng đợt.
12.3.4. Kiểm soát quá trình cho vay.
a.Giám sát tín dụng.

×