Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

LUẬN VĂN: Thực trạng và xu hướng biến động của các nhân tố tác động tới thị trường xuất khẩu hàng dệt may thời gian qua doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.37 KB, 27 trang )











LUẬN VĂN:
Thực trạng và xu hướng biến động của các
nhân tố tác động tới thị trường xuất khẩu
hàng dệt may thời gian qua






Lời mở đầu

Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường đã phát triển, hàng hoá đã được lưu thông
rộng rãi trong các khu vực, các nước khác nhau trên thế giới. Chính sách mở cửa của
Đảng và Nhà nước đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt của nền kinh tế. Các doanh nghiệp
trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam luôn tìm
kiếm cho mình những cơ hội kinh doanh mới nhằm thu được lợi nhuận tối đa, đồng thời
bảo đảm được các mục tiêu an toàn và thế lực cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để thực hiện tất cả các mục tiêu đó không phải là điều đơn giản, đôi khi
phải trả những cái giá rất đắt, thậm chí có thể thất bại dẫn đến phá sản. Nghiên cứu vấn
đề này, nhiều nhà kinh tế cho thầy rằng sự thành công hay thất bại của một ngành trên


thương trường phụ thuộc rất lớn vào chiến lược cạnh tranh mà họ đã đề ra. Đã biết rằng,
kinh tế thị trường không chỉ là chiếc “nôi” cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp mà còn là một “đấu trường”. Trên thị trường luôn diễn ra sự cạnh tranh
gay gắt khốc liệt giữa các doanh nghiệp nhằm giành lấy khách hàng. Tìm được các bí
quyết để cạnh tranh có hiệu quả là tìm ra bí quyết của sự tăng trưởng, quyết định vận
mệnh của doanh nghiệp .
Công cuộc CNH, HĐH đất nước đã đem lại cho nền kinh tế nước ta một sinh khí mới và
trong đó có ngành công nghiệp dệt may với những động lực và hướng phát triển mới.
Cũng như quá trình phát triển của nhiều nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu của
quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế
Việt Nam, với vai trò vừa cung cấp hàng hoá trong nước vừa tạo điều kiện mở rộng
thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo ưu thế cạnh tranh cho các sản phẩm trên
thị trường thế giới.
Dệt may là ngành xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, không chỉ tạo lợi nhuận mà
còn thu hút một lượng lao động rất lớn. Trong 10 năm trở lại đây, ngành dệt may đã
chứng tỏ là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bước tiến vượt
bậc trong lĩnh vực xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục trong thời gian qua với
tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8%/năm, vươn lên đứng thứ 2 trong cả nước về kim
ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí. Năm 2001, kim ngạch hàng dệt may đạt 2 tỷ gấp
16,9 lần so với năm 1990 và chiếm tỷ trọng13,25% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu.

Trong 10 năm qua chúng ta đều thấy rõ tốc độ tăng trưởng của ngành tăng khá nhanh,
nhưng từ năm 1998 đến nay tốc độ tăng lại chậm dần, năm 1999 chỉ còn 9% riêng quý 1
năm 2002 xuất khẩu hàng dệt may ước đạt 450 triệu USD, tăng không đáng kể so cùng
kỳ năm trước.
Tuy nhiên, liệu mặt hàng dệt may của nước ta cũng như toàn ngành dệt may tới đây
có tiếp tục duy trì được tốc độ phát triển trở thành một trong những ngành công nghiệp
mũi nhọn của nước ta hay không?. Vấn đề này chỉ có thể giải đáp dựa trên cơ sở những
kết quả nghiên cứu dự báo về triển vọng thị trường thế giới mặt hàng này cũng như lợi
thế và năng lực phát triển ngành dệt may của Việt Nam. Những biến động trên thị trường

thế giới trong thời gian qua đã tác động mạnh mẽ đến thị trường dệt may nói chung và
ngành dệt, may Việt Nam nói riêng càng làm cho việc nghiên cứu về thị trường hàng dệt
may trở nên cấp thiết. Nhằm phân tích, đánh giá những thuận lợi và khó khăn của hàng
dệt may Việt Nam, trên cơ sở đó xác lập những căn cứ khoa học để dự báo khả năng cạnh
tranh của hàng dệt may Việt Nam cũng như đề xuất một số chính sách, giải pháp hỗ trợ
cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may trong nước thời gian tới.
Trong đề tài này, vì thời gian không cho phép và khối lượng tài liệu tham khảo hạn
chế . Bên cạnh đó, việc phân tích các nhân tố tác động tới thị trường xuất khẩu là một
khía cạnh rất rộng. Có rất nhiều các nhân tố tác động tới thị trường hàng hoá nói chung
và hàng dệt may nói riêng, nhưng trong phạm vi một đề án môn học tôi chỉ xin phép đi
sâu vào những nhân tố chủ yếu sau: Những nhân tố ảnh hưởng tới giá; Những nhân tố
ảnh hưởng tới chất lượng; Những nhân tố ảnh hưởng tới thị trường tiêu thụ.
Hy vọng qua đề án này chúng ta sẽ có một cách phân tích khái quát nhất tình hình
thị trường xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam hiện nay.
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm, bản chất và vai trò của các nhân tố tác động tới thị trường xuất khẩu
hàng dệt may
1.1.Về giá cả
Theo C.Mác, giá trị hàng hoá bao gồm lao động sống và lao động quá khứ kết tinh
trong sản phẩm hay hàng hoá (C+V+m). Nó được tạo ra thông qua sản xuất và được hoàn
thành thông qua tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, giá cả là một hình thức biến
tướng của giá trị. Dưới tác động của các quy luật kinh tế, giá cả của một sản phẩm - hàng

hoá có thể biến động lên, xuống xoay quanh giá trị. Giá cả chịu tác động bởi rất nhiều
nhân tố, tuy nhiên có thể nói những nhân tố quan trọng nhất tác động đến giá cả đó là:
Chi phí đầu vào (C + V), bao gồm tư bản bất biến (máy móc, tài sản cố định) và tư bản
khả biến (tiền lương nhân công, nguồn nguyên, vật liệu ). Bên cạnh đó, giá cả hàng hoá
chịu sự tác động rất lớn của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật cung- cầu.
Giá cả là một trong những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của sản phẩm. Một doanh
nghiệp có sản phẩm có chất lượng tốt, giá cả hợp lý thì luôn chiếm ưu thế trên thị trường.

Một doanh nghiệp nếu biết áp dụng những chính sách định giá linh hoạt, đa dạng đó sẽ
là nhân tố quan trọng tạo nên thành công trong tiêu thụ sản phẩm. Sách lược định giá sản
phẩm chủ yếu phải căn cứ vào giá thành sản phẩm, nhu cầu thị trường và nhu cầu cạnh
tranh của thị trường để xác định. Cạnh tranh bằng giá cả phải tuỳ thuộc vào tình hình và
phải lấy giá thị trường làm chuẩn.
1.2.Về chất lượng, mẫu mã
Chất lượng, mẫu mã của sản phẩm là những tính chất, thuộc tính vốn có của sản
phẩm. Nó là một phần trong bản chất của hàng hoá với hai thuộc tính vốn có (giá trị và
giá trị sử dụng). Giá trị sử dụng (bao gồm chất lượng và mẫu mã của hàng hoá) được biểu
hiện ra bằng việc thoả mãn đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Chất lượng, mẫu mã
của sản phẩm là một yếu tố quan trọng không thể thiếu của hàng hoá, có tác động rất lớn
tới nhu cầu tiêu dùng của thị trường. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà đời sống
và nhu cầu con người ngày càng nâng cao, thì vấn đề chất lượng, mẫu mã càng trở nên
quan trọng và có ý nghĩa đối với việc tiêu thụ sản phẩm - hàng hoá.
1.3. Về thị trường tiêu thụ
Thị trường theo cách hiểu đơn giản là một không gian, trong đó sản phẩm của các
ngành được trao đổi và thực hiện khâu cuối cùng trong việc thực hiện giá trị hàng hoá (đó
là lưu thông, phân phối). Bất kỳ một hàng hoá nào cũng phải có thị trường tiêu thụ của
mình. Có nghĩa là trong phạm vi đó các doanh nghiệp có thể cạnh tranh hàng hoá với giá
cả thấp hơn so với giá các đối thủ khác. Mỗi một sản phẩm có một thị trường tiêu thụ
riêng, tuy nhiên giữa các thị trường của các nhà sản xuất vẫn có chỗ trống nên các hãng
vẫn có thể tăng sản lượng và mở rộng đầu tư và như vậy khoảng cách thị trường sẽ thu
hẹp lại.
2. Các yếu tố chi phối tới sự biến động của các nhân tố

2.1. Các yếu tố ảnh hưởng tới giá cả
- Quan hệ cung cầu: Đây là nhân tố cơ bản bao trùm nhất chi phối trực tiếp giá
cả, đặc biệt đối với dệt may, một mặt hàng rất nhạy cảm vì may mặc không những là mặt
hàng thiết yếu hàng ngày đối với mọi người, mà hàng dệt may còn là mặt hàng cao cấp
đối với thị hiếu ngày càng cao của đại đa số người dân trên thế giới. Trong quan hệ cung

cầu này, cần quan tâm tới ảnh hưởng của cách mạng khoa học, nhất là hoá học và ảnh
hưởng của tốc độ tăng dân số đang chi phối giá dệt may.
- Giá nhân công và nguyên vật liệu đầu vào: Giá nhân công và nguyên vật liệu
đầu vào có ý nghĩa quan trọng tới lợi thế cạch tranh của hàng hoá. Nếu giá nhân công và
nguyên vật liệu cao sẽ làm cho giá đầu vào cao lên, điều đó dẫn tới giá của hàng hoá đó
trên thị trường sẽ cao lên và sẽ ảnh hưởng tới thị trường hàng hoá đó.
- Nhu cầu khách hàng: Hàng dệt may có yêu cầu phong phú và đa dạng tuỳ thuộc
vào đối tượng tiêu dùng, người tiêu dùng khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán, tôn
giáo, khác nhau về khu vực địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi tác… sẽ có nhu cầu rất khác
nhau về trang phục. Nghiên cứu thị trường để nắm vững nhu cầu tiêu dùng của từng
nhóm người trong các bộ phận thị trường khác nhau có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
việc định giá của sản phẩm tiêu thụ.
- Sự canh tranh của các đối thủ khác: Xu thế toàn cầu hoá đang diến ra mạnh
mẽ, sự thâm nhập cũng như sự bành trướng của rất nhiều các đối thủ khác đã là cho sức
ép cạnh tranh được nâng cao. Điều này đã làm ảnh hưởng rất nhiều tới giá cả tiêu thụ. Để
đảm bảo tính cạnh tranh đó thì các ngành phải hạ thấp giá cả của mình dựa trên cơ sở hạ
thấp gía thành sản phẩm.
2.2. Các yếu tố tác động tới mẫu mã chất lượng
- Công nghệ: Ngày nay công nghệ thường được coi là sự kết hợp giữa “phần
cứng” và “phần mềm”. Phần cứng đó là trang thiết bị, khí cụ, nhà xưởng. Phần mềm bao
gồm: Thành phần con người có kỹ năng, tay nghề, kinh nghiệm của người lao động; thứ
hai là thành phần thông tin, bao gồm các bí quyết, quy trình, phương pháp, các dữ liệu và
các bản thiết kế; thứ ba là thành phần tổ chức, thể hiện trong việc bố trí, sắp xếp, điều
phối, quản lý. Bất kỳ quá trình nào cũng cần 4 thành phần nói trên. Sự kết hợp 4 thành
phần trên đây là điều kiện cơ bản đảm bảo cho hoạt động sản xuất đạt hiệu quả cao. Khoa
học công nghệ ngày càng phát triển, ngày càng được áp dụng nhiều và hoạt động sản

xuất. Với việc vận hành các loại máy móc kỹ thuật cao, đội ngũ cán bộ quản lý hiệu quả,
đội ngũ công nhân lành nghề…đã làm cho sản xuất ngày càng nâng cao hơn, chất lượng
được tăng lên đáng kể, mẫu mã thêm đa dạng hơn phong phú hơn.

- Chất lượng của nguyên vật liệu: Chất lượng nguyên vật liệu vó vai trò lớn
trong việc nâng cao chất lượng của sản phẩm. Để một sản phẩm sản xuất ra thì điều tiên
quyết là có được đầu vào tốt. Muốn đầu ra có chất lượng cao thì ngoài yếu tố công nghệ
ra yếu tố chất lượng nguyên vật liệu có tác động rất mạnh. Thực tế cho thấy các sản phẩm
của ngành dệt may Việt Nam vì không có nguyên liệu đầu vào chất lượng cao, phong phú
nên ngành dệt may phải nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài. Chính điều này đã làm
giảm lợi thế so sánh về chất lượng của ngành dệt may nước ta.
- Kinh nghiệm, tay nghề của công nhân: Ta biết rằng hàng dệt may phụ thuộc
phần lớn vào lao động thủ công tay nghề là chính. Dệt may Việt Nam với một cơ sở hạ
tầng và trang thiết bị củ kỹ lỗi thời với đại đa số sản xuất theo lối truyền thống là chính
thì trình độ và sự khéo léo của các công nhân có một ý nghĩa rất lớn trong công tác tạo ra
những mặt hàng chất lượng cao. Trong tương lai chúng ta cần phải đẩy mạnh công tác
đào tạo và đào tạo lại cán bộ, công nhân có nghiệp vụ, chuyên môn cao nhằm đáp ứng
đầy đủ yêu cầu của sản xuất hiện đại, sản xuất chất lượng cao.
2.3. Các yếu tố tác động tới thị trường
- Dân số: Hầu hết nhu cầu tiêu thụ hàng dệt may là của con người, chính vì vậy
mọi sự tăng lên hay giảm đi của dân số sẽ ảnh hưởng một các rất trực tiếp tới nhu cầu tiêu
thụ của thị trường. Mỗi một loại hàng hoá đều có phạm vi thị trường của mình, và ngành
dệt may muốn hàng hoá của mình được tiêu thụ nhanh thì công tác mở rông thị trường ra
các nước, các khu vực có lượng dân cư lớn là rất cần thiết vì tại đây sẽ có lượng cầu lớn.
- Các chính sách khuyến khích của nhà nước: Ngành dệt may với đặc điểm có
hàm lượng lao động lớn và có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao, được xếp vào lĩnh vực
khuyến khích đầu tư phát triển. Nhiều chính sách thương mại và đầu tư được ban hành
trong thời gian đã có tác dụng thiết thực trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi ,
tháo gỡ những khó khăn của doanh nghiệp dệt may và thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực
này.
Các quy định cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được Xuất
nhập khẩu hàng hoá theo mã số kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và

được phép nhận gia công, trực tiếp xuất khẩu thành phẩm, không phải đăng ký mã số

kinh doanh xuất nhập khẩu theo tinh thần Nghị định số 02/1998/NĐ-CP và Nghị định số
57/1998/NĐ-CP đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động
xuất nhập khẩu.
Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) theo Nghị định số 07/1998/NĐ-CP
cũng như Luật đầu tư nước ngoại (sửa đổi ) theo nghị định 10/1998/ NĐ-CP đã quy định
các chế độ ưu đãi đầu tư, về giảm thuế, miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu dùng để sản
xuất hàng xuất khẩu, về tín dụng ưu đãi…, với các dự án sản xuất nguyên phụ liệu may, các dự
án có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao đã thao gỡ phần nào những khó khăn về tài chính của
doanh nghiệp cũng như khuyến khích về đầu tư vào ngành dệt may.
Các thời hạn tăng thời hạn hoàn thuế, miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu để sản
xuất hàng xuất khẩu; về đơn giản hoá thủ tục thanh lý hợp đồng gia công cũng như các
quy định về hàng xuất khẩu, thưởng hạn ngạch cho các doanh nghiệp có kim ngạch xuất
khẩu cao và xuất khẩu sang các thị trường không hạn ngạch đã giải quyết được những
khó khăn trong tổ chức kinh doanh xuất khẩu và khuyến khích các doanh nghiệp tìm
kiếm thị trường xuất khẩu.
- Xu hướng tự do hoá mậu dịch thế giới: Ngày nay trong tiến trình toàn cầu hoá
kinh tế đang diễn ra gay gắt và Việt Nam cũng không ngoài vòng xoáy đó. Tham gia hội
nhập khu vực và thế giới , ngành dệt may Việt Nam đứng trước những cơ hội lớn của một
thị trường thế giới rộng lớn với tiềm năng lớn về khoa học công nghệ cũng như về
vốn…và những thách thức đặt ra cũng rất lớn cần phải vượt qua.
Tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới như AFTA, APEC,
ASEM, WTO…ngoài các quy chế tối huệ quốc (MFN) và đãi ngộ quốc gia (NT), ta còn
có cơ hội được hưởng ưu đãi về thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác mà các nước
thành viên của tổ chức này dành cho nhau. Các tổ chức ASEAN/AFTA, APEC,
ASEM,WTO,… dành những ưu đãi riêng về miễn trừ, ân hạn trong việc thực hiện các
nghĩa vụ cho các nước đang phát triển, chậm phát triển và các nước trong thời kỳ chuyển
đổi (có mức thu nhập dưới 1000USD/người ) ở tất cả các lĩnh vực. Các nước đang phát
triển sẽ được hưởng đối xử ưu đãi về mức độ cam kết mở cửa và về thời hạn thực hiện
các nghĩa vụ để bán sản phẩm của mình. Gia nhập WTO, tham gia AFTA, APEC… sẽ


tạo thế và lực giúp ngành xuất khẩu dệt may của Việt Nam vươn mạnh ra nước ngoài, mở
rộng thị trường.
- Công tác quảng cáo, Marketing: Quảng cáo và xúc tiến bán hàng là những hoạt
động nhằm giới thiệu và thông tin cho khách hàng về các sản phẩm của doanh nghiệp,
đồng thời lôi kéo khách hàng tiêu dùng những sản phẩm đó. Quảng cáo, đó là hoạt động
thông qua các phương thức để tuyên truyền một cách rộng rãi các loại hàng hoá, các
thông tin dịch vụ nhằm đạt mục đích và mở rộng thị trường, tăng hiệu quả kinh doanh
của ngành. Ngày nay trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá phát triển, phần lớn hàng hoá,
dịch vụ đều phải được quảng cáo, đặc biệt là những sản phẩm mới vì chúng chưa được
mọi người biết đến. Với hàng dệt may Việt Nam, là một sản phẩm tuy đã có tiếng nói của
mình trên thị trường thế giới, nhưng nhìn chung mức độ ảnh hưởng của mình còn rất nhỏ.
Dệt may Việt Nam chỉ mới được biết đến ở những thị trường truyền thống như EU, Nhật,
Nga…chính vì thế công tác Marketing, công tác quảng cáo là rất cần thiết để quảng bá
sản phẩm của mình nhằm mở rông hơn nữa thị trường tiêu thụ của mình.
- Tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệcủa một quốc gia
tính bằng tiền tệ của một nước khác hay là quan hệ của so sánh giữa hai đồng tiềncủa các
quốc gia khác. Tỷ giá hối đoái là phương tiện so sánh về mặt giá trị của các chi phí xản
xuất của một ngành nào đó với giá cả thị trường thế giới. Khi tỷ giá đồng nội tệ so với
đồng ngoại tệ tăng tức là sức mua của đồng nội tệ tăng so với ngoại tệ, thì gây khó khăn
cho hoạt động xuất khẩu. Sở dĩ như vậy và, khi đồng nội tệ lên giá, giả sử các nhân tố
khác không thay đổi, giá cả của hàng hoá sản xuất trong nước tính đổi ra ngoại tệ sẽ rở
nên đắt hơn so với trước đây và điều đó làm giảm sút sự cạnh tranh của hàng hoá trong
nước trên thị trường thế giới. Trong khí đó đồng nội tệ lên giá, giá cả của hàng hoá nhập
khẩu từ nước ngoài sẽ trở nên rẻ hơn trước nếu như các điều kiện khác không thay đổi và
điều đó sẽ tạo thuận lợi cho nhập khẩu.

II. Thực trạng và xu hướng biến động của các nhân tố tác động tới thị trường xuất
khẩu hàng dệt may thời gian qua
1. Thực trạng và nguyên nhân của các yếu tố tác động tới thị trường xuất khẩu hàng
dệt may thời gian qua

1.1.Thực trạng của những nhân tố tác động tới giá cả
- Về quan hệ cung-cầu: Đối với ngành dệt may Việt Nam, thực trạng của nó trong
những năm gần đây rất đáng báo động. Với những công nghệ lạc hậu, cũ kỹ, quy mô của
những nhà cung cấp bé nhỏ, chất lượng chưa đạt yêu cầu của ngành may mặc xuất khẩu.
Mặt khác có nhiều nhà máy dệt đã bị thua lỗ và có những thông tin không tốt của khách
hàng về ngành dệt may trong nước đã khiến cho các khách hàng chuyển sang tiêu thụ
hàng dệt may nước ngoài. Như vậy có thể nói, ngành dệt may trong nước đang trong tình
trạng đáng lo ngại, quyền lực đàm phán của nhà cung cấp trong nước hầu như không có.
Trong khi đó, ngành dệt may hiện nay phát triển hầu hết ở tất cả các nước với chất
lượng chủng loại rất đa dạng tất cả đều được sản xuất và phân phối trên phạm vi toàn cầu.
Cầu của sản phẩm dệt may Việt Nam tương đối lớn kể từ khi các chính sách kinh tế mở
cửa và hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết tạo điều kiện cho người tiêu dùng trên
thế giới biết được sản phẩm may Việt Nam. Nhưng Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó
khăn do tỷ lệ nội địa hoá chưa cao, vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu với tỷ lệ lớn và
nguyên liệu phải chịu thuế nhập khẩu. Điều này dẫn đến là tăng giá thành sản phẩm, là
giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhưng Việt Nam luôn có chính sách
giải quyết vấn đề này, nên giá trị xuất khẩu của ngành may Việt Nam vẫn có xu hướng
tăng tức là cầu của sản phẩm này có xu hướng tăng (Biểu)
H×nh 2.7 Kim ngach xuÊt khÈu ngµnh dÖt may
(1992-2001)
850
1450 1450
1892
2000
1747
1150
476
239
190
0

500
1000
1500
2000
2500
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
N¨ m
TriÖu USD


- Nhu cầu khách hàng: Xu thế xã hội ngày càng phát triển nên nhu cầu ăn mặc của
con người càng tăng lên. Bên cạnh đó, công tác marketing cũng đã được các doanh
nghiệp trong và ngoài nước chú trọng nên thông tin khách hàng rất cụ thể và chính xác.
Do đó khách hàng có quyền chọn lựa, quyết định và gây sức ép lớn về chất lượng, giá cả
sản phẩm. Tuy vậy, ngành dệt may nước ta cũng chưa chú trọng tới công tác thiết kế
mẫu mốt, mẫu mã thiết kế chưa thực sự đi vào cuộc sống, chủ yếu còn nặng về phần trình
diễn, còn thời trang hàng ngày phần lớn được sưu tầm từ các Catologue nước ngoài, khâu
thiết kế còn nhiều hạn chế, mẫu mã nghèo nàn, chưa xây dựng được thương hiệu đặc
trưng và đạt tầm cỡ quốc tế. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho ngành
dệt may xuất khẩu Việt Nam khó đứng vững trên thị trường quốc tế.
Hiện nay khách hàng thường lựa chọn những sản phẩm đã có tiếng tăm, nhãn hiệu
được biết đến rộng rãi trên thị trường. Do đó muốn xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm may
mặc phải tạo lập được tên tuổi riêng, nhãn mác riêng cho các sản phẩm. Nếu không
ngành may Việt Nam vẫn mãi chỉ là “dệt may gia công”. Phần lớn các sản phẩm của
ngành hiện nay chưa có tên tuổi trên thế giới, nên cách tốt nhất để thâm nhập thị trường
nước ngoài là mua bằng sáng chế, nhãn hiệu của các doanh nghiệp nước ngoài để sản
xuất ra các sản phẩm có giá thành rẻ hơn, để có thể thâm nhập vào thị trường nước ngoài
bằng “sản xuất tại Việt Nam”.
- Về giá nhân công và nguyên vật liệu đầu vào: Ngành dệt may Việt Nam với đội
ngũ lao động trình độ văn hoá khá, có trình độ tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật, công

nghệ hiện đại. Hơn nữa giá nhân công lao động Việt Nam rẻ, rẻ hơn rất nhiều các nước
khác trên thế giới ( Giá nhân công của Việt Nam rẻ nhất khu vực Châu á, từ 0,16-0,35
USD/giờ so với 0,32 USD/giờ của Inđônêsia, 1,13 USD/giờ của Malaixia, 1,18 USD/giờ
của Thái Lan, 3,16 USD/giờ của Singapore). Như vậy với chi phí nhân công rẻ hơn rất
nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy ngành dệt may có lợi thế
rất lớn trong việc giảm giá thành sản xuất, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành
dệt may của mình trên thị trường khu vực và quốc tế.
Tuy Việt Nam có được lợi thế như vậy nhưng sức cạnh tranh của ngành dệt may hiện
nay còn thấp khi tiến hành hội nhập khu vực và thế giới. Nguyên nhân là hầu hết các loại
chi phí cho một đơn vị sản phẩm đều cao hơn từ 15%-20% (trừ giá nhân công), nên giá

thành dệt may chưa cạnh tranh được với hàng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Các chi phí về nguyên phụ liệu đều cao do chủ yếu được nhập khẩu từ nước ngoài, do
công nghệ lạc hậu, mức tiêu hao lớn, hệ thống cung cấp đầu vào chưa kiểm soát chặt chẽ,
chi phí trung gian cao và chủ yếu Việt Nam làm gia công xuất khẩu thông qua nước thứ 3
nên dễ bị ép giá gây nhiều thua thiệt cho các doanh nghiệp xuất khẩu nên giá thành cao
làm giảm đi khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam.
- Cạnh tranh của các đối thủ trên thế giới: Trên thị trường dệt may thế giới có
nhiều sản phẩm đa dạng về kiểu dáng, kích thước, màu sắc…tuy nhiên cũng chưa đáp
ứng được đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng. Đặc biệt đối với hàng dệt may xuất khẩu
của Việt Nam chỉ có sản xuất một ít kiểu hàng, mẫu mã lại không phong phú, không linh
hoạt đối với nhu cầu thị trường. Trong khu vực hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh
rất mạnh với các đối thủ như Indonesia, Thái lan Hiện nay thị trường xuất khẩu chủ yếu
của dệt may Việt Nam là EU và Nhật Bản, nhưng thời gian qua ta bị hàng hoá của Trung
Quốc cạnh tranh rất gay gắt về giá do Trung Quốc đã gia nhập WTO nên có rất nhiều
thuận lợi trong việc xuất khẩu. Đối với thị trường Mỹ là thị trường nhập khẩu dệt may
lớn nhất thế giới trong những năm qua, nhưng do chuea có tối huệ quốc (MFN) nên hàng
dệt may việt Nam vẫn còn chịu thuế xuất nhập khẩu cao nên rất khó cạnh tranh với cacs
đối thủ của nước khác. Dệt may Việt Nam muốn có thị trường rộng phải có những kiều
hàng thích hợp cho tất cả các loại tuổi, tất cả các khổ người, từ những đàn ông, đàn bà,

trẻ em cho đến những người già, từ những công nhân áo xanh tới những thuỷ thủ, các tài
xế đến các sinh viên, nữ sinh hay em bé. Ngoài quần áo may sẳn nên phát triển cả mùng
mền, chăn gối, drap trải giường…Việc đa dạng hoá này sẽ giúp cho ngành dệt may Việt
Nam phát triển mở rộng cả trên thị trường thế giới, tạo cho người tiêu dùng thoả mãn nhu
cầu hơn nữa.
Như vậy: Từ những nhân tố tác động tới giá của hàng dệt may Việt Nam trên ta
thấy rằng giá của các sản phẩm dệt may Việt Nam thời gian qua trên thị trường xuất khẩu
giảm là điều dễ hiểu. Đây có thể là lợi thế cạnh tranh về giá thấp, nhưng cũng cho thấy
rằng chất lượng của dệt may Việt Nam còn thấp so với các đối thủ trên thế giới, nó làm
giảm kim ngạch của xuất khẩu dệt may Việt Nam.
1.2. Thực trạng của những nhân tố tác động tới chất lượng, mẫu mã

- Về công nghệ: Trong lĩnh vực dệt may hiện nay trang thiết bị máy móc và công
nghệ sử dụng còn lạc hậu, gần 50% máy móc thiết bị đã hết hạn sử dụng trên 20 năm do
đó ngành dệt may Việt Nam chưa tạo được lợi thế cạnh tranh về chất lượng so với các
nước khác.
Ngành dệt hiện có 868.000 cọc sợi, cả sợi bông và sợi pha (bông pha với xơ PE) với
chỉ số Nm (Chỉ số Quốc tế ) tử sợi Nm10 đến Nm102 bao gồm cả sợi chải kỹ, 43200 máy
dệt, trong đó các xí nghiệp Quốc doanh T.W quản lý 11000 máy, xí nghiệp Quốc doanh
địa phương - 3200 máy và Hợp tác xã tư nhân 29000 máy, các thiết bị nhuộm hoàn tất có
thể nhuộm 450 m / năm với các loại vải từ nguyên liệu dệt khác nhau và các công nghệ
nhuộm cũng như công nghệ in hoa khác nhau, các thiết bị dệt kim có thể sản xuất 20900
tấn sản phẩm / năm, bao gồm 19500 tấn dệt kim tròn / năm và 1400 tấn dệt kim dọc/năm.
Tuy nhiên, phần lớn số thiết bị ngành dệt hầu hết đã rất cũ và sự thiếu đồng bộ giữa các
khâu. Thiết bị dệt còn quá ít so với thiết bị kéo sợi phần lớn lại là máy dệt thoi khổ hẹp,
chủng loại nghèo nàn, vải làm ra không đáp ứng nhu cầu thị trường … Về thiết bị kéo sợi
cũng có tới hơn 60% là cọc sợi chải thô, chỉ số chất lượng bình quân thấp chỉ có khoảng
26-30% là cọc sợi chải kỹ chỉ số cao dùng cho dệt kim và vải cao cấp dây chuyền nhuộm
hoàn tất cũng đã lạc hậu phần lớn là thiết bị khổ hẹp, tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc
nhuộm, dẫn đến chi phí cao.

Trong khi đó, trang thiết bị ngành may đã tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng,
nhất là về tính năng công dụng, từ máy đạp chân C22 của Liên Xô cũ, máy 8322 của
Đức đến JUKI của Nhật Bản và FFAP của CHLB Đức. Số máy chuyên dùng cũng tăng
lên đáng kể để đáp ứng với yêu cầu của sản xuất và của chủng loại mặt hàng như máy vắt
năm chỉ, máy thùa đính, trần dầy pasant, may cạp bốn kim, bàn là treo, bàn là hơi có đệm
hút chân không Trong từng công đoạn sản xuất may cũng được trong bị thêm máy mọc
mới với tính năng công dụng mới nhằm tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng
sản phẩm trên mỗi công đoạn của chu trình sản xuất.
Một số năm gần đây, ngành dệt may đã có một số dây chuyền kéo sợi mới, sử dụng
công nghệ hiện đại tự động cao, các máy ghép tự động khống chế chất lượng, ứng dụng
các kỹ thuật vi mạch điện tử vào hệ thống điều khiển tự động và kiểm tra chất lượng
sợi…Trong khâu dệt vải bông, nhờ sử dụng các thiết bị xe, hấp, giảm trọng lượng nhiều
sản phẩm giả tơ, giả len, sản phẩm từ microfiber đã bắt đầu được sản xuất và tạo uy tín

trên thị trường. Trong khâu dệt kim, do phần lớn máy móc được nhập chủ yếu từ Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức thuộc thế hệ mới, có nhiều chủng loại đã được trang bị
Computer nên đạt năng suất chất lượng cao, tính năng sử dụng rộng. Trong lĩnh vực may,
công nghệ đã có những chuyển biến khá kịp thời. Các dây chuyền may được bố trí vừa và
nhỏ (25-26 máy), sử dụng 34-38 lao động cơ động nhanh và có nhân viên kiểm tra
thường xuyên, có khả năng chấn chỉnh sai sót ngay nên đảm bảo được sản phẩm sản xuất
chất lượng. Như vậy, nhìn chung thì công nghệ, thiết bị của ngành dệt may Việt Nam đã
được đổi mới khá nhiều nên đã có thể cạnh tranh được với các sản phẩm chất lượng khác.
- Về chất lượng nguyên vật liệu đầu vào: Trong sản xuất của ngành dệt may, nguyên
liệu đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng sản phẩm và hiệu
quả sản xuất. Ngành dệt may Việt Nam sử dụng các nguyên liệu chính là: Bông xơ, xơ
sợi tổng hợi, len đay, tơ tằm. các loại hoá chất khác và các thuốc nhuộm…Tuy nhiên Việt
Nam không chủ động được trong trong nguồn nguyên liệu này (90% nguyên liệu sử dụng
cho ngành dệt phải nhập khẩu từ nước ngoài, nguồn nguyên vật liệu trong nước không
sẵn có hay có thì chất lượng lại kém) nên ngành dệt Việt Nam thường xuyên phải chịu
sức ép nặng nề của nhà cung cấp nguyên vật liệu trên thế giới. Bên cạnh đó dệt may Việt

Nam không có sự đồng bộ trong công tác nhập khẩu và phân phối nguyên liệu dẫn tới sự
không ổn định của giá khiến cho đầu ra không ổn định theo…
- Về kinh nghiệm tay nghề của công nhân: Mặc dù truyền thống của con người Việt
Nam là cần cù, chịu khó và khéo léo. điều đó đã có tác động phần nào tới chất lượng của
sản phẩm ( điều này cũng đúng với tý thuyết “Đường cong kinh nghiệm” ). Tuy nhiên,
nhu cầu của người tiêu thụ ngày càng tăng lên và rất khắt khe, chính vì lẽ đó kinh nghiệm
không phải là tất cả mà cần phải có nghiệp vụ chuyên môn cao. Trong khi ngành dệt may
Việt Nam trình độ công nhân qua đào tạo còn rất hạn chế, sản xuất phụ thuộc lớn vào lao
động thủ công làm cho chất lượng sản phẩm kém, làm giảm khả năng cạnh tranh của
hàng dệt may Việt Nam.
- Về nghiên cứu phát triển: Xét về hình thức và mẫu mã, hàng may mặc của nước ta
tuy đã có những thay đổi tương đối nhanh do công nghệ tin học đã được đưa vào một số
khâu thiết kế, tạo mẫu…, công tác đào tạo cán bộ thiết kế chuyên nghiệp chất lượng cao
cũng đã rất được chú trọng ở một số công ty lớn.Tuy nhiên, nhìn chung mẫu mã dệt may
Việt Nam vẫn chưa đa dạng và phong phú nên chưa gây được thiện cảm cho khách hàng.

Sản phẩm Việt Nam còn rất đơn điệu, nhàm chán, chưa có sự thay đổi lớn vì chưa cập
nhật thông tin kịp thời trong khi thị hiếu may mặc của khách hàng rất khác nhau và khó
tính, luôn thay đổi theo mốt và thời gian. Đây cũng chính là một trở ngại nữa ảnh hưởng
tới năng lực cạnh tranh của ngành dệt may mà sắp tới chúng ta cần phải khắc phục.
Tóm lại, từ thực trạng của những nhân tố trên, đây là những nhân tố chủ đạo nhất ảnh
hưởng tới chất lượng, mẫu mã của hàng dệt may Việt Nam, ta có thể đi đến một kết luận
rằng chất lượng hàng dệt may Việt Nam hiện nay còn kém, mẫu mã còn đơn điệu, thiếu
sự đa dạng… điều đó đã làm cho sức mua của hàng dệt may Việt Nam kém đi, ảnh hưởng
không nhỏ tới thị trường xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
1.3. Thực trạng của những nhân tố ảnh hưởng tới thị trường tiêu thụ
Đối với thị trường nội địa, sản phẩm dệt may của Việt Nam đang dần tạo dựng được
niềm tin đối với người tiêu dùng. Nhu cầu tiêu dùng của người dân Việt Nam ngày càng
khắt khe hơn cả về chất lượng, mẫu mã, giá cả. Bên cạnh đó do sự thâm nhập của các đối
thủ cạnh tranh đến từ các nước (Trung quốc, Hàn Quốc, Hồng Công, Thái Lan…) làm

cho sức ép về cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Thực tế đã cho thấy, sản phẩm dệt may
Việt Nam đang đứng trước những khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường nội địa. Chất
lượng hàng dệt may Việt Nam nhìn chung đã có nhiều tiến bộ, nhưng chất lượng, mẫu
mã của hàng nhập khẩu luôn đạt tiêu chuẩn cao và phong phú về chủng loại hơn. Từ thực
tế đó, chúng ta đã tăng cường nâng cao chất lượng cải tiến mẫu mã, đa dạng về chủng
loại sản phẩm. Người tiêu dùng Việt Nam đã tin tưởng và có cách nhìn tích cực hơn đối
với hàng trong nước. Vì thế chúng ta đã cải thiện được vị trí của mình trong thị trường
nội địa.
- Chính sách của nhà nước: Với những thành tựu đã đạt được cũng cần lưu ý một
thực tế là từ đầu những năm 1990, Việt Nam đã phải chuyển quan hệ thương mại từ khối
các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế trước đây (COMECOM) sang hướng khác.
Đây là điều quan trọng cần tính đến trong ngành dệt may với quy định chặt chẽ trên thị
trường quốc tế hiện nay. Trong thời kỳ hậu COMECOM, vào tháng 12 năm 1992, Việt
Nam đã đàm phán Hiệp định về buôn bán hàng dệt đầu tiên và đã kỹ một khuôn khổ về
buôn bán hàng dệt với EU, cho phép lần đầu tiên Việt Nam được hưởng hạn ngạch MFA
( Hiệp định đa sợi ). Tuy nhiên, ngành dệt Việt Nam vẫn chưa tiếp cận được với thị

trường Mỹ rộng lớn, và là một nhà xuất khẩu non trẻ, nên ngành dệt Việt Nam buộc phải
tiến vào các thị trường phi hạn ngạch có tính cạnh tranh rất cao, chủ yếu là ở Đông á .
- Xu hướng tự do hoá: xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam chủ yếu là sang thị
trường Châu Âu và Nhật Bản, hai thị trường này chiếm 43% và 42% tổng xuất khẩu
trong năm 1996. Đây là mô hình không bình thường về xuất khẩu. Nét đặc trưng trong
giai đoạn đầu về xuất khẩu hàng may mặc của Đông á là phụ thuộc chủ yếu vào thị
trường Mỹ, trong khi đó thị trường Nhật Bản đóng vai trò không quan trọng. Mỹ là một
thị trường rộng lớn, có thể tiêu thụ hàng hoá của hầu hết các loại thị trường (về mặt giá
cả, chất lượng và mode) và khi được đảm bảo bằng hạn ngạch, đó là một thị trường tương
đối mở và không phức tạp. mặc dù không có hạn ngạch, Nhật Bản được xem như một thị
trường khó thâm nhập hơn về mặt tiêu chuẩn chất lượng và do các kênh tiếp thị phức tạp.
Những khác biệt giữa các thị trường đang được thu hẹp dần, nhưng trên thực tế mô hình
xuất khẩu của Việt Nam hoàn toàn khác so với các nước láng giềng. Các nhà xuất khẩu

Việt Nam vẫn chưa thâm nhập được vào thị trường Mỹ, ban đầu là do chưa có quan hệ
ngoại giao và gần đây là do chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc của thị trường nay (
Most Favour Nation ). Chính vì vậy hàng Việt Nam bán sang Mỹ mới chỉ chiếm 2% giá
trị xuất khẩu. Ngược lại, Nhật Bản là một thị trường lớn của Việt Nam ngay từ khi bắt
đầu xuất khẩu trong những năm 90s kết quả hoạt động xuất khẩu của Việt Nam rất gây ấn
tượng. Tuy được hưởng chế độ hạn ngạch khá ưu đãi của EU, nhưng nhìn chung các
doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải cạnh tranh với các nhà xuất khẩu lớn và không được
hưởng một lợi thế nào về hạn ngạch XNK trên thị trường Đông á .
Bảng: Những thị trường lớn nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam
(đơn vị : triệu USD)
Thị trường 1997 1998 9T/1999
Thị trường không Quota
Nhật Bản 325 252 280
Đài Loan 198 200 160
Nga 42 52 53
Hàn Quốc 76 40 31

Singapore 56 26 38
Mỹ 23 24 23
Australia 17 10 14
Hồng Kông 27 13 7
Malaixia 8 4 6
Ba Lan 10 14 16
Lào 3 3 5
Thuỵ Sỹ 34 22 20
Thị trường cần Quota nước nhập khẩu
Đức 165 182 177
Pháp 32 55 40
Anh 32 55 40
Hà Lan 43 43 35

Bỉ 18 25 32
Italia 27 30 22
Tây Ban Nha 14 24 20
Canada 18 22 18
Thuỵ Điển 11 11 10
Đan Mạch 6 19 7
Na Uy 6 6 4
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Hiện nay, thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam chủ yếu là EU và Nhật
Bản, nhưng thời gian qua ta đang bị cạnh tranh mạnh về giá của hàng Trung Quốc, hơn
thế nữa lại phải chịu sức ép của các nhà sản xuất ở Nhật Bản. Mặt khác, hàng dệt may
Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU chủ yếu theo phương thức gia công nên các

doanh nghiệp Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào đơn đặt hàng của nước ngoài hoặc xuất
khẩu sang nước thứ 3, hơn nữa do bị khống chế về hạn ngạch nên kim ngạch xuất khẩu
trong 3 năm gần đây chỉ dao động ở mức 500- 600 triệu USD/năm. Việc EU tiến tới bỏ
dần hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may từ các nước WTO vào cuối năm 2004 là một bất
lợi lớn đối với hàng xuất khẩu dệt may Việt Nam do nước ta vẫn còn chịu chế độ hạn
ngạch do chưa gia nhập WTO. Đối với thị trường phi hạn ngạch như Nhật, Châu úc, Nam
Mỹ, đông âu…hàng dệt may Việt Nam khó cạnh tranh được với hàng Trung Quốc. Còn
đối với thị trường Mỹ, thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới trong những
năm qua, do chưa có tối huệ quốc (MFN) nên hàng dệt may Việt Nam vẫn còn chịu thuế
xuất nhập khẩu cao nên khó cạnh tranh với các nước khác.
- Về tỷ giá hối đoái: Trong hơn 10 năm qua, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã thực
hiện đổi mới mạnh mẽ cơ chế điều hành tỷ giá. Từ năm 1994, cùng với sự ra đời của thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng, Nhân hàng nhà nước đã bắt đầu thực hiện điều hành tỷ
giá theo cơ chế mới thay cho chế độ đa tỷ gía trước đây. Theo đó, Ngân hàng nhà nước
bắt đầu công bố chính thức giữa ngoại tệ và đồng Việt Nam, tỷ giá mua bán trên thị
trường được phép giao động trong biên độ cho phép. Trên thực tế, trong các năm 1997-
1998, việc NHNN chủ động điều chỉnh biên độ giao dịch và tiếp theo việc NHNN ấn

định tỷ giá chính thức trên cơ sỏ tỷ giá mua bán trên thị trường ngoại tệ khiến cho tỷ giá
phù hợp hơn với tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Do đó góp phần hạn chế
ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng nền kinh tế Việt Nam. Năm 1999, NHNN thực
hiện bước đổi mới cơ bản về điều hành tỷ giá theo nguyên tắc thị trường đã góp phần
thúc đẩy sự phát triển của xuất khẩu dệt may Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
hiện nay.
Như vậy, từ những thực trạng của các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường trên ta có thể
thấy rằng tuy trong thời gian qua thị trường xuất khẩu dệt may đã có những bước lớn
mạnh, nhưng nhìn chung cũng không phải làcó một thị trường rộng lớn lắm để từ đó có
thể bành trường sự chi phối thị trường của mình (tức là thị trường vẫn còn hạn chế).
2. Dự báo xu hướng biến động của các nhân tố tác động tới thị trường xuất khẩu
hàng dệt may giai đoạn 2001-2010
2.1. Xu hướng biến động của nhân tố giá cả

- Dưới tác động của quan hệ cung- cầu: Ta biết rằng trong tương lai, để phát triển
và tồn tại, để đáp ứng các đòi hỏi của nhu cầu người tiêu dùng thì ngành dệt may Việt
Nam sẽ mỡ rộng quy mô của mình hơn nữa. Ngành dệt may sẽ có những chuyển biến
đáng kể trong việc chuyển giao những công nghệ hiện đại tiên tiến và sản xuất. Bên cạnh
đó, trong thời gian tới dệt may là một mặt hàng cao cấp, doanh thu của việc tiêu thụ là rất
cao, điều đó chắc chắn sẽ làm cho nhiều nhà doanh nghiệp, nhiều quốc gia khác sẽ nhảy
vào hình thức kinh doanh này. Như vậy trong tương lai cung của hàng dệt may Việt Nam
là tăng lên rất đáng kể.
Nhu cầu con người ngày càng tăng lên, người ta luôn thích sử dụng những mặt hàng
coá giá trịn sử dụng cao. Dệt may là một mặt hàng cao cấp, chính vì vậy trong tương lai
dệt may sẽ là đối tượng của người tiêu dùng. Mặt khác, hội nhập quốc tế đang dần hoàn
thiện, thị trường dệt may Việt Nam còn rất hạn hẹp chính vì thế trong thời gian tới chúng
ta có rất nhiều cơ hội để mở rộng thị trường tiêu thụ của mình. Tại thị trường này tiềm
năng tiêu thụ là rất lớn hay và có thể nói là nhu cầu ở đây đang chờ đón chúng ta tới khai
thác. Thế kỷ 21 là thế kỷ mà công nghệ thông tin rất phát triển; công tác Marketing lại
phát triển, con người sẽ có được rất nhiều thông tin , nhiều sự lựa chọn về những loại

hàng hoá người ta sẽ sử dụng.
Như vậy là, trong tương lai cầu của dệt may Việt Nam tăng lên tương đối so với thế
giới; nhu cầu tiêu dùng của người sử dụng sản phẩm dệt may cũng tăng lên đáng kể. Tuy
nhiên tốc độ của tăng nhu cầu sẽ cao hơn so với cung điều đó ssẽ là rất có lợi cho ngành
dệt may Việt Nam để mở rộng thị trường tiêu thụ và nâng cao giá bán của mình trên thị
trường xuất khẩu. Tuy nhiên, để phát triển và đảm bảo sự cạnh tranh của mình chúng ta
cần có các liến lược phát triển thính hợp hơn nữa.
- Dưới tác động của giá nhân công và chi phí nguyên vật liệu đầu vào: Theo
Mác, trong công thức (V/C), tốc độ tăng của tư bản khả biến (V) lớn hơn so với tốc độ
tăng của tư bản bất biến trong cấu thành giá trị sản phẩm, mặc dù cả hai đều có xu hướng
là tăng lên theo thời gian. Trong thực tế, như đường cong kinh nghiệm đã nói, trình độ
tay nghề và năng suất của người lao động có xu hướng tăng khi mở rộng quy mô sản
xuất. Bên cạnh đó, nhu cầu về các sản phẩm-hàng hoá cao cấp tăng mạnh hơn so với thiết
yếu ( theo quy luật ), Thu nhập quốc dân và Thu nhập bình quân /người của các quốc
gia cũng có xu hướng tăng mạnh. Chính vì vậy, tiền lương nhân công chắc chắn sẽ tăng

trong thời gian tới. Điều đó sẽ đẩy giá cả hàng hóa tăng lên. Riêng trong lĩnh vực dệt
may, mặc dù chúng ta hết sức tận dụng máy móc thiết bị có trình độ trung bình để sử
dụng nguồn lao động rẻ, nhưng trong tương lai chúng ta cũng không tránh khỏi xu thế
chung đó. Bên cạnh đó, với tốc độ phát triển vũ bảo của khoa học công nghệ như hiện
nay cộng với những thành tựu trong khai thác và sáng chế những vật liệu mới sẽ làm thay
đổi cơ bản nguồn nguyên vật liệu đầu vào. Biểu hiện bằng việc thay thế các nguyên vật
liệu mới kết tinh nhiều chất xám hơn so với nguyên vật liệu truyền thống. Qua đó sẽ làm
tăng chi phí đầu vào về mặt lượng nhưng tốc độ tăng của giá thành sẽ giảm tương đối so
với hiện nay.
Tiền lương nhân công và giá trị nguyên vật liệu đầu vào là yếu tố có ý nghĩa quyết
định đối với giá cả sản phẩm-hàng hoá, từ đó sẽ tác động rất lớn tới khả năng xuất khẩu.
Như vậy, theo xu hướng này giá cả của các sản phẩm dệt may sẽ tăng về lượng, nhưng
tốc độ tăng sẽ giảm dần và ổn định. Qua đó cho thấy tiền lương nhân công và chi phí
nguyên liệu đầu vào có xu hướng tác động ngày càng lớn đối với giá cả hàng dệt may

xuất khẩu.
- Dưới tác động của thị hiếu người tiêu dùng: Với xu hướng thu nhập của người dân
ngày càng tăng, mức sống tăng đòi hỏi sự thoả mãn hay đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày
càng cao hơn, khắt khe hơn. Mà tôn chỉ của mọi nhà sản xuất, xuất khẩu là phải đáp ứng
tối đa nhu cầu người tiêu dùng. Do đó, muốn tồn tại và cạnh tranh các nhà sản xuất, xuất
khẩu phải tăng cường hơn nữa công tác nghiên cứu cải tiến chất lượng mẫu mã sản phẩm.
Điều đó sẽ làm tăng chi phí, giá thành sản phẩm-hàng hoá. Nhất là trong xu thế hội nhập
hiện nay, ngành dệt may Việt Nam cần phải chiếm lĩnh rất nhiều thị trường với những
nhu cầu phong phú, đa dạng thì yếu tố thị hiếu của người tiêu dùng càng trở nên có ý
nghĩa quan trọng. Tuy nhiên đó cũng là cơ hội cho chúng ta nếu biết tận dụng hết khả
năng sáng tạo, thích ứng tốt nhất với mỗi loại thị trường. Nếu thành công, chúng ta có thể
xuất khẩu với giá cao mà không sợ mất năng lực cạnh tranh. Ngược lại, nếu không đáp
ứng được thị hiếu của các thị trường các nước bạn, chúng ta buộc phải hạ giá bán sản
phẩm nhưng điều đó vẫn không đảm bảo cho việc tiêu thụ sản phẩm-hàng hoá.
Như vậy thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng tăng và có xu hướng tác động mạnh
tới giá cả hàng dệt may xuất khẩu. Thị hiếu người tiêu dùng ở các nước nhập khẩu hàng
dệt may của ta rất khắt khe, thế nên chúng ta có thể áp dụng mức giá cao nhưng phải đảm

bảo chất lượng tốt. Ngược lại nếu không đáp ứng tốt thì hàng xuất khẩu của ta sẽ bị đào
thải ngay tại các thị trường đó, hoặc chúng ta buộc phải giảm giá bán để đảm bảo khả
năng cạnh tranh (điều này gây ra rất nhiều bất lợi cho hoạt động sản xuất).
- Dưới tác động của các đối thủ cạnh tranh: Tiến trình hội nhập quốc tế hoàn
tất, dệt may Việt Nam sẽ có rất nhiều cơ hội để phát triển và mỡ rộng thị trường tiêu thụ
của mình. Bên cạnh đó, chúng ta sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn đối với sự cạnh tranh của
các đối thủ cạnh tranh của các quốc gia xuất khẩu dệt may khác (nhất là Trung Quốc khi
sắp hoàn tất thủ tục gia nhập WTO). Sự cạnh tranh khốc liệt đó, các chiến lược cạnh
tranh bằng giá sẽ được sử dụng một cánh linh hoạt nhưng xu hướng chung là giảm giá
bán trên cơ sở giảm giá thành.
Tóm lại: Trong sự cạnh tranh gay gắt của hàng dệt may thì nhìn chung giá cả có xu
hưóng biến động giảm.

2.2. Xu hướng biến động của nhân tố chất lượng, mẫu mã
- Dưới tác động của khoa học công nghệ: Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học công nghệ gắn liền vơí sự phát triển của nền kinh tế tri thức cho phép sản xuất ra
ngững mặt hàng dệt may có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã
nhằm thích ứng tối đa nhu cầu của người tiêu dùng. Trong xu thế chung đó ngành dệt
may Việt Nam cũng rất nỗ lực đầu tư và tiếp nhận chuyển giao các công nghệ hiện đại
mang tính tự động hoá cao. Do vậy có thể nói chất lượng mẫu mã của dệt may Việt Nam
sẽ tăng lên đáng kể trong thời gian tới.
- Dưới tác động của chất lượng nguyên vật liệu: Sự ra đời của các nguyên vật
liệu mới, nhất là nguyên vật liệu nhân tạo với những tính năng mới sẽ cho phép tạo ra
những sản phẩm mới với chất lượng tốt, mẫu mã đẹp. Riêng nước ta, với sự khuyến khích
phát triển của nhà nước trong công tác tạo nguồn nguyên liệu trong nước như đầu tư
trồng Bông, Đay phục vụ sản xuất hàng dệt may. Do đó, chất lượng và mẫu mã của
chúng ta chắc chắn sẽ được cải thiện trong thời gian tới.
- Dưới tác động của kinh nghiệm tay nghề công nhân: Theo lý thuyết đường
cong kinh nghiệm, với xu hướng mở rộng quy mô của ngành, năng lực và trình độ của
công nhân cũng được tăng lên do việc tích luỹ kinh nghiệm nhiều hơn. Bên cạnh đó
ngành dệt may có các chính sách đào tạo nguồn nhân công có trình độ tay nghề cao đáp

ứng yêu cầu xuất khẩu Từ đó sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự nâng cao chất lượng của sản phẩm
và làm phong phú thêm về mẫu mã.
- Dưới tác động của nghiên cứu phát triển: Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng khắt
khe, ngành dệt may Việt Nam cũng rất tích cực đầu tư cho hoạt động nghiên cứu phát
triển. Qua đó cho phép ứng dụng các công nghệ mới, cải tiến phương thức sản xuất, hiện
đại hóa các hình thức quản lý. Từ đó sẽ làm tăng chất lượng của hàng dệt may Việt Nam.
Đồng thời, nó sẽ thúc đẩy cho ra đời những mẫu mã, kiểu dáng hiện đại phù hợp với nhu
cầu tiêu dùng nhằm thực hiện chiến lược khác biệt hoá sản phẩm của mình.
Tóm lại, qua phân tích ở trên ta có thể khẳng định rằng chất lượng hàng dệt may sẽ
tăng mạnh, kiểu dáng và mẫu mã được cải thiện phù hợp và phong phú hơn.
2.3. Xu hướng biến động của nhân tố thị trường

- Dưới tác động của dân số: Ta biết rằng Trái Đất đang chịu sức ép của nạn tăng
dân số ồ ạt ở một số các quốc gia. Thế giới đang rất nỗ lực kêu gọi các quốc gia kiềm chế
lại tỷ lệ gia tăng của việc sinh đẻ. Bên cạnh đó với xu thế phát triển của khoa học, cảu y
tế làm cho tuổi thọ trung bình của người dân cao lên (tức là tỷ lệ tủ vong giảm xuống).
Như vậy có thể nói, quy mô dân số thế giới trong thời gian tới là tương đối ổn định, làm
cho nhu cầu tiêu thụ trên một đầu người là không thay đổi nhiều. Tức là nhu cầu thị
trường là tương đối ổn định.
- Dưới tác động của chính sách của nhà nước: Hoạt động xuất khẩu là một khâu
quan trọng trong kinh tế đối ngoại. Do đó đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động
xuất khẩu là cần thiết và cấp bách. Cần thống nhất quan điểm để thiết kế phù hợp với hệ
thống kinh tế mở và phù hợp với chủ trương đưa nền ngoại thương Việt Nam tham gia
vào thị trường thế giới, tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực-một xu thế
khách quan đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới.
Nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin ở tầm vĩ mô, bao gồm thu thập thông
tin một số nước trên thế giới để phân tích, dự báo và đưa ra định hướng kịp thời, tổ chức
ký các cam kết hiệp định, các cam kết quốc tế để tạo cơ sở hàng lang pháp lý và bảo hộ,
khuyến khích hoạt động mang lại lợi ích cho các ngành xuất khẩu dệt may của Việt Nam
.

Để thành công được trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngành xuất
khẩu chủ lực sắp tới, nhà nước cần thực hiện các chính sách khuyến khích mạnh mẽ hoạt
động xuất khẩu, xoá bỏ các cản trở nhất là về tổ chức cơ chế, thể chế và các thủ tục đang
tác động xấu đến xuất khẩu dệt may Việt Nam. NHư vậy trong thời gian tới với các chính
sách khuyến khích rất tích cực của nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu nói chung
và xuất khẩu dệt may nói chung ta có thể chắc chắn rằng thị trường tiêu thụ của dệt may
Việt Nam sẽ được mỡ rộng rất nhiều.
- Dưới tác động của xu hướng tự do hoá quốc tế: Xu hướng quốc tế hoá đang
ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Sắp tới (2006) Việt Nam sẽ hoàn tất gia nhập AFTA và đần
dần sẽ gia nhập WTO. Khi gia nhập và tiến trình hội nhập đó, chúng ta sẽ được hưởng
các chính sách ưu đãi thuế quan (CEP), và như thế rất có lợi cho chúng ta trong hoạt

động xuất khẩu. Đó chính là những thời điển mà dệt may Việt Nam có rất nhiều cơ hội để
mở rộng thị trường tiêu thụ cuả mình ra thế giới.
- Dưới tác động của công tác Marketing, quảng cáo: Công tác Marketing nàg
càng được các ngành các doanh nghiệp chú trọng. Để cho sản phẩm của mình được mọi
người biết đến và tin tưởng thì công tác Marketing, quảng cáo là một khâu cực kỳ quan
trọng trong chiến lược phân phối. Trong xu thế cạnh trang gay gắc giữa các đối thủ với
nhau trên thế giới đó, để thàng công được thì yêu cầu đòi hỏi của ngành dệt may Việt
Nam là tăng cường hơn nữa công tác Markting và quảng cáo. Vì vậy trong tương lai,
công tác này sẽ rất phát triển và đây cũng chính là yếu tố quan trọng sẽ làm cho thị
trường tiêu thụ và uy tín sản phẩm dệt may Việt Nam cũng được tăng lên.
- Dưới tác động của tỷ giá hối đoái: Có thể nói rằng tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào
rất nhiều các yếu tố như: Chính trị, xã hội, tốc độ tăng trưởng, khủng hoảng, tỷ lệ lạm
phát không những của trong nước mà còn kể cả quốc tế nữa. Chính vì thế, để dự báo tỷ
giá hối đoái trong thời gian tới là rất khó khăn. Các nhân tố tác động tới tỷ giá hối đoái đó
luôn thay đổi không theo một quy luật nào cả. Vì thế với khả năng có hạn của mình em
không dám đưa ra dự báo của mình, chỉ hy vọng rằng tỷ giá hối đoái trong thời gian tới
sẽ được ổn định.
Như vậy, từ những dự báo của các nhân tố tác động trên ta có thể dự đoán rằng
trong thời gian tới thị trường tiêu thụ của dệt may Việt Nam sẽ tăng lên.
III. Giải pháp

1. Những giải pháp của ngành dệt may Việt Nam
Qua phân tích thực trạng và phân tích bối cảnh quốc tế có thể nhận định rằng, ngành
xuất khẩu dệt may Việt Nam cần phải nâng cao hơn nữa khả năng xuất khẩu của mình
trên thị trường quốc tế và khu vực. Để làm được điều đó cần thực hiện các giải pháp chủ
yếu sau:
- Đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật sản xuất: Phải xác
định chính xác và chỉ cải tiến và đổi mới các công nghệ, kỹ thuật thực sự cần thiết, có ý
nghĩa quyết định đối với việc hạ thấp chi phí sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm;
Mạnh dạn chủ động hợp tác, chuyển giao công nghệ, cải tiến kỹ thuật, tận dụng lợi thế đi

sau của mình để ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất.
- Lựa chọn yếu tố đầu vào thích hợp: Lựa chọn nhà cung cấp các yếu tố đầu vào có
chất lượng cao, ổn định, có uy tín, giá thành rẻ, có địa điểm cung cấp thuận lợi. Bên cạnh
đó, sử dụng tiết kiệm các yếu tố đầu vào cho sản xuất kinh doanh, đồng thời dự phòng
nguồn nguyên liệu bổ sung, thay thế nhằm ổn định sản xuất khi tình hình thị trường biến
động.Tiến hành sản xuất các mặt hàng xuất khẩu phải căn cứ vào tiềm năng phát triển các
vùng nguyên liệu.
- Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng: Việt Nam cần khuyến khích áp dụng hệ
thống quản lý chất lượng theo hệ thống của tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO ( ISO 9000,
ISO 14000 ) và một số hệ thống quản lý chất lượng, môi trường ngoài ISO ( GMH,
HACCP, Q – Base, TQM ); cần nghiêm túc trong công tác đánh giá chất lượng sản
phẩm và ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm, tránh để tình trạng chứng chỉ ISO chỉ
là “hữu danh vô thực”. Ngoài ra, cần chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản
phẩm mới, hiện đại hoá khâu thiết kế sản phẩm để sản phẩm của mình có tính độc đáo
riêng biệt.
- Xúc tiến đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, marketing: Đẩy mạnh công
tác nghiên cứu thị trường và các yếu tố tác động tới thị trường và xu hướng thị
trưòng.Tiến hành nghiên cứu, cải tiến, đổi mới bao bì, mẫu mã, thương hiệu sản phẩm
theo hướng ấn tượng độc đáo nhằm tạo sự thu hút của khách hàng đối với sản phẩm.

- Tăng cường công tác đào tạo cán bộ, công nhân có kỹ thuật cao: Xây dựng đội
ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, đội ngũ công nhân viên lành nghề, nhiệt tình, trách
nhiệm, có trình độ chuyên môn cao.
- Mở rộng hợp tác và liên kết ngành trong nước và quốc tế: Cần phải có sự hỗ trợ
lẫn nhau, đây hiện đang là một điểm yếu của các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Chúng ta cũng cần phải hạn chế dần việc hợp tác dựa trên lợi thế so sánh về lao động, tài
nguyên đồng thời cần phải tăng cường việc phát triển nguồn nhân lực, nâng cao kỹ năng
của người lao động, bởi đó không phải là những yếu tố chủ yếu (chuyên ngành) cho việc
nâng cao khả năng cạnh tranh trong giai đoạn hiện nay.
2. Kiến nghị đối với Nhà nước

- Đổi mới hoàn thiện các chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu: Để
thành công được trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngành xuất khẩu chủ
lực sắp tới, nhà nước cần thực hiện các chính sách khuyến khích mạnh mẽ hoạt động xuất
khẩu, xoá bỏ các cản trở nhất là về tổ chức cơ chế, thể chế và các thủ tục đang tác động
đến xuất khẩu. Đồng thời cần tăng cường hơn nữa công tác hoàn thiện hệ thống luật
pháp.
- Hình thành và phát triển đồng bộ các thị trường: Hình thành đồng bộ và tiếp tục
phát triển, hoàn thiện các loại thị trưòng đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể
chế, để thị trường hoạt động năng động có hiệu quả, có trật tự kỷ cương trong môi trường
cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh
doanh. Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan của thị trường,
tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục và hạn chế những tác động tiêu
cực của thị trường. Mở rộng thị trường tiêu thụ ra khắp toàn cầu chứ không nên gói gọn
và những thi trường trọng điểm và những thị trường truyền thống.
- Tiếp tục cải cách, hoàn thiện hoạt động của hệ thống ngân hàng: Thực hiện cơ
cấu lại các ngân hàng thương mại quốc doanh, tập trung vào cải cách thẩm định thủ tục
tín dụng, cải tiến dịch vụ ngân hàng. Đẩy mạnh hướng các ngân hàng trở thành “người
bạn đồng hành” cùng các ngành trong hoạt động kinh doanh hơn là chỉ coi ngành là
nguồn cần mình. NHNN cần có các chính sách về tỷ giá hối đoái sao cho phù hợp với
yêu cầu của ngành dệt may là tăng kim ngạch xuất khẩu ra thị trường thế giới./.


Kết luận
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh
của các ngành xuất khẩu nói chung và của các ngành xuất khẩu dệt may nói riêng là một
vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi
quốc gia. Tiến trình hội nhập thế giới WTO đang tới gần, Việt Nam cần phải tranh thủ
mọi nỗ lực, thời cơ để bắt kịp thời đại. Đứng trước những thách thời đại và có mối quan
hệ mật thiết với nền kinh tế đất nước, ngành xuất khẩu dệt may của Việt Nam không
những phải tự làm bản thân mình lớn mạnh mà còn vì mục tiêu phát triển kinh tế đất

nước. Làm được điều đó, vấn đề trước mắt và lâu dài của các ngành dệt may của Việt
Nam là tạo dựng được vị thế của mình, xây dựng một hệ thống hoạt động xuất khẩu có
sức cạnh tranh mạnh mẽ không những đối với khu vực thị trường khu vực mà còn phát
triển ra thế giới. Đó chính là điều kiện tiên quyết đưa Việt Nam tiếp tục phát triển đi lên
trở thành một nước công nghiệp hiện đại, có một nền kinh tế vững mạnh, xã hội ổn định.
Hy vọng rằng những phân tích, đánh giá, giải pháp chúng tôi nêu trong đề tài này có
tính khoa học và thực tiển cao và hy vọng, trong tương lai các ngành xuất khẩu dệt may
của Việt Nam sẽ nâng cao được vị thế cạnh tranh của mình ngang tầm với các nước trong
khu vực và trên thế giới./.





×