Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

LUẬN VĂN: Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp xây lắp docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 77 trang )








LUẬN VĂN:

Phân tích chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm xây lắp trong các doanh
nghiệp xây lắp







Chương I những vấn đề lý luận chung về phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp xây lắp.
I. Khái niệm, phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp.
1. Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản và sản phẩm xây lắp ảnh hưởng đến quá
trình hình thành chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Khác với các ngành sản xuất vật chất khác, ngành xây dựng cơ bản là ngành có khả
năng tái sản xuất tài sản cố định cho tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Nó tạo ra
cơ sở vật chất cho toàn xã hội, cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế quốc dân, tăng cường tiềm lực
kinh tế, lẫn quốc phòng cho đất nước. Ngành xây dựng cơ bản có nhiều đặc điểm riêng biệt
xuất phát từ tính đặc thù của sản phẩm ngành xây dựng và sản xuất xây dựng. Chúng có ảnh
hưởng lớn đến việc tổ chức sản xuất và quản lý tài chính trong ngành xây dựng.
- Sản phẩm xây lắp có tính chất cố định: Sản phẩm xây dựng sau khi hoàn thành thì


không thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác, mà nơi sản xuất đồng thời là nơi sử dụng
công trình sau này. Do đó, các điều kiện địa chất, thuỷ văn, cơ sở hạ tầng ở nơi địa điểm xây
dựng công trình được lựa chọn có ảnh hưởng rất lớn đến quá trinhf xây dựng và khai thác
công trình, vì thế trong quản lý kinh tế xây dựng phải nâng cao chất lượng công tác quy
hoạch, điều tra, khảo sát để lựa chọn địa bàn xây dựng.
Mặt khác, do sản phẩm xây dựng cố định nên lực lựơng sản xuất của ngành xây dựng
thường xuyên di chuyển từ công trình này sang công trình khác. Điều đó có ảnh hưởng lớn
đến sự ổn định của người lao động, chi phí cho khâu di chuyển đòi hỏi công tác quản lý xây
dựng cơ bản phải đặc biệt chú ý.
- Sản phẩm xây dựng có thời gian sử dụng lâu dài: Sản phẩm của xây dựng cơ bản
thường tồn tại và hoạt động trong nhiều năm và có thể tồn tại vĩnh viễn. Đặc điểm này đòi
hỏi phải đặc biệt chú trọng tới cAông tác quản lý chất lượng sản phẩm trong tất cả các khâu
từ điều tra, khảo sát, thiết kế cho đến thi công, nghiệm thu và bàn giao công trình.
- Sản phẩm xây dựng có quy mô lớn, kết cấu phức tạp: Quy mô của sản phẩm xây
dựng được thể hiện về mặt hiện vật là hình khối vật chất lớn, về mặt giá trị là vốn nhiều. Kết
cấu sản phẩm phức tạp, một công trình gồm các hạng mục công trình, một hạng mục công
trình có thể gồm nhiều đơn vị công trình, một đơn vị công trình bao gồm nhiều bộ phận, các
bộ phân công trình lại có yêu cầu kỹ thuật khác nhau. Đặc điểm này đòi hỏi khối lượng vốn


đầu tư, vật tư, lao động, máy móc thi công nhiều và đòi hỏi phải có nhiều giải pháp thi công
khác nhau. Do vậy, trong quản lý xây dựng phải chú trọng kế hoạch khối lượng, kế hoạch
vốn đầu tư, lập định mức kinh tế kỹ thuật và quản lý.
- Thời gian xây dựng công trình dài: Điều này dẫn đến vốn đầu tư xây dựng của chủ
đầu tư và vốn sản xuất của tổ chức xây dựng bị ứ đọng lâu. Các tổ chức xây dựng dễ gặp
phải các rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian như: thời tiết, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, giá cả
thị trường… Công trình xây dựng dễ bị hao mòn ngay khi hoàn thành, do sự phát triển của
khoa học công nghệ nếu thời gian thiết kế và thi công xây dựng dài. Điều này đòi hỏi các
bên tham gia phải chú trọng về mặt thời gian, phương thức thanh toán, lựa chon phương án,
tiến độ thi công phù hợp cho từng hạng mục công trình, toàn bộ công trình.

- Sản phẩm xây dựng mang tính đơn chiếc: Không bao giờ có hai công trình xây dựng
giống hệt nhau, bởi lẽ sản phẩm xây dựng được sản xuất theo đơn đặt hàng, ngay sau khi
hoàn thành sẽ được tiêu thụ ngay theo giá cả đã thoả thuận giữa các bên tham gia. Điều này
dẫn đến năng xuất lao động không cao, gây khó khăn trong việc so sánh giá thành, mức hạ
giá thành của sản phẩm xây lắp.
- Hoạt động xây dựng chủ yếu ngoài trời nên chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự
nhiên, ảnh hưởng này thường xuyên làm gián đoạn quá trình thi công, năng lực của doanh
nghiệp không điều hoà, ảnh huưởng đến sản phẩm dở dang, vật tư thiết bị thi công…Đặc
điểm này yêu cầu doanh nghiệp xây dựng phải lập tiến độ thi công, tổ chức lao động hợp lý
để tránh thời tiết xấu, giảm thiểu tổn thất do thời tiết gây ra, tổ chức cải thiện đời sống của
người lao động.
Những đặc điểm trên đây của ngành xây dựng cơ bản cũng như sản phẩm xây lắp có
ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý chi phí và gía thành sản phẩm xây lắp, đòi hỏi các
doanh nghiệp xây lắp phải có các biện pháp, kế hoạch chi phí và giá thành sản phẩm hiệu
quả để không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Để thực
hiện được điều này, trước hết chúng ta phải cùng tìm hiểu khái niệm về chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm.
2. Chi phí sản xuất xây lắp.
2.1 Khái niệm chi phí sản xuất xây lắp.
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Quá
trình sản xuất là quá trình kết hợp của cả 3 yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và
sức lao động. Đồng thời, quá trình sản xuất cũng chính là quá trình tiêu hao của chính các


yếu tố trên. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất
là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của người sản xuất .
Trong nền kinh tế nói chung, đặc biệt là nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp thực chất là việc sản xuất sản phẩm ra thị trường nhằm mục
đích kiếm lời. Đó chính là quá trình doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định, những
chi phí đó biểu hiện dưới hình thức hiện vật hay giá trị, đó là điiêù kiện vật chất bắt buộc để

các doanh nghiệp có được thu nhập. Do vậy,để tồn tại, phát triển và kinh doanh mang lại lợi
nhuận cao, các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để quản lý tốt chi phí của mình. Muốn vậy,
các nhà quản lý doanh nghiệp cần phải nắm chắc bản chất và khái niệm chi phí sản xuất.
Vậy chi phí sản xuất kinh doanh là gì? Ta có cách hiểu chung nhất về chi phí sản xuất như
sau :” Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ những hao phí về lao động
sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp thực tế đã chi ra để tiến hành các hoạt động
sản xuất trong một kỳ kinh doanh nhất định”.
Đối với doanh nghiệp xây lắp: Doanh nghiệp xây lắp là một đơn vị kinh tế cơ sở, có tư
cách pháp nhân, được Nhà nước giao vốn có trách nhiệm sử dụng vốn có hiệu quả, bảo toàn
vốn, phát triển vốn và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Ngân sách nhà nước, hoạt động
nhằm mục tiêu kinh tế Nhà nước giao.
Là một doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất vật chất, hoạt động sản xuất mang tính đặc
thù, khác với các ngành sản xuất khác. Địa điểm sản xuất không cố định, sản phẩm là những
công trình, hạng mục công trình có kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian sản
xuất dài phải lập dự toán cho từng công trình, hạng mục công trình trước khi sản xuất, nơi
sản xuất cũng chính là nơi tiêu thụ.
Quá trình hoạt động sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp là sự kết hợp các yếu tố của
quá trình sản xuất đó là: Sức lao động của con người, tư liệu lao động và đối tượng lao
động. Sự tham gia của các yếu tố vào quá trình sản xuất hình thành nên các khoản chi phí
tương ứng.Tương ứng với việc sử dụng TSCĐ là chi phí khấu hao TSCĐ, tương ứng với sử
dụng nguyên vật liệu là chi phí về nguyên vật liệu,tương ứng với việc sử dụng lao động là
chi phí tiền công, tiền lương…
Như vậy, chi phí sản xuất xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao động
sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành
hoạt động sản xuất xây lắp trong một thời kỳ nhất định.


Trong doanh nghiệp xây lắp ngoài hoạt động sản xuất xây lắp tạo ra các sản phẩm xây
lắp còn có các hoạt động khác. Do đó chỉ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến quá
trình sản xuất xây lắp nhằm tạo ra sản phẩm xây lắp mới được coi là chi phí sản xuất xây

lắp.
2.2 Phân loại chi phí sản xuất xây lắp.
Chi phí sản xuất xây lắp trong các doanh nghiệp xây lắp phát sinh thường xuyên trong
quá trình sản xuất và bao gồm nhiêù loại, có nội dung, công dụng và đặc tính khác nhau nên
yêu cầu quản lý đối với từng loại cũng khác nhau. Vì vậy, để quản lý tốt chi phí thì cần phải
phân loại chi phí sản xuất xây lắp. Có thể căn cứ vào nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại
chi phí sản xuất xây lắp. Có nhiều cách phân chia chi phí sản xuất, song mỗi cách phân chia
chi phí sản xuất phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
- Tạo điều kiện sử dụng thông tin kinh tế nhanh nhất cho công tác quản lý chi phí sản
xuất phát sinh, phục vụ tốt cho công việc kiểm tra, giám sát chi phí sản xuất của doanh
nghiệp
- Đáp ứng đầy đủ những thông tin cần thiết cho việc tính toán hiệu quả các phương án
sản xuất nhưng lại cho phép tiết kiệm chi phí hạch toán và thuận lợi sử dụng thông tin hạch
toán. Dưới đây trình bày các cách phân loại chi phí sản xuất xây lắp chủ yếu.
2.2.1. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí sản xuất .
Mỗi yếu tố chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều có mục đích và công dụng nhất
định. Theo cách phân loại này các khoản chi phí có mục đích, công dụng giống nhau được
xếp vào cùng một khoản chi phí ,không cần xét đến khoản mục chi phí đó có nội dung kinh
tế như thế nào. Chi phí sản xuất xây lắp được chia thành các khoản mục sau: chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất
chung.
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là chi phí về các loại vật liệu chính, vật liệu phụ,
vật kết cấu, vật liệu luân chuyển (ván khuôn, đà giáo) cần thiết để tạo nên sản phẩm xây lắp,
không bao gồm chi phí vật liệu đã tính vào chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất
chung.
- Chi phí nhân công trực tiếp: là chi phí tiền công, tiền lương, các khoản phụ cấp có
tính chất lương của công nhân trực tiếp xây lắp, khoản mục này không bao gồm các khoản


trích BHXH, BHYT, KPCĐ tính trên tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất xây lắp và

chi phí tiền lương nhân viên quản lý đội, nhân viên điềukhiển máy thi công.
- Chi phí sử dụng máy thi công: là toàn bộ chi phí sử dụng xe, máy thi công phục vụ
trực tiếp cho hoạt động sản xuất xây lắp công trình bao gồm: Chi phí khấu hao máy thi
công; Chi phí sửa chữa lớn, sửa chữa thường xuyên máy thi công; chi phí tiền lương của
nhân viên điều khiển máy và phục vụ máy thi công; Chi phí nhiên liệu và động lực dùng
cho máy thi công và các khoản chi phi khác liên quan trực tiếp đến việc sử dụng máy thi
công như chi phí di chuyển, tháo, lắp máy thi công … Khoản mục chi phí sử dụng máy thi
công không bao gồm khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ tính trên tiền lương nhân viên điều
khiển máy thi công.
- Chi phí sản xuất chung: là các khoản chi phí trực tiếp khác ngoài các khoản chi phí
trên phát sinh ở tổ đội, công trường xây dựng bao gồm: Lương nhân viên quản lý đội, các
khoản BHXH, BHYT, KPCĐ tính trên tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất
xây lắp, nhân viên quản lý đội, công nhân điều khiển máy thi công, Khấu hao tài sản cố
định dùng chung cho hoạt động của tổ, đội và chi phí khác liên quan đến hoạt động của tổ,
đội.
Phân loại chi phí theo tiêu thức này chỉ rõ chi phí doanh nghiệp bỏ ra cho từng lĩnh
vực hoạt động, từng địa điểm phát sinh, làm cơ sở cho việc tính giá thành sản phẩm xây lắp
theo khoản mục, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành.
2.2.2. Phân loại chi phí sản xuất xây lắp theo mối quan hệ giữa chi phí với đối
tượng chịu chi phí .
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất xây lắp được chia thành chi phí trực tiếp và
chi phí gián tiếp.
- Chi phí tực tiếp: là chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối tượng chịu chi phí.
Những chi phí này được tập hợp trực tiếp cho từng công trình, hạng mục công trình như chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp.
- Chi phí gián tiếp: là chi phí liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí, kế toán
không thể tập hợp trực tiếp cho từng công trình, hạng mục công trình mà phải tập hợp riêng
sau đó phân sau đó phân bổ cho từng đối tượng theo các tiêu chuẩn phân bổ.
Do mỗi loại chi phí có tác dụng khác nhau đối với mỗi loại công trình, hạng mục công
trình nên việc phân loại rõ chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp có ý nghĩa thực tiễn cho việc



đánh giá hợp lý chi phí và tìm biện pháp không ngừng giảm chi phí gián tiếp, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư.
2.2.3. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm.
Theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với khối lượng sản phẩm thì chi phí sản xuất
của doanh nghiệp dược chia thành chi phí cố định (bất biến), chi phí biến đổi (khả biến), chi
phí hỗn hợp.
- Chi phí bất biến (hay còn gọi là định phí) là các chi phí mà tổng số không thay đổi
khi có sự thay đổi về khối lượng của hoạt động sản xuất hoặc khối lượng sản phẩm sản xuất
trong kỳ.
- Chi phí khả biến (hay còn gọi là biến phí) là những chi phí thay đổi về tổng số tỷ lệ
với sự thay đổi của mưc độ hoạt động, khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ.
- Chi phí hỗn hợp là chi phí mà bản thân nó gồm các yếu tố của định phí và biến phí.
Phân loại chi phí theo cách này có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý của
doanh nghiệp, phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra quyết định quản lý cần thiết
để hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh.
Ngoài các cách phân loại chi phí sản xuất trên tuỳ thuộc vào yêu cầu công tác quản lý
chi phí sản xuất xây lắp có thể phân loại theo các tiêu chí khác nhau: phân loại chi phí sản
xuất theo nội dung kinh tế của chi phí, phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí sản
xuất với quy trình công nghệ, phân loại theo thẩm quyền ra quyết định.
3. Giá thành sản phẩm xây lắp.
3.1. Khái niệm giá thành sản phẩm xây lắp.
Trong quá trình sản xuất ở doanh nghiệp xây lắp phải bỏ ra các khoản chi phí sản xuất
, mặt khác kết quả sản xuất mà doanh nghiệp thu được là những sản phẩm, công việc xây
lắp nhất định đã hoàn thành. Những sản phẩm, công việc xây lắp đã hoàn thành cần phải
tính được giá thành thực tế, tức là những chi phí đã bỏ ra để sản xuất ra chúng.
Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ những chi phí về lao động sống, lao động
vật hoá và các chi phí khác biểu hiện bằng tiền mà doanh nghiệp xây lắp bỏ ra để hoàn
thành khối lượng xây lắp công trình, hạng mục công trình theo quy định.

Sản phẩm xây lắp có thể là khối lượng công việc hoặc giai đoạn công việc có dự toán
riêng, có thể lá công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành toàn bộ. Khác với các doanh


nghiệp sản xuất khác, giá thành sản phẩm xây lắp mang tính chất cá biệt, mỗi công trình,
hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp khi đã hoàn thành đều có giá thành riêng.
Giá thành sản phẩm xây lắp là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động
sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình
sản xuất, cũng như các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã sử dụng nhằm tiết
kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm.
3.2. Các loại giá thành sản phẩm xây lắp
Việc phân biệt các loại giá thành trong sản xuất xây lắp sẽ giúp cho doanh nghiệp
trong việc nghiên cứu và quản lý tốt gía thành sản phẩm.
Giá thành được chia thành các loại: giá thành dự toán, giá thành kế hoạch, giá thành
thực tế.
- Giá thành dự toán: Do đặc điểm hoạt động xây lắp, thời gian sản xuất thi công dài,
mang tính đơn chiếc nên mỗi công trình, hạng mục công trình đều phải lập dự toán trước khi
sản xuất thi công.
- Giá thành dự toán là tổng chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây lắp công
trình, hạng mục công trình. Giá thành dự toán được xác định trên cơ sở các định mức kinh tế
kỹ thuật và đơn giá của nhà nước. Giá thành dự toán là chênh lệch giữa giá trị dự toán và
phần lãi định mức.
Giá thành dự toán Giá trị dự toán của
C
ủa công trình, hạng
=


công trình, h
ạng mục

-

Lãi
đ
ịnh mức

Mục công trình công trình
Giá thành kế hoạch: Giá thành kế hoạch là giá thành được xác định trên cơ sở những
điều kiện cụ thể của doanh nghiệp về các định mức, đơn giá, các biện pháp thi công.
Giá thành kế hoạch Giá thành dự toán của Mức hạ giá
Của công trình, hạng = công trình, hạng - thành
Mục công trình mục công trình kế hoạch
Giá thành thực tế: Giá thành thực tế của khối lượng xây lắp là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ chi phí thực tế để hoàn thành khối lượng xây lắp gồm: Chi phí định mức, vượt
định mức và không định mức như các khoản bội chi, lãng phí về vật tư, lao động trong quá
trình sản xuất xây lắp của đơn vị được phép tính vào giá thành. Giá thành thực tế được tính


trên cơ sở số liệu kế toán về chi phí sản xuất xây lắp của khối lượng xây lắp thực hiện trong
kỳ.
4. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp.
Trong quá trình sản xuất thi công, chi phí sản xuất xây lắp thể hiện hao phí trong kỳ
của doanh nghiệp xây lắp, chi phí này phải được xem xét trong mối quan hệ với mặt thứ hai
của quá trình sản xuất đó là kết quả của sản xuất. Giữa chi phí sản xuất xây lắp và giá
thành sản phẩm xây lắp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chi phí sản xuất xây lắp và giá
thành sản phẩm xây lắp là hai mặt thống nhất của cùng một quá trình sản xuất, vì vậy chúng
giống nhau về mặt chất. Chúng đều bao gồm các loại chi phí về lao động sống, lao động vật
hoá, các chi phí khác mà doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên
chi phí và giá thành sản phẩm có sự khác nhau về lượng. Chi phí sản xuất thể hiện những
chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một kỳ (tháng, quý, năm) không

tính đến chi phí đó có liên quan đến sản phẩm đã hoàn thành hay chưa. Chi phí sản xuất
không những chỉ liên quan đến khối lượng sản phẩm hoàn thành mà còn liên quan đến khôí
lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Chi phí sản xuất gắn liền với từng thời
kỳ phát sinh.
Giá thành sản phẩm gắn với khối lượng sản phẩm hoàn thành. Giá thành sản phẩm là
chi phí sản xuất tính cho một công trình, hạng mục công trình hay khối lượng công việc xây
lắp hoàn thành theo quy định. Giá thành sản phẩm xây lắp còn có thể bao gồm cả chi phí
sản xuất khối lượng dở dang đầu kỳ và không bao gồm chi phí của khối lượng xây lắp dở
dang cuối kỳ được chuyển sang kỳ sau.
Mặc dù có sự khác nhau, nhưng giữa giá thành và chi phí sản xuất xây lắp lại có mối
quan hệ mật thiết vơí nhau. Chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, chi phí sản
xuất biểu hiện sự hao phí còn giá thành biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất. Chi phí sản
xuất trước hết thể hiện theo các yếu tố chi phí, sau đó khi tính giá thành sản phẩm thì chi phí
được thể hiện theo các khoản mục tính giá thành. Mức tiết kiệm hay lãng phí các nguồn lực
sẽ ảnh hưởng đến kết quả tài chính khi thi công công trình.
II Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây
lắp.
Chi phí sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp để đánh giá tình hình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất trong quá trình kinh doanh, cũng như chính bản


thân doanh nghiệp hoạt động trên thị trường. chi phí sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng
của nhiều nhân tố khác nhau, trong đó có những nhân tố mang tính chất khách quan và có
những nhân tố mang tính chủ quan, các nhân tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và
cùng tác động tới chi phí.
1. Những nhân tố khách quan.
Nhân tố khách quan là những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp hay những nhân tố
thuộc môi trường hoạt động của doanh nghiệp.
- Các chính sách của Nhà nước: Đặc trưng của nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là Nhà nước không đứng ngoài sự

phát triển của nền kinh tế mà đóng vai trò là người hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết hoạt
động kinh tế ở tầm vĩ mô thông qua các luật lệ, chính sách và các biện pháp kinh tế. Nhà
nước tạo môi trường và hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động phát triển sản
xuất kinh doanh và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh vào những nghề có
lợi cho đất nước, cho đời sống của nhân dân. Doanh nghiệp sản xuất, đặc biệt là các doanh
nghiệp Nhà nước phải tuân thủ chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước đang áp dụng như :
Chế độ tiền lương, tiền công, cơ chế hạch toán kinh tế… Sự hoàn thiện các chế độ quản lý
kinh tế là điều kiện cơ bản cho việc áp dụng chế độ phân tích, kiểm tra và hạch toán chi phí
sản xuất kinh doanh. Các chế độ thể lệ của Nhà nước là chỗ dựa cho công tác quản lý chi
phí sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Giá cả và cạnh tranh: Nói đến thị trường, chúng ta không thể không đề cập đến hai
nhân tố cơ bản là giá cả và sự cạnh tranh.
Trước hết là sự ảnh hưởng của nhân tố giá cả đến chi phí sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp xây lắp. Biểu hiện, đó là khi giá cả của nhiên, nguyên liệu, vật liệu, dụng cụ,
đồ dùng…hoặc giá cả của các lao vụ, dịch vụ thay đổi sẽ làm thay đổi chi phí sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp . Nếu giá cả của nguyên liệu, vật liệu, dụng cụ tăng lên thì chi phí
sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên và ngược lại. Vì vậy, lựa chọn việc thay thế các loại nguyên
, vật liệu với giá cả hợp lý nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất ra của doanh
nghiệp cũng là yếu tố quan trọng để giảm chi phí.
Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh một mặt
thúc đẩy doanh nghiệp hạ thấp hao phí lao động cá biệt để tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp. Mặt khác nó lại có tác động làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp .Trong thị trường xây dựng, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây lắp diễn ra


cũng không kém phần gay gắt và khốc liệt như trong thị trường hàng hoá tiêu dùng thông
thường. Biểu hiện rõ nét nhất của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây lắp trên thị trường
xây dựng đó là hoạt động tranh thầu. Như đã biết, đối với các doanh nghiệp xây lắp điều
kiện tiên quyết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện là
doanh nghiệp phải ký được các hợp đồng xây dựng- tức là bằng mọi giá doanh nghiệp phải

thắng thầu. Vì thế doanh nghiệp phải bỏ ra những khoản chi phí để có dược những hợp đồng
xây dựng đó như: Chi phí trả cho dịch vụ môi giới, tư vấn xây dựng, chi phí quảng cáo…
Chính vì thế nó có tác động làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
Ngoài các nhân tố khách quan trên: Nhân tố tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ
cũng ảnh hưởng tới chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi những tiến bộ khoa
học, kỹ thuật, những quy trình công nghệ mới được ứng dụng vào sản xuất cùng với xu
hướng chuyên môn hoá sản xuất ngày càng tăng sẽ góp phần tăng năng xuất lao động và
chất lượng tốt nhằm giảm lao động chân tay… Đó cũng là nhân tố góp phần làm giảm chi
phí.
Trong giai đoạn hiện nay, các khoản mục chi phí luôn có sự thay đổi. Nhất là các
khoản tiền lương, chi phí nhiên liệu, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí trả lãi tiền vay,chi
phí công cụ lao động. Những khoản này nằm ngoài ý muốn của doanh nghiệp và làm tăng
chi phí sản xuất kinh doanh.
2. Những nhân tố chủ quan bên trong doanh nghiệp.
Bên cạnh những nhân tố khách quan trên còn có những nhân tố chủ quan ảnh hưởng
đến chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: Năng xuất lao động của con người,
cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý sản xuất…ảnh hưởng đến chi phí sản xuất
của doanh nghiệp. Đây là những nhân tố thuộc về chủ thể kinh doanh và nó mang tính chất
bên trong hay còn gọi là những nhân tố bên trong doanh nghiệp.
- Nhân tố năng xuất lao động con người: Năng xuất lao động cũng là một yếu tố ảnh
hưởng nhiều đến chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp. Trong bất cứ doanh
nghiệp sản xuất nào thì yếu tố con người là vô cùng quan trọng mà không thể thiếu được, đi
đôi với con người là năng suất lao động của họ. Nếu năng xuất lao động của người lao động
mà cao thì sẽ tiết kiệm được quỹ tiền lương, giảm chi phí tiền lương trong một đơn vị sản
phẩm tiêu thụ và điều này sẽ làm cho tổng chi phí sản xuất kinh doanh giảm xuống.
- Nhân tố cơ sở vật chất kỹ thuật: Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đóng một vai trò
hết sức quan trọng đối với chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi nếu doanh


nghiệp có một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tốt thì nó sẽ góp phần tiết kiệm chi phí sản

xuất cho doanh nghiệp. Nếu máy móc thiết bị sản xuất, dụng cụ quản lý đầy đủ, hiện đại thì
nó sẽ tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất được thông suốt và giảm dược các khoản chi phí
do thuê ngoài. Ngoài ra, điều kiện kho bãi để bảo quản vật tư, nguyên vật liệu, máy móc
thiết bị mà tốt sẽ làm giảm chi phí hao hụt trong khâu bảo quản, đồng thời hạn chế được sự
suy giảm chất lượng, hao mòn của vật tư, máy móc thiết bị…
- Nhân tố tổ chức quản lý sản xuất và tài chính: Nhờ vào việc bố chí các khâu sản xuất
hợp lý có thể hạn chế được sự lãng phí nguyên vật liệu, chi phí về ngừng sản xuất … Bên
cạnh đó, việc sử dụng vốn hợp lý, đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu cho việc mua sắm vật tư
sẽ tránh được những tổn thất cho sản xuất như việc ngừng sản xuất do thiếu vật tư… Đồng
thời, thông qua việc tổ chức sử dụng vốn sẽ kiểm tra được tình hình dự trữ vật tư, từ đó phát
hiện ngăn ngừa kịp thời tình trạng ứ đọng, mất mát hao hụt vật tư… Việc đẩy nhanh sự chu
chuyển vốn có thể giảm bớt nhu cầu vay vốn, giảm bớt được chi phí trả lãi tiền vay… Tất cả
sự tác động trên đều làm giảm bớt chi phí sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp.
Trên đây là các yếu tố chủ quan cũng như khách quan ảnh hưởng đến chi phí sản xuất
kinh doanh. Việc nghiên cứu các nhân tố này có ý nghĩa quan trọng trong các doanh nghiệp
sản xuất vì nó là cơ sở để các doanh nghiệp đề ra các phương hướng và các biện pháp chung
nhằm phấn đấu hạ thấp chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
III. Mục đích, ý nghĩa phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở
một doanh nghiệp .
1. Mục đích phân tích chi phí và giá thành sản phẩm ở một doanh nghiệp.
Mục đích phân tích chi phí: Phân tích tình hình chi phí nhằm mục đích nhận thức và
đánh giá chính xác, toàn diện và khách quan tình hình quản lý và sử dụng chi phí, qua đó
thấy được tác động ảnh hưởng của nó đến quá trình và kết quả kinh doanh. Qua phân tích
chi phí có thể thấy được tình hình quản lý và sử dụng chi phí có hợp lý hay không; có phù
hợp với những nhu cầu kinh doanh, với những nguyên tắc quản lý kinh tế – tài chính và
mang lại hiệu quả kinh tế hay không? Đồng thời, tìm ra những mặt tồn tại bất hợp lý trong
quản lý và sử dụng chi phí. Từ đó, đề xuất những chính sách, biện pháp khắc phục nhằm
quản lý và sử dụng chi phí sản xuất kinh doanh tốt hơn.
Mục đích phân tích giá thành: Là nhằm nhận thức, đánh giá một cách chính xác,
toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất gia công của doanh nghiệp trong kỳ về mặt số



lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm và chất lượng sản phẩm sản xuất ra ,qua đó thấy được
mức độ hoàn thành và số chênh lệch tăng giảm. Đồng thời qua phân tích cũng thấy được
những mâu thuẫn trong việc tổ chức và quản lý quá trình sản xuất gia công và tiêu thụ sản
phẩm. Từ đó đề ra được những chính sách và biện pháp cải tiến, hoàn thiện quá trình sản
xuất và quản lý sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
2. ý nghĩa phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở một doanh nghiệp.
Chi phí sản xuất là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp để đánh giá tình hình hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất trong quá trình kinh doanh. Phân tích chi phí sản xuất
kinh doanh và giá thành sản phẩm có một ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp.
- Giúp cho doanh nghiệp đánh giá một cách chính xác, toàn diện và khách quan tình
hình quản lý và sử dụng chi phí sản xuất ở doanh nghiệp. Qua việc phân tích các khoản mục
chi phí sản xuất để tìm ra những mặt còn tồn tại bất hợp lý trong việc quản lý và sử dụng chi
phí, từ đó xác định những nguyên nhân khách quan cũng như nguyên nhân chủ quan có ảnh
hưởng tới sự biến động của chi phí, từ đó đề ra các phương hướng và biện pháp khắc phục
nhằm quản lý chi phí sản xuất sao cho có hiệu quả hơn.
- Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là cơ sở để đề ra các giải pháp quản
lí có căn cứ khoa học.
Một trong những phương hướng quan trọng của việc hoàn thiện quản lí của các doanh
nghiệp là nâng cao tính có căn cứ của các giải pháp được chấp nhận. Bất kì một giải pháp
nào được đưa ra trong quá trình quản lí chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm chỉ được
chấp nhận trên cơ sở phân tích các thông tin có liên quan đến chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm. Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm giúp cho các doanh nghiệp có
thể đi sâu vào quá trình sản xuất, phát hiện những khả năng tiềm tàng, lựa chọn các phương
án tối ưu của các giải pháp. Như vậy, để quản lí tốt hoạt động sản xuất kinh doanh, để nâng
cao tính có căn cứ của các giải pháp được chấp nhận cần thiết phải tiến hành thường xuyên
và có chất lượng công tác phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
- Qua phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể đánh giá tổng hợp tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Để có thể quản lí kinh doanh, cần thiết phải biết được quá trình sản xuất kinh doanh
đang diễn ra như thế nào và kết quả ra sao. Qua phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm có thể đánh giá tổng hơp, khách quan có phê phán tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp thực hiện hạch toán kinh doanh. Hạch toán kinh


doanh là một quá trình bắt đầu từ việc tìm hiểu nhu cầu thị trường, xây dựng kế hoạch và
phương án sản xuất kinh doanh, tổ chức phương án sản xuất kinh cho đến việc phân tích và
đánh giá kết quả đạt được của phương án sản xuất kinh doanh đã được thực hiện. Qua phân
tích, đánh giá có thể vạch ra mặt mạnh, mặt yếu kém, các nguyên nhân ảnh hưởng tới kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó có căn cứ đúng đắn cho việc đề ra các biện pháp
nhằm cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
-Phân tích chi phí sản xuất giúp doanh nghiệp phát hiện và khai thác những khả năng
tiềm tàng trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong quản lí chi phí sản xuất, phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm được
xác định như phương pháp phát hiện khả năng tiềm tàng trong sản xuất kinh doanh của
doanh và đề ra những biện pháp sử dụng chúng. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
phần lớn phụ thuộc vào những khả năng tiềm tàng được phát hiện và thực hiện như thế nào.
Khả năng tiềm tàng luôn sẵn có trong các doanh nghiệp vì các lí do sau đây:
+ Các doanh nghiệp luôn được phát triển về năng lực sản xuất như bổ sung máy móc
thiết bị, lao động, đổi mới trang thiết bị kĩ thuật.
+Các khả năng tiềm tàng hết sức đa dạng và luôn thay đổi về mức độ bởi vì việc sử
dụng một số khả năng tiềm tàng này sẽ làm xuất hiện những điều kiện để tiếp tục khả năng
tiềm tàng khác, do đó việc khai thác chúng là vô tận.
Có thể nói, các khả năng tiềm tàng là một nguồn vô tận để nâng cao khối lượng và chất
lượng sản phẩm, công việc, không ngừng hoàn thiện phương thức quản lí doanh nghiệp, cải
thiện điều kiện làm việc và đời sống của cán bộ công nhân viên.
Do hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là sự kết hợp hữu cơ của các
yếu tố sản xuất và các yếu tố quản lí sản xuất nên khả năng tiềm tàng trong sản xuất được
biểu hiện ở dạng tổng hợp các mặt hoạt động của doanh nghiệp.

Đối với các yếu tố lao động, các khả năng tiềm tàng thường được biểu hiện ở số
lượng, thời gian lao động và năng xuất lao động. Đối với yếu tố tư liệu lao động, các khả
năng tiềm tàng thường được biểu hiện ở số lượng và kết cấu tài sản cố định, số lượng, thời
gian và năng suất của máy móc thiết bị.
Đối với yếu tố nguyên vật liệu, khả năng tiềm tàng thể hiện ở sự hạ thấp mức sử
dụng nguyên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm. Ngoài ra, việc thay thế các nguyên vật liệu
quý hiếm, đắt tiền phải nhập từ nước ngoài bằng các nguyên vật liệu sản xuất trong nước
cũng là một nguồn khả năng tiềm tàng to lớn.


Đối với các yếu tố quản lí sản xuất, khả năng tiềm tàng thể hiện ở việc cân đối các yếu
tố sản xuất, đồng bộ các yếu tố sản xuất, cân đối giữa chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất,
cân đối giữa các hoạt động trước mắt và phương hướng phát triển lâu dài.
Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp là một công việc
không thể thiếu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
IV. Nội dung và các phương pháp sử dụng trong phân tích chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm tại doanh nghiệp.
1. Nội dung phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp.
Trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp sản xuất
nói chung và doanh nghiệp xây dựng nói riêng, thì nội dung phân tích chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm đều bao gồm các nội dung chính sau:
- Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí nguyên vật liệu. Bao gồm
hai nội dung phân tích sau:
Phân tích đánh gía chung tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp trong giá thành sản phẩm.
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khoản mục chi phí nguyên vật liệu.
Tài liệu sử dụng là:
+ Các chỉ tiêu kế hoạch, định mức tiêu hao nguyên vật liệu của doanh nghiệp.
+ Các số liệu, tài liệu kế toán chi phí nguyên vật liệu của doanh nghiệp bao gồm cả
kế toán tổng hợp, kế toán chi tiết.

+ Các tài liệu thông tin về thị trường, giá cả của các loại nguyên vật liệu mà doanh
nghiệp đang sử dụng.
- Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí nhân công trực tiếp
sản xuất. Bao gồm hai nội dung phân tích sau:
Phân tích chung tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí nhân công trực tiếp
sản xuất.
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí nhân công trực tiếp.
Tài liệu sử dụng để phân tích
Các chỉ tiêu kế hoạch, định mức tiền lương ở doanh nghiệp.
Các số liệu tài liệu kế toán chi phí tiền lương của doanh nghiệp bao gồm cả kế toán
tổng hợp, kế toán chi tiết và các tài liệu thống kê.


+ Các chế độ, chính sách về tiền lương của nhà nước, của doanh nghiệp bao gồm cả
những văn bản quy định hướng dẫn của nghành hoặc cơ quan chủ quản, của cơ quan bảo
hiểm xã hội.
+ Các hợp đồng lao động và chính sách về quản lý lao động.

- Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí sử dụng máy thi
công. Bao gồm các nội dung phân tích sau:
Phân tích chung tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí sử dụng máy thi công.
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sử dụng máy thi tự có của doanh nghiệp
và mày thi công thuê ngoài không có công nhân điều khiển máy đi kèm.
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sử dụng máy thi công thuê ngoài có công
nhân điều khiển máy đi kèm.
Tài liệu sử dụng :
+ Các chỉ tiêu kế hoạch về chi phí sử dụng máy thi công ở doanh nghiệp.
+ Các tài liệu, số liệu kế toán chi phí sử dụng máy thi công, bao gồm kế toán tổng
hợp, kế toán chi tiết và các tài liệu thống kê.
+ Các hợp đồng thuê máy thi công…

- Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí sản xuất chung.
Tài liệu sử dụng : Các chỉ tiêu kế hoạch về chi phí sản xuất chung; các tài liệu, số
liệu kế toán về chi phí sản xuất chung bao gồm kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết…
- Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành sản phẩm.

2. Các phương pháp phân tích sử dụng trong phân tích chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm tại doanh nghiệp.
2.1 Phương pháp chi tiết.
Phương pháp chi tiết là phương pháp phân chia chỉ tiêu phân tích thành nhiều bộ phân
cấu thành để phục vụ một yêu cầu phân tích cụ thể Theo phương pháp này, một chỉ tiêu
phân tích có thể chi tiết theo các hướng như sau: chi tiết theo các bộ phận cấu thành, chi tiết
theo thời gian, chi tiết theo địa điểm. Trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm xây lắp, chỉ tiêu giá thành sản phẩm xây lắp được chi tiết theo từng khoản mục chi
phí, như khoản mục chi phí nguyên vật liệu, khoản mục chi phí nhân công trực tiếp, khoản


mục chi phí sử dụng máy thi công, khoản mục chi phí sản xuất chung. Các khoản mục chi
phí này lại được chi tiết theo từng khoản mục chi phí nhỏ khác.
2.2 Phương pháp so sánh.
Là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích nhằm xác định mức độ biến
động của chỉ tiêu phân tích. Trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, chúng
ta phải so sánh giá trị sản phẩm đạt được với chi phí sản xuất bỏ ra trong kỳ kinh doanh, So
sánh chỉ tiêu tổng chi phí sản xuất kì thực hiện so với kì kế hoạch cũng như chi phí của từng
khoản mục trong giá thành, so sánh mức giá thành công trình thực tế đạt được với giá thành
công trình lập theo dự toán thi công ( giá thành kế hoạch).
Phương pháp so sánh có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán và có thể nhanh chóng đánh
giá các chỉ tiêu cần phân tích. Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp này thì sẽ không xác
định được cụ thể sự ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Vì vậy, việc đề xuất
những biện pháp khắc phục những tồn tại hay phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp bị
hạn chế. Để khắc phục nhược điểm này, trong phân tích người ta còn sử dụng phương pháp

loại trừ.
2.3 Phương pháp loại trừ.
Là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến đối tượng phân
tích, bằng cách khi xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố này thì loại trừ ảnh hưởng của
nhân tố khác.
Có hai hình thức:
a. Phương pháp thay thế liên hoàn: là phương pháp thay thế lần lượt số liệu gốc
bằng số liệu muốn so sánh của các nhân tố có ảnh hưởng đến chỉ tiêu kinh tế được phân tích
theo một lôgic xác định. Thông thường, trình tự thay thế được quy định: nhân tố số lượng
thay thế trước, nhân tố chất lượng thay thế sau.
b. Phương pháp số chênh lệch: đây là hình thức biến tướng của hình thức thay thế
liên hoàn. Xét theo toán học thì phương pháp số chênh lệch là hình thức rút gọn của
phương pháp thay thế liên hoàn bằng cách đặt thừa số chung.


Phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến các khoản mục chi phí trong gía thành sản
phẩm.
2.4 Phương pháp cân đối.
Là phương pháp được dùng trong phân tích dựa trên cơ sở cân đối giữa nguồn và việc
phân phối các nguồn đó.
Trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, phương pháp cân đối được
dùng để cân đối giữa tổng chi phí và các yếu tố chi phí, cân đối giữa tổng giá thành và
khoản mục giá thành.
2.5 Phương pháp dùng biểu mẫu.
Biểu trong phân tích kinh tế nói chung và trong phân tích chi phí sản xuất, giá thành
sản phẩm nói riêng được thiết lập theo các dòng, các cột, trong đó ghi chép đầy đủ các
khoản mục, các chỉ tiêu, các số liệu phân tích.






Chương II Thực trạng về công tác phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm ở công ty xây dựng Lũng lô
I. Khái quát chung về Công ty Xây dựng Lũng Lô.
1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của Công ty xây dựng Lũng Lô.
Tiền thân của Công ty Xây dựng Lũng Lô là Công ty khảo sát – thiết kế và xây dựng
Lũng Lô, đựơc thành lập ngày 16/11/1989 theo quyết định số 294/QĐ- QP của Bộ Quốc
Phòng. Lúc này đất nước đã chuyển sang thời bình, đang gắng mình hiện đại hoá, công
nghiệp hoá đất nước, các chiến sỹ của Cục công trình thuộc Bộ Tư Lệnh Công Binh trước
đây tham gia xây dựng hầm, đào hào chiến đấu thì nay chuyển sang làm công tác xây dựng.
Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty lúc này là nhận thầu quy hoạch, khảo sát, thiết
kế, thi công các công trình ngầm trong công nghiệp dân dụng, giao thông thuỷ lợi.
Công ty khảo sát – thiết kế và xây dựng Lũng Lô có cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, phương
thức hạch toán đơn giản. Công ty chưa có giấy phép hành nghề và hoạt động chủ yếu ở phía
Bắc. Tài sản cố định của công ty chưa được theo dõi vì phần lớn đó là những thiết bị quân
đội chuyển sang.
Ngày 26/8/1993, Bộ Quốc Phòng có quyết định 577/QĐ - QP thành lập Công ty xây
dựng Lũng Lô theo nghị định 388- DNNN với số vốn pháp định là 2232.4 triệu đồng. Công
ty xây dựng Lũng Lô bao gồm 9 xí nghiệp trực thuộc. Lúc này nhiệm vụ sản xuất
của Công ty không thay đổi. Công ty được Bộ giao thông vận tải, Bộ xây dựng, Bộ Quốc
Phòng cấp giấy phép hành nghề, có tư cách pháp nhân, được phép kí kết hợp đồng kinh tế
trong phạm vi cả nước. Phương pháp hạch toán của Công ty là các xí nghiệp tự hạch
toán, lập báo cáo rồi gửi lên Công ty. Các xí nghiệp tự tìm việc, Công ty ký duyệt hoặc uỷ
quyền cho xí nghiệp ký, sau đó xí nghiệp nộp lợi nhuận cho Công ty theo tỷ lệ quy định
trước.
Ngày 17/4/1996, Bộ Quốc Phòng có quyết định 466/ QĐ-QP thành lập Công ty xây
dựng Lũng Lô mới, trên cơ sở sát nhập của:
- Công ty xây dựng Lũng Lô cũ.

- Công ty xây dựng 25/3.
- Xí nghiệp khảo sát thiết kế và tư vấn xây dựng.
Công ty xây dựng Lũng Lô hiện nay có:


- Tên giao dịch quốc tế: LCC.
- Trụ sở của Công ty đặt tại 162 Đường Trường Chinh- Đống Đa- Hà Nội.
Và hiện nay Công ty có hai chi nhánh:
1. Văn phòng đại diện miền Trung: 21/22 Lê Hồng Phong- Đà Nẵng.
2. Văn phòng đại diện tại miền Nam: 28M- Đường 3/2- Quận 10 thành phố Hồ Chí
Minh.
2. Chức năng và ngành nghề kinh doanh của công ty.
Theo quyết định của Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng về việc xác định ngành nghề kinh
doanh của công ty Công ty xây dựng Lũng Lô, quyết định số 171/QĐ-BQP ngày 15/9/2003.
Theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh doanh nghiệp Nhà nước số 110753 do Uỷ
Ban kế hoạch thành phố Hà Nội cấp ngày 21/10/2003.
Gồm những ngành nghề sau:
+ Thi công xây lắp các công trình công nghiệp, dân dụng, giao thông, thuỷ lợi, công
trình ngầm, sân bay, cảng biển.
+ Duy tôn tu tạo, sữa chữa, nâng cấp các công trình bảo tồn bảo tàng và di tích lịch sử.
+ Thi công, xây lắp công trình đường dây và trạm biến áp đến 35kv.
+ Đầu tư, phát triển hạ tầng và kinh doanh nhà.
+ Tư vấn khảo sát thiết kế xây dựng.
+ Khảo sát dò tìm xử lý bom mìn, vật nổ (giấy phép số 120/BQP do bộ quốc phòng
cấp ngày 14/01/2002).
+ Xây lắp đường cáp quang (các công trình bưu điện viễn thông).
+ Sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng.
+ Giấy chứng nhận doanh nghiệp hạng 1 do Bộ Quốc Phòng cấp.
Chỉ có Công ty mới có tư cách pháp nhân đầy đủ trong quan hệ giao dịch, ký kết các
hợp đồng với khách hàng, với các tổ chức, các cơ quan quản lý và trực tiếp thực hiện nghĩa

vụ với Ngân sách Nhà nước. Các xí nghiệp trực thuộc chỉ ký kết hợp đồng kinh tế khi được
sự uỷ quyền cuả Công ty. Trong giới hạn cho phép, các xí nghiệp trực thuộc được mở tài
khoản giao dịch (chuyên thu hoặc chuyên chi), không được mở tài khoản tiền vay, có thể có
con dấu để thực hiện các hoạt động giao dịch.
Năng lực của Công ty:
Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật của Công ty không ngừng phát triển cả về số lượng,
chất lượng. Công ty thường xuyên cử cán bộ, công nhân kỹ thuật tham gia các lớp học, khoá


học về quản lý, kỹ thuật, kiểm soát chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển không
ngừng của Công ty. Công tác trẻ hoá đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý được chú trọng,
Công ty luôn khuyến khích và tiếp nhận đội ngũ cán bộ trẻ có tay nghề và tiếp thu được
trình độ khoa học và công nghệ hiện đại.
Hệ thống trang thiết bị của Công ty: Với mục tiêu từng bước hiện đại hoá trang thiết bị
thi công, đáp ứng được nhu cầu phát triển của Công ty cũng như có đủ khả năng, năng lực
tham gia thi công các dự án lớn và đòi hỏi cao về tiêu chuẩn kỹ thuật chất lượng và tiến độ.
Công ty luôn luôn chú trọng trong việc đầu tư trang bị công nghệ hiện đại. Trong những
năm qua Công ty đã tập trung đầu tư hàng trăm tỷ đồng thiết bị phục vụ các công việc như
thi công công trình ngầm, thi công san nền, bốc xúc, vận chuyển, thi công công trình giao
thông, thuỷ điện, thuỷ lợi, công nghiệp, xây dựng dân dụng…
Với trang thiết bị cơ giới đa dạng và hiện đại cùng đội ngũ cán bộ kỹ thuật nhiều kinh
nghiệm, lực lượng công nhân kỹ thuật lành nghề, Công ty xây dựng Lũng Lô đã thi công
công trình dân dụng cao tầng, các công trình giao thông đường, cầu cảng, công trình
ngầm…trên phạm vi cả nước.
Công ty sẵn sàng hợp tác, liên doanh, liên kết dưới nhiều hình thức với các đơn vị
trong và ngoài nước trên cơ sở các bên cùng có lợi.
3. Đặc điểm tổ chức và quy trình hoạt động chung
Thực hiện phương châm của Bộ Tư lệnh, ban giám đốc Công ty đặt ra: toàn diện, chặt
chẽ, uy tín, chất lượng. Công ty đã tổ chức các ban quản lý, chỉ đạo theo quy trình xây dựng
chung ứng với từng ngành nghề cụ thể, từng đơn vị trực thuộc Công ty.

a. Đặc điểm tổ chức sản xuất.
Do các công trình có đặc điểm thi công khác nhau, thời gian xây dựng thường kéo dài,
mang tính đơn chiếc…nên lực lượng lao động của xí nghiệp được tổ chức thành các đội sản
xuất, mỗi đội sản xuất phụ trách thi công trọn vẹn một công trình hoặc một hạng mục công
trình. Trong mỗi đội thi công lại được tổ chức thành các tổ sản xuất theo yêu cầu thi công,
tuỳ thuộc vào nhu cầu trong từng thời kỳ mà số lượng các đội công trình, các tổ sản xuất
trong mỗi đội sẽ thay đổi phù hợp với điều kiện cụ thể. Thể hiện qua sơ đồ sau:




Ban quản lý công trình
T
ổ sản xuất

T
ổ sản xuấ
t

T
ổ sản xuất












b. Đặc điểm quy trình công nghệ xây dựng
Do đặc điểm của sản phẩm xây lắp là những công trình, hạng mục công trình được xây
dựng và sử dụng tại chỗ, sản phẩm mang tính đơn chiếc, có kích thước và chi phí lớn, thời
gian sử dụng lâu dài Xuất phát từ đặc điểm đó, nên quá trình sản xuất các loại sản phẩm
chủ yếu của Công ty xây dựng Lũng Lô có đặc điểm là: sản xuất phức tạp liên tục, trải qua
nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi công trình đều có dự toán, thiết kế riêng và phân bổ rải rác ở
các địa điểm khác nhau, tuy nhiên hầu hết các công trình đều phải tuân theo một quy trình
công nghệ sản xuất như sau:
 Nhận thầu thông qua đấu thầu hoặc giao thầu trực tiếp.
 Ký hợp đồng xây dựng với bên A ( là chủ đầu tư công trình, hoặc nhà thầu chính).
 Trên cơ sở hồ sơ thiết kế và hợp đồng xây dựng đã được ký kết, Công ty đã tổ chức
quá trình thi công để tạo ra sản phẩm: Giải quyết mặt bằng thi công, tổ chức lao động, bố trí
máy móc thiết bị thi công, tổ chức cung ứng vật tư, tiến hành xây dựng và hoàn thiện.
 Công trình được hoàn thành dưới sự giám sát của chủ đầu tư công trình hoặc nhà
thầu chính về mặt kỹ thuật và tiến độ thi công.
 Bàn giao công trình và thanh quyết toán hợp đồng xây dựng với chủ đầu tư hoặc
nhà thầu chính.






Quy trình công nghệ xây dựng của Công ty được thể hiện theo sơ đồ sau:

Nhận thầu ký hợp
đồng
Mua v

ật t
ư,














Trong cùng một thời gian, Công ty xây dựng Lũng Lô thường phải triển khai thực hiện
nhiều hợp đồng xây dựng khác nhau, trên các địa điểm khác nhau nhằm hoàn thành theo
theo hợp đồng xây dựng đã kí kết với chủ đầu tư. Với một năng lực sản xuất nhất định, để
có thể thực hiện được điều này Công ty đã tổ chức lao động tại chỗ, tuy nhiên cũng có lúc
Công ty phải điều lao động từ công trình này đến công trình khác nhằm đảm bảo công trình
được tiến hành đúng tiến độ thi công.
4. Tổ chức bộ máy quản lý và phân cấp tài cấp tài chính của Công ty.
4.1. Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Xây dựng Lũng Lô.
Do Công ty có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước, hoạt động sản xuất kinh doanh là
thi công các công trình, các công trình có địa bàn không tập trung, hầu hết ở xa trung tâm.
Và kết cấu của mỗi một công trình lại khác nhau nên việc tổ chức bộ máy quản lý của Công
ty có những đặc điểm riêng không giống với những ngành sản xuất khác và được thể hiện
qua sơ đồ sau:







Ban giám đốc
Phòn
Phòn
Phòn
Phòn
Văn














N



Ngay từ khi mới ra đời, Công ty đã đặt ra mục tiêu hàng đầu cho sự tồn tại đó là: chặt

chẽ – vững vàng về tổ chức, hiệu quả - chất lượng – uy tín trong kinh doanh. Do vậy để
quản lý chặt chẽ tới tận các công trình, các tổ sản xuất, Công ty đã tổ chức bộ máy quản lý
thành các ban, đứng đầu là ban Giám đốc Công ty. Để giúp việc cho ban Giám đốc công ty
có các phòng, các ban chức năng được tổ chức theo yêu cầu quản lý sản xuất kinh doanh,
quản lý về kỹ thuật. Cụ thể gồm 4 phòng, 1 văn phòng công ty và 7 xí nghiệp thành viên.
Dưới ban Giám đốc Công ty lại có các ban giám đốc xí nghiệp. Giúp việc cho Ban
giám đốc xí nghiệp cũng có các phòng ban chức năng được tổ chức theo yêu cầu quản lý sản
xuất để giám sát chặt chẽ tới các đội công trình, các tổ sản xuất một cách tối ưu nhất.
Để đạt được mục tiêu sản xuất của Công ty: chức năng, nhiệm vụ của ban Giám đốc và
các phòng ban được phân định cụ thể như sau:
- Ban giám đốc gồm:
+ Giám đốc Công ty: là đại diện pháp nhân của Công ty và chịu trách nhiệm trước
pháp luật, trước Bộ Quốc Phòng, Bộ Tư Lệnh Công Binh và Đảng uỷ Công ty về mọi hoạt
động của Công ty và là người điều hành cao nhất trong Công ty. Giám đốc Công ty còn là
người thay mặt quản lý, sử dụng có hiệu quả toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh.


Giúp việc cho Giám đốc Công ty còn có 3 phó giám đốc.
+ Phó giám đốc điều hành: giúp giám đốc điều hành sản xuất kinh doanh của Công ty,
triển khai các hợp đồng kinh tế, các dự án do giám đốc phân công. Là người giúp giám đốc
xây dựng quản lý về kỹ thuật, chất lượng các công trình và xây dựng dự án, tìm kiếm việc
làm theo sự phân công của giám đốc.
+ Phó giám đốc kế hoạch: giúp giám đốc phụ trách công tác kế hoạch xây dựng các dự
án liên doanh, liên kết trong và ngoài nước, triển khai các dự án được giám đốc phân công.
+ Phó giám đốc chính trị: giúp giám đốc phụ trách công tác Đảng, công tác Chính trị
của Công ty theo nghị quyết của Đảng uỷ cấp trên.
-Phòng kế hoạch tổng hợp:
Là cơ quan tổng hợp, tham mưu cho ban Giám đốc trong việc điều hành, quản lý sản
xuất kinh doanh và nhiệm vụ quân sự toàn Công ty, quản lý kế hoạch trung và dài hạn của
Công ty, quản lý và triển khai các hợp đồng kinh tế, xây dựng giá thành từng dự án, sắp xếp,

điều phối lao động cho đội công trình, tổng hợp tình hình sản xuất kinh doanh hàng tuần,
tháng, quý, năm của toàn Công ty.
-Phòng kỹ thuật thi công:
Có chức năng xây dựng phương án kỹ thuật thi công và kiểm tra chất lượng các công
trình, lập hồ sơ kỹ thuật đấu thầu, chỉ đạo thi công công trình , kiểm nghiệm các công trình
khi đã hoàn thành.
- Phòng tài chính kế toán:
Có chức năng theo dõi, kiểm soát , chỉ đạo hệ thống tài chính kế toán của Công ty theo
đúng quy định của Nhà nước và Quân đội, tổ chức thực hiện công tác thống kê kế toán
chính xác, đúng pháp luật, xây dựng kế hoạch khai thác thị trường vốn có hiệu quả.
-Phòng chính trị:
Có nhiệm vụ tham mưu giúp Đảng uỷ, ban Giám đốc xây dựng kế hoạch và tổ chức
thực hiện công tác Đảng, công tác Chính trị trong toàn Công ty.
- Văn phòng Công ty:
Có chức năng quản lý con dấu của Công ty, lưu giữ, thu phát công văn, tài liệu đúng
nguyên tắc bảo mật, quản lý trang thiết bị phục vụ công tác văn phòng.
Nhìn vào sơ đồ trên, ta thấy các phòng ban chức năng không trực tiếp chỉ huy quản lý
xí nghiệp nhưng có nhiệm vụ theo dõi, hướng dẫn , đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kế
hoạch sản xuất, các quy trình tiêu chuẩn và định mức kinh tế kỹ thuật.

×