Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán bán hàng và xác định kế toán bán hàng trong các doanh nghiệp thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.51 KB, 42 trang )

Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán bán
hàng và xác định kế toán bán hàng trong các doanh
nghiệp kinh doanh thương mại.
Đối với một doanh nghiệp kinh doanh thương mại thì hoạt động bán hàng
có vai trò hết sức quan trọng vì nó thể hiện hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Do đó, trong chương này trước hết chúng ta hãy tìm hiểu những đặc điểm
cơ bản của công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng trong doanh
nghiệp kinh doanh thương mại, sau đó sẽ đi sâu nghiên cứu nội dung của công
tác kế toán bán hàng cũng như các khoản chi phí và việc xác định kết quả bán
hàng.
1.1. Đặc điểm kế toán bán hàng và xác định kết quả bán
hàng trong các doanh nghiệp kinh doanh thương mại:
1.1.1. Bán hàng, kết quả bán hàng và yêu cầu quản lý quá trình bán
hàng.
Bán hàng là một quá trình quan trọng và có ý nghĩa sống còn đối với các
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh thương mại nói riêng.
Một kết quả hoạt động kinh doanh tốt là mục đích cuối cùng của mọi doanh
nghiệp và hoạt động bán hàng chính là phương thức trực tiếp để thực hiện
mục đích đó.
Bán hàng hay tiêu thụ hàng hóa ở các doanh nghiệp, là quá trình các
đơn vị thực hiện việc chuyển giao hàng hoá cho người mua để thu được tiền
người mua hoặc người mua chấp nhận trả tiền.
Bán hàng hay tiêu thụ hàng hóa là giai đoạn cuối cùng của chu kỳ tuần
hoàn vốn trong công ty, là quá trình thực hiện mặt giá trị của hàng hoá. Đó
cũng là quá trình vận động của vốn kinh doanh của công ty từ hình thái hàng
hoá sang hình thái tiền tệ.
Kết quả của hoạt động bán hàng là chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả của hoạt
động lưu chuyển hàng hóa. Việc xác định kết quả bán hàng chính là việc so
sánh giũa chi phí hoạt động kinh doanh như chi phí về giá vốn hàng bán, chi
phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp với thu nhập thuần đạt được trong
một thời kỳ nhất định. Nếu thu nhập lớn hơn chi phí thì kết quả là lãi và ngược


lại kết quả là lỗ.
Việc xác định kết quả bán hàng thường được tiến hành vào cuối kỳ
hạch toán (tháng, quý hoặc năm) tùy thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh
doanh và yêu cầu quản lý của từng doanh nghiệp.
Quản lý quá trình bán hàng và xác định kết quả bán hàng là một yêu cầu
thực tế, nó xuất phát từ mục tiêu của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp quản lý
tốt khâu bán hàng thì mới đảm bảo được chỉ tiêu hoàn thành kế hoạch tiêu thụ
và đánh giá chính xác hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Do
vậy vấn đề đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là:
+ Quản lý kế hoạch và tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ đối với từng
thời kỳ, từng khách hàng, từng hoạt động kinh tế.
+ Quản lý chất lượng, cải tiến mẫu mã và xây dựng thương hiệu sản
phẩm là mục tiêu cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
+ Quản lý theo dõi từng phương thức bán hàng, từng khách hàng, tình
hình thanh toán của khách hàng, yêu cầu thanh toán đúng hình thức, đúng hạn
để tránh hiện tượng mất mát, thất thoát, ứ đọng vốn. Doanh nghiệp phải lựa
chọn hình thức tiêu thụ sản phẩm đối với từng đơn vị, từng thị trường, từng
khách hàng nhằm thúc đẩy nhanh quá trình tiêu thụ đồng thời phải tiến hành
thăm dò, nghiên cứu thị trường, mở rộng quan hệ buôn bán trong và ngoài
nước.
+ Quản lý chặt chẽ vốn của hàng hóa đem tiêu thụ, giám sát chặt chẽ các
khoản chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, kiểm tra tính hợp pháp,
hợp lý của các số liệu, đồng thời phân bổ cho hàng tiêu thụ, đảm bảo cho việc
xác định tiêu thụ được chính xác, hợp lý.
+ Đối với việc hạch toán tiêu thụ phải tổ chức chặt chẽ, khoa học đảm
bảo việc xác định kết quả cuối cùng của quá trình tiêu thụ, phản ánh và giám
đốc tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước đầy đủ, kịp thời.
Song, để làm tốt được công tác quản lý quá trình bán hàng nêu trên thì
doanh nghiệp phải nắm vững vai trò cũng như thực hiện tốt nhiệm vụ của
công tác kế toán bán hàng Và xác định kết quả bán hàng.

1.1.2. Vai trò, nhiệm vụ của công tác kế toán bán hàng và xác định
kết quả bán hàng:
* Với chức năng cung cấp, xử lý thông tin, kiểm soát được các hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kế toán chính là một công cụ quản lý
đắc lực của doanh nghiệp. Đặc biệt đối với doanh nghiệp thương mại, khâu
bán hàng và xác định kết quả bán hàng đóng vai trò chủ chốt ảnh hưởng trực
tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp thì yêu cầu của việc thực hiện công tác kế
toán bán hàng, xác định kết quả bán hàng phải rất chặt chẽ, hiệu quả.
- Thông qua những thông tin về hoạt động bán hàng do bộ phận kế toán
bán hàng ghi nhận, các nhà quản lý sẽ có những chính sách đúng đắn và phù
hợp với những biến động trên thị trường. Từ những số liệu kế toán bán hàng,
tiêu thụ hàng hóa nhà quản lý có thể đánh giá được hàng hóa tiêu thụ , hàng
chậm luân chuyển, giá vốn hàng bán và trên cơ sở đó có thể đưa ra những biện
pháp tối ưu duy trì sự cân đối thường xuyên giữa hàng mua vào và hàng bán
ra.
- Ngoài ra, thông qua những số liệu mà kế toán bán hàng cung cấp, các
bạn hàng của doanh nghiệp biết được khả năng mua, dự trữ, bán các mặt
hàng của doanh nghiệp trên thị trường, biết được kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp để từ đó có quyết định đầu tư, cho vay vốn hoặc có
quan hệ làm ăn với doanh nghiệp.
- Kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng không chỉ có vai trò đối
với doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa lớn đối với Nhà nước. Thông qua số liệu
trên Báo cáo tài chính của doanh nghiệp, Nhà nước nắm được tình hình tài
chính của doanh nghiệp, kiểm tra việc chấp hành các nghĩa vụ của doanh nghiệp
với Nhà nước, qua đó thực hiện chúc năng quản lý, kiểm soát vĩ mô nền kinh tế.
* Xác định dược vai trò kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng,
công tác kế toán phải thực hiện tốt những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Phản ánh và giám đốc tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế về tiêu
thụ và xác định kết quả tiêu thụ như mức bán ra, doanh thu bán hàng quan
trọng là lãi thuần của hoạt động bán hàng.

- Phản ánh đầy đủ, kịp thời chi tiết sự biến động của hàng hoá ở tất cả
các trạng thái: Hàng đi đường, hàng trong kho, trong quầy, hàng gia công chế
biến, hàng gửi đại lý… nhằm đảm bảo an toàn cho hàng hoá.
- Phản ánh chính xác kịp thời doanh thu bán hàng để xác định kết quả,
đảm bảo thu đủ và kịp thời tiền bán hàng để tránh bị chiếm dụng vốn.
- Phản ánh và giám đốc tình hình thực hiện kết quả tiêu thụ, cung cấp số
liệu, lập quyết toán đầy đủ, kịp thời để đánh giá đúng hiệu quả tiêu thụ cũng
như thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
+ Xác định đúng thời điểm tiêu thụ để kịp thời lập báo cáo bán hàng và
phản ánh doanh thu. Báo cáo thường xuyên kịp thời tình hình bán hàng và
thanh toán với khách hàng chi tiết theo từng loại hợp đồng kinh tế… nhằm
giám sát chặt chẽ hàng hoá bán ra, đôn đốc việc nộp tiền bán hàng vào quỹ.
+ Tổ chức hệ thống chứng từ ban đầu và trình tự lưu chuyển chứng từ
hợp lý. Các chứng từ ban đầu phải đầy đủ, hợp pháp, luân chuyển khoa học,
hợp lý, tránh trùng lặp bỏ sót.
+ Xác định đúng và tập hợp đầy đủ chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh
nghiệp phát sinh trong kỳ. Phân bổ chính xác số chi phí đó cho hàng tiêu thụ.
Thực hiện tốt những nhiệm vụ đó, kế toán bán hàng và xác định kết quả
bán hàng cũng đã thể hiện được vai trò quan trọng của mình, đạt được những
yêu cầu trong công tác quản lý.
1.1.3. Các phương thức bán hàng:
Việc bán hàng ở doanh nghiệp được thực hiện bằng nhiều phương thức
và hình thức khác nhau, theo đó hàng hoá vận động từ doanh nghiệp đến tay
người tiêu dùng cuối dùng. Tuỳ thuộc vào đặc điểm hàng hoá tiêu thụ mà
doanh nghiệp có thể sử dụng một số phương thức và hình thức bán hàng sau
đây:
1.1.3.1. Phương thức bán buôn hàng hoá:
Bán buôn hàng hoá là phương thức bán hàng cho các đơn vị thương
mại, các doanh nghiệp sản xuất... để tiếp tục sản xuất, kinh doanh. Đặc điểm
của hàng hoá bán buôn là hàng hoá vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông, chưa đi

vào lĩnh vực tiêu dùng. Do vậy giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá chưa
được thực hiện. Hàng thường được bán theo lô hàng hoặc bán với số lượng
lớn. Trong bán buôn thường bao gồm hai phương thức:
a. Bán buôn hàng hoá qua kho
Đây là phương thức bán buôn hàng hoá mà trong đó hàng hóa đã được
nhập vào kho của DN rồi mới xuất bán. Căn cứ vào cách giao hàng phương
thức bán buôn qua kho gồm hai hình thức sau:
* Bán buôn theo hình thức giao hàng trực tiếp
Theo hình thức này, doanh nghiệp xuất kho hàng hoá giao trực tiếp cho
đại diện bên mua, bên mua cử đại diện đến kho của doanh nghiệp nhận hàng.
Sau khi đại diện bên mua nhận đủ hàng, thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận
nợ, tuỳ thuộc vào hợp đồng ký kết giữa hai bên hàng hoá được xác định là tiêu
thụ.
* Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng
Theo hình thức này, căn cứ vào hợp đồng đã ký hoặc theo đơn đặt hàng,
doanh nghiệp xuất kho hàng hoá bằng phương tiện vận tải tự có hoặc thuê
ngoài, chuyển hàng đến địa điểm nào đó bên mua quy định trong hợp đồng.
Hàng hoá chuyển bán vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, chỉ khi nào
được bên mua kiểm nhận, thanh toán hoặc chấp nhận thì hàng hoá mới được
coi là tiêu thụ, người bán mất quyền sở hữu về số hàng đã giao. Chi phí vận
chuyển do doanh nghiệp chịu hoặc do bên bán chịu là tuỳ thuộc vào điều kiện
quy định trong hợp đồng đã ký kết giữa hai bên.
b. Bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng
Theo phương thức này, doanh nghiệp sau khi mua hàng và nhận hàng
mua không đưa về nhập kho mà chuyển bán thẳng cho bên mua.
Bán buôn vận chuyển thẳng có thể thực hiện theo hai hình thức:
* Bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức giao hàng trực tiếp
(còn gọi là hình thức giao tay ba)
Theo hình thức này, doanh nghiệp sau khi mua hàng, nhận hàng mua và
giao trực tiếp cho đại diện của bên mua tại kho người bán. Sau khi giao, nhận,

đại diện bên mua ký nhận đủ hàng, bên mua đã thanh toán tiền hàng hoặc
chấp nhận nợ, hàng hoá được xác nhận là tiêu thụ, Trong trường hợp này,
doanh nghiệp tham gia thanh toán với cả hai bên: thu tiền bán hàng của người
mua và trả tiền mua hàng cho người bán.
* Bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức chuyển hàng
Theo hình thức này, doanh nghiệp sau khi mua hàng, nhận hàng mua
dùng phương tiện vận tải tự có hoặc thuê ngoài vận chuyển hàng đến giao cho
bên mua ở địa điểm đã được thoả thuận.
Hàng hoá chuyển bán trong trường hợp này vẫn thuộc quyền sở hữu của
doanh nghiệp. Khi nhận được tiền của bên mua thanh toán hoặc giấy báo của
bên mua đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán thì hàng hoá chuyển đi
mới được xác định là tiêu thụ.
1.1.3.2. Phương thức bán lẻ hàng hoá
Bán lẻ hàng hoá là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu thụ
hoặc bán cho các cơ quan đơn vị tiêu dùng tập thể không mang tính chất sản
xuất. Bán hàng theo phương thức này có đặc điểm là khối lượng hàng hoá bán
mỗi lần nhỏ, kết thúc nghiệp vụ bán hàng hoá đi vào lĩnh vực tiêu dùng, giá trị
và giá trị sử dụng của hàng hoá được thực hiện và được xã hội thừa nhận. Bán
lẻ hàng hoá là quan hệ giữa người bán và người tiêu dùng trực tiếp do đó nó
thường không lập chứng từ cho từng lần bán. Cơ cấu bán lẻ là giao hàng, tính
giá, phụ trách hiện vật.
Có nhiều hình thức bán lẻ, các doanh nghiệp kinh doanh hiện nay
thường áp dụng các hình thức sau:
a. Bán lẻ theo hình thức thu tiền tập trung
Theo hình thức này, nghiệp vụ thu tiền và giao hàng cho khách tách rời
nhau. Mỗi quầy có một nhân viên thu tiền làm nhiệm vụ thu tiền của khách,
viết hoá đơn hoặc tích kê cho khách để khách đến nhận hàng ở quầy do nhân
viên bán hàng giao. Hết ca, hết ngày bán hàng nhân viên bán hàng căn cứ vào
hoá đơn và tích kê giao hàng cho khách hoặc kiểm kê hàng hoá tồn quầy để xác
định lượng hàng đã bán trong ngày, trong ca và lập các báo cáobán hàng,

nhân viên thu tiền làm giấy nộp cho thủ quỹ.
b. Bán lẻ thu tiền trực tiếp:
Theo hình thức này, nhân viên bán hàng trực tiếp thu tiền của khách
hàng giao hàng cho khách. Hết ca, hết ngày bán hàng, nhân viên bán hàng làm
giấy nộp tiền và nộp tiền cho thủ quỹ. Đồng thời, kiểm kê hàng hoá tồn quầy để
xác định số lượng hàng hoá đã bán trong ca, trong ngày và lập báo cáo bán
hàng.
c. Một số hình thức khác:
* Bán lẻ tự phục vụ (tự chọn)
Theo hình thức này, khách hàng tự chọn lấy hàng hoá, mang đến bàn tính
tiền để tính tiền và thanh toán tiền hàng. Nhân viên thu tiền kiểm hàng, tính
tiền, lập hoá đơn bán hàng và thu tiền của khách hàng. Nhân viên bán hàng có
trách nhiệm hướng dẫn khách hàng và bảo quản hoá đơn ở quầy do mình phụ
trách.
Hình thức này hiện nay được áp dụng rộng rãi ở các siêu thị và các cửa
hàng lớn và thể hiện rõ ưu điểm của nó.
* Bán hàng tự động:
Bán hàng tự động là hình thức bán lẻ hàng hoá mà trong đó các doanh
nghiệp sử dụng các máy bán hàng tự động chuyên dùng cho một hoặc một vài
loại hàng hoá nào đó đặt ở nơi công cộng. Khách hàng sau khi bỏ tiền vào máy,
máy sẽ tự động đẩy hàng ra cho người mua.
* Bán trả góp:
Theo hình thức này, người mua được trả tiền mua hàng thành nhiều lần,
ngoài số tiền thu theo giá bán thông thường doanh nghiệp còn thu thêm người
mua một khoản lãi do trả chậm. Về thực chất, người bán chỉ mất quyền sở hữu
khi người mua thanh toán hết tiền hàng. Tuy nhiên, về mặt hạch toán khi giao
hàng cho người mua, hàng hoá bán trả góp được coi là tiêu thụ, bên bán ghi
nhận doanh thu.
1.1.3.3. Phương thức gửi hàng đại lý hay ký gửi hàng hoá:
Đây là phương thức bán hàng mà trong đó doanh nghiệp giao hàng cho

cơ sở đại lý, ký gửi để các cơ sở này trực tiếp bán hàng. Khi phát sinh nghiệp vụ
giao - nhận đại lý thì hai bên phải tiến hành ký kết hợp đồng xác định rõ mặt
hàng, giá bán, tỉ lệ hoa hồng, phương thức thanh toán và trách nhiệm quyền
lợi của mỗi bên.
Đối với bên giao đại lý là đơn vị chủ hàng phải tổ chức theo dõi hàng hoá
giao cho đại lý theo từng cơ sở từ khi giao đến khi xác định tiêu thụ và sau khi
hàng hoá giao đại lý đã tiêu thụ thì phải thanh toán đầy đủ cho bên nhận đại lý
tiền hoa hồng.
Đối với bên nhận đại lý, ký gửi là đơn vị cung cấp dịch vụ có trách nhiệm tổ
chức quản lý và bán số hàng hoá đã nhận. Sau khi bán được hàng phải thanh toán
đầy đủ tiền hàng bên giao đại lý và được hưởng tiền hoa hồng tính theo tỉ lệ phần
trăm trên giá bán hàng hoá để bù đắp chi phí và hình thành lợi nhuận. Số hàng
chuyển giao cho các cơ sở đại lý, ký gửi vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
cho đến khi cơ sở đại lý, ký gửi thanh toán tiền hay chấp nhận thanh toán hoặc thông
báo về số hàng đã bán được, doanh nghiệp mới mất quyền sở hữu về số hàng này.
Ngoài các hình thức tiêu thụ trên, những trường hợp sau cũng được coi
là hàng bán:
- Hàng hóa xuất để đổi lấy hàng hóa
- Hàng hóa xuất làm quà biếu tặng, chào hàng, quảng cáo.
- Hàng hóa xuất dùng nội bộ phục vụ cho hoạt động kinh doanh nội bộ
của doanh nghiệp, trả lương, thưởng cho cán bộ công nhân viên.
1.1.4. Các phương thức thanh toán:
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự đổi mới
của nền kinh tế việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán không còn nhiều như
trước kia. Các doanh nghiệp đã có điều kiện áp dụng nhiều phương thức thanh
toán sao cho có lợi cho doanh nghiệp và cho cả đối tác. Việc thanh toán theo
hình thức nào tuỳ thuộc vào thoả thuận của hai bên và được ghi trên hợp
đồng. Phương thức thanh toán thể hiện sự tín nhiệm và hiểu biết lẫn nhau
cũng như vị thế của các doanh nghiệp trên thị trường.
Tuỳ thuộc vào số lượng hàng hoá mua bán, mối quan hệ giữa doanh

nghiệp và khách hàng mà lựa chọn phương thức thanh toán có lợi nhất.
1.1.4.1. Phương thức thanh toán bằng tiền mặt.
Đây là phương thức thanh toán thể hiện quan hệ trực tiếp giữa người
mua với người bán thường áp dụng đối với bán lẻ hàng hoá, thanh toán giữa
các đơn vị cá nhân không mở tài khoản, các đơn vị mở tài khoản nhưng
khoản thanh toán không đáng kể.
Hiện nay ở Việt Nam được sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên phương
thức này lộ rõ nhược điểm đối với những hợp đồng mua bán lớn, đối với đối
tác quốc tế. Do đó, phương thức thanh toán không dùng tiền mặt đang dần
được áp dụng và phát triển.
1.1.4.2. Phương thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Thanh toán không dùng tiền mặt với những ưu thế của mình có ý nghĩa
rất quan trọng đói với cả nền kinh tế quốc dân cũng như đối với doanh nghiệp.
Phương thức thanh toán này cho phép giảm được lượng tiền mặt sử dụng
trong các quan hệ thanh toán trong nền kinh tế, do đó giảm được các chi phí
liên quan đến việc in và phát hành tiền mặt, giảm các chi phí liên quan đến việc
bảo quản và vận chuyển tiền phục vụ cho các mối quan hệ thanh toán trong
nền kinh tế; cho phép kiểm soát được dễ dàng hơn tính hợp pháp của các quan
hệ thanh toán trong nền kinh tế.
Mặt khác, đối với doanh nghiệp áp dụng phương thức này làm cho quá
trình thanh toán trở nên đơn giản và thuận lợi hơn rất nhiều so với thanh toán
bằng tiền mặt.
Tuy vậy thanh toán không dùng tiền mặt cũng có những điểm hạn chế
như thủ tục thanh toán phức tạp, khó áp dụng phổ biến trong dân cư...
Hiện nay, các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt sau thường áp
dụng:
a. Thanh toán bằng séc
Séc thanh toán là một hình thức thanh toán được áp dụng phổ biến ở
nhiều nước trên thế giới. ở Việt Nam, hình thức thanh toán này đã được áp
dụng từ những năm 1960 theo NĐ - 04/CP ngày 7/3/1960 ban hành thể lệ

thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng nhà nước, sau này đã được
sửa đổi bổ sung vào năm 1987 và 1996.
Séc là lệnh chi tiền vô điều kiện của người chủ tài khoản yêu cầu ngân
hàng trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định để trả cho một người
thứ ba hoặc theo lệnh của người này để trả cho người khác hoặc trả cho người
cầm séc bằng tiền mặt hoặc bằng chuyển khoản.
Séc được lập theo mẫu thống nhất do Ngân hàng kho bạc in ấn và
nhượng bán lại cho các đơn vị có nhu cầu sử dụng. Séc bao giờ cũng tồn tại
dưới dạng một văn bản viết.
* Thanh toán bằng séc chuyển khoản
Việc thanh toán bằng séc chuyển khoản có tốc độ thanh toán nhanh, thủ
tục đơn giản, đảm bảo quyền chủ động của chủ tài khoản bên mua trong thanh
toán. Tuy nhiên, chỉ áp dụng thanh toán giữa các đơn vị tổ chức kinh tế có các
giao dịch quan hệ thường xuyên tín nhiệm lẫn nhau do dễ xảy ra tình trạng phát
hành séc qua số dư và chưa thực sự đảm bảo quyền lợi cho người bán trong
thanh toán.
* Thanh toán bằng séc bảo chi
Séc bảo chi là một tờ séc thông thường nhưng được Ngân hàng đảm bảo
khả năng thanh toán chi trả của tờ séc bằng cách trích trước một số tiền tương
ứng với mệnh giá của tờ séc từ tài khoản tiền gửi hoặc tài khoản tiền vay của
người phát hành để chuyển sang quản lý tại một tài khoản riêng trước khi séc
bảo chi đi vào lưu thông (tên tài khoản là tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh
toán séc).
Thường áp dụng thanh toán giữa các đơn vị, tổ chức kinh tế có mối
quan hệ giao dịch không thường xuyên, không tín nhiệm lẫn nhau; đối với các
đơn vị kinh tế bị đình chỉ thanh toán bằng séc thông thường.
Hình thức thanh toán này chấm dứt tình trạng phát hành séc quá số dư,
trên cơ sở đó đảm bảo quyền lợi séc trong thanh toán. Tuy nhiên, tốc độ thanh
toán chậm, thủ tục phức tạp, không đảm bảo quyền chủ động của chủ tài
khoản bên mua trong thanh toán, có thể xảy ra tình trạng ứ đọng vốn đối với

bên mua trong thanh toán.
b. Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu
Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu là phương thức thanh toán trong đó
người bán, người cung cấp sau khi hoàn thành việc cung ứng hàng hoá, dịch
vụ cho người mua theo thoả thuận hoặc hợp đồng thì uỷ thác cho ngân hàng
bằng một giấy uỷ nhiệm (giấy uỷ nhiệm thu) để đòi tiền người mua trên cơ sở
các hoá đơn chứng từ do mình lập ra có ký nhận của bên mua.
Thường áp dụng thanh toán tiền giữa các đơn vị tổ chức kinh tế có quan
hệ giao dịch tín nhiệm lẫn nhau, thanh toán các dịch vụ có tính chất ổn định
thường xuyên giữa người cung cấp và các khách hàng.
Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu có tốc độ thanh toán nhanh, thủ tục đơn
giản, đảm bảo quyền chủ động của người bán trong thanh toán. Tuy nhiên
không thực sự đảm bảo quyền lợi cho người bán, người cung cấp trong trường
hợp tình hình tài chính của người mua gặp khó khăn.
c. Thanh toán bằng thư tín dụng ( L/C )
Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng là một sự thoả thuận trong
đó ngân hàng phục vụ người bán theo yêu cầu của ngân hàng phục vụ người
mua tiến hành trả tiền cho người bán về trị giá hàng hoá đã chuyển giao hoặc
dịch vụ đã cung ứng của người bán cho người mua theo hợp đồng. Nếu người
bán xuất trình cho ngân hàng đầy đủ các hoá đơn chứng từ hợp lệ có ký nhận
của bên mua trong thời hạn quy định.
Thường áp dụng thanh toán giữa các đơn vị, tổ chức kinh tế có quan hệ
giao dịch không thường xuyên, không tín nhiệm lẫn nhau, đối với các tổ chức
đã bị kỷ luật thanh toán
Phương thức này đảmbảo quyền lợi cho tất cả các bên tham gia thanh
toán (An toàn hàng hoá cho người bán, an toàn tiền vốn cho người mua). Tuy
nhiên tốc độ thanh toán chậm, thủ tục phức tạp, không đảm bảo quyền chủ động
của bên mua trong thanh toán, có thể xảy ra tình trạng ứ động vốn đối với bên
mua.
Ở Việt Nam hiện nay, phương thức này chủ yếu sử dụng trong giao dịch

quốc tế, trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
d. Thanh toán bằng thẻ thanh toán
Thẻ thanh toán cũng như thẻ tín dụng là một phương tiện thanh toán
hiện đại và tiện dụng được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, tuy
nhiên ở nước ta do điều kiện hệ thống thông tin giao dịch trong ngân hàng và
giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp chưa được nối mạng nên việc thanh
toán còn nhiều hạn chế đặc biệt là thủ tục thanh toán phức tạp hơn rất nhiều
so với các nước khác trên thế giới. Nhưng trong tương lai không xa phương
thức thanh toán này sẽ phát triển rộng rãi ở Việt Nam.
1.1.4.3. Thanh toán dưới hình thức đổi hàng
Doanh nghiệp dùng hàng hoá để trao đổi lấy hàng hoá khi hàng hoá xuất
ra và hàng hoá nhận về không giống nhu về bản chất đây là một giao dịch tạo ra
doanh thu do đó hàng xuất ra được coi là hàng bán và tính vào doanh thu của DN.
1.1.5. Phương pháp xác định giá vốn của hàng xuất bán:
Giá vốn hàng bán phản ánh giá trị gốc của hàng hoá đã thực sự tiêu thụ
trong kỳ, ý nghĩa của giá vốn hàng bán chỉ được sử dụng khi xuất kho hàng
bán và tiêu thụ. Khi hàng hoá đã tiêu thụ và được phép xác định doanh thu thì
đồng thời giá trị hàng xuất kho cũng được phản ánh theo giá vốn hàng bán để
xác định kết quả. Do vậy xác định đúng giá vốn hàng bán có ý nghĩa quan trọng
vì từ đó doanh nghiệp xác định đúng kết quả kinh doanh.Và đối với các doanh
nghiệp thương mại thì còn giúp cho các nhà quản lý đánh giá được khâu mua
hàng có hiệu quả hay không để từ đó tiết kiệm chi phí thu mua. Trong kỳ hạch
toán, hàng hóa được nhập kho nhiều lần với những điều kiện khác nhau nên
khi xuất bán doanh nghiệp phải hạch toán hàng xuất kho theo một phương
pháp nhất định. Tùy thuộc vào đặc điểm hoạt động kinh doanh thực tế và yêu
cầu quản lý, mỗi doanh nghiệp tự có phương hướng để chọn được cho mình
một trong những phương pháp tính giá vốn của hàng bán trong kỳ.
1.1.5.1 Phương pháp giá đơn vị bình quân:
Theo phương pháp này, giá thực tế của hàng xuất kho trong kỳ được
tính theo công thức:

Giá thực tế hàng
Xuất kho
=
Số lượng hàng hoá
xuất kho
x
Giá đơn vị bình
quân
Khi sử dụng giá đơn vị bình quân, có thể sử dụng dưới 3 dạng:
- Giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ: Giá này được xác định sau khi kết
thúc kỳ hạch toán nên có thể ảnh hưởng đến công tác quyết toán.
Giá đơn vị bình
quân cả kỳ dự
trữ
=
Trị giá thực tế hàng tồn đầu kỳ + nhập trong kỳ
Số lượng hàng thực tế tồn đầu kỳ + nhập trong kỳ
- Giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước hay đầu kỳ này: Trị giá thực tế của
hàng xuất dùng kỳ này sẽ tính theo giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước.Phương
pháp này đơn giản dễ làm, đảm bảo tính kịp thời của số liệu kế toán, mặc dù
độ chính xác chưa cao vì không tính đến sự biến động của giá cả kỳ này.
Giá đơn vị bình quân
cuối kỳ trước
=
Giá thực tế hàng tồn cuối kỳ trước
Số lượng hàng tồn cuối kỳ trước
- Giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập: Phương pháp này vừa đảm bảo
tính kịp thời của số liệu kế toán, vừa phản ánh được tình hình biến động của
giá cả. Tuy nhiên khối lượng tính toán lớn bởi vì cứ sau mỗi lần nhập kho, kế
toán lại phải tiến hành tính toán.

Giá đơn vị bình
quân sau mỗi lần
nhập
=
Giá thực tế hàng tồn trước khi nhập + giá thực
tế hàng nhập liền kề
Số lượng hàng tồn trước khi nhập + số lượng
hàng nhập liền kề
1.1.5.2. Phương pháp nhập trước xuất trước (FIFO):
Theo phương pháp này, giả định rằng số hàng nào nhập trước thì xuất
trước, xuất hết số hàng nhập trước thì mới xuất số nhập sau theo giá thực tế
của số hàng xuất. Nói cách khác, cơ sở của phương pháp này là giá thực tế của
hàng mua trước sẽ được dùng làm giá để tính giá thực tế của hàng xuất trước
và do vậy giá trị hàng tồn kho cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số hàng mua vào
sau cùng. Phương pháp này số liệu phản ánh kịp thời, thích hợp trong trường
hợp giá cả ổn định hoặc có xu hướng giảm.
1.1.5.3. Phương pháp nhập sau – xuất trước (LIFO):
Phương pháp này giả định những hàng mua sau cùng sẽ được xuất
trước tiên, ngược lại với phương pháp nhập trước xuất trước.
1.1.5.4. Phương pháp giá thực tế đích danh:
Theo phương pháp này thì giá vốn của hàng hoá thuộc lần mua nào thì
lấy giá mua đó để tính giá vốn hàng bán.
Phương pháp này đảm bảo tính chính xác tuyệt đối do đó thường được
áp dụng đối với những loại hàng hoá có giá trị cao.
Tuy nhiên, để áp dụng phương pháp này đòi hỏi phải có điều kiện sau:
+ Về phương diện kế toán: phải theo dõi chi tiết theo từng mặt hàng từ
khi mua đến khi xuất bán.
+ Về phương diện tổ chức bảo quản: cần tổ chức bảo quản theo từng lần
mua từ khi mua đến khi bán
Trong đơn vị kinh doanh thương mại để xác định trị giá vốn của hàng

hóa xuất bán trong kỳ, kế toán còn phải tiến hành phân bổ chi phí thu mua cho
số hàng đã bán và số hàng tồn cuối kỳ. Chi phí mua hàng là các khoản chi tiêu
cần thiết để doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ mua hàng và dự trữ kho hàng
như: chi phí vận chuyển, bốc dỡ hàng, chi phí kho bãi chứa đựng trung gian; lệ
phí cầu, đường, phà phát sinh khi mua hàng; chi phí hoa hồng môi giới; hao
hụt trong định mức phát sinh trong quá trình mua hàng hóa.
Công thức phân bổ chi phí thu mua cho hàng tiêu thụ trong kỳ:
Chi phí thu
mua phân
bổ cho hàng
đã bán
=
Chi phí thu mua
hàng tồn đầu kỳ
+
Chi phí thu mua
hàng phát sinh trong
kỳ
x
Tiêu thức
phân bổ của
hàng đã bán
Tiêu thức phân
bổ của hàng đã
bán
+
Tiêu thức phân bổ
của hàng tồn cuối kỳ
Sau khi xác định trị giá xuất của hàng bán ra trong kỳ và phân bổ chi phí
thu mua phát sinh trong kỳ thì ta mới xác định được tổng trị giá vốn của hàng

xuất bán trong kỳ theo công thức sau:

×