Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

LUẬN VĂN: Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.22 KB, 96 trang )










LUẬN VĂN:

Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự
nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam









mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hòa nhập với xu hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và chủ trương xã hội hóa dịch vụ công, các đơn vị sự nghiệp ở Việt nam không còn
đơn thuần thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao mà còn tự tổ chức cung ứng dịch vụ
cho xã hội. Nguồn tài chính của các đơn vị này không chỉ do ngân sách nhà nước cấp mà
từng đơn vị đều khai thác thêm các nguồn thu từ hoạt động dịch vụ cho xã hội. Trong những
năm gần đây, số thu từ hoạt động cung ứng dịch vụ không chỉ là nguồn thu bổ sung mà còn
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn kinh phí của đơn vị. Tuy nhiên, nhiều đơn vị sự


nghiệp vẫn còn lúng túng trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Gần đây, Chính phủ đã
ra Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16.1.2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp
có thu, trong đó đã quy định tạm thời quy chế quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp theo
hướng tự chủ, nhưng trên thực tế việc triển khai Nghị định này còn gặp không ít khó khăn.
Thông tấn xã Việt nam (TTXVN), với tư cách là một đơn vị sự nghiệp, cũng nằm
trong tình trạng như thế. Mặc dù trong những năm vừa qua, công tác quản lý tài chính của
TTXVN đã đạt được một số kết quả nhất định, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra, song
cơ chế quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp của TTXVN hiện cũng bộc lộ những hạn
chế, khiếm khuyết. Để góp phần làm cho công tác quản lý tài chính của TTXVN ngày càng
tốt hơn, phù hợp hơn với tiến trình đổi mới của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế thế
giới và khu vực, đề tài: “Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông
tấn xã Việt Nam” được chọn làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chuyển các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước sang hoạt động theo cơ chế quản lý phù
hợp với kinh tế thị trường là lĩnh vực vấp phải nhiều lúng túng ở nước ta. Mặc dù từ đầu
những năm 90 Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương xã hội hóa một phần các dịch vụ công
của Nhà nước, nhưng quá trình xã hội hóa diễn ra chậm chạp. Gần đây, với việc ban hành
Nghị định số10/ 2002/CP Nhà nước ta đã thể hiện quyết tâm đổi mới trong quản lý các đơn


vị hành chính, sự nghiệp. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này còn rất ít,
mới chỉ có một số công trình đề cập đến ba góc độ sau:
* Bàn về chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công của nhà nước. Điển hình cho các
công trình nghiên cứu này là:
+ Mở rộng hơn nữa quyền tự chủ đối với các ĐVSN (Huỳnh Thị Nhân, Tạp chí tài
chính số 1 năm 2005)
+ Mở rộng quyền chủ động tài chính cho các đơn vị sử dụng ngân sách (Vĩnh Sang,
Tạp chí Tài chính số 8 năm 2005)
+ Cơ chế tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu, (http://WWW.
caicachhanhchinh.gov.vn, ngày 14/10/2004)

+ Cơ chế khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính thu (http://WWW.
caicachhanhchinh.gov.vn, ngày 14/10/2004).
*Quá trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp đã được
thực hiện trong một số năm gần đây. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này
còn ít, mới chỉ có một số bài phân tích, bình luận trên tạp chí, một số luận văn, luận án
nghiên cứu về quản lý tài chính. Chẳng hạn như:
+ Thủ trưởng đơn vị được quyền tự chủ về kinh phí quản lý hành chính (Báo Đầu Tư
ra ngày 20/03/2006)
+ Một số vấn đề về đổi mới lĩnh vực sự nghiệp (Đỗ Quốc Sam, http://
WWW.irv.moi.gov.vn, ngày 2/03/2006).
+ Trao quyền tự chủ rộng hơn cho đơn vị sự nghiệp (Phỏng vấn ông Huỳnh Quang
Hải, Vụ trưởng Vụ hành chính sự nghiệp, Bộ Tài chính, , ngày
09/03/2006)
+ Hội thảo “ Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành
chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 2004-2005” Bộ Tài chính phối hợp với
Dự án VIE 01/024/B-Bộ Nội vụ tổ chức với các Bộ ngành Trung ương và các địa phương
()
+ Mỗi năm chuyển khoảng 20% - 25% số đơn vị sự nghiệp sang tự chủ tài chính
(Xuân Quang, )


Các công trình này chủ yếu bình luận về tính đúng đắn của chủ trương xã hội hóa
trên các mặt tăng quy mô và chủng loại dịch vụ, nhất là dịch vụ y tế và giáo dục, tăng ý thức
trách nhiệm của công dân và các đơn vị trong cung cấp, lựa chọn, kiểm soát và trả phí theo
chất lượng dịch vụ, tăng tính cạnh tranh và sức ép buộc các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước
phải cải thiện hoạt động của mình . Một số công trình cũng phân tích những yếu kém khi
triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa dịch vụ công.
*Bàn về thực trạng đổi mới cơ chế quản lý, nhất là đổi mới cơ chế quản lý tài chính,
ở các đơn vị sự nghiệp của nhà nước theo hướng mở rộng quyền tự chủ tài chính cho cơ sở.
Có thể kể ra một số công trình đã công bố về lĩnh vực này như:

- Luận văn thạc sĩ của Hoàng Ngọc Tuấn về đề tài: “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện
quá trình quản lý tài chính tại Trung tâm dịch vụ báo chí Hà Nội”.
- Luận án tiến sỹ của Đặng Minh Hiền về đề tài: “ Một số giải pháp quản lý tài chính
ở các Bệnh viện công Việt Nam”.
- Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thu Thảo về đề tài: “ Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài
chính đối với ĐVSN có thu tại Viện khoa học Thủy Lợi”.
Trong khuôn khổ quản lý tài chính của TTXVN, cũng đã có một số công trình nghiên
cứu nhưng mang tính kỹ thuật và báo chí. Riêng nghiên cứu về đổi mới quản lý tài chính ở
các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN hiện vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
hệ thống.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự
nghiệp thuộc TTXVN. Vì TTXVN là một đơn vị sự nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước,
trong nó lại bao gồm nhiều đơn vị trực thuộc, nên đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự
nghiệp thuộc TTXVN bao hàm nhiều nội dung phức tạp như đổi mới quản lý tài chính của
Nhà nước với tư cách chủ sở hữu đối với TTXVN, đổi mới quản lý tài chính của Văn phòng
TTXVN đối với đơn vị trực thuộc và đổi mới quản lý tài chính của từng đơn vị trực thuộc
TTXVN … Do khuôn khổ hạn chế nên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quản lý tài chính
của Văn phòng TTXVN và của đơn vị trực thuộc. Cơ chế, chế độ quản lý tài chính của Nhà
nước đối với TTXVN được giới hạn trong các văn bản có giá trị thi hành hiện nay.


Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ khảo sát các đơn vị trong nước của TTXVN,
không đề cập đến quản lý tài chính các đại diện ở nước ngoài. Thời gian khảo sát chủ yếu
tập trung trong giai đoạn 5 năm trước và sau năm 2006.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý tài chính ở các
đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp đổi mới quản lý tài
chính ở các đơn vị sự nghiệp của TTXVN trong thời gian tới.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc
TTXVN.
- Phân tích thực trạng quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN.
- Đề xuất giải pháp đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN
trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế phổ biến như phương pháp
phân tích, tổng hợp dựa trên các số liệu thống kê có sẵn và tự điều tra, kết hợp với so sánh,
hệ thống hóa, mô hình hóa nhằm rút ra các kết luận và đề xuất cần thiết.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết về quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
phù hợp với điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
- Đưa ra được bức tranh về thực trạng quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc
TTXVN trên cơ sở chế độ quản lý của Nhà nước hiện hành.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự
nghiệp thuộc TTXVN trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương, 9 tiết.


Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý
tài chính ở các đơn vị sự nghiệp

1.1. Một số khái niệm liên quan đến quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
1.1.1. Hoạt động sự nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm hoạt động sự nghiệp
Trong xã hội, con người tạo ra và tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau như sản

xuất ra của cải để nuôi sống mình, tự nhận thức thế giới và giáo dục cho thế hệ sau những tri
thức và kỹ năng mình đã tích lũy được, nghiên cứu và tìm cách chữa bệnh cho mình, rèn
luyện thể lực và giải trí…Các Mác, và sau này là các học trò và người kế tục Người, đã
quan niệm xã hội gồm nhiều tầng cấu trúc, trong đó quá trình tạo ra của cải vật chất là cơ sở
hạ tầng, bên trên nó là kiến trúc thượng tầng chính trị, văn hóa, nghệ thuật, khoa học, tinh
thần…Khi xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực, các lý luận gia của các nước xã
hội chủ nghĩa đã coi các hoạt động sản xuất là hoạt động kinh tế, các hoạt động của bộ máy
nhà nước là hành chính và các hoạt động giáo dục, nghiên cứu, y tế, văn hóa, nghệ thuật là
hoạt động sự nghiệp. Hơn nữa, trong mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa thời bao cấp, ngoài
các cơ sở sản xuất và thương mại quốc doanh bao trùm quá trình tái sản xuất xã hội, Nhà
nước còn thành lập các cơ sở cung cấp dịch vụ giáo dục, y tế, nghiên cứu…Để phân biệt
chức năng và cơ chế hoạt động của các loại hình đơn vị cơ sở như thế, Nhà nước gọi các
hoạt động sản xuất và thương mại là hoạt động kinh tế, các hoạt động nghiên cứu, giáo dục,
y tế, thể dục thể thao, nghệ thuật… là các hoạt động sự nghiệp. Từ đó cho đến nay thuật ngữ
hoạt động sự nghiệp được sử dụng thường xuyên trong các văn bản pháp lý về quản lý của
Nhà nước. Tuy nhiên, về mặt lý luận, chưa có công trình nào đưa ra định nghĩa về hoạt động
sự nghiệp.
Theo chúng tôi, hoạt động sự nghiệp là những hoạt động do Nhà nước thực hiện
nhằm cung cấp những dịch vụ có lợi ích chung và lâu dài cho cộng đồng xã hội. Hoạt động
sự nghiệp không trực tiếp tham gia vào quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất, nhưng nó
tác động đến lực lượng sản xuất và xã hội thông qua việc nâng cao trình độ học vấn và kỹ


năng lao động cho nhân dân, cải thiện chất lượng sống của con người, duy trì, bảo tồn và
phát triển các giá trị văn hóa, nghệ thuật, tinh thần của dân tộc, phát triển khoa học… Kết
quả hoạt động sự nghiệp ảnh hưởng đến không chỉ phát triển kinh tế mà còn đến sự phát
triển xã hội và đất nước.
1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động sự nghiệp
Hoạt động sự nghiệp có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, hoạt động sự nghiệp có xu hướng cung cấp các loại hàng hóa, dịch vụ có

tính chất của hàng hóa công cộng hoặc hàng hóa khuyến dụng.
Kết quả của hoạt động sự nghiệp chủ yếu là học vấn, kỹ năng lao động của nhân dân,
các giá trị văn hóa, khoa học, nghệ thuật khó đánh giá được giá trị kinh tế bằng tiền, nhưng
có ý nghĩa tăng hiệu quả kinh tế xã hội chung, tăng năng lực sản xuất của quốc gia, tăng
chất lượng sống của nhân dân, tăng phúc lợi xã hội, tạo hiệu ứng tích cực cho các lĩnh vực
khác, lợi ích đem lại không chỉ cho người hưởng thụ trực tiếp mà còn cho những người khác
…. Nhiều sản phẩm của các đơn vị sự nghiệp có giá trị sử dụng tăng thêm khi tăng người sử
dụng mà không tăng chi phí như phát thanh, truyền hình… Theo ý kiến của nhà kinh tế
được giải thưởng Nôben J. Stieglits, nhà nước cung cấp hàng hóa công cộng sẽ có lợi hơn tư
nhân [14, tr.170-173].
Hơn nữa, trong xã hội hiện đại, để đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội, Nhà nước
nên cung cấp nhiều hàng hóa công cộng. Bởi vì, nhờ sử dụng những hàng hóa công cộng do
hoạt động sự nghiệp tạo ra mà quá trình sản xuất của cải vật chất được thuận lợi và ngày
càng đạt hiệu quả cao hơn. Hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục thể thao
đem đến tri thức và bảo đảm sức khỏe cho lực lượng lao động, tạo điều kiện cho lao
động có chất lượng ngày càng tốt hơn; hoạt động sự nghiệp khoa học, văn hóa thông tin
mang lại những hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội, tạo ra những công nghệ mới
phục vụ sản xuất và đời sống Nếu không có sự cung cấp của Nhà nước, nhiều người
không có cơ hội hưởng thụ những loại hàng hóa, dịch vụ đó.
Thứ hai, hoạt động sự nghiệp không nhằm mục đích thu lợi nhuận trực tiếp.
Trong nền kinh tế thị trường, một số sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra
có thể trở thành hàng hóa đem lại thu nhập cho đơn vị cung cấp. Song do nhiều nguyên


nhân, chẳng hạn như nếu trao đổi theo nguyên tắc thị trường thì nhiều người không có khả
năng tiêu dùng hoặc không khuyến khích tiêu dùng đủ mức…, trong khi đó mở rộng tối đa
sự tiêu dùng các loại hàng hóa đó có ý nghĩa vừa làm tăng năng lực sản xuất của đất nước,
vừa có giá trị tiến bộ và công bằng. Chính vì thế, Nhà nước cần tổ chức cung ứng hoặc duy
trì các tài trợ để các hoạt động sự nghiệp cung cấp những sản phẩm, dịch vụ không thu tiền
hoặc thu tiền chỉ để hoàn một phần chi phí, không nhằm thu lợi nhuận. Ngoài ra, khi cung

cấp các dịch vụ sự nghiệp không theo nguyên tắc thương mại bình thường, Nhà nước hướng
đến mục tiêu phân phối lại thu nhập và tăng phúc lợi công cộng.
Tuy nhiên, xét về mặt quản lý vi mô, Nhà nước mong muốn các đơn vị cung cấp
hàng hóa, dịch vụ sự nghiệp phải hoạt động có hiệu quả, có nghĩa là hoạt động với chi phí
tối thiểu. Do đó, các biện pháp khoán kinh phí hay buộc các đơn vị sự nghiệp phải hạch toán
thu chi không phải là giải pháp tăng thu lợi nhuận như các biện pháp quản lý doanh nghiệp,
mà đơn thuần chỉ là giải pháp quản lý khuyến khích đơn vị sự nghiệp chủ động phát huy hết
mọi năng lực của mình để tiết kiệm chi phí.
Thứ ba, hoạt động sự nghiệp luôn gắn liền và bị chi phối bởi các chương trình phát
triển kinh tế xã hội và ngân sách của Nhà nước.
Trong kinh tế thị trường, các hoạt động sự nghiệp cũng là công cụ để Nhà nước thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, nhất là các chương trình chăm sóc sức khỏe
cộng đồng, chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình, chương trình phát triển giáo dục,
chương trình phát triển văn hóa Những chương trình mục tiêu quốc gia chi phối hoạt động
sự nghiệp nằm trong tổng thể chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Hơn nữa, nhu cầu về các sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp của xã hội thì nhiều vô hạn,
trong khi đó nguồn tài chính của Nhà nước giành cho các hoạt động này lại bị hạn chế bởi
ngân sách nhà nước cũng như mối quan hệ với các nhu cầu chi tiêu khác của Nhà nước.
Chính vì thế, cung sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp luôn thấp hơn nhu cầu và việc xác định phải
cung cấp các loại sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp với quy mô bao nhiêu luôn là vấn đề hóc búa
của các Nhà nước.
Thứ tư, sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp có tính ích lợi chung và lâu dài.


Sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra chủ yếu là những giá trị về tri thức,
văn hóa, phát minh, sức khỏe, đạo đức, các giá trị về xã hội Đây là những sản phẩm thường
mang lại lợi ích cho nhiều người, cho nhiều đối tượng trên phạm vi rộng. Nhiều sản phẩm sự
nghiệp có tác dụng lâu dài như các phát minh khoa học, các giá trị văn hóa, trình độ học vấn, kỹ
năng lao động…
Nhìn chung, đại bộ phận các sản phẩm do hoạt động sự nghiệp tạo ra là sản phẩm có

tính phục vụ không chỉ bó hẹp trong một ngành hoặc một lĩnh vực nhất định, những sản
phẩm đó khi tiêu dùng thường có tác dụng lan toả và vựcđược sử dụng đi, sử dụng lại nhiều
lần.
1.1.1.3. Phân loại hoạt động sự nghiệp
Hoạt động sự nghiệp trong xã hội rất đa dạng, phong phú và có thể phân loại chúng
theo nhiều tiêu thức khác nhau.
- Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, các hoạt động sự nghiệp được chia thành:
+ Sự nghiệp kinh tế: Là hoạt động sự nghiệp nhằm phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp
cho yêu cầu sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho các ngành kinh tế hoạt động bình thường,
thuận lợi.
+ Sự nghiệp văn hóa xã hội (gọi tắt là sự nghiệp văn xã): Là các hoạt động phục vụ
cho các yêu cầu phát triển của xã hội về văn hóa, sức khỏe và các nhu cầu về đời sống tinh
thần của nhân dân.
- Căn cứ vào đặc điểm nguồn tài chính đảm bảo cho hoạt động sự nghiệp, hoạt động
sự nghiệp được chia thành:
+ Hoạt động sự nghiệp không có thu: Là hoạt động do Nhà nước đảm bảo hoàn toàn
nhu cầu tài chính. Những hoạt động này thường là những hoạt động cung cấp các dịch vụ
thiết yếu cho xã hội, phạm vi tiêu dùng rộng rãi và chỉ có Nhà nước mới có thể thực hiện
một cách hiệu quả nhất. Thuộc về những hoạt động này gồm có các hoạt động về văn hóa
tuyên truyền, giáo dục tiểu học, đào tạo, khoa học, y tế cho người nghèo, đảm bảo xã hội,
+ Hoạt động sự nghiệp có thu: Là những hoạt động mà nguồn tài chính đảm bảo vừa
do Nhà nước cung cấp, vừa do người tiêu dùng đóng góp một phần dưới dạng phí, lệ phí.
Những hoạt động này thường là những hoạt động cung cấp các dịch vụ có tác động trực tiếp


đến quá trình sản xuất và đời sống mà người tiêu dùng có thể trả tiền do họ thấy ngay hiệu
quả sử dụng dịch vụ, hoặc là họ muốn nhận được những dịch vụ có phí phân biệt theo chất
lượng.
- Căn cứ vào tính chất hoạt động của chúng, hoạt động sự nghiệp được chia thành:
+ Hoạt động sự nghiệp thường xuyên: Là những hoạt động được tổ chức và duy trì

hoạt động liên tục và xã hội luôn luôn có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm dịch vụ của nó, bất
luận điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn như thế nào. Thuộc về hoạt động sự
nghiệp thường xuyên là các hoạt động về giáo dục tiểu học, đào tạo, khoa học, y tế, văn hóa

+ Hoạt động sự nghiệp không thường xuyên: Là những hoạt động sự nghiệp để thực
hiện các chương trình cụ thể của Nhà nước trong một giai đoạn nhất định.
1.1.1.4. Vai trò của hoạt động sự nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Trong thời đại ngày nay, một nước giầu hay nghèo, lạc hậu hay phát triển không phải
chỉ phụ thuộc vào khối lượng hàng hóa tư nhân mà người dân có được do trao đổi trên thị
trường, mà còn phụ thuộc vào khối lượng phúc lợi xã hội mà họ được hưởng, trong đó có
các sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp cung cấp. Hơn nữa, tiềm năng phát triển
nhanh hay chậm trong tương lai của một nước không những do số lượng lao động, tài
nguyên thiên nhiên và vốn đã tích lũy được quyết định, mà chủ yếu là do khả năng phát huy
tiềm năng sáng tạo của con người chi phối. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố
cấu thành con người về trình độ văn hóa, tri thức khoa học, thể lực, tâm hồn, đạo đức lối
sống, thị hiếu, thẩm mỹ, giao tiếp của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng… Đa phần yếu tố
cấu thành tiềm năng sáng tạo của con người do hoạt động sự nghiệp cung cấp trong quá
khứ, hiện tại và tương lai.
Hoạt động sự nghiệp là động lực to lớn giúp dân tộc bảo tồn và phát triển văn hóa,
truyền thống, các giá trị đạo đức… Nghị quyết Đại hội toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ X đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” [13].
Hoạt động sự nghiệp đóng vai trò động lực cải cách, đổi mới, phát triển giáo dục -
đào tạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương


2 (khóa VIII) của Đảng ta đã khẳng định quan điểm khoa học công nghệ cùng với giáo dục -
đào tạo là quốc sách hàng đầu trong phát triển đất nước.
Thể dục - thể thao là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển khoa học xã
hội của Đảng và Nhà nước ta nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, góp phần tích

cực nâng cao sức khoẻ, thể lực, giáo dục nhânnhân cách, đạo đức lối sống lành mạnh, làm
phong phú đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và
sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) của
Đảng ta đã khẳng định “Sức khỏe là vốn quý của mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân
tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [11]. Hoạt động sự nghiệp có
vai trò quan trọng trong lĩnh vực này.
1.1.2. Đơn vị sự nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam
Trong nền kinh tế-xã hội, để thực hiện các hoạt động sự nghiệp cần có các tổ chức
tiến hành các hoạt động đó, các tổ chức này được gọi là đơn vị sự nghiệp (ĐVSN). Tuy
nhiên, theo ngôn ngữ quen dùng ở Việt Nam, ĐVSN thường phải là các cơ quan của Nhà
nước.
“Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính nhà
nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 2004-2005”, ban hành theo Quyết định số
08/2004/QĐ-TTg ngày 15/01/2004 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định: ĐVSN là một
loại hình đơn vị được Nhà nước ra quyết định thành lập, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn
nhất định nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao trên lĩnh vực quản
lý, thực hiện các hoạt động sự nghiệp. Đó là đơn vị thuộc sở hữu nhà nước, hoạt động trong
các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hóa, thông tin, nghiên cứu khoa học, y tế, không theo
nguyên tắc hạch toán kinh doanh [24].
ĐVSN thuộc khu vực phi lợi nhuận, sự chi tiêu của các đơn vị này, theo con mắt của
các nhà quản lý tài chính nhà nước, mất đi, không thu hồi lại được vốn gốc, mặc dù các đơn
vị này vẫn tính khấu hao tài sản cố định. Trong quá trình hoạt động, các ĐVSN được Nhà
nước trang trải kinh phí đáp ứng nhu cầu chi tiêu từ ngân sách nhà nước hoặc được bổ sung
từ các nguồn khác.


Đặc điểm hoạt động của các ĐVSN là rất đa dạng, bắt nguồn từ nhu cầu phát triển
kinh tế xã hội và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Mục đích hoạt động của
các ĐVSN là phục vụ lợi ích cộng đồng, xã hội, đất nước. Trong quá trình cung cấp hàng

hóa và dịch vụ công cho xã hội, các ĐVSN được phép tạo lập nguồn thu nhập nhất định
thông qua các khoản thu phí và các khoản thu từ cung ứng dịch vụ do Nhà nước quy định để
trang trải các khoản chi tiêu. Quản lý tài chính ĐVSN phải tuân thủ theo những quy định
pháp lý của Nhà nước. Tùy theo đặc điểm tạo lập nguồn thu của các ĐVSN, Nhà nước áp
dụng cơ chế tài chính thích hợp để các ĐVSN thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Phù hợp với xu hướng cải cách khu vực công trong bối cảnh hội nhập, Nhà nước thực hiện
chính sách đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các ĐVSN theo hướng nâng cao quyền
tự chủ tài chính nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công phục vụ xã hội.
ĐVSN có những đặc điểm khác với cơ quan hành chính. Cơ quan hành chính là
những tổ chức cung cấp trực tiếp các dịch vụ hành chính công cho người dân khi thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước của mình. Các dịch vụ hành chính công được cung cấp theo
luật định, với chất lượng đồng nhất cho mọi người tiêu dùng và được chi trả trực tiếp bằng
ngân sách nhà nước. Dịch vụ hành chính công là chức năng của cơ quan hành chính Nhà
nước, là trách nhiệm và nghĩa vụ của bộ máy Nhà nước với nhân dân và chỉ có Nhà nước
(chứ không có một tổ chức tư nhân nào khác) có đủ thẩm quyền thực hiện chức năng đó.
Nhà nước với tư cách là một tổ chức công quyền phải có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ này
cho nhân dân, còn người dân có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước dưới hình thức thuế. Như
vậy, quan hệ trao đổi các dịch vụ hành chính công không phản ánh quan hệ thị trường, mà
phản ánh quan hệ nghĩa vụ của Nhà nước và phương tiện thực hiện nghĩa vụ do xã hội công
dân cung cấp. Người sử dụng dịch vụ có thể trả một phần hoặc không phải trả tiền cho việc
sử dụng dịch vụ đó, nhưng phải đóng thuế để chi trả cho chúng. Chính vì vậy cơ quan hành
chính chỉ được tự chủ tài chính trong phần kinh phí ngân sách nhà nước cấp (cơ chế khoán
chi), không được tự do mở rộng dịch vụ và nguồn thu. Dịch vụ và nguồn thu là cố định theo
luật.Trong khi đó, dịch vụ của ĐVSN cung ứng có thể cạnh tranh với khu vực tư nhân và
cung ứng theo nhu cầu nên các đơn vị này được phép khai thác và mở rộng nguồn thu từ các


hoạt động sự nghiệp của mình. Đặc điểm khác biệt này cho phép ĐVSN có thể hoạt động
theo nguyên tắc tự chủ tài chính.
ĐVSN có những điểm khác với loại hình doanh nghiệp. Trong kinh tế thị trường, các doanh

nghiệp phải tuân thủ nguyên tắc hạch toán kinh doanh, hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận
bằng cách tự bù đắp đủ chi phí và có lãi. Doanh nghiệp phải hoạt động theo quy luật thị trường.
ĐVSN không hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường và không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng
đầu của mình.
Lĩnh vực sự nghiệp tạo ra những sản phẩm đặc biệt vừa mang tính phục vụ chính trị-
xã hội, vừa mang tính hàng hóa đòi hỏi phải bù đắp chi phí. Với chức năng phục vụ xã hội,
sản phẩm của hoạt động sự nghiệp không thể đo bằng giá trị tiền tệ hữu hình. Những đơn vị
tạo ra sản phẩm đó không thể và càng không hạch toán được lỗ lãi đơn thuần bởi sản phẩm
của nó thuộc chức năng phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. Mặt khác, mỗi sản phẩm này đều
mang trong nó giá trị đã hao phí để tạo ra nó. Để tái sản xuất giản đơn, các ĐVSN phải thu
lại từ ngân sách nhà nước và từ chi trả của người hưởng thụ.
Hiệu quả hoạt động của ĐVSN không đơn thuần đo đếm bằng tiền, mà thường được
tính bằng các giá trị phi tiền tệ. Chính vì thế, việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các
ĐVSN thường khó khăn.
1.1.2.2. Các loại hình đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại ĐVSN.
* Căn cứ vào vị trí, ĐVSN được phân loại thành:
- ĐVSN ở Trung ương là những ĐVSN trực thuộc Chính phủ như TTXVN, Đài Phát
thanh Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, các bệnh viện, trường học, các nhà xuất bản
quốc gia…
- ĐVSN ở địa phương như đài phát thanh truyền hình ở địa phương, các bệnh viện,
trường học, do địa phương quản lý,
* Căn cứ vào từng lĩnh vực hoạt động sự nghiệp cụ thể, ĐVSN bao gồm:
- ĐVSN giáo dục, đào tạo.
- ĐVSN y tế (Bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân)
- ĐVSN văn hóa, thông tin


- ĐVSN phát thanh, truyền hình
- ĐVSN dân số-trẻ em, kế hoạch hóa gia đình

- ĐVSN thể dục, thể thao
- ĐVSN khoa học công nghệ, môi trường
- ĐVSN kinh tế (Duy tu, sửa chữa đê điều, trạm trại, )
- Đơn vị sự nghiệp khác.
* Căn cứ vào nguồn thu thì ĐVSN được chia thành hai loại:
- Đơn vị sự nghiệp không có thu: Là đơn vị được Nhà nước cấp toàn bộ kinh phí để
đảm bảo hoạt động của đơn vị và kinh phí được cấp theo nguyên tắc không hoàn lại trực
tiếp.
- ĐVSN có thu gồm hai loại:
+ ĐVSN có thu tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên: Là đơn vị có
nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp ổn định, bảo đảm được toàn bộ chi phí hoạt động thường
xuyên, ngân sách nhà nước không phải cấp kinh phí cho hoạt động thường xuyên cho đơn
vị.
+ ĐVSN có thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên: Là đơn vị có
nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp nhưng chưa tự trang trải toàn bộ chi phí hoạt động thường
xuyên, ngân sách nhà nước phải cấp một phần chi phí cho hoạt động thường xuyên của đơn
vị.
1.1.3. Quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
1.1.3.1. Khái niệm quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp trong điều kiện kinh tế
thị trường nước ta
Quản lý là yêu cầu tất yếu để đảm bảo sự hoạt động bình thường của mọi quá trình và
hệ thống kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị có sự tham gia tự giác của nhiều người. Thực
chất của quản lý là thiết lập và thực hiện hệ thốngcác phương pháp và biện pháp khác nhau
của chủ thể quản lý để tác động một cách có ý thức tới đối tượng quản lý nhằm đạt tới kết
quả nhất định.


Quản lý bao gồm nhiều phương diện như quản lý công nghệ, quản lý thương mại,
quản lý nhân sự, quản lý tài chính…Quản lý tài chính là hoạt động của chủ thể quản lý trong

lĩnh vực tài chính nhằm sử dụng nguồn tài sản dưới hình thái tiền, giấy tờ có giá của một
đơn vị, tổ chức vừa đảm bảo cho đơn vị, tổ chức hoạt động bình thường, vừa đảm bảo cho
nguồn tài chính sử dụng tiết kiệm và sinh lợi nhiều nhất.
Chủ thể quản lý tài chính ĐVSN gồm cơ quan nhà nước chuyên trách, bộ phận quản
lý tài chính trong ĐVSN.
* Quản lý tài chính ĐVSN từ phía Nhà nước (với tư cách chủ sở hữu và cơ quan quản
lý hành chính của Nhà nước). Tùy theo tổ chức bộ máy nhà nước trong từng giai đoạn lịch
sử cụ thể, có các cơ quan nhà nước trực tiếp quản lý tài chính ĐVSN khác nhau. Hiện nay,
cơ quan chuyên trách quản lý tài chính các ĐVSN ở trung ương là Bộ Tài Chính, Bộ chủ
quản, ở địa phương là Sở Tài chính và Sở chủ quản.
Mục tiêu của Nhà nước trong quản lý tài chính các ĐVSN là đề ra chính sách, chế
độ, quy chế hoạt động tài chính phù hợp với luật pháp và chức năng, nhiệm vụ của ĐVSN.
* Quản lý tài chính ở ĐVSN
Chủ thể quản lý tài chính là các bộ phận chuyên trách về tài chính trong các ĐVSN.
Thông thường, đó là bộ phận kế toán-tài vụ. Nếu trong ĐVSN còn có các đơn vị độc lập có
tư cách pháp nhân thì đơn vị trực thuộc đó cũng tiến hành quản lý tài chính trong đơn vị
mình. Mục tiêu quản lý tài chính của ĐVSN là sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ nhà
nước và tiết kiệm nguồn tài chính của mình.
1.1.3.2. Vai trò của quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp trong điều kiện kinh
tế thị trường nước ta
Quản lý tài chính là một trong những hoạt động quản lý quan trọng của bất kỳ một tổ
chức nào trong điều kiện kinh tế thị trường. Bởi vì, tài chính biểu hiện tổng hợp và bao quát
hoạt động của đơn vị. Thông qua quản lý tài chính, chủ thể quản lý không chỉ kiểm soát được
toàn bộ chu trình hoạt động của đơn vị mà còn đánh giá được chất lượng hoạt động của chúng.
Tài chính còn biểu hiện lợi ích của các chủ thể tham gia và liên quan đến đơn vị. Thông qua quản
lý tài chính, chủ thể quản lý sử dụng được công cụ kích thích lợi ích một cách hữu hiệu.


Quản lý tài chính ở các ĐVSN cũng có vai trò quan trong như thế. Ngoài ra, do hoạt
động của các ĐVSN rất đa dạng, tham gia trong nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và theo

đuổi không chỉ mục tiêu riêng, mà còn phục vụ mục tiêu chung của toàn xã hội nên quản lý tài
chính khá phức tạp, thường được quy định cụ thể cho từng ngành. Trong điều kiện kinh tế thị
trường, yêu cầu về chất lượng dịch vụ công và hiệu quả hoạt động của các ĐVSN là những vấn
đề còn mang tính phức tạp hơn nữa. Bên cạnh các khoản chi của ngân sách nhà nước đối với
các ĐVSN, các đơn vị này còn có nguồn thu nhập từ chi trả của dân cư. Quản lý tốt tài chính
của ĐVSN không những góp phần làm giảm bớt các khoản chi sự nghiệp của ngân sách nhà
nước, mà còn khuyến khích cung cấp dịch vụ chất lượng cao cho xã hội với chi phí tiết kiệm.
Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các ĐVSN liên quan trực tiếp đến hiệu quả
kinh tế - xã hội và chi tiêu đóng góp của nhân dân. Do đó, nếu tài chính của các ĐVSN
được quản lý, giám sát, kiểm tra tốt, sẽ góp phần hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu
cực, tham nhũng trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính công, đồng thời nâng cao
hiệu quả việc sử dụng các nguồn tài chính của đất nước.
Ngoài ra, quản lý tài chính các ĐVSN còn cung cấp thông tin để tái cơ cấu hoạt động
cung cấp dịch vụ văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao… trong tương quan với sự cạnh
tranh của khu vực tư nhân.
1.2. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung quản lý tài chính ở các Đơn vị sự nghiệp
1.2.1. Mục tiêu quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp
Việc quản lý tài chính ĐVSN nhằm đạt tới các mục tiêu:
- Làm cho ĐVSN hoạt động có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của
xã hội.
- Tạo động lực khuyến khích các ĐVSN tích cực, chủ động tổ chức hoạt động hợp lý,
xác định số biên chế cần có, sắp xếp, tổ chức và phân công lao động khoa học, nâng cao chất
lượng công việc nhằm sử dụng kinh phí tiết kiệm.
- Nêu cao ý thức trách nhiệm, tăng cường đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực
trong sử dụng tài chính.
- Tạo điều kiện để công chức phát huy khả năng, nâng cao chất lượng công tác và
tăng thu nhập vật chất cho cá nhân và tập thể.


1.2.2. Nguyên tắc quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp

- Nguyên tắc hiệu quả: Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong quản lý tài chính
nói chung và trong quản lý các ĐVSN nói riêng. Hiệu quả trong quản lý tài chính thể hiện ở
sự so sánh giữa kết quả đạt được trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội với chi
phí bỏ ra. Tuân thủ nguyên tắc này là khi tiến hành quản lý tài chính các ĐVSN, Nhà nước
cần quan tâm cả hiệu quả về xã hội và hiệu quả kinh tế. Mặc dù rất khó định lượng hiệu quả
về xã hội, song những lợi ích đem lại về xã hội luôn được đề cập, cân nhắc thận trọng trong
quá trình quản lý tài chính công. Nhà nước phải cân đối giữa việc thực hiện các nhiệm vụ,
mục tiêu trên cơ sở lợi ích của toàn thể cộng đồng, những mục tiêu chính trị quan trọng cần
phải đạt được trong từng giai đoạn nhất định với định mức chi hợp lý. Hiệu quả kinh tế là
tiêu thức quan trọng để các cá nhân hoặc cơ quan có thẩm quyền cân nhắc khi xem xét các
phương án, dự án hoạt động sự nghiệp khác nhau. Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế là hai nội
dung quan trọng phải được xem xét đồng thời khi hình thành một quyết định hay một chính
sách chi tiêu ngân sách liên quan đến hoạt động sự nghiệp.
- Nguyên tắc thống nhất: Là thống nhất quản lý tài chính ĐVSN bằng những văn bản
luật pháp thống nhất trong cả nước. Thống nhất quản lý chính là việc tuân theo một khuôn
khổ chung từ việc hình thành, sử dụng, thanh tra, kiểm tra, thanh quyết toán, xử lý những
vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện quản lý thu, chi tài chính ở các ĐVSN. Thực
hiện nguyên tắc quản lý này sẽ đảm bảo tính công bằng, bình đẳng trong đối xử với các
ĐVSN khác nhau, hạn chế những tiêu cực và rủi ro trong hoạt động tài chính, nhất là những
rủi ro có tính chất chủ quan khi quyết định các khoản thu, chi.
- Nguyên tắc tập trung, dân chủ: Là nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài chính
đối với các ĐVSN thụ hưởng ngân sách nhà nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý
tài chính ĐVSN đảm bảo cho các nguồn lực của xã hội được sử dụng hợp lý cả ở quy mô nền
kinh tế quốc dân lẫn quy mô ĐVSN.
- Nguyên tắc công khai, minh bạch: ĐVSN là tổ chức công nên việc quản lý tài chính
các đơn vị này phải đáp ứng yêu cầu chung trong quản lý tài chính công, đó là công khai,
minh bạch trong động viên, phân phối các nguồn lực xã hội, nhất là nguồn lực về tài chính.
Bởi vì tài chính công là đóng góp của xã hội. Thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý



sẽ tạo điều kiện cho cộng đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định về thu, chi tài
chính công, hạn chế những thất thoát và đảm bảo tính hợp lý trong chi tiêu của bộ máy nhà
nước.
1.2.3. Nội dung quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp
1.2.3.1. Quản lý nguồn thu
* Các nguồn thu tài chính ở ĐVSN:
Tài chính của các ĐVSN hình thành từ các nguồn sau:
- Nguồn thu từ ngân sách nhà nước: Đặc điểm của nguồn ngân sách là Nhà nước cấp
phát theo dự toán xác định cho những nhiệm vụ, chương trình mục tiêu đã được duyệt. Để
có được nguồn kinh phí ngân sách cấp, các đơn vị phải thực hiện tốt công tác lập kế hoạch,
dự toán theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, các văn bản đặc thù cho từng ngành,
từng lĩnh vực, quy chế được duyệt của đơn vị.
- Nguồn thu có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước (được phép để lại đơn vị từ các
nguồn thu theo chế độ): các khoản thu từ quyên góp, tặng, biếu không phải nộp ngân sách
nhà nước theo chế độ.
- Nguồn thu do dân cư chi trả: là nguồn thu của các ĐVSN do người nhận dịch vụ
đóng góp. Nguồn này gồm các khoản sau:
+ Các khoản phí: Phí thực chất là giá cả của hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng
phải trả cho người cung cấp khi được hưởng các hàng hóa, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp
tạo ra. Nói cách khác, đây là khoản tiền mà người tiêu dùng phải trả trực tiếp cho người
cung cấp. Tùy tính chất và mục đích sử dụng của từng loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể mà Nhà
nước quy định mức phí ĐVSN được phép thu.
Phí thường được thu trong các lĩnh vực: Văn hóa-thông tin, giáo dục-đào tạo, khoa
học công nghệ, y tế, giao thông vận tải, nông nghiệp, hải sản, lao động thương binh xã
hội , ví dụ như học phí, viện phí, thủy lợi phí, phí bảo vệ môi trường,
+ Các khoản thu sự nghiệp: Thông qua các hoạt động sự nghiệp, các đơn vị ứng dụng
sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ văn hóa, thông tin, khoa học, thể thao, y tế tạo ra nguồn
thu. Thu sự nghiệp gồm các khoản thu trong các lĩnh vực sau:



 Thu sự nghiệp giáo dục, đào tạo: Thu hợp đồng giảng dạy nghiệp vụ chuyên môn
khoa học kỹ thuật, thu từ kết quả hoạt động sản xuất và ứng dụng khoa học của các trường
trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, các trường cao đẳng, đại học.
 Sự nghiệp y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình: Thu viện phí, thu dịch vụ khám chữa
bệnh, thực hiện các biện pháp tránh thai; thu bán các sản phẩm đơn vị ứng dụng khoa học
sản xuất để phòng chữa bệnh (như các loại vắc xin phòng bệnh, )
 Sự nghiệp văn hóa-thông tin: Thu dịch vụ quảng cáo, thu bán sản phẩm văn hóa
như bản tin, tạp chí; thu từ hoạt động biểu diễn của các đoàn nghệ thuật.
 Thể dục-thể thao: Thu tiền bán vé từ hoạt động thi đấu, biểu diễn thể dục, thể thao,
thu hợp đồng dịch vụ thể thao như thuê sân bãi, dụng cụ thể dục thể thao,
 Sự nghiệp nghiên cứu khoa học, công nghệ, môi trường: Thu bán các sản phẩm từ
kết quả hoạt động sản xuất, nghiên cứu, thử nghiệm, thu dịch vụ khoa học, bảo vệ môi
trường, thu hợp đồng nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước.
 Sự nghiệp kinh tế: Thu từ dịch vụ đo đạc bản đồ, điều tra khảo sát, quy hoạch nông
lâm, thiết kế trồng rừng, thu dịch vụ khí tượng thủy văn, dịch vụ kiến trúc, quy hoạch đô
thị,
+ Các khoản thu khác.
* Yêu cầu đối với quản lý nguồn thu:
- Quản lý toàn diện từ hình thức, quy mô đến các yếu tố quyết định số thu. Bởi vì tất
cả các hình thức, quy mô và các yếu tố ảnh hưởng đến số thu đều quyết định số thu tài chính
làm cơ sở cho mọi hoạt động của ĐVSN. Nếu không quản lý toàn diện sẽ dẫn đến thất thoát
khoản thu, làm ảnh hưởng không chỉ đến hiệu quả quản lý tài chính, mà còn ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hoạt động của ĐVSN.
- Coi trọng công bằng xã hội, những người có điều kiện, hoàn cảnh và mức thu nhập
như nhau phải đóng góp như nhau. Đây là thể hiện yêu cầu công bằng chung cho mọi hoạt
động của Nhà nước.
- Thực hiện nghiêm túc, đúng đắn các chính sách, chế độ thu do cơ quan có thẩm
quyền ban hành. ĐVSN không được tự ý đặt ra các khoản thu cũng như mức thu.



- Quản lý các nguồn thu theo kế hoạch, đảm bảo thu sát, thu đủ, tổ chức tốt quá trình
quản lý thu, đồng thời đề ra các biện pháp tổ chức thu thích hợp.
- Đối với các đơn vị được sử dụng nhiều nguồn thu phải có biện pháp quản lý thu
thống nhất nhằm thực hiện thu đúng mục đích, thu đủ và thu đúng kỳ hạn.
* Quy trình quản lý thu.
Quy trình quản lý thu ở các ĐVSN được tiến hành theo từng năm kế hoạch qua các
bước sau:
- Xây dựng kế hoạch dự toán thu.
- Thực hiện kế hoạch thu theo dự toán.
- Quyết toán các khoản thu.
* Khi xây dựng kế hoạch dự toán thu phải dựa vào các căn cứ sau:
+ Phải dựa vào nhiệm vụ chính trị, xã hội được giao cho đơn vị cũng như các chỉ tiêu cụ
thể, từng mặt hoạt động do cơ quan có thẩm quyền thông báo.
+ Các văn bản pháp lý quy định thu như các chế độ thu do Nhà nước quy định.
+ Số kiểm tra về dự toán thu do cơ quan có thẩm quyền thông báo.
+ Kết quả phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán thu của các năm trước (chủ
yếu là năm báo cáo) và triển vọng của các năm tiếp theo.
* Thực hiện kế hoạch thu theo dự toán: Dự toán thu là căn cứ quan trọng để tổ chức
thực hiện thu. Trong quá trình thu, đơn vị phải thực hiện thu đúng đối tượng, thu đủ, tuân
thủ các quy định của Nhà nước để bảo đảm hoạt động của đơn vị mình.
* Quyết toán các khoản thu: Cuối năm, đơn vị phải giải quyết những vấn đề còn tồn
tại trong khâu tổ chức thu nộp, sau đó tổng hợp, đánh giá tình hình chấp hành dự toán thu đã
được giao, rút ra những kinh nghiệm cho việc khai thác nguồn thu, công tác xây dựng dự
toán và tổ chức thu nộp trong thời gian tới, nộp báo cáo cho cơ quan quản lý cấp trên.
1.2.3.2. Quản lý quá trình sử dụng tài chính
* Các khoản chi của ĐVSN:
ĐVSN được phép chi các khoản sau:
- Chi hoạt động thường xuyên của đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có
thẩm quyền giao:



+ Chi cho người lao động: Chi tiền lương, tiền công; các khoản phụ cấp lương; các
khoản trích bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn theo quy định,
+ Chi quản lý hành chính: Vật tư văn phòng, dịch vụ công cộng, thông tin liên lạc,
công tác phí, hội nghị phí, thuê mướn,
+ Chi hoạt động nghiệp vụ.
+ Chi mua sắm tài sản, sửa chữa thường xuyên tài sản; khoản kinh phí này được sử
dụng để mua sắm, trang bị thêm hoặc phục hồi lại giá trị sử dụng cho những tài sản cố định
đã bị xuống cấp.
+ Chi khác: Chi tiếp khách, mua bảo hiểm phương tiện,
- Chi thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành; Chương
trình mục tiêu quốc gia; chi thực hiện nhiệm vụ đặt hàng của Nhà nước; chi vốn đối ứng thực
hiện các dự án có vốn nước ngoài theo quy định.
- Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do Nhà nước quy định.
- Chi đầu tư phát triển: chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, sửa
chữa lớn tài sản, chi thực hiện các dự án đầu tư theo quy định.
- Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao.
- Các khoản chi khác: các ĐVSN có thu còn có các khoản chi hoạt động tổ chức thu
phí; chi hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ (kể cả chi nộp thuế, trích khấu hao tài sản cố
định).
* Yêu cầu đối với quản lý chi:
- Đảm bảo nguồn tài chính cần thiết để các ĐVSN hoàn thành các nhiệm vụ được
giao theo đúng đường lối, chính sách, chế độ của Nhà nước. Để thực hiện yêu cầu này đòi
hỏi các đơn vị cần xác lập thứ tự ưu tiên cho các khoản chi để bố trí kinh phí cho phù hợp.
- Quản lý các khoản chi phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả. Tiết kiệm là một
nguyên tắc hàng đầu của quản lý tài chính. Nguồn lực luôn có giới hạn nhưng nhu cầu
không có giới hạn. Do vậy trong quá trình phân bổ và sử dụng nguồn lực khan hiếm phải
tính toán sao cho chi phí thấp nhất, kết quả cao nhất.



Hoạt động sự nghiệp diễn ra trên phạm vi rộng, đa dạng và phức tạp. Nhu cầu chi của
ĐVSN luôn gia tăng với tốc độ nhanh trong khi khả năng huy động nguồn thu có hạn nên
cần phải tiết kiệm, thực hiện hiệu quả trong quản lý tài chính các ĐVSN.
Để đạt được tiêu chuẩn tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý các khoản chi của các
ĐVSN cần phải quản lý chặt chẽ từ khâu xây dựng kế hoạch, dự toán, xây dựng định mức,
thường xuyên phân tích, đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện chi tiêu, trên cơ
sở đó đề ra các biện pháp tăng cường quản lý chi đối với các ĐVSN.
* Nội dung quản lý chi tài chính ở ĐVSN:
Trong thực tiễn, các ĐVSN có nhiều biện pháp quản lý các khoản chi tài chính khác
nhau, nhưng các biện pháp quản lý chung nhất là:
- Thiết lập các định mức chi. Định mức chi vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch chi,
vừa là căn cứ để thực hiện kiểm soát chi của các ĐVSN. Các định mức chi phải được xây
dựng một cách khoa học. Từ việc phân loại đối tượng đến trình tự, cách thức xây dựng định
mức phải được tiến hành một cách chặt chẽ và có cơ sở khoa học. Các định mức chi phải
bảo đảm phù hợp với loại hình hoạt động của từng đơn vị.
Các định mức chi phải có tính thực tiễn tức là phải phản ánh mức độ phù hợp của các
định mức với nhu cầu kinh phí cho các hoạt động. Chỉ có như vậy, định mức chi mới trở
thành chuẩn mực cho quản lý kinh phí.
- Lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các loại hoạt động hoặc theo nhóm mục chi sao cho với
tổng số chi có hạn nhưng khối lượng công việc vẫn hoàn thành và đạt chất lượng cao. Để
đạt được điều này phải có phương án phân phối và sử dụng kinh phí khác nhau. Trên cơ sở
đó lựa chọn phương án tối ưu cho cả quá trình lập dự toán, phân bổ và sử dụng kinh phí.
- Xây dựng quy trình cấp phát các khoản chi chặt chẽ, hợp lý nhằm hạn chế tối đa
những tiêu cực nảy sinh trong quá trình cấp phát, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát
chi của các cơ quan có thẩm quyền.
- Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm toán nhằm ngăn chặn những biểu
hiện tiêu cực trong việc sử dụng nguồn kinh phí của Nhà nước, đồng thời qua công tác này
phát hiện những bất hợp lý trong chế độ, chính sách nhằm bổ sung hoàn thiện chúng.
* Quy trình quản lý chi tài chính ở các ĐVSN:



* Lập dự toán chi: Lập dự toán chi là khâu khởi đầu và quan trọng trong quản lý chi
ngân sách nhà nước, nó có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả của khâu chấp
hành, kế toán và quyết toán chi ngân sách nhà nước. Khi lập dự toán cần dựa trên những căn
cứ sau:
- Chủ trương của Nhà nước về duy trì và phát triển các hoạt động sự nghiệp trong
từng giai đoạn nhất định. Dựa vào căn cứ này sẽ giúp cho việc xây dựng dự toán chi tài
chính ở ĐVSN có một cái nhìn tổng quát về những mục tiêu, nhiệm vụ mà đơn vị phải
hướng tới trong năm, từ đó xác lập được các hình thức, phương pháp phân phối nguồn vốn
vừa tiết kiệm, vừa đạt hiệu quả cao.
- Dựa vào các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là các chỉ tiêu có
liên quan trực tiếp đến việc cấp phát kinh phí chi ngân sách nhà nước kỳ kế hoạch cho các
ĐVSN. Đây chính là việc cụ thể hóa các chủ trương của Nhà nước trong từng giai đoạn
thành các chỉ tiêu cho kỳ kế hoạch. Khi dựa trên căn cứ này để xây dựng dự toán chi phải
thẩm tra, phân tích tính đúng đắn, hiện thực, tính hiệu quả của các chỉ tiêu thuộc kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội. Trên cơ sở đó có kiến nghị điều chỉnh lại các chỉ tiêu kế hoạch cho
phù hợp.
- Dựa vào khả năng nguồn kinh phí có thể đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu thường
xuyên kỳ kế hoạch. Muốn dự đoán được khả năng này, ĐVSN phải dựa vào cơ cấu thu ngân
sách nhà nước kỳ báo cáo và mức tăng trưởng của các nguồn thu kỳ kế hoạch, từ đó thiết
lập mức cân đối tổng quát giữa khả năng nguồn kinh phí và nhu cầu chi ngân sách nhà
nước.
- Kết quả phân tích, đánh giá tình hình quản lý và sử dụng kinh phí chi ngân sách nhà
nước kỳ báo cáo sẽ cung cấp các thông tin cần thiết cho việc lập dự toán.
Quá trình lập dự toán chi ngân sách Nhà nước được tiến hành theo các bước cơ bản
sau:
Thứ nhất, căn cứ vào dự toán sơ bộ về thu, chi ngân sách nhà nước kỳ kế hoạch để
xác định các định mức chi tiêu tổng hợp dự kiến ngân sách sẽ phân bổ cho mỗi đối tượng.
Trên cơ sở đó hướng dẫn các đơn vị tiến hành lập dự toán kinh phí. Bước này còn được gọi
là xác định và giao số kiểm tra từ cơ quan tài chính hoặc cơ quan chủ quản cho ĐVSN.



Thứ hai, dựa vào số kiểm tra và văn bản hướng dẫn lập dự toán kinh phí, các đơn vị
dự toán tiến hành lập dự toán kinh phí của mình để gửi đơn vị dự toán cấp trên hoặc cơ quan
tài chính. Căn cứ vào mức độ phân cấp về chi ngân sách nhà nước, cơ quan tài chính ở mỗi
cấp có nhiệm vụ xét duyệt, tổng hợp dự toán kinh phí các đơn vị trực thuộc để hình thành
dự toán chi ngân sách trình cơ quan có thẩm quyền xét duyệt.
Thứ ba, căn cứ vào dự toán chi ngân sách nhà nước đã được cơ quan có thẩm quyền
thông qua, cơ quan tài chính sau khi xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp sẽ chính thức phân bổ
dự toán chi ngân sách nhà nước cho mỗi đơn vị.
* Chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước: Chấp hành dự toán chi ngân sách nhà
nước là khâu thứ hai trong chu trình quản lý ngân sách nhà nước. Trong quá trình sử dụng
tài chính theo dự toán cần dựa trên những căn cứ sau:
+ Dựa vào định mức chi được duyệt của từng chỉ tiêu trong dự toán. Đây là căn cứ
mang tính quyết định nhất trong chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước.
+ Dựa vào khả năng nguồn kinh phí có thể dành cho nhu cầu chi ngân sách nhà nước
trong mỗi kỳ báo cáo. Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước luôn bị giới hạn bởi khả
năng huy động của các nguồn thu. Mặc dù các khoản chi thường xuyên đã được ghi trong
dự toán nhưng khi số thu không đảm bảo vẫn phải cắt giảm một phần nhu cầu chi tiêu. Đây
là một trong những giải pháp thiết lập lại sự cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước
trong quá trình chấp hành dự toán.
+ Dựa vào các chế độ, chính sách chi ngân sách nhà nước hiện hành. Đây là căn cứ
mang tính pháp lý cho công tác tổ chức chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước, bởi lẽ
tính hợp lý của các khoản chi sẽ được xem xét dựa trên cơ sở các chính sách, chế độ của
Nhà nước đang có hiệu lực thi hành. Để làm được điều đó các chính sách, chế độ phải phù
hợp với thực tiễn.
Để đạt được mục tiêu cơ bản của việc tổ chức chấp hành dự toán chi ngân sách nhà
nước, ĐVSN phải đảm bảo phân phối, cấp phát và sử dụng nguồn vốn hợp lý, tiết kiệm,
thông qua áp dụng các biện pháp sau:
- Trên cơ sở dự toán chi ngân sách đã được duyệt và các chế độ, chính sách hiện

hành, cơ quan chức năng phải hướng dẫn cụ thể, rõ ràng cho các đơn vị thi hành.


- Tổ chức các hình thức cấp phát vốn thích hợp với mỗi loại hình đơn vị, mỗi loại
hoạt động và nguồn kinh phí hoạt động, trên cơ sở đó quy định rõ trình tự cấp phát nhằm tạo
cơ sở pháp lý cho việc thống nhất thực hiện.
- Hướng dẫn các đơn vị thực hiện tốt chế độ hạch toán kế toán áp dụng cho các đơn
vị, sao cho sự hình thành nguồn kinh phí và sử dụng kinh phí phải được hạch toán đúng, đủ,
chính xác và kịp thời. Trên cơ sở đó đảm bảo việc quyết toán kinh phí được nhanh, chính
xác, đồng thời cung cấp các tài liệu có tính chuẩn mực cao cho các cơ quan có thẩm quyền
xét duyệt.
- Cơ quan tài chính phải thường xuyên xem xét khả năng đảm bảo kinh phí cho nhu
cầu chi ngân sách nhà nước để có biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm thiết lập lại thế cân
đối mới trong qua trình chấp hành dự toán.
- Thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình nhận và sử dụng kinh phí tại mỗi đơn vị
sao cho mỗi khoản chi tiêu đảm bảo theo dự toán, đúng định mức tiêu chuẩn của Nhà nước,
góp phần nâng cao tính tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý chi ngân sách.
* Quyết toán chi ngân sách nhà nước:
Quyết toán chi ngân sách nhà nước là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý chi tài
chính. Đó là quá trình kiểm tra, rà soát, chỉnh lý lại các số liệu đã được phản ánh sau một kỳ
chấp hành dự toán để phân tích, đánh giá kết quả chấp hành dự toán, rút ra những kinh
nghiệm và bài học cần thiết cho kỳ chấp hành dự toán tiếp theo. Bởi vậy, trong quá trình
quyết toán các khoản chi ngân sách phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
- Lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời cho các cơ quan có thẩm
quyền xét duyệt theo chế độ quy định.
- Số liệu trong báo cáo phải đảm bảo tính chính xác, trung thực. Nội dung các báo
cáo tài chính phải theo đúng nội dung ghi trong dự toán được duyệt và theo đúng mục lục
ngân sách nhà nước quy định.
- Báo cáo quyết toán năm của các đơn vị dự toán các cấp trước khi trình cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt phải có xác nhận của Kho bạc nhà nước đồng cấp và phải

được cơ quan Kiểm toán nhà nước kiểm toán.

×