Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

LUẬN VĂN: Thực trạng và các biện pháp thu hút khách tại khách sạn Kim Liên 1 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.73 KB, 52 trang )











LUẬN VĂN:
Thực trạng và các biện pháp thu hút
khách tại khách sạn Kim Liên 1











Lời mở đầu

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam cũng đã có
được những bước tăng trưởng, phát triển đáng kể trong những năm qua nhất là từ sau
chuyển đổi kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế phát triển cộng với việc ứng dụng thành công những tiến bộ


khoa học kỹ thuật trên thế giới, đã giúp tăng năng suất lao động, tăng thu nhập, đời sống vật
chất của người dân ngày càng được cải thiện, trình độ dân trí ngày càng nâng cao. Khi cuộc
sống của người dân được ổn định, họ sẽ hướng tới thoả mãn những nhu cầu cao cấp hơn
(nhu cầu thứ yếu) theo thứ bậc nhu cầu của A.Maslow, và nhu cầu đi du lịch là một tất yếu.
ở Việt Nam, tuy đây là một ngành kinh tế còn non trẻ nhưng tầm quan trọng của du
lịch đã được đánh giá đúng mức. Dựa trên những tiềm năng sẵn có của du lịch Việt Nam và
tiềm năng tài nguyên thiên nhiên phong phú, Đại hội VIII đã khẳng định: “Phát triển nhanh
du lịch, từng bước đưa nước ta trở thành trung tâm du lịch và thương mại có tầm cỡ”.
Sau một vài năm đổi mới, lượng khách du lịch đến Việt Nam tăng nhanh đã làm tăng
số lượng nhà hàng và khách sạn, đặc biệt khách sạn quốc doanh nước cũng đã và đang có
những bước chuyển biến mạnh mẽ. Nơi đâu cũng xuất hiện tình trạng: “Nhà nhà làm du
lịch, người người làm du lịch”. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải tự hạch toán kinh doanh
độc lập, nguồn khách truyền thống không còn được bảo đảm. Chính vì vậy, đã đẩy du lịch
Việt Nam đối diện với tình trạng cung vượt quá cầu, cạnh tranh trên thị trường diễn ra hết
sức khốc liệt.
Như vậy, để duy trì hoạt động của công ty, thực tế đòi hỏi các nhà kinh doanh khách
sạn phải nghiên cứu kỹ đối tượng khách của mình từ đó đề ra các biện pháp thích hợp nhằm
thu hút và thoả mãn tối đa những nhu cầu của đối tượng khách này.
Xuất phát từ điều đó, bài viết của em xin trình bầy về đề tài: “Thực trạng và các
biện pháp thu hút khách tại khách sạn Kim Liên 1”. Nội dung chủ yếu tập trung vào
những vấn đề sau:



Chương 1: Những lý luận cơ bản về khách du lịch và các phương pháp thu hút khách
của ngành kinh doanh khách sạn
Chương 2: Thực trạng kinh doanh và các hoạt động thu hút khách của Công ty
Khách sạn Kim Liên 1.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động thu hút khách của Công ty
Khách sạn Kim Liên 1.


























Chương 1
Lý luận chung về khách sạn, kinhdoanh khách sạn, khách du lịch và các biện
pháp thu hút khách trong kinh doanh khách sạn



1.1. Một số khái niệm cơ bản về kinh doanh khách sạn
1.1.1. Khái niệm du lịch
Theo định nghĩa của Liên hợp quốc và tổ chức thế giới và du lịch thì bất cứ ai ngủ
một đêm tại nơi không phải là nhà mình và mục đích của chuyến đi không phải nhằm mục
đích kiếm tiền đều được coi là khách du lịch.
Năm 1986m trong điều 4 của tuyên bố La Hay được đưa ra tại Hội nghị về du lịch do
Liên minh Quốc hội tổ chức tại La Hay (Hà Lan) đã viết:
Khách du lịch quốc tế là những người:
 Trên đường đi thăm một nước khác ngoài nơi cư trú thường xuyên của
mình.
 Mục đích chuyến đi là tham quan, thăm viếng hoặc nghỉ ngơi với thời gian
không quá tháng, nếu quá 3 tháng phải ra hạn.
 Không được làm việc gì để trả thù lao tại nước đến do ý muốn của khách
hoặc do yêu cầu của nước sở tại.
 Sau khi kết thúc chuyến tham quan (hay tạm trú) phải dời khỏi nước đến
tham quan để trở về nước thường trú của mình hoặc đi sang một nước khác.
ở Việt Nam, theo quy chế quản lý lữ hành của Tổng cục du lịch khách du lịch quốc tế
là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đến Việt Nam không quá 12
tháng với mục đích tham quan, nghỉ dưỡng, hành hương, thăm thân, tìm hiểu cơ hội đầu tư,
kinh doanh…
Còn theo khái niệm mới nhất trong Pháp lệnh du lịch Việt Nam mới được công bố “
Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt



Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du
lịch”.
Như vậy, việc đưa ra các khái niệm về khách du lịch quốc tế chủ yếu sẽ giúp cho
việc thống kê được chính xác, đầy đủ, để giúp cho ngành, cho các doanh nghiệp du lịch lập
ra được kế hoạch cũng như chiến lược được phù hợp hơn. Thông thường các khái niệm về

khách du lịch quốc tế được dựa trên các tiêu chí sau:
 Phạm vi lãnh thổ của chuyến đi.
 Thời gian cư trú.
 Mục đích của chuyến đi.
Còn về khái niệm khách du lịch nội địa thì theo quy chế quản lý lữ hành của Tổng
cục du lịch : “ Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam dời khỏi nơi cư trú của mình
không quá 12 tháng đi thăm thân, hành hương, kinh doanh… trên lãnh thổ Việt Nam”.
Còn theo Pháp lệnh du lịch Việt Nam “Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam,
người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”.
1.1.2. Nhu cầu du lịch
1.1.2.1. Khái niệm về nhu cầu du lịch
Nhu cầu du lịch là cái tất yếu tự nhiên, nó thuộc tính tâm lý của con người, hay nói
cách khác, nhu cầu chính là mầm mống, nguyên nhân của hành động, nhu cầu nếu nó được
thoả mãn thì nó gây ra những tác động tích cực và ngược lại nếu nó không được thoả mãn
thì nó sẽ gây ra những phản ứng không tích cực. Vấn đề muốn nhấn mạnh ở đây là làm sao
có thể nắm vững được những nhu cầu đó để từ đó có thể thoả mãn tối đa những nhu cầu và
mong muốn đó và đem lại những lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp.
Thực tế cho ta thấy, người đi du lịch với mục đích “sử dụng tài nguyên du lịch mà
nơi ở thường xuyên của họ không có”. Tuy nhiên điều đầu tiên khi họ đến họ phải lo nơi
ăn, chốn ở, mua sắm, tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu thiết yếu của họ. Do đó, sự kết hợp
giữa tài nguyên với các dịch vụ khác đòi hỏi phải có sự hiệu quả cao nhằm thoả mãn tối đa
nhu cầu mong muốn của khách du lịch.



Trong sự phát triển không ngừng của nền sản xuất xã hội thì du lịch là một đòi hỏi tất
yếu của con người, du lịch trở thành nhu cầu mong mang tính toàn cầu.
Vậy nhu cầu du lịch là sự mong muốn, khát khao được dời khỏi nơi cư trú thường
xuyên của mình để đến một nơi khác nhằm thoả mãn những nhu cầu sinh hoạt cao cấp
không theo đuổi các mục đích kinh tế.

Nhu cầu du lịch khác với nhu cầu khác, vì nó là nhu cầu đặc biệt, mang tính cao cấp
và tổng hợp của con người, nhu cầu này được hình thành và phát triển dựa trên nền tảng của
nhu cầu sinh lý (sự đi lại, ăn ở) và các nhu cầu tinh thần (nhu cầu an toàn, nhu cầu tự khẳng
định mình, nhu cầu hoàn thiện…).
Nhu cầu du lịch được phát sinh là kết quả tác động của lực lượng sản xuất và trình độ
xã hội. Trình độ xã hội càng cao, mối quan hệ xã hội càng hoàn thiện thì nhu cầu du lịch của
con người càng phát triển.
1.1.2.2. Đặc điểm của nhu cầu du lịch
Nhu cầu du lịch cũng như các nhu cầu khác của con người nó cũng đòi hỏi sự thoả
mãn các nhu cầu chính đáng mang cấp bậc từ thấp đến cao theo lý thuyết nhu cầu của
Maslow như: nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu giao tiếp… Tuy nhiên ở đây nhu
cầu du lịch khác với nhu cầu khác, nó là một nhu cầu cao cấp, vì khi muốn thực hiện được
chuyến đi du lịch, con người cần có 2 điều kiện chính sau:
+ Thời gian nhàn rỗi
+ Khả năng thanh toán.
Thường thì trong chuyến hành trình của du khách, nhu cầu du lịch được chia làm 3
loại như sau:
- Nhu cầu thiết yếu.
-
Nhu cầu đặc trưng.

-
Nhu cầu bổ sung.

Trong 3 loại nhu cầu này thì nhu cầu đặc trưng là nhu cầu có tính quyết địn cao nhất
nó quyết định tới động cơ đi du lịch là nguyên nhân hình thành chuyến đi của con người, nó
bao gồm:




- Nhu cầu cảm thụ cái đẹp và giải trí.
-
Nhu cầu giao tiếp.

-
Nhu cầu tìm hiểu.

-
Nhu cầu thiết yếu của khách du lịch.

Loại nhu cầu này không có tính quyết định mấy, có không tạo nên động cơ đi du lịch.
Nhưng đây là nhóm nhu cầu không thể thiếu được trong chuyến hành trình du lịch như : ăn
uống, ở, đi lại… của khách. Đây cũng chính là nguyên nhân ngành kinh doanh khách sạn ra
đời và phát triển. Nhưng những nhu cầu này trong chuyến hành trình du lịch của khách nó
đòi hỏi mang tính cao cấp hơn, như ăn uống ở đây nó mang tính thưởng thức nó đòi hỏi
tính thẩm mỹ cao, ngon, mới lạ… nghĩa là nó đòi hỏi cả về chất lượng lẫn thẩm mỹ trong
từng món ăn… Như vậy, khách sạn là đơn vị kinh doanh du lịch quan trọng đảm bảo thoả
mãn tối đa nhu cầu này của khách.
Nhu cầu bổ sung: đây là nhu cầu thứ yếu và là những nhu cầu còn lại của 2 nhu cầu
trên mà khách du lịch có trong hành trình những nhu cầu này bao gồm:
- Nhu cầu mua sắm.
-
Nhu cầu về thông tin liên lạc.

-
Nhu cầu làm đẹp cho bản thân.

-
Nhu cầu y tế chăm sóc sức khoẻ.


-
Những nhu cầu khác.

Như vậy, nhu cầu của khách du lịch là rất đa dạng và phong phú, ngoài ra nó còn
mang tính tổng hợp cao. Vấn đề đặt ra ở đây cho các nhà kinh doanh du lịch nói chung và
kinh doanh khách sạn nói riêng làm sao phải nắm vững nhu cầu, áp dụng chiến lược kinh
doanh hợp lý, tổ chức xây dựng các tiêu chuẩn phục vụ hợp lý để khai thác tốt, tối đa nhu
cầu, mong muốn của khách du lịch.
1.1.3. Khái niệm khách sạn và kinh doanh khách sạn
1.1.3.1. Khách sạn
Khách sạn là một trong những loại hình cơ sở kinh doanh lưu trú của ngành du lịch.
Nó là một trong những nhân tố quan trọng không thể thiếu được trong kinh doanh du lịch.



Do vậy việc tìm hiểu khái niệm, chức năng và phân biệt khách sạn với các loại hình lưu trú
khác sẽ là tiền đề cho việc nghiên cứu các vấn đề trong kinh doanh khách sạn, đồng thời
cung cấp các lý luận giúp cho các nhà quản lý, kinh doanh khách sạn lựa chọn được hình
thức tổ chức và thực hiện hoạt động kinh doanh để đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất.
Vậy khách sạn được hiểu như thế nào? chức năng nhiệm vụ của nó là gì? đặc điểm
của khách sạn so với loại hình lưu trú khác?
“ Khách sạn là những cơ sở kinh doanh dịch vụ, hàng hoá phục vụ khách du lịch
trong thời gian khách du lịch lưu trú lại tạm thời tại các điểm du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu
ăn, ngủ… và các dịch vụ vui chơi giải trí khác”. Khác hẳn với các loại hình lưu trú khác như
Motel, Bugalow… một khách sạn nó thường có những đặc điểm sau:
-Khách sạn là một toà nhà cố định được xây dựng ở trung tâm thành phố, các khu du
lịch nghỉ dưỡng, các đầu mối giao thông quan trọng hoặc các khu lân cận giàu tài nguyên du
lịch. Vật liệu xây dựng thường có tính bền chắc.
-Khách sạn được thiết kế phải nhất thiết có buồng ngủ, phòng vệ sinh, phòng khách,
diện tích từng khu thường được quy định và nơi cung cấp các dịch vụ khác.


-Trong phòng ngủ nhất thiết phải có một số trang thiết bị tối thiểu như: giường, tủ,
tivi, phòng tắm, vệ sinh… số lượng trang thiết bị cũng như chất lượng tăng theo loại hạng
của khách sạn.

Việc nắm rõ các đặc điểm cơ bản của một khách sạn là một nhân tố quan trọng tác
động đến sự thành công trong kinh doanh, vì nó đã tác động đến quá trình kinh doanh của
khách sạn. Khi nghiên cứu về khách sạn chúng ta cầu phải phân biệt các loại hình khách
sạn. Bởi vì, trong thực tế kinh doanh mỗi loại hình khách sạn sẽ ảnh hưởng nhất định đến
đặc điểm sản phẩm của khách sạn sau này. Thông thường người ta dựa vào một số tiêu thức
sau để phân loại khách sạn:
+ Vị trí địa lý của khách sạn.
+ Mức độ dịch vụ mà khách sạn cung cấp.
+ Mức giá sản phẩm của khách sạn (thường là giá đêm phòng).
+ Quy mô của khách sạn.



+ Hình thức quản lý và sở hữu của khách sạn.
Việc phân loại khách sạn chỉ mang tính chất tương đối trên thực tế thì một khách sạn
có thể mang nhiều đặc điểm của loại hình khách sạn khác. Do vậy khi quyết định đầu tư, các
chủ đầu tư nên cân nhắc kỹ xem lựa chọn loại hình kinh doanh nào là chủ đạo, dễ dàng cho
việc kinh doanh của mình.
1.1.3.2. Kinh doanh khách sạn
 Khái niệm kinh doanh khách sạn
Kinh doanh khách sạn là hoạt động kinh doanh trên cơ sở cung cấp các dịch vụ lưu
trú, ăn uống và dịch vụ bổ sung cho khách du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu của khách trong
thời gian lưu trú tại điểm du lịch và mang lại lợi ích kinh tế cho cơ sở kinh doanh.
Qua đây ta thấy được kinh doanh khách sạn thực hiện 3 chức năng cơ bản:
 Chức năng phục vụ (cung cấp các dịch vụ cho khách).


Chức năng sản xuất (như chế biến các món ăn…)


Chức năng lưu thông phân phối.

 Mục tiêu cơ bản trong kinh doanh khách sạn:

Thu hút được nhiều khách hàng.


Thoả mãn được ở mức độ cao nhu cầu của khách hàng.


Đạt được hiệu quả kinh tế cao.


 Đặc điểm của kinh doanh khách sạn
Khác với ngành kinh doanh hàng hoá, ngành kinh doanh khách sạn mang những đặc
điểm sau:
- Phụ thuộc nhiều vào tài nguyên du lịch ở điểm du lịch, có thể xem giá trị của
tài nguyên du lịch quyết định đến thứ hạngvà khả năng tiếp nhận của tài nguyên du lịch
quyết định đến quy mô của khách sạn.
-
Kinh doanh khách sạn có dung lượng vốn cố định ban đầu tương đối lớn. Đó
là vì do yêu cầu tính đồng bộ trong khách sạn (phòng ngủ, nhà hàng, dịch vụ bổ sung…).



Yêu cầu về tính chất lượng cao, không có trường hợp làm thử. Do đó phải đòi hỏi có

dung lượng vốn đầu tư ban đầu thích đáng để làm tốt ngay từ đầu.

Khách sạn thường đặt
ở vị trí đẹp và có diện tích rộng nên đầu tư vào đất đai là rất lớn, rồi chi phí đưa khách
sạn vào hoạt động.

-
Hoạt động kinh doanh khách sạn cần có một dung lượng lao động trực tiếp
lớn. Sản phẩm của khách sạn chủ yếu mang tính chất phục vụ và sự phục vụ này không
thể thay thế bởi máy móc mà chỉ có lực lượng lao động trực tiếp thực hiện được. Mặt
khác, lao động khách sạn có tính chuyên môn hoá cao, thời gian lao động phụ thuộc vào
thời gian tiêu dùng của khách, thường kéo dài 24/24h mỗi ngày.

-
Hoạt động kinh doanh khách sạn mang tính chu kỳ. Do phụ thuộc vào tài
nguyên và nhu cầu của khách nên hoạt động kinh doanh khách sạn không chỉ chịu sự tác
động của quy luật tự nhiên mà còn chịu sự tác động của các quy luật xã hội, kinh tế, thói
quen, tâm lý…

Với các đặc điểm trên, hoạt động kinh doanh khách sạn rất phức tạp. Để kinh doanh
khách sạn, thì nó đòi hỏi một số những điều kiện nhất định như: vốn, kinh doanh, kinh
nghiệm… nhưng để thành công thì ngoài
những yếu tố như trên còn phụ thuộc vào năng lực quản lý điều hành cũng như phải
có sự say mê thực sự.
1.1.3.3. Sản phẩm của khách sạn
Sản phẩm của khách sạn được hiểu là kết quả lao động của con người được tạo ra
trong lĩnh vực khách sạn nhằm thoả mãn mọi nhu cầu của khách du lịch từ khi họ có yêu
cầu đầu tiên, đến khi thanh toán và kết thúc quá trình lưu trú tại khách sạn. Như vậy, nó sẽ
bao gồm các hàng hoá, dịch vụ và các tiện ngi cung cấp cho khách.
Hàng hoá (sản phẩm vật chất) là những vật phẩm hữu hình mà khách sạn cung cấp

cho khách như đồ ăn uống, hàng lưu niệm, dịch vụ bổ sung… là phần tạo ra tính dị biệt cho
sản phẩm của từng khách sạn.
 Đặc điểm của sản phẩm khách sạn.




Sản phẩm của khách sạn bao gồm dịch vụ và hàng hoá trong đó sản phẩm
dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều. Nghĩa là nó chỉ tồn tại dưới dạng phi vật chất,
không có sự chuyển đổi quyền sở hữu cho người mua.


Sản phẩm của khách sạn chỉ có thể đánh giá chất lượng sau khi đã tiêu dùng.


Sản phẩm của khách sạn không thể dịch chuyển được trong không gian như
các hàng hóa thông thường khác, chỉ có sự vận động cơ học của khách đến nơi có sản
phẩm. Với đặc điểm này áp dụng chính sách quảng cáo, chiêu thị trên thị trường nhằm
thu hút khách đến với khách sạn phải được quan tâm chú trọng hàng đầu.


Quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm phải xảy ra đồng thời.


Sản phẩm mang tính chất tương sống, không lưu kho cất giữ được vì thế nếu
một phòng trong khách sạn không có khách thì đồng nghĩa với việc khách sạn vẫn sản
xuất được nhưng không bán được sản phẩm. Vậy khách sạn phải tìm mọi biện pháp thu
hút khách về khách sạn của mình.

Tóm lại, sản phẩm của khách sạn chỉ đạt được chất lượng tốt nếu như sau khi tiêu

dùng khách hàng cảm nhận được trạng thái tâm lý tốt và coi đó là kinh nghiệm đánh giá
trong chuyến hành trình của mình.

S
ản

ph
ẩm hàng hoá



Sản phẩm
khách sạn

Sản phẩm
dịch vụ
Dịch vụ cơ bản

Dịch vụ
bổ sung
D
ịch vụ bổ

sung bắt buộc
D
ịch vụ bổ sung
không bắt buộc




Mô hình sản phẩm của khách sạn

1.2. Một số nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách của một khách sạn
Khả năng thu hút khách của một khách sạn chính là mức độ hấp dẫn của khách sạn
đối với thị trường mục tiêu và tiềm năng, mức độ hấp dẫn tỷ lệ thuận với số lượng khách
đến khách sạn. Thông thường mức độ hấp dẫn khách biều hiện qua chất lượng sản phẩm,
giá cả của sản phẩm… Như vậy, mức độ hấp dẫn của khách sạn – khả năng thu hút khách
của khách sạn chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình nghiên cứu thì người ta chia các nhân tố tác
động đến khả năng thu hút khách của khách sạn làm hai nhóm chính:
1.2.1 Nhóm nhân tố khách quan
Đây là những nhân tố bên ngoài mà khách sạn không có hoặc ít có khả năng kiểm
soát và thay đổi chúng theo chiều có lợi.
1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên và hệ thống tài nguyên du lịch của một điểm du lịch, một
vùng, một quốc gia.
 Điều kiện tự nhiên của một điểm du lịch, một vùng, một quốc gia là vị trí địa
lý, điều kiện khí hậu, nguồn nước, hệ thống động thực vật, địa hình của điểm du lịch,
vùng đó. Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng rất lớn tới sự hấp dẫn của điểm du lịch trong đó
có cả khách sạn, điều kiện tự nhiên sẽ tạo ra sự hấp dẫn cho các khách sạn nếu nó có vị
trí thuận lợi cho giao thông đi lại, địa hình phong phú đa dạng cho các loại hình hoạt
động du lịch, khi hậu thích hợp với con người, thảm thực vật phong phú, có nhiều động
vật quý hiếm. Ngược lại nếu điều kiện tự nhiên không tốt là yếu tố kìm hãm sự phát triển
du lịch, làm mất đi sự hấp dẫn đối với khách sạn bằng những ảnh hưởng bất lợi như khí
hậu tạo nên tính thời vụ, vị trí không thuận lợi cho việc đi lại… Vì thế khi quyết định
đầu tư kinh doanh khách sạn các nhà đầu tư phải nghiên cứu kỹ các yếu tố này để hạn
chế những bất lợi xảy ra và đồng thời phát huy tận dụng những lợi thế.
 Hệ thống tài nguyên du lịch:




Tài nguyên du lịch bao gồm các yếu tố tự nhiên, văn hóa, lịch sử cùng các thành
phần của chúng góp phần phát triển thể lực và trí lực, khả năng lao động của con người.
Những tài nguyên này tác động một cách trực tiếp tới sản xuất các sản phẩm du lịch.
Tài nguyên du lịch là yếu tố thúc đẩy con người đi du lịch. Những nơi có nhiều tài
nguyên du lịch sẽ thu hút được nhiều khách tham quan và tạo điều kiện thuận lợi cho khách
sạn trong việc thu hút khách. Do vậy, trong quá trình kinh doanh thì các nhà kinh doanh du
lịch phải có sự phối hợp giữa khai thác và bảo vệ một cách hợp lý để bảo vệ nguồn tài
nguyên.
1.2.1.2. Tình hình chính trị, luật pháp
Tình hình chính trị, luật pháp, kinh tế và an toàn xã hội là những yếu tố vĩ mô tác
động theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực, nên mức độ hấp dẫn khách du lịch của một
vùng, một quốc gia và kéo theo nó là ảnh hưởng tới khả năng thu hút khách của khách sạn.
Sự an toàn là vấn đề hàng đầu mà khách đặt ra trong mỗi chuyến hành trình du lịch.
Vì vậy, một đất nước có tình hình chính trị luật pháp ổn định chặt chẽ luôn tạo cho khách du
lịch một cảm giác an tâm. Khách du lịch đi du lịch họ luôn mong có được những ngày nghỉ
êm đềm, thoải mái, quên đi những lo âu thường ngày. Khách sẽ chẳng bao giờ đến những
nơi có chính trị, trật tự an toàn không đảm bảo. Vì thế mỗi quốc gia, mỗi vùng muốn phát
triển du lịch thì phải thiết lập một trật tự xã hội, đảm bảo an toàn cho du khách tới tham
quan.
Một đất nước có nền kinh tế phát triển luôn hấp dẫn khách du lịch hơn những nước
có nền kinh tế đang trong tình trạng khó khăn. Khi nền kinh tế phát triển đây là điều kiện
thuận lợi phát triển hoạt động kinh doanh.
1.2.1.3. Mối quan hệ giữa ngành du lịch với các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân
Xuất phát từ đặc điểm sản phẩm du lịch có tính tổng hợp cao, là sự kết hợp của nhiều
ngành sản xuất kinh doanh. Do đó, để tạo ra sản phẩm du lịch có sức hấp dẫn đối với khách
du lịch đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa các ngành với nhau.
1.2.1.4. Mức độ cạnh tranh trên thị trường khách sạn




Đây là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thu hút của khách sạn, mức độ
càng cao thì vấn đề thu hút khách gặp phải nhiều khó khăn. Nhất là ngày nay khi mức cung
vượt quá mức cầu, khách sạn sẽ phải chịu những áp lực từ phía khách du lịch bởi họ có rất
nhiều sự lựa chọn. Ngoài ra khách sạn còn phải đối đầu với sự cạnh trạn khốc liệt trên mọi
phương diện như chất lượng, giá cả, quy mô, thứ hạng… Nhiều khách sạn đã phá giá để thu
hút được nhiều khách làm cho môi trường cạnh tranh thiếu lành mạnh. Chính điều này đã
làm giảm tính hấp dẫn và hiệu quả thu hút khách cũng bị giảm theo. Vì vậy, để nâng cao
khả năng thu hút khách của khách sạn ngoài việc thực hiện thu hút khách hợp lý cần phải
tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh trong thị trường khách sạn.
1.2.1.5. Sức ép từ phía nhà cung cấp và các tổ chức trung gian trong các kênh phân phối
sản phẩm của khách sạn.
Mỗi khách sạn thì có những nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ, các nhà cung cấp sẽ
gián tiếp tạo ra sự hấp dẫn của khách sạn đối với khách nếu như họ cung cấp hàng hoá, dịch
vụ chất lượng đảm bảo, giá cả phải chăng, ổn định. Các tổ chức trung gian trong kênh phân
phối đóng góp vai trò quyết định trong việc quảng cáo khuyếch trương, giới thiệu sản phẩm
các khách sạn là đầu mối trong việc thu hútk khách của khách sạn.
1.2.1.6. Xu hướng vận động của cầu thị trường
Cầu thị trường thì nó luôn biến động theo quy luật của nó. Khi nó biến động thì đồng
thời kéo theo sự biến động của cung. Do đó xu hướng vận động của các luồng khách có ảnh
hưởng rất lớn tới lượng khách của một khách sạn. Chính vì thế trong kinh doanh khách sạn
phải nghiên cứu rõ xu hướng vận động của cầu để từ đó có những biện pháp thu hút một
cách có hiệu quả.
1.2.2. Nhóm nhân tố chủ quan: đây là nhóm nhân tố khách sạn có thể kiểm soát được
1.2.2.1. Vị trí kiến trúc của khách sạn
Vị trí sẽ quyết định tới sự thành công trong kinh doanh khách sạn, khách sạn có vị trí
đẹp nơi giàu tài nguyên du lịch, xung quanh đẹp, giao thông tiện thì nó sẽ có thế mạnh lớn
trong việc thu hút khách.




Vị trí và kiến trúc khách sạn là hai yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình
xây dựng khách sạn. Kiến trúc phải gắn bó với vị trí, phù hợp với địa lý xung quanh tạo nên
sự hài hoà, từ đó sẽ tạo ra sự hấp dẫn khách du lịch. Nếu kiến trúc không hài hoà với phong
cảnh xung quanh nó sẽ làm giảm bớt sự hấp dẫn đối với khách du lịch. Vì thế trong quá
trình xây dựng khách sạn phải nghiên cứu sự hài hoà này.
1.2.2.2. Uy tín và thứ hạng của khách sạn.
Uy tín và thứ hạng của khách sạn chính là niềm tin của khách đối với khách sạn. Uy
tín là mục tiêu lâu dài của mọi doanh nghiệp không riêng gì khách sạn. Đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay mức độ cạnh tranh trở nên gay gắt thì vấn đề uy tín và thứ hạng trở nên rất
quan trọng. Khách sạn có uy tín và thứ hạng trở nên rất quan trọng. Khách sạn có uy tín cao
thì khả năng cạnh tranh càng lớn. Uy tín không thể gây dựng trong thời gian ngắn được mà
nó diễn ra trong thời gian dài thông qua việc dùng của khách tạo ra sự tín nhiệm đối với họ.
Thứ hạng cũng là một thước đo rất quan trọng tới chất lượng dịch vụ cung cấp của
khách sạn, đồng thời nó cũng là tiêu thức để cho khách lựa chọn. Vì thế việc xếp hạng
khách sạn là rất cần thiết nó giúp cho khách sạn nhận biết được vị trí trong bảng xếp hạng
đồng thời là công cụ thu hút khách.
1.2.2.3. Chính sách marketing mix của khách sạn
Đây là chính sách mà khách sạn có thể kiểm soát được và coi đó như là công cụ để
thu hút khách.
 Chính sách về sản phẩm
Đó chính là tính đa dạng của sản phẩm, danh mục, chủng loại và đặc tính của nó.
Chính vì vậy, để thu hút khách khách sạn không những quan tâm tới sự đa dạng của sản
phẩm mà còn cả chất lượng nữa vì chất lượng sản phẩm của khách sạn là một trong nhựng
công cụ, phương tiện quảng cáo hiệu quả, chi phí thấp.
 Chính sách giá cả
Nó cũng là một công cụ rất hữu hiệu trong việc thu hút khách đối với những khách
nhạy cảm về giá.




Trong kinh doanh khách sạn giá vừa là công cụ để cạnh tranh trên thị trường. Đối với
người có khả năng thanh toán thấp thì giá sẽ quyết định lớn tới quyết định tiêu dùng của
khách. Với khách, giá cả là thước đo của chất lượng sản phẩm, họ quan niệm giá cao thì
chất lượng tốt và ngược lại. Họ có thể so sánh giá khách sạn này với khách sạn khác để lựa
chọn tiêu dùng. Vì vậy đưa ra một chính sách giá hợp lý, linh hoạt sẽ tăng khả năng thu hút
khách của khách sạn.
 Chính sách phân phối
Là sự chọn lựa và thiết lập kênh phân phối, các trung gian trong quá trình hoạt động
kinh doanh nhằm đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng. Do đặc tính của sản phẩm khách
sạn là cố định, việc sản xuất và tiêu dùng tại chỗ, cùng một thời điểm nên việc lựa chọn
kênh phân phối có thể tăng khả năng thu hút khách của khách sạn nêú như lựa chọn chúng
và ngược lại.
 Chính sách xúc tiến khuyếch trương
Để mọi người có thể biết đến khách sạn cũng như những sản phẩm của khách
sạn, hoạt động khuyếch trương quảng cáo có vai trò quan trọng, nó không chỉ cung cấp
thông tin cho khách mà còn giúp cho khách sạn tìm kiếm thị trường mới, mở rộng phạm vi
hoạt động, tăng cường khả năng thu hút khách.
Tóm lại, tất cả các nhân tố trên nó đều ảnh hưởng tới khả năng thu hút khách của
khách sạn. Tuy nhiên ở mỗi nhân tố khác nhau thì chúng có mức độ khác nhau.

1.3. Một số biện pháp chủ yếu nhằm thu hút khách trong khách sạn
Trong kinh doanh khách sạn để thu hút khách trong khách sạn các biện pháp khác
nhau, việc áp dụng các biện pháp này hay biện pháp kia là tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt
động kinh doanh của từng doanh nghiệp, khả năng áp dụng của từng doanh nghiệp và đặc
biệt là tuỳ vào nhóm khách hàng mà doanh nghiệp nhằm tới. Trong thực tế thì các khách sạn
không chỉ áp dụng biện pháp đơn lẻ để thu hút khách mà họ thường sử dụng kết hợp một số
biện pháp nhằm tạo ra sự hỗ trợ giữa các biện pháp là nghệ thuật trong kinh doanh của các




nhà quản lý. Thông thường trong hoạt động kinh doanh khách sạn người ta thường hay sử
dụng một số biện pháp nhằm thu hút khách như sau:
- Nâng cao chất lượng phục vụ.
- Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm.
- Sử dụng chính sách hợp lý linh hoạt.
- Tăng cường mở rộng các mối liên doanh, liên kết với các tổ chức và
công ty lữ hành.
- Sử dụng lợi thế của khách sạn vào việc thu hút khách.
- Sử dụng một số biện pháp khác.
1.3.1. Nâng cao chất lượng phục vụ: là nhân tố quyết định tới khả năng thoả mãn nhu cầu
mong muốn của khách, đồng thời tạo ra sự cạnh tranh cho khách sạn, tạo ra uy tín cho
khách sạn. Để phục vụ tốt khách sạn cần phải xác định chính xác khách hàng mục tiêu là ai?
Yêu cầu chất lượng phục vụ như thế nào? trên cơ sở này khi nghiên cứu nhu cầu của đối
tượng khách này cần xem xét trên các phương diện:
- Chất lượng khách mong đợi.
- Chất lượng mà khách sạn mong muốn đáp ứng.
- Chất lượng khách cảm nhận khi tiêu dùng.
Từ những đánh giá trên khách sạn sẽ xây dựng sản phẩm có chất lượng phù hợp, duy
trì và cải thiện trong quá trình kinh doanh bằng những biện pháp thường sử dụng quản lý
chất lượng, nâng cao chất lượng tiện nghi, nâng cao chất lượng đội ngũ lao động và nâng
cao chất lượng trong khi phục vụ khách hàng.
1.3.2. Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm, tạo tính dị biệt cho sản phẩm khách sạn
Sản phẩm cuả khách sạn bao gồm hai phần chính là sản phẩm hàng hóa và sản phẩm
dịch vụ. Việc đa dạng hoá sản phẩm sẽ cho phép mở rộng thêm sự lựa chọn và cơ hội lựa
chọn cho khách hàng khi mua sản phẩm của khách sạn, chủng loại sản phẩm đa dạng giúp
cho khách có thể thoả mãn nhiều nhu cầu hơn và đồng thời chủng loại sản phẩm phong phú
hơn sẽ thoả mãn nhiều đối tượng khách khác nhau. Lúc này ta có thể coi chất lượng sản
phẩm đã được nâng cao bởi nó đã thoả mãn tối đa nhu cầu của khách. Sự phong phú của các




chủng loại sản phẩm thể hiện trên các tiêu chỉ tiêu cụ thể hoá cho từng khu vực, từng bộ
phận khác nhau. Tuy nhiên, khi đa dạng hoá chủng loại sản phẩm cần đảm bảo sự đa dạng
đồng bộ, tránh sự mất cân đối trong vấn đề đầu tư, có như vậy, mới thu hút được khách.
Tạo tính dị biệt hay dị biệt hoá sản phẩm của khách sạn sẽ góp phần quan trọng trong
việc nâng cao khả năng cạnh tranh thu hút khách khi sản phẩm bị cạnh tranh gay gắt bởi sản
phẩm của các đối thủ cạnh tranh, đồng thời nó cũng là biện pháp hữu hiệu chống ảnh hưỏng
tiêu cực dễ bắt chước khi đưa ra một sản phẩm, dịch vụ mới. Dị biệt hoá sản phẩm khách
sạn được tạo ra đôi khi chỉ là những chi tiết bổ sung rất nhỏ vào sản phẩm nhưng nó lại có
những tác dụng rất lớn trong việc gây ra ấn tượng đối với khách.
1.3.3. Sử dụng chính sách giá hợp lý
Chính sách giá hợp lý chính là chính sách giá mà nó dung hoà được lợi ích giữa
khách sạn và khách du lịch. Để có được mức giá hợp lý thì khách sạn phải tính toán, chú ý
đến các chỉ tiêu về điểm hoà vốn, thứ hạng của khách sạn, uy tín, nhu cầu của đối tượng
khách, mối quan hệ cung cầu và đối thủ cạnh tranh… các mức giá đưa ra ở các mức chất
lượng khác nhau. Kết hợp các yếu tố này và mục tiêu chính sách giá khách sạn đưa ra mức
giá hợp lý nhằm tăng cường khả năng thu hút khách.
Khi đã xây dựng được chính sách giá hợp lý, để thu hút khách thì đòi hỏi khách sạn
phải áp dụng chính sách giá hợp lý đó một cách mềm dẻo, linh hoạt. Sự mềm dẻo linh hoạt
của giá thể hiện ở chỗ: tuỳ từng đối tượng khách, theo thời vụ, theo từng chủng loại sản
phẩm mà chúng ta áp dụng những chính sách giá khác nhau. Chính sách giá hợp lý linh hoạt
nó sẽ tạo điều kiện cho khách sạn mở rộng được thị trường và nâng khả năng thu hút khách
1.3.4.Tăng cường hoạt động quảng cáo khuyếch trương.
Xuất phát từ đặc tính của sản phẩm du lịch đó là sản xuất và tiêu dùng tại chỗ, tức là
sản phẩm không thể đem đi cung cấp tới người tiêu dùng mà người tiêu dùng phải tìm đến
để tiêu dùng, chính vì thế người tiêu dùng thường ở xa sản phẩm du lịch cho nên họ thiếu
những thông tin về sản phẩm. Để thuyết phục tiêu dùng, kích thích họ đi du lịch thì khách
sạn cần phải cung cấp đầy đủ các thông tin cho họ thông qua các hoạt động quảng cáo
khuyếch trương, đây là công cụ đắc lực để giới thiệu sản phẩm của khách sạn. Để công tác




hoạt động quảng cáo khuyếch trương thực sự có hiệu quả đối với công tác thu hút khách các
nhà làm marketing cần phải trả lời một số câu hỏi sau:
- Loại hình quảng cáo nào phù hợp với khách hàng mục tiêu?
- Thời điểm quảng cáo thích hợp nhất.
- Nội dung quảng cáo.
- Phạm vi quảng cáo.
- Ngân quỹ dành cho quảng cáo.
Khi đã trả lời được những câu hỏi này thì một bản kế hoạch marketing đã được thực
hiện.
1.3.5. Tập hợp và xây dựng mối quan hệ với các đơn vị khác
Trong nền kinh tế thị trường thì một doanh nghiệp đơn lẻ sẽ không đủ sức để đáp ứng
được nhu cầu thị trường nếu không có sự thiết lập các mối quan hệ bạn hàng, các doanh
nghiệp khác.
Để có được nhiều khách cho khách sạn thì nhân tố không thể thiếu đó là mối quan hệ
mật thiết với các hãng lữ hành, các đại lý du lịch, các cá nhân khách tới khách sạn.
Ngoài ra để đảm bảo vấn đề chất lượng khách sạn quan hệ tốt với các doanh nghiệp
khác với tư cách là nhà cung cấp các nguyên vật liệu đầu vào…
Để duy trì mối quan hệ tốt thì khách sạn cần phải có những chính sách cụ thể nhằm
thoả đáng đúng lợi ích giữa đôi bên một cách hợp lý.
Nói chung có rất nhiều các biện pháp nhằm thu hút khách mà các công ty du lịch và
khách sạn có thể áp dụng. Vấn đề đặt ra đây đó là khách sạn phải biết lựa chọn những biện
pháp nào tối ưu nhất, phù hợp nhất với thực tế cua mình thì nó áp dụng một cách có hiệu
quả để mang lại nguồn khách tối đa như mong muốn.


Chương 2
Thực trạng kinh doanh và các hoạt động thu hút khách của khách sạn Kim
Liên 1





2.1. giới thiệu đôi nét về công ty khách sạn du lịch kim liên
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Công ty khách sạn Kim Liên là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực khách sạn và du lịch. Công ty nằm trên đường Đào Duy Anh-Quận Đống
Đa-Hà Nội với diện tích 36.331 mét vuông. Công ty có 2 khách sạn lớn, 4 nhà hàng, hội
nghị phòng họp và một hệ thống các kiốt bán hàng may mặc và thủ công mỹ nghệ.
Khách sạn Kim Liên được bắt đầu từ khách sạn Bạch Mai trước đây.Xuất phát từ
cục chuyên gia, có thể xem đây là chiếc nôi, nơi mà khách sạn Kim Liên đã từ đó ra đời và
trưởng thành-là cơ quan cấp trên trực tiếp quản lý và chỉ đạo khách sạn Bạch Mai -Kim
Liên trong hơn 30 năm.
Vào năm 1961-1993 : khách sạn chuyên gia Kim Liên-công ty khách sạn Kim Liên
ngày nay là một đơn vị phục vụ chuyên gia, trực thuộc quyền quản lý của cục chuyên gia,
nay là văn phòng chính phủ. Trong thời gian này, đối tượng phục vụ chính của khách sạn là
chuyên gia nước ngoài sang làm việc tại Việt Nam. Đây là một cơ sở phục vụ chuyên gia
lớn nhất miền Bắc hồi đó (bao gồm 10 ngôi nhà 4 tầng, có tất cả 600 phòng ) đáp ứng được
cho trên 1000chuyên gia và gia đình chuyên gia. Đây cũng là nơi thực hiện chính sách-chế
độ phục vụ đời sống chuyên gia theo hiệp định-hợp đồng ký kết giữa ta và các nước.
Cũng trong thời gian này đơn vị đã góp phần đáng kể vào việc huấn luyện chuyên
môn cho một số đơn vị trong và ngoài ngành. Kim Liên là chiếc nôi đào tạo nhiều cán bộ
quản lý, nhiều nhân viên nghiệp vụ cho ngành du lịch -khách sạn. Trong suốt trên 30 năm
phục vụ chuyên gia nước ngoài, khách sạn Kim Liên luôn giữ vị trí con chim đầu đàn của
cục chuyên gia, là đơn vị nòng cốt luôn đi đầu trong mọi nhiệm vụ với ý niệm “việc gì khó
có Kim Liên”.
Từ năm 1994 đến nay : công ty du lịch Kim Liên thuộc quyền quản lý của Tổng cục
du lịch.




Từ năm 1992-2000 : đây là một bước ngoặt mới cho tất cả các ngành sản xuất-kinh
doanh nói chung và cho khách sạn Kim Liên nói riêng. Thời kỳ hoạt động sản xuất kinh
doanh theo cơ chế thị trường với phương châm sản xuất và bán những thứ mà thị trường cần
chứ không phải sản xuất và bán những cái mà ta có, nghĩa là mọi hoạt động sản xuất phải
xuất phát từ phía khách hàng. Khách sạn Kim Liên đã xác định hướng đi đúng đắn, đúng đối
tượng, đúng mục tiêu kinh doanh : luôn bảo toàn vốn, đạt hiệu quả kinh doanh năm sau cao
hơn năm trước, bảo đảm và phát triển, nâng cao đời sống công nhân viên, thực hiên tốt
nghĩa vụ đối với nhà nước.
*Khách sạn Kim Liên đã qua 5 lần đổi tên và có 6 tên gọi :
- Khách sạn Bạch Mai (QĐ 49TC – CCG 2/5/1961 )
- Khách sạn chuyên gia Kim Liên năm 1971
- Khách sạn chuyên gia và du lịch Kim Liên (QĐ191/bt 29/8/1993 )
- Công ty du lịch Bông Sen Vàng (số 276TCDL/QĐ-TCDL 19/7/1995)
- Công ty khách sạn Bông Sen Vàng (số 309QĐ-TCDL 25/11/1995)
- Công ty khách sạn du lịch Kim Liên (số 454/QĐ TCDL 16/10/1997)




2.1.2. Mô hình quản lý và tổ chức
2.1.2.1. Mô hình và cơ cấu tổ chức:

























Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức Công ty Khách sạn Kim Liên
Ban giám
đ
ốc

Tổ chức hành Kế toán thống Kế hoạch
Trun
g
Tâm
du
l
ịch


T.tâm

Công
nghệ
thôn
g
Trung
tâm
thươn
g mại
đội
bảo
vệ
độ
i
tu
sử
a

độ
i
gi
ặt


Hệ
thố
ng
nhà
hàn

Giáo giục khách sạn Giáo dục khách sạn
Bộ phận
l
ễ tân

Bộ phận
bu
ồng

Bộ phận
bu
ồng

Bộ phận
l
ễ tân




Nhận xét đánh giá mô hình cơ cấu tổ chức của CTKSDLKL.Đây là cơ cấu tổ chức
của công ty theo mô hình trực tuyến – chức năng, đứng đầu là ban Giám đốc công ty với 1
giám đốc và 2 phó giám đốc. Sau đó là các phòng ban hành chính gồm phòng tổ chức hành
chính và phòng tài chính kế toán,các phòng và các đơn vị trực tiếp kinh doanh bao gồm: hai
trung tâm khách sạn Kim Liên I và khách sạn Kim Liên II.
2.1.2.2 Chức năng của các phòng ban
*Ban giám đốc: là người lãnh đạo, quản lý toàn bộ mọi hoạt động kinh doanh của
khách sạn, thay mặt khách sạn tiến hành giao dịch, giải quyết các công việc với các cơ quan
hữu quan. Là người chịu trách nhiệm chính về hoạt độnh kinh doanh của khách sạn quản lý
điũu hành trực tiếp các bộ phận phòng ban trong khách sạn.

*Phó giám đốc :có nhiệm vụ trợ lý giúp đỡ cho giám đốc điũu hành các hoạt động
của công ty. Thay mặt giám đốc điều hành các hoạt động của công ty khi giám đốc đi vắng.
*Phòng tổ chức hành chính có chức năng tham mưu cho giám đốc về công tác quản
lý nhân sự, làm công tác lao động, tiền lương, quản lý sử dụng cán bộ công nhân viên, quản
lý hồ sơ, đánh giá khen thưởng, kỷ luật cán bộ công nhân viên.Thực hiện chế độ chính sách
tuyển dụng lao động theo yêu cầu của các phòng ban, bộ phận trong công ty.
*Phòng kế hoach nghiệp vụ: có nhiệm vụ tham mưu cho ban giám đốc công ty để
xây dựng kế hoạch kinh doanh hàng năm. Xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch,cơ cấu doanh
số,định mức chi phí,giá cả …Một cách linh hoạt và thực hiện thiết kế xây dựng trong Công
Ty.
*Phòng kế toán:Tham mưu cho ban giám đốc về công tác tài chính của khách sạn là
công cụ thông tin phục vụ cho quá trình quản lý tronh đơn vị.
+Theo dõi cập nhật hàng hoá nhập xuất trong đơn vị.
+Theo dõi thực hiện phần thu chi của đơn vị.
+Phản ánh báo cáo với ban lãnh đạo về tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất
kinh doanh toàn đơn vị qua các biểu mẫu báo cáo.



+Cung cấp các số liệu phục vụ cho việc phân tích hoạt động kinh doanh,so
sánh giữa chu kỳ kinh doanh để đề ra phương án kinh doanh tốt nhất phù hợp với tình hình
cụ thể.
*Phòng thị trường:Chức năng chính là tham mưu cho giám đốc về thị trường du lịch,
chính sách khuyến khích kinh doanh và các biện pháp thu hút khách, tổ chức các chuyến du
lịch cho khách, tổ chức ký kết các hợp đồng đưa đón hướng dẫn tham quan các tuyến du
lịch.
*Bộ phận lễ tân :
Đại diện cho khách sạn trong việc mở rộng mối quan hệ,có vai trò trong công tác thu
hút khách,làm cầu nối liên hệ giữa khách du lịch với các bộ phận khác trong khách sạn,nó
có vai trò quan trọng trong việc định hướng tiêu dùng của khách ở khách sạn,giới thiệu sản

phẩm dịch vụ của khách sạn.
+Bộ phận lễ tân đóng vai trò trung tâm phối hợp mọi hoạt động của các bộ
phận trong khách sạn.Giúp cho các bộ phận hoạt động một cách hiệu quả.
+Tham mưu cho giám đốc,cung cấp các thông tin về khách giữa các cấp lãnh
đạo,điũu chỉnh kế hoạch,chiến lược kinh doanh cho phù hợp.
Ngoài những chức năng này ra bộ phận lễ tân đóng một vai trò quan trọng là tham
gia vào hoạt động kinh doanh bán phòng ngủ,đón tiếp khách, bố chí phòng, giữ đồ, thanh
toán tiền.Và giảI quyết hoặc cùng giảI quyết khiếu lạI của khách, quản lý cơ sở vật chất kỹ
thuật khu vực tiền xanh.
*Bộ phận buồng
Chức năng :Là bộ phận tạo ra doanh thu chính cho dịch vụ lưu trú có tỷ lệ khá lớn
trong cơ cấu tiêu dùng của khách.
Theo dõi giám sát tham mưu cho ban giám đốc và các bộ phận khác về việc thực hiện
chất lượng sản phẩm, kiểm soát chi phí phòng, sản phẩm phòng.
Theo dõi nhu cầu tiêu dùng của khách khi tiêu dùng dịch vụ lưu trú, từ đó tham mưu
cho bộ phận khác thoả mãn tối đa nhu cầu đó.
Nhiệm vụ bộ phận này: Hàng ngày làm vệ sinh khu vực trong và ngoài khu lưu trú.



Thông báo cho bộ phận lễ tân về tình trạng phòng hàng ngày kiên trì bảo quản trang
thiết bị nội thất, vệ sinh phòng nghỉ các nơi công cộng thuộc phạm vi quản lý.
Đáp ứng nhu cầu vệ sinh như giặt là, Massage, đối với những nhu cầu phát sinh thì
tận tình phục vụ. Đồng thời thông báo cho bộ phận thu ngân về những dịch vụ mà khách sạn
đã tiêu dùng…
*Bộ phận nhà hàng:
+ Thoả mãn khách về nhu cầu ăn uống.
+ Là bộ phận tạo ra doanh thu khá cao cho khách sạn.Có nhiệm vụ nhu cầu
ăn uống cúa khách, tổ chức chế biến, phục vụ các loạI thực đơn cho phù hợp cho các loạI
khách.

+ Quảng cáo khuếch trương các dịch vụ ăn u
ống của khách sạn
+ Đảm bảo chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm.
2.1.2.3.Tình hình nhân lực của công ty khách sạn du lịch Kim LIên.
Đến năm 2003 công ty có 620 lao động, trong đó:
 Tỷ lệ nam/nữ: 230/390
 Lao động trực tiếp 525 người, chiếm 85%
 Tỷ lệ lao động bình quân trên 1 buồng là 398:370+1,076 người / phòng
 Trình độ học vấn của lao động trong công ty như sau:
 Đạ học 80 người chiếm 12,9%
 Trên đại học 5 người
 Trung cấp 165 người chiếm 26,6%
 Còn lại là sơ cấp
Nhìn chung lực lượng lao động của công ty có trình độ không cao, mặt khác công ty
có quá trình kinh doanh lâu dàI trên 40 năm, lên tuổi đời lao động khá cao, điều này dẫn đến
khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu nghiên cứu chất lượng phục vụ.Vì vậy vấn đề quan
trọng đặt ra ở đây đối với công ty là trẻ hoá đội ngũ lao động kể cả lao động trực tiếp và lao
động quản lý.

×