Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

LUẬN VĂN:Giải pháp phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh Nghệ An ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.13 KB, 93 trang )







LUẬN VĂN:

Giải pháp phát triển làng nghề trên
địa bàn tỉnh Nghệ An









Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển làng nghề là một nội dung chủ yếu của CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở nước ta. Nhờ những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong những
năm qua sự phát triển làng nghề đã đạt được những kết quả to lớn, góp phần làm thay đổi
nhanh chóng bộ mặt nông thôn. Sự phát triển làng nghề đã đem lại hiệu quả to lớn về
nhiều mặt, không chỉ góp phần phát triển kinh tế, mà còn góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc, bảo đảm an ninh trật tự xã hội. ở một số tỉnh như Bắc Ninh, Hà Nam, Thái Bình,
Nam Định, Hà Tây trước đây, làng nghề phát triển rất nhanh, đạt được những kết quả to lớn.
Năm 2007 nước ta trở thành thành viên chính thức của WTO, phát triển làng nghề đang có
nhiều cơ hội mới nhưng đồng thời cũng gặp nhiều khó khăn.


Nghệ An là một tỉnh thuộc Bắc Trung bộ, có nhiều tiềm năng phát triển làng nghề.
Nhờ những chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, chủ trương, chính sách của
tỉnh, nhất là từ khi có Nghị quyết 06-NQ/TU ngày 8 tháng 8 năm 2001 của Ban chấp hành
Đảng bộ tỉnh (khoá XV) về phát triển công nghiệp, TTCN, xây dựng làng nghề thời kỳ
2001-2010, làng nghề trên địa bàn tỉnh đã được khôi phục và phát triển nhanh hơn. Năm
2007 cả tỉnh đã có 55 làng nghề đạt tiêu chí của tỉnh. Tuy vậy, sự phát triển làng nghề ở
Nghệ An còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng so với tiềm năng, còn xa so với mục tiêu
Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI (2005) đề ra đến năm 2010 là cả tỉnh có 100
làng nghề [11]. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Giải pháp phát triển làng nghề trên địa
bàn tỉnh Nghệ An” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
ở nước ta đã có một số công trình, đề tài nghiên cứu về phát triển làng nghề. Sau
đây là một số công trình, đề tài tiêu biểu:
- Về đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước và cấp bộ:
+ Đề tài Về các giải pháp phát triển thủ công nghiệp theo hướng CNH, HĐH ở
vùng ĐBSH của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, do TS. Đặng Lễ Nghi làm chủ
nhiệm đề tài, thực hiện năm 1998.



+ Đề tài Đề xuất chính sách và biện pháp cải thiện môi trường cho bảy loại hình
làng nghề có nguy cơ gây ô nhiễm nghiêm trọng (mã số KC.08.09) do GS.TS. Đặng Kim
Chi làm chủ nhiệm (đề tài được tặng bằng khen của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ
giai đoạn 2001-2005).
+ Đề tài Quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công phục vụ CNH, HĐH nông thôn
Việt Nam do JICA và Bộ NN&PTNT thực hiện tháng 11 năm 2002. Công trình đã điều tra,
nghiên cứu nhiều vấn đề liên quan đến làng nghề thủ công của tất cả 61 tỉnh, thành cả
nước (số lượng các tỉnh, thành năm 2001) chuẩn bị quy hoạch tổng thể và nêu các kiến
nghị cụ thể, đề xuất các chương trình hành động để phát triển ngành nghề nông thôn.
+ Đề tài Tiếp tục đổi mới chính sách và giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của

các làng nghề truyền thống ở Bắc Bộ thời kỳ đến năm 2010 của Viện Nghiên cứu Thương
Mại (Bộ Thương Mại) thực hiện năm 2003.
+ Đề tài Hoàn thiện các giải pháp kinh tế – tài chính nhằm khôi phục và phát triển
làng nghề nông thôn vùng ĐBSH của Học viện Tài chính (Bộ Tài chính) thực hiện năm
2004.
+ Đề tài Phát triển thị trường cho làng nghề TTCN vùng ĐBSH trong giai đoạn
hiện nay của khoa Kinh tế phát triển (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) thực hiện
năm 2005.
- Về sách:
+ Tạo việc làm thông qua khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, Nxb. Nông
nghiệp (1997) của KS. Nguyễn Văn Đại và PTS. Trần Văn Luận.
+ Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, Nxb. Văn hoá (1998) của ThS. Bùi
Văn Vượng.
+ Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình CNH, Nxb. Khoa học xã hội
(2001) của TS. Dương Bá Phượng.
+ Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH, HĐH, Nxb Chính trị
quốc gia (2003) của các tác giả: TS. Mai Thế Hởn, GS.TS. Hoàng Ngọc Hoà, PGS.TS. Vũ
Văn Phúc.



Ngoài ra, nhiều sách của các địa phương như Làng nghề, phố nghề Thăng Long –
Hà Nội của Bộ Văn hoá Thông tin (2000); Làng nghề Hà Tây của Sở Công nghiệp Hà Tây
(2001); Nghề thủ công truyền thống Quảng Ngãi của Nxb. Chính trị quốc gia (2003)
- Về luận án tiến sỹ:
+ Luận án của Mai Thế Hởn (2000) Phát triển làng nghề truyền thống trong quá
trình CNH, HĐH ở vùng ven Thủ đô Hà Nội".
+ Luận án của Trần Minh Yến (2003) Phát triển làng nghề truyền thống ở nông
thôn Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH.
+ Luận án của Lê Mạnh Hùng (2005) Định hướng và những giải pháp kinh tế chủ yếu

nhằm phát triển các ngành TTCN trong nông thôn tỉnh Hà Tây.
+ Luận án của Đỗ Quang Dũng (2006) Phát triển làng nghề trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn ở Hà Tây.
- Về luận văn thạc sỹ:
+ Luận văn của Vũ Thị Hà (2002) Khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn
vùng ĐBSH - thực trạng và giải pháp.
+ Luận văn của Nguyễn Trọng Tuấn(2006) Nghề truyền thống trên địa bàn Hà Nội
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Luận văn của Nguyễn Hữu Loan (2007) Giải pháp xây dựng làng nghề trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh theo hướng phát triển bền vững.
ở Nghệ An đã có một số đề tài về làng nghề trên địa bàn tỉnh. Đó là:
- Đề tài Nghề, làng nghề thủ công truyền thống Nghệ An (1998) do Sở khoa học,
Công nghệ và Môi trường và Hội văn nghệ dân gian Nghệ An phối hợp nghiên cứu (PGS.
Ninh Viết Giao chủ biên). Đề tài đã phân tích, tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển của
nghề thủ công và tình hình phát triển nghề, làng nghề thủ công truyền thống tỉnh Nghệ An,
giới thiệu một số nghề ở một số địa phương, quy trình sản xuất, thực trạng một số nghề, sự
phản ánh của văn học dân gian đối với nghề.
- Đề tài Điều tra khảo sát làng nghề truyền thống và tìm giải pháp khôi phục phát
triển (2001) do Sở Công nghiệp Nghệ An thực hiện. Đề tài đã khảo sát một số làng nghề,
phân tích đánh giá thực trạng làng nghề Nghệ An và đề xuất một số giải pháp khôi phục
phát triển làng nghề.



Ngoài các công trình, đề tài tiêu biểu nêu trên còn có nhiều công trình, đề tài, bài
viết của các cơ quan nhà nước, cơ quan khoa học, các nhà nghiên cứu và các tác giả khác.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây chưa có công trình nghiên cứu nào có tính hệ
thống dưới dạng luận văn, luận án khoa học về làng nghề trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Vì vậy,
đề tài này nghiên cứu nhằm tiếp tục làm rõ một số vấn đề lý luận về làng nghề và thực trạng
làng nghề ở Nghệ An với mong muốn đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển làng nghề trên

địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận chung về phát triển làng nghề; phân
tích, đánh giá thực trạng, đề xuất các giải pháp phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh Nghệ
An trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hoá và phân tích một số vấn đề lý luận về phát triển làng nghề. Tìm hiểu
kinh nghiệm của một số tỉnh về phát triển làng nghề.
- Phân tích thực trạng phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh Nghệ An, tìm ra các
nhân tố, nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển làng nghề.
- Đề xuất các giải pháp phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong những
năm tới.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về địa bàn: nghiên cứu các làng nghề trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
- Về thời gian: luận văn nghiên cứu sự phát triển của làng nghề trong những năm
gần đây, chủ yếu là từ năm 2001, khi có Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về
phát triển công nghiệp, TTCN và làng nghề giai đoạn 2001-2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác –
Lênin và các phương pháp khác như: tổng hợp, phân tích, so sánh,
- Điều tra nghiên cứu thực địa một số làng nghề tiêu biểu trên địa bàn tỉnh phù hợp
với yêu cầu của luận văn.



- Phỏng vấn, trao đổi với cán bộ các sở, ngành có liên quan và cán bộ ở các huyện,
xã và lao động trong một số làng nghề.
6. Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về làng nghề như quan niệm, tiêu chí

làng nghề, những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển làng nghề.
- Tổng kết kinh nghiệm của một số tỉnh, từ đó rút kinh nghiệm cho việc phát triển
làng nghề ở Nghệ An.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển làng nghề hiện nay trên địa bàn tỉnh Nghệ
An, tìm ra các nhân tố chủ yếu tác động tới phát triển làng nghề ở Nghệ An.
- Đề xuất các giải pháp phát triển làng nghề ở Nghệ An.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8
tiết.



Chương 1
Những vấn đề cơ bản về phát triển làng nghề
trong nền kinh tế thị trường

1.1. Những vấn đề cơ bản về làng nghề
1.1.1. Quan niệm và tiêu chí về làng nghề
* Quan niệm về làng nghề
Từ trước đến nay có nhiều quan niệm về làng nghề. Có quan niệm cho rằng: làng
nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng đều làm nghề và lấy nó làm nghề sinh sống
chủ yếu. Với quan niệm này thì làng nghề hiện không có nhiều. Có quan niệm cho rằng:
làng nghề là làng có làm nghề thủ công nhưng không nhất thiết tất cả dân làng đều làm
nghề. Với quan niệm này, rất khó xác định thế nào là làng nghề, bởi vì hầu như ở các làng,
xã ở nước ta đều có nghề thủ công như nghề rèn, nghề đan lát, nghề mộc, nghề chạm
khảm
Đề tài Khảo sát một số làng nghề truyền thống – chính sách và giải pháp (1996)
của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học quan niệm “Làng nghề là một cộng đồng dân cư, một
cộng đồng sản xuất nghề TTCN và nông nghiệp ở nông thôn” [17]. Quan niệm này mới
nêu chung chung về mặt định tính mà chưa nêu được mặt định lượng của làng nghề.

GS. Trần Quốc Vượng quan niệm “Làng nghề là làng ấy tuy vẫn trồng trọt theo lối
tiểu nông và chăn nuôi nhỏ, cũng có một số nghề phụ khác, song đã nổi trội một số nghề
cổ truyền tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có
phường, có ông trùm, có phó cả, cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy
trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống
chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra các mặt hàng thủ công” [46, tr.27]. Quan niệm
này chưa phù hợp với làng nghề mới.
Một số nhà nghiên cứu khác lại đưa ra quan niệm làng nghề gắn với tiêu chí cụ thể
về lao động, thu nhập. Tác giả Nguyễn Văn Đại, Trần Văn Luận cho rằng “Làng nghề là
những làng đã từng có từ 50 hộ hoặc từ 1/3 tổng số hộ hay lao động của địa phương trở lên
làm nghề chiếm phần chủ yếu trong tổng thu nhập của họ trong năm” [14, tr.15].



TS. Dương Bá Phượng quan niệm “Làng nghề là làng ở nông thôn có một (hay một
số) nghề thủ công tách hẳn khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập” [28, tr.13-14]. Quan
niệm này nêu hai yếu tố cơ bản cấu thành làng nghề, đó là làng và nghề.
Tác giả Mai Thế Hởn cho rằng "Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một
thôn (làng) có một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất độc lập.
Thu nhập từ các nghề đó chiểm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của làng" [18,
tr.8].
Tác giả Đỗ Quang Dũng quan niệm “Làng nghề là làng ở nông thôn có một (hay một
số) nghề thủ công hầu như được tách hẳn ra khỏi nông nghiệp, kinh doanh độc lập và đạt tới
một tỷ lệ nhất định về lao động làm nghề cùng như về mức thu nhập từ nghề so với tổng số lao
động và thu nhập của làng” [9, tr. 16].
Thông tư số 116/2006/TT-BNN của Bộ NN&PTNT Hướng dẫn thực hiện một số
nội dung Nghị định số 66/2006/NĐ-CP của Chính phủ “Về phát triển ngành nghề nông
thôn” quy định “Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn,
phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động
ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau” [4].

Từ một số quan niệm trên ta thấy rằng thuật ngữ làng nghề gồm hai yếu tố làng và
nghề.
Làng là một tổ chức ở nông thôn nước ta, là sản phẩm tự nhiên phát sinh từ quá
trình định cư và cộng cư của con người, ở đó họ sống, làm việc, quan hệ, vui chơi, thể hiện
mối ứng xử văn hoá với thiên nhiên, xã hội và bản thân họ. Về cơ bản, cơ cấu làng được
biểu hiện dưới những hình thức:
- Tổ chức theo khu đất cư trú. Theo hình thức này, làng được chia thành nhiều xóm.
Các xóm thường cách nhau, mỗi xóm sinh hoạt riêng. Xóm phân thành nhiều ngõ, ngõ có
một hay nhiều nhà…
- Tổ chức theo huyết thống, dòng họ. Dòng họ có vị trí và vai trò quan trọng trong
làng. Có làng có nhiều dòng họ, có làng chỉ một dòng họ.
- Tổ chức theo nghề nghiệp, sở thích và sự tự nguyện như phe (một tổ chức tự quản
dưới hình thức câu lạc bộ), hội (hiếu hỷ, mua bán, luyện võ, tập chèo, đấu vật…), phường
nghề (mộc, nề, sơn, thêu, chèo, múa rối…).



- Tổ chức theo cơ cấu hành chính. Làng có khi gọi là xã, có khi gọi là thôn. Dưới
thôn có xóm.
- Tổ chức làng theo lớp tuổi. Hình thức này chỉ dành riêng cho nam giới, phụ nữ
không được vào. Hiện nay, hình thức tổ chức này ít tồn tại.
Làng giữa các miền cũng có một số nét khác nhau. Làng Bắc bộ hình thành từ lâu
đời, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, ổn định, khép kín, bền vững trên cơ sở liên kết nhiều hình
thức tổ chức. Mỗi hình thức tổ chức có ảnh hưởng gần như đến từng thành viên, đặc biệt là
lệ tộc, lệ làng. Người dân sống gắn bó chặt chẽ với xóm giềng, họ tộc, gia đình, làng nước.
Càng về phía nam làng càng năng động, bớt những lệ làng. Tên gọi làng cũng khác nhau,
tuỳ theo vùng, đến nay việc phân biệt cũng chưa thật rõ ràng, có nơi gọi là làng, có nơi gọi
thôn, xóm, ấp, bản, buôn, phum, sóc,
Nghề trước tiên được hiểu là nghề thủ công cụ thể như nghề dệt vải, nghề đúc đồng,
nghề khảm trai, nghề gốm sứ Lúc đầu nghề chỉ làm phụ trong các gia đình ở nông thôn,

chủ yếu lúc nông nhàn. Nhưng dần dần số người làm nghề thủ công càng nhiều, tách
rời khỏi nông nghiệp và họ sinh sống chính bằng thu nhập từ nghề đó ngay tại làng quê.
Ngày nay ngoài nghề thủ công trên, các hoạt động cung ứng dịch vụ ở nông thôn cũng
được xếp vào nghề và người ta gọi chung là ngành nghề phi nông nghiệp. Ngành nghề
phi nông nghiệp được mở rộng, bao gồm các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp như:
công nghiệp, TTCN, các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống Ngành nghề phi nông
nghiệp còn được gọi là ngành nghề nông thôn. “Ngành nghề nông thôn là những hoạt
động kinh tế phi nông nghiệp, bao gồm công nghiệp, thủ công nghiệp và các hoạt động
dịch vụ phục vụ cho sản xuất và đời sống” [24, tr.26]. Nghị định số 66/2006/NĐ-CP
quy định ngành nghề nông thôn gồm:
- Chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản.
- Sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, cơ khí
nhỏ.
- Xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn.
- Sản xuất hàng TCMN.
- Gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh.



- Xây dựng, vận tải trong nội bộ xã, liên xã và các dịch vụ khác phục vụ sản xuất,
đời sống dân cư nông thôn.
- Tổ chức đào tạo nghề, truyền nghề; tư vấn sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực
ngành nghề nông thôn [5].
Như vậy, có thể quan niệm rằng làng nghề là một cụm dân cư như làng, thôn, ấp, bản,
buôn, phum, sóc, (gọi chung là làng) có sản xuất kinh doanh ngành nghề nông thôn mà số hộ
làm nghề và thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao.
* Tiêu chí về làng nghề
Có một số tiêu chí để xác định làng nghề, người ta thường dùng nhất là tiêu chí về
lao động và thu nhập.
Về lao động, người ta dùng tỷ lệ lao động (hay số hộ) làm nghề so với tổng số lao

động (hay số hộ) của làng. Tuy vậy có nhiều số liệu khác nhau: Bộ Lao động, Thương
bình và Xã hội (1995) cho rằng các làng nghề truyền thống tỷ lệ lao động phải đạt từ 30-
35%; Viện Khoa học Công nghệ và Môi trường (Đại học Bách khoa Hà Nội) và Bộ
NN&PTNT đưa ra tỷ lệ 30% [2]; JICA và Bộ NN&PTNT đưa ra tỷ lệ 20% [41]; tỉnh Hà
Tây trước đây quy định tỷ lệ này phải từ 50% [1]; tỉnh Nam Định quy định phải từ 40%;
TS. Dương Bá Phượng đưa ra tỷ lệ 35-40% [28, tr.14] Thông tư số 116/2006/TT-BNN
quy định làng nghề có "tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động
ngành nghề nông thôn"
Về thu nhập, người ta dùng tỷ lệ thu nhập do nghề đưa lại so với thu nhập chung của
làng. Tỷ lệ này được các tài liệu đưa ra tương đối thống nhất: Viện Khoa học Công nghệ và Môi
trường (Đại học Bách khoa Hà Nội) và Bộ NN&PTNT [2], tỉnh Hà Tây [1], tỉnh Nam Định và
TS. Dương Bá Phượng [28, tr. 14] đều đưa ra tỷ lệ là trên 50%.
Các tiêu chí trên phải ổn định trong một thời gian nhất định. Bởi vì thực tế hiện nay
có những làng nghề chỉ tồn tại được một thời gian ngắn. Thông tư số 116/2006/TT-BNN
của Bộ NN&PTNT quy định thời gian mà làng có đủ các tiêu chí về tỷ lệ lao động, thu
nhập phải ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị mới được công nhận. Đối với
các làng nghề đã được công nhận, nếu sau 5 năm không còn đạt các tiêu chí quy định trên
sẽ bị thu hồi giấy công nhận.



Trong điều kiện hiện nay, việc xác định làng nghề có thể căn cứ vào 3 tiêu chí cơ
bản sau đây:
- Tỷ lệ số hộ (hay lao động) làm nghề trong tổng số hộ (hay lao động) của làng phải
đạt từ 30%.
- Tỷ lệ thu nhập từ nghề trong tổng thu nhập của làng phải đạt từ 50%.
- Hoạt động sản xuất của làng đạt các tiêu chí trên phải ổn định trong một thời gian
liên tục nhất định, ít nhất là 5 năm.
Ngoài ra tuỳ theo nghề cụ thể có thể xem xét thêm một số tiêu chí khác cho phù hợp.
Đặc biệt là đối với các nghề mà pháp luật không khuyến khích, các nghề phải đảm bảo môi

trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường [30].
Trước đây, do chưa thống nhất về tiêu chí làng nghề nên có nhiều số liệu rất khác
nhau về làng nghề cả nước. Theo JICA và Bộ NN&PTNT, năm 2002 cả nước có 2.017
làng nghề [41]; theo tác giả Tăng Thế Cường, Viện Chiến lược và Chính sách Bộ Khoa
học và Công nghệ thì có 1.450 làng nghề; theo Bộ Công nghiệp thì có 1.502 làng nghề
(2004); theo Viện Asia SEED (Nhật Bản) thì có khoảng 1.500 làng nghề. Theo kết quả
điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006 cả nước có 1077 làng nghề [44].
Từ tiêu chí làng nghề trên đây có một vấn đề đặt ra là: các làng có hoạt động sản
xuất kinh doanh ngành nghề nông thôn nhưng chưa đạt các tiêu chí làng nghề thì gọi là
gì? Điều này trong thực tiễn có ý nghĩa quan trọng để phản ánh các chỉ tiêu về phát triển
TTCN ở địa phương. Một số địa phương đưa ra quan niệm làng có nghề cho những làng
chưa đủ tiêu chí để công nhận làng nghề. Chẳng hạn như tỉnh Hà Tây, Nghệ An UBND
tỉnh Nghệ An quy định làng có nghề tỷ lệ lao động phải đạt từ 20%; tỷ lệ thu nhập phải đạt
từ 20% [52].
1.1.2. Phân loại làng nghề
Có nhiều cách phân loại làng nghề khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Sau
đây là một số cách phân loại chủ yếu:
- Theo lịch sử hình thành và phát triển của các làng nghề, người ta chia làng nghề
thành làng nghề truyền thống và làng nghề mới. Đây là cách phân loại phổ biến, hay dùng
nhất.



Làng nghề truyền thống là những làng nghề đã xuất hiện lâu đời, được nối tiếp từ
thế hệ này sang thế hệ khác hoặc ít nhất cũng tồn tại hàng chục năm. Làng nghề truyền
thống phải có các yếu tố sau: hình thành và phát triển lâu đời; có nhiều nghệ nhân và đội
ngũ thợ lành nghề đông đảo; sử dụng nguyên liệu trong nước là chủ yếu; sản phẩm mang
tính truyền thống và độc đáo của Việt Nam, có giá trị chất lượng cao, vừa là hàng hoá tiêu
dùng, vừa là sản phẩm văn hoá, nghệ thuật, mỹ thuật, thậm chí trở thành các di sản văn
hoá của dân tộc, mang tính bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam; là nghề nuôi sống phần lớn

bộ phận dân cư của làng. Thông tư 116/2006/TT-BNN quy định làng nghề truyền thống có
nghề đã xuất hiện trên 50 năm, tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc, nghề
gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề [4]. Làng
nghề mới là những làng nghề mới hình thành, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, từ năm
1986 đến nay.
- Theo số lượng nghề của làng người ta chia làng nghề thành làng một nghề và làng
nhiều nghề. Làng một nghề là làng mà ngoài nghề nông có thêm một nghề thủ công chiếm
ưu thế tuyệt đối. Làng nhiều nghề là làng mà ngoài nghề nông có từ hai nghề thủ công trở
lên, hay vừa có thêm nghề thủ công vừa có nghề dịch vụ khác. Trước đây ở nước ta xuất hiện
làng một nghề là chủ yếu. Trong những năm gần đây làng nhiều nghề có xu hướng xuất hiện
nhiều hơn.
- Theo ngành nghề người ta chia làng nghề thành làng nghề chế biến lương thực,
làng nghề gốm sứ, làng nghề rèn, làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng, làng nghề dệt,
làng nghề ươm tơ,
1.1.3. Đặc điểm làng nghề
1.1.3.1. Đặc điểm về địa lý, văn hoá
Làng nghề trước hết là nơi ở của dân cư ở nông thôn. Trong làng có nhà thờ họ, đình,
chùa chiền, miếu mạo, đền thờ, hệ thống giao thông, vườn cây, ao cá, Làng nghề chứa
đựng những giá trị tinh thần đậm nét, được phản ánh qua các tập tục, tín ngưỡng, lễ hội và
nhiều quy định khác. Những quy định này hình thành nên hương ước, lệ làng, tạo ra một trật
tự trong làng nghề và những nét văn hóa đặc thù. Các làng nghề truyền thống còn hình thành
các quy ước, luật lệ để gìn giữ bí quyết, bảo tồn nghề. Việc giữ bí quyết nghề còn chi phối cả
các quan hệ xã hội khác, như quan hệ hôn nhân, hoặc việc truyền nghề chỉ đóng khung trong



một số đối tượng cụ thể, như chỉ truyền nghề cho con trai, hoặc chỉ truyền cho con trưởng
hoặc cháu đích tôn. Hầu như làng nghề truyền thống nào cũng có tục thờ cúng tổ nghề và tổ
chức các lễ hội cùng với các hoạt động văn hóa dân gian khác. Trong làng nghề, còn mang rất
đậm yếu tố văn hóa phần nào có những yếu tố tâm linh. Do đó, làng nghề còn là một di sản

văn hóa quan trọng cần được bảo tồn và phát huy trong sự nghiệp phát triển văn hóa dân tộc
và phát triển đất nước.
1.1.3.2. Đặc điểm về sản xuất
Sản xuất trong các làng nghề chủ yếu sử dụng kỹ thuật thủ công. Nhiều loại sản
phẩm hoàn toàn dựa vào đôi tay khéo léo của người thợ. Có một số nghề chỉ cần công cụ
thủ công, thô sơ do chính người thợ có thể tự làm ra. Hiện nay, tuy đã cơ khí hoá và điện
khí hoá từng bước trong công nghệ - kỹ thuật sản xuất nhưng một số công đoạn không thể
áp dụng được, vẫn đòi hỏi phải duy trì kỹ thuật thủ công. Do đó năng suất lao động ở các
làng nghề không cao, chất lượng sản phẩm không đồng đều. Do vậy trong các sản phẩm
làng nghề, lao động sống chiếm tỷ lệ cao trong giá thành sản phẩm. Điều này có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc tạo thêm việc làm cho người dân nông thôn.
1.1.3.3. Đặc điểm về sản phẩm
Sản phẩm làng nghề chủ yếu gồm các nhóm sau đây:
- Sản phẩm TCMN, như: gốm sứ, sơn mài, thêu len, thảm các loại, khảm, chạm
khắc gỗ, đồ gỗ mỹ nghệ, hàng mây tre đan, chạm khắc đá, mạ vàng, thổ cẩm Nhóm sản
phẩm này có giá trị thẩm mỹ cao, chủ yếu xuất khẩu, do đó thị trường rất rộng lớn. Người
lao động làm những sản phẩm này đòi hỏi trình độ tay nghề cao, do đó phải được đào tạo
công phu, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm.
- Sản phẩm tiêu dùng thông thường như: chiếu cói, nón lá, mành mành, sọt, bồ, vải,
may mặc, da giày, đồ gỗ gia dụng; chế biến nông sản thực phẩm như xay xát, bún bánh,
tương, đậu, rượu, Nhóm sản phẩm này tiêu thụ chủ yếu trong vùng hoặc trong nước, có
một số ít có thể xuất khẩu được, thị trường không lớn lắm. Nhóm sản phẩm này không đòi
hỏi trình độ tay nghề cao nên dễ làm, dễ truyền nghề.
- Tư liệu sản xuất thông dụng ở nông thôn như: liềm, hái, dao kéo, nông cụ, máy
móc nhỏ, Những sản phẩm này cũng chủ yếu tiêu thụ trong vùng hoặc trong nước, cho



nên thị trường không lớn lắm. Cũng giống như nhóm sản phẩm trên, nhóm này không đòi
hỏi trình độ tay nghề cao nên dễ làm, dễ truyền nghề.

1.1.3.4. Đặc điểm về nguyên liệu
Nguyên liệu sản phẩm làng nghề chủ yếu có nguồn gốc từ tự nhiên và có ở nhiều
vùng, nhiều nơi ở nước ta như: gỗ, tre, nứa, giang, trúc, song, mây, đay, cói, xơ dừa, dâu tằm
tơ, lá nón, bông chít đến nhựa cây sơn ta, đất sét, cao lanh, Điều đáng lưu ý là có một số
nguyên liệu thực vật như mây, tre, giang, rất dễ bị mối mọt nếu không khai thác đúng mùa
vụ, không đủ tuổi hoặc không được xử lý tốt thì; một số nguyên liệu thực vật dễ hút ẩm nên
các mặt hàng làm từ nguyên liệu này dễ bị mốc, ngay cả trong quá trình sản xuất, lưu kho và
trong quá trình vận chuyển. Một số nguyên liệu phải nhập ngoại như diêm sinh, phẩm, bột màu,
sơn bóng, chỉ thêu, vỏ trai, vỏ ốc, men sứ… Những năm gần đây với sự phát triển mạnh mẽ của
làng nghề thì một số nguyên liệu trong nước đã bắt đầu cạn kiệt như gỗ, song, mây, nhiều làng
nghề đã phải nhập khẩu từ một số nước.
1.1.3.5. Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của làng nghề
Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh ở các làng nghề rất đa dạng, phong phú, đan
xen nhau, gồm:
- Hộ thuần nông: phần lớn hay toàn bộ người trong gia đình tham gia sản xuất nông
nghiệp.
- Hộ kiêm nghiệp: những hộ vừa làm nông nghiệp, vừa làm nghề thủ công nghiệp.
- Hộ chuyên nghiệp: phần lớn hay toàn bộ người trong gia đình tham gia làm nghề
và nghề đem lại nguồn thu nhập chính cho họ. Các hộ này có thể vẫn có đất nông nghiệp
nhưng họ thường thuê người khác làm hoặc cho thuê đất, nhưng không muốn bán đất nông
nghiệp. Sản xuất của hộ chuyên nghiệp vẫn chủ yếu diễn ra trong nhà ở của gia đình.
Ngoài ra gia đình có thể thuê thêm người để làm. Các hộ này thường gắn với các doanh
nghiệp.
- Tổ hợp tác, HTX TTCN hoặc HTX nông nghiệp có kinh doanh TTCN. Các tổ hợp
tác và HTX chủ yếu đáp ứng dịch vụ đầu vào, đầu ra, còn sản xuất do các hộ gia đình đảm
nhận. ở một số làng nghề, HTX tổ chức xưởng sản xuất tập trung ở một số công đoạn cần
thiết và liên kết với các doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm và đóng vai trò liên kết giữa
doanh nghiệp và hộ gia đình trong sản xuất, kinh doanh.




- Doanh nghiệp chuyên kinh doanh ngành hàng TTCN như DNTN, CT. TNHH,
công ty cổ phần Các doanh nghiệp đóng vai trò hạt nhân liên kết các hộ gia đình và HTX
kinh doanh ngành nghề TTCN ở nông thôn bằng các hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết
kế mẫu mã, hay nhận sản xuất theo mẫu mã của các công ty nước ngoài, cung ứng vật tư,
đặt hàng gia công cho các HTX, hộ gia đình, đầu tư lập xưởng, nhà máy để thực hiện một
số công đoạn cần thiết, thu gom, đóng gói sản phẩm, xây dựng và quảng bá thương hiệu,
tiêu thụ sản phẩm, nhất là xuất khẩu. Do vậy các doanh nghiệp này đóng vai trò quyết định
trong việc phát triển làng nghề.
Một số nơi đã xây dựng các khu công nghiệp làng nghề. Các nghề, các công đoạn
sản xuất gây ô nhiễm môi trường được đưa vào khu công nghiệp làng nghề, các công đoạn
sản xuất nếu không gây ô nhiễm môi trường có thể làm tại các hộ gia đình.
Tuy có nhiều loại hình sản xuất ở trong các làng nghề, nhưng hiện nay loại hình
thức hộ gia đình vẫn chiếm ưu thế.
1.1.3.6. Truyền nghề, phát triển nghề
Mỗi làng nghề đều có một người đầu tiên dạy nghề, truyền nghề cho làng, sau này
được dân làng thường gọi là tổ nghề. Việc dạy nghề, trước đây chủ yếu theo phương thức
truyền nghề trong gia đình, trong làng, từ đời này sang đời khác, ít được phổ biến ra ngoài.
Vì vậy hầu hết các nghề chỉ được lưu truyền trong phạm vi từng làng nghề. Ngày nay,
được sự hỗ trợ của Nhà nước, với sự ra đời của các HTX thủ công nghiệp, các trung tâm
dạy nghề thì các làng nghề không còn giữ được các bí quyết nghề nghiệp như trước nữa.
Tuy vậy phương thức đào tạo nghề hiện nay ở các làng nghề chủ yếu vẫn theo lối truyền
nghề kèm cặp, các nghệ nhân đóng vai trò quan trọng.
1.1.4. Vai trò của làng nghề
1.1.4.1. Các làng nghề tạo ra khối lượng hàng hoá phong phú, đa dạng phục vụ
cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu
Với số lượng ngành nghề phong phú, đa dạng và với số lượng lớn các cơ sở, các hộ
sản xuất nên các làng nghề đã tạo ra sản phẩm hàng hoá phong phú và đa dạng về chủng
loại, khối lượng lớn, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Ngoài ra sản phẩm
của các làng nghề còn đóng góp quan trọng làm tăng kim ngạch xuất khẩu. Từ năm 1996

đến nay kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của nước ta tăng nhanh (bảng 1.1). Sản phẩm



TCMN của nước ta đã có mặt rất nhiều nước trên thế giới, đã trở thành một trong những mặt
hàng xuất khẩu lớn nhất, vượt kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng khác. Năm 2006 kim
ngạch xuất khẩu hàng TCMN đạt 630,4 triệu USD. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng
TCMN đạt khoảng 750 triệu USD, tăng 19% so với năm 2006 [19]. Khác với các sản phẩm
khác, giá trị thực thu xuất khẩu hàng TCMN trên thực tế rất cao (95-97%) do sản xuất chủ yếu
bằng nguồn nguyên liệu có sẵn trong nước. Người ta tính toán rằng tăng thêm giá trị xuất khẩu
1 triệu USD hàng TCMN tương đương với tăng giá trị xuất khẩu 4,7 triệu USD hàng dệt may
[19].
Bảng 1.1: Giá trị xuất khẩu một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ (1996 – 2000)
Đơn vị tính: 1.000 USD
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
GTXK gốm sứ mỹ nghệ

22.784

51.072

67.815

86.378

109.452

số nước mua

59


76

78

92

84

GTXK gỗ mỹ nghệ 71.390

62.340

26.285

31.560

49.917

số nước mua

40

35

50

52

62


GTXK hàng sơn mài,
khảm các loại
7.196

22.839

22.387

15.238

15.578

số nước mua

30

32

32

25

24

GTXK hàng mây tre đan

37.017

55.029


49.238

53.920

67.059

số nước mua

56

71

72

76

92

Nguồn: Tổng cục Thống kê.
1.1.4.2. Làng nghề góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Làng nghề có vai trò tích cực góp phần tăng tỷ trọng công nghiệp, TTCN và dịch
vụ, thu hẹp tỷ trọng nông nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất nông nghiệp có thu nhập
thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Sự phát triển này đã làm thay
đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, từ đó đã tạo ra nền kinh tế đa dạng ở nông thôn, không chỉ có
nông nghiệp thuần nhất mà còn có các ngành TTCN, thương mại, dịch vụ. Sự phát triển




lan toả của làng nghề đã mở rộng quy mô địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động. Cơ cấu
kinh tế ở nhiều làng nghề đạt 60-80% cho công nghiệp và dịch vụ, 20-40% cho nông
nghiệp. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn theo tỷ lệ
30-40-30 là hợp lý (30% làm nông nghiệp, 40% công nghiệp và 30% làm dịch vụ). Để đạt
được cơ cấu này thì cần phải đẩy mạnh phát triển làng nghề để tạo việc làm tại chỗ là rất
cần thiết.
1.1.4.3. Làng nghề góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, tạo
bình đẳng về thu nhập cho phụ nữ
Sản xuất của làng nghề chủ yếu bằng phương pháp thủ công, không đòi hỏi cao về
chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ hay trình độ ngoại ngữ. Theo tính toán của các nhà kinh
tế, trong giá thành sản phẩm TCMN, lao động sống thường chiếm tỷ cao (60- 65%) [37],
xuất khẩu 1 triệu USD hàng TCMN thì thu hút khoảng 3.500-4.000 lao động/năm [19]. Do đó
phát triển làng nghề tạo việc làm cho nhiều lao động. Trước hết là trong gia đình, trong
làng xã, ngoài ra còn thu hút được nhiều lao động từ các địa phương khác. Mặt khác, làng
nghề phát triển sẽ hình thành các nghề khác, các hoạt động dịch vụ liên quan, tạo thêm
nhiều việc làm mới, thu hút thêm nhiều lao động. Điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt
kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội, an ninh trật tự, bởi vì hạn chế được vấn đề di dân
từ vùng này sang vùng khác, từ nông thôn ra thành thị. Theo PGS.TS. Đặng Nguyên Anh
(Viện Khoa học – Xã hội Việt Nam), 5 năm qua, cả nước có 486.500 người di cư, trong đó
57% di cư từ nông thôn ra thành thị. Riêng TP. Hồ Chí Minh mỗi năm tiếp nhận thêm
khoảng 240.000 người, còn Hà Nội tỷ lệ người nhập cư khoảng 9-10% dân số.
Dân số nước ta hiện nay khoảng 84 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới. Mật độ dân
số là 254 người/km
2
, cao gần gấp đôi so với Trung Quốc (136 người/km
2
), gấp trên 10 lần so
với các nước phát triển. Theo Liên hợp quốc, để cuộc sống thuận lợi, mật độ bình quân chỉ
nên có từ 35-40người/km2. Như vậy, mật độ dân số của nước ta gấp khoảng 6-7 lần tỷ lệ này
[21]. Lao động nông nghiệp nước ta chiếm khoảng 60% dân số [43], tỷ lệ thất nghiệp cao

(6,5%) [3]. Đất canh tác bình quân đầu người thấp (800m
2
), ở miền Bắc chỉ còn khoảng
500m
2
. Hầu hết các vùng quê đều dư thừa lao động, có nơi dư thừa từ 27 – 40% [41]. Mặt
khác quá trình CNH, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi nhiều (Từ 1995-2005 trung bình mỗi
năm cả nước mất khoảng 50.000 ha đất nông nghiệp cho các nhu cầu phi nông nghiệp).



Những vấn đề trên dẫn đến đời sống của nông dân nghèo, khoảng cách chênh lệch nông thôn
và thành thị có xu hướng gia tăng. Vì vậy, vấn đề tạo việc làm cho lao động nông thôn, nông
dân nói riêng là mối quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước
ta. Kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006 cho biết làng nghề đã thu
hút một lượng lao động lớn với 256.000 hộ tham gia thường xuyên, với số lao động là 655.000
người [44].
Phát triển làng nghề còn có ý nghĩa khác là góp phân tạo ra bình đẳng cho phụ nữ. Phụ
nữ nước ta chiếm 49% lực lượng lao động, nhưng chỉ 26% là có công việc chính trong lĩnh vực
làm công ăn lương (ở nam giới là 41%). Phát triển ngành nghề nông thôn đã thu hút được số
lượng lớn phụ nữ với thu nhập ổn định, góp phân nâng cao vị thế của phụ nữ [38, tr.62].
1.1.4.4. Làng nghề góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân
và xây dựng nông thôn mới
Thu nhập bình quân của lao động nghề phi nông nghiệp cao hơn khoảng 3-4 lần thu
nhập của lao động nông nghiệp; thu nhập của lao động ở đô thị cao hơn khoảng 3,7 lần so
với lao động ở nông thôn [41, tr.3-10]. Từ đó ta thấy rằng phát triển làng nghề sẽ tạo điều
kiện để giảm dần khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn. ở những
nơi có làng nghề phát triển tỉ lệ hộ khá và giàu thường cao hơn, tỉ lệ hộ nghèo thấp hơn
hẳn so với những vùng thuần tuý sản xuất nông nghiệp.
Phát triển làng nghề cùng với việc tăng thu nhập tạo điều kiện nâng cao đời sống

của người dân, không chỉ vật chất mà cả văn hoá, tinh thần. Đồng thời khi nghề nghiệp
phát triển đến một mức độ nào đó thì xuất hiện các hình thức văn hoá gắn với nghề như
các bài hát, bài vè về nghề nghiệp, kinh nghiệm làm nghề, các tục thờ tổ nghề, hội
nghề,… Ngược lại, làng nghề phát triển, thu nhập được nâng cao thì người dân có điều kiện
để tổ chức các hoạt động văn hoá. Trong các làng nghề, cùng với sự đổi mới về kinh tế, văn
hoá của nhân dân là quá trình xây dựng và đổi mới nông thôn theo hướng HĐH.
1.1.4.5. Thu hút vốn nhàn rỗi và tận dụng nguồn lực trong nhân dân
Khác với sản xuất công nghiệp và một số ngành khác, sản xuất của các hộ ở làng
nghề đa số không đòi hỏi số vốn đầu tư lớn mà chủ yếu quy mô nhỏ, cơ cấu vốn và lao
động ít nên rất phù hợp với khả năng huy động vốn và các nguồn lực vật chất của các gia
đình (bảng 1.2).



Bảng 1.2: Vốn đầu tư ban đầu cho một chỗ làm việc ở các làng nghề
TT Nghề sản xuất
Vốn đầ
u
tư toàn
bộ (Tr.
đồng)
Trong đó
thiết bị
(Tr.
đồng)
Nguyên
liệu
(Tr.
đồng)
Số lao

động
(lao
động)
VĐT
ban
đầu/lao
động
1 Thêu ren 0,5 0,2 0,3 1 0,5
2 Mây giang đan 0,2 0,12 0,08 1 0,2
3 Dệt đũi 4,5 1,5 3 3 1,5
4 Làm bánh đa nem, bún 1,5 1 0.5 2 0,75
5 Mộc 5,8 4 1,8 3 1,9
Nguồn: Trung tâm Dân số và nguồn lao động Việt Nam (1997).
Vào những năm 90 của thế kỷ XX, đầu tư cho một chỗ làm việc ở DNTN từ 5-10
triệu đồng, trong khi đầu tư cho 1 chỗ làm việc ở làng nghề chỉ khoảng 1 triệu đồng. Bình
quân vốn đầu tư ban đầu của doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn ít hơn 5 lần, đầu tư cho một
lao động ít hơn 3 lần so với chỉ tiêu tương ứng của các doanh nghiệp nhỏ ở thành thị [8,
tr.90]. Vốn kinh doanh bình quân của một doanh nghiệp là 1.035,9 triệu đồng, của một hộ
chuyên nghề là 20,56 triệu đồng và của một hộ nông nghiệp kiêm nghề là 9,18 triệu đông.
sản xuất ở các làng nghề với rất nhiều hộ gia đình đã huy động được một lượng vốn không
nhỏ.
Các làng nghề còn tiết kiệm được các chi phí khác như chi phí xây dựng cơ bản vì
đầu tư cho công việc xây dựng nhà xưởng, kho tàng, đường sá,… được giảm đến mức thấp
nhất vì các hộ sản xuất tận dụng các diện tích sẵn có trong gia đình (nhà ở, sân, vườn,…)
và trong làng đề làm nơi sản xuất, bảo quản. Ngoài ra các hộ sản xuất còn huy động vốn
thông qua việc vay mượn nhau trong gia đình, họ hàng, làng xóm, bạn bè,… thông qua
nhiều hình thức rất linh hoạt. Năm 2006 ước tính tổng vốn tích luỹ hiện có của các hộ
nông thôn khoảng 90.000 tỷ đồng. Đây là khoản tiền nhàn rỗi khá lớn, cần có các biện
pháp và chính sách thích hợp để huy động nguồn vốn nhàn rỗi này phục vụ cho phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước [44].

1.1.4.6. Làng nghề thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng, thay đổi bộ mặt nông thôn



Làng nghề phát triển có nhu cầu xây dựng nhà xưởng, đường sá, hệ thống cấp điện,
nước, bưu điện… Ngược lại làng nghề phát triển, người dân có thu nhập cao, có điều kiện
đóng góp để xây dựng cơ sở hạ tầng, đồng thời người dân có nhu cầu và điều kiện trao đổi
hàng hoá, mua sắm các tiện nghi sinh hoạt, xây dựng nhà cửa và do đó hình thành trung
tâm giao lưu buôn bán. Những trung tâm này ngày càng đựơc mở rộng và phát triển, tạo
nên một sự đổi mới trong nông thôn.
1.1.4.7. Làng nghề góp phần bảo tồn và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, phát
triển du lịch
“Mỗi một làng nghề là một địa chỉ văn hoá, nó phản ánh nét văn hoá độc đáo của
từng địa phương, từng vùng” [15]. Nét văn hoá của làng nghề thể hiện qua các nét độc đáo
của từng sản phẩm, các lễ hội, các phong tục tập quán của làng nghề. Đặc biệt là ở các
làng nghề truyền thống, các sản phẩm được làm bằng bàn tay tài hoa của các nghệ nhân,
thợ giỏi, với các nguyên liệu, phong cách Việt Nam, được lưu giữ và phát triển qua các thế
hệ, trở thành các sản phẩm truyền thống, không chỉ thể hiện nét văn hoá riêng của từng địa
phương mà còn là nét văn hoá của Việt Nam. Ngoài ra, tại các làng nghề truyền thống
thường tổ chức lễ cúng tổ nghề để tưởng nhớ các vị tổ nghề đã có công mang nghề và
truyền nghề về cho làng. Đây là lễ hội có nhiều ý nghĩa, mang nhiều nét văn hoá dân gian,
rất được các làng nghề coi trọng. Đồng thời, điều kiện kinh tế được nâng lên, các làng
nghề có điều kiện tổ chức nhiều hoạt động văn hoá dân gian khác, tổ chức các cuộc thi như
thi tay nghề, các cuộc thi gắn với nghề.
Do các làng nghề truyền thống là nơi kết tinh và phát triển các giá trị văn hoá, văn
minh lâu đời của dân tộc, ngày càng có sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong nước và
quốc tế. Du lịch làng nghề là một sản phẩm mới, trong những năm gần đây đang có xu thế
phát triển mạnh mẽ, như làng gốm Bát Tràng, khách du lịch đến đây có thể tham quan nơi
sản xuất, vẽ thử lên đồ gốm sứ,
1.1.5. Các mặt hạn chế của làng nghề

Bên cạnh những vai trò to lớn, sự phát triển làng nghề cũng có những hạn chế. Đó
là:



Thứ nhất, phát triển làng nghề là phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế cá thể, kinh
tế tư nhân, bị giới hạn bởi diện tích đất đai, vốn đầu tư nên hạn chế khả năng áp dụng tiến
bộ khoa học, công nghệ mới vào sản xuất, năng suất lao động không cao.
Thứ hai, phát triển làng nghề sẽ làm tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp
nhân dân ở nông thôn. Mức chênh lệch thu nhập giữa nhóm thu nhập cao nhất và thấp nhất
ngày càng tăng, năm 2002 là 6 lần, năm 2006 tăng lên 6,5 lần [44].
Thứ ba, phát triển làng nghề tác động xấu tới môi trường sinh thái, cảnh quan. Hầu hết
các làng nghề ở nước ta đều ô nhiễm môi trường. Tỷ lệ làng nghề sử dụng thiết bị xử lý nước,
chất thải độc hại năm 2006 mới chiếm 4,1% [44].
Thứ tư, do tính chất sản xuất phân tán theo mô hình hộ gia đình, nên việc chỉ đạo,
giám sát, quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước gặp nhiều khó khăn, dẫn đến tình trạng
thất thu thuế từ các làng nghề.
Thứ năm, do phát triển kinh tế hộ gia đình, vì lợi nhuận nên dẫn đến hiện tượng
tranh giành đất đai, tài sản trong nội bộ gia đình, anh em, họ hàng, làng xóm, vi phạm pháp
luật gia tăng. Mặt khác, còn dẫn đến tệ nạn xã hội như nghiện hút, gái mại dâm, cờ bạc làm
suy đồi đạo đức của thế hệ trẻ, tác động tới tư duy, lối sống pha trộn, lai căng làm tổn hại
tới phong tục tập quán, thuần phong mĩ tục.
Thứ sáu, vì mục tiêu cá nhân là lợi nhuận, nhiều nơi làm dối, làm ẩu, làm hàng giả
và có xu hướng gia tăng.
Thứ bảy, trong làng nghề người lao động thường làm việc từ 10 - 12 tiếng trong
ngày, trong điều kiện diện tích chật hẹp, mức ô nhiễm cao, điều kiện phòng chống cháy nổ,
an toàn lao động cho người lao động thấp, trong khi thiếu hiểu biết về nghề nghiệp, do đó
sức khỏe suy giảm nhanh, tai nạn xảy ra hàng ngày Các yếu tố trên tác động trực tiếp và
thường xuyên tới người lao động và dân cư trong làng. Các loại bệnh thần kinh, đường hô hấp,
đường tiêu hóa chiếm tỷ lệ trên 60% tổng số dân cư trong khu vực làng nghề.

1.2. Những nhân tố tác động đến phát triển làng nghề trong nền kinh tế thị
trường
Phát triển làng nghề chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Sau đây là một số nhân tố
chủ yếu:
1.2.1. Nhu cầu thị trường



Nhu cầu thị trường là nhân tố chủ yếu tác động đến sự hình thành, tồn tại và phát
triển làng nghề. Bởi vì sản phẩm làng nghề là hàng hoá, do đó phải được thị trường chấp
nhận thì mới tiêu thụ được. Trước hết, nhu cầu thị trường làm xuất hiện nghề và từ đó dần
dần hình thành nên làng nghề. Đối với các làng nghề, nhu cầu thị trường thay đổi yêu cầu
sản phẩm làng nghề thay đổi phù hợp. Điều này buộc các làng nghề phải thay đổi chủng
loại sản phẩm hoặc thay đổi mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị
trường và phải nâng cao sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Nhu
cầu thị trường càng lớn, càng bền vững thì việc sản xuất của các làng nghề càng ổn định và
bền vững. Làng nghề nào thích ứng với sự biến động của thị trường thì tồn tại và phát
triển. Ngược lại làng nghề nào không đáp ứng được sự thay đổi của nhu cầu thị trường thì
sẽ không tồn tại được.
Trong thời gian qua, mặc dù thị trường có nhiều biến động nhưng nhiều làng nghề
vẫn phát triển tốt do thay đổi sản phẩm phù hợp với sự biến động của thị trường. Bên cạnh
đó có những làng nghề sản phẩm không còn phù hợp với thị trường, không thay đổi kịp
với sự biến động của thị trường nên bị mai một dần, có làng bị mất đi.
1.2.2. Sức ép kinh tế
Nguồn sống chủ yếu của người dân ở nông thôn là thu nhập từ nông nghiệp. Nhiều
nơi do đất chật, người đông hoặc do điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng mà thu nhập từ nông
nghiệp thấp, không đảm bảo nhu cầu cuộc sống, do đó bắt buộc người dân phải tìm kiếm
các ngành nghề phi nông nghiệp để có thu nhập thêm. Trong quá trình đó họ đã lựa chọn
được ngành nghề phù hợp và dần dần hình thành nên làng nghề. Nhiều làng nghề tồn tại và
phát triển mạnh mẽ đến ngày nay đều có mật độ dân số cao, diện tích canh tác nông nghiệp

bình quân đầu người thấp, như làng Ninh Hiệp, làng Đồng Kỵ, làng tranh dân gian Đông
Hồ Vùng ĐBSH trở thành nơi xuất hiện sớm nhất, tập trung nhất các làng nghề có lẽ
chính sức ép kinh tế.
1.2.3. Vị trí địa lý
Số liệu thống kê cho thấy hầu hết các làng nghề phát triển đều nằm ở vị trí thuận lợi
về giao thông hoặc gần nguồn nguyên liệu. Những vị trí như vậy thuận tiện trong chuyên
chở nguyên vật liệu, trao đổi và buôn bán sản phẩm, Đặc biệt là trước kia, do điều kiện
về giao thông chưa phát triển thì yếu tố “bến sông bãi chợ” luôn đóng vai trò chính trong



việc vận chuyển, buôn bán của làng nghề. Nhiều làng nghề hình thành trên cơ sở nguồn
nguyên liệu sẵn có tại địa phương như gốm Hương Canh, Thổ Hà
1.2.4. Kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng gồm hệ thống giao thông, hệ thống cấp điện, nước, thông tin, y tế,
giáo dục, điều kiện sinh hoạt, ảnh hưởng rất lớn tới phát triển làng nghề. Giao thông là
yếu tố ảnh hưởng lớn nhất. Giao thông phát triển tạo điều kiện để làng nghề giao lưu, vận
chuyển nguyên liệu, sản phẩm thuận tiện hơn. Hệ thống cung cấp điện đảm bảo cho các
làng nghề sử dụng các thiết bị, máy móc trong sản xuất và phục vụ đời sống. Hệ thống
thông tin liên lạc tạo điều kiện cho các làng nghề trao đổi, quảng bá sản phẩm trong nước
và quốc tế. Đặc biệt ngày nay trong nền kinh tế thị trường, trong xu thế hội nhập với kinh
tế thế giới thì sự phát triển của hệ thống thông tin ngày càng đóng vai trò quan trọng để
nắm bắt được nhu cầu của thị trường, để giao dịch, buôn bán, Ngoài ra hệ thống xử lý
rác thải, y tế, giáo dục, tạo điều kiện cho làng nghề phát triển.
1.2.5. Truyền thống làm nghề
Mỗi làng nghề truyền thống đều có những kinh nghiệm, kỹ thuật, thói quen nghề
nghiệp, bí quyết riêng trong sản xuất, kinh doanh. Những kinh nghiệm, kỹ thuật, thói quen
nghề nghiệp, bí quyết này tạo nên nét độc đáo riêng của từng làng nghề và nằm trong tay
các nghệ nhân, thợ giỏi, được truyền từ đời này sang đời khác để lưu giữ và phát triển nghề
truyền thống tại địa phương. Những yếu tố truyền thống giúp cho làng nghề giữ được

những bí mật nghề nghiệp, làm cho sản phẩm của làng nghề có tính độc đáo, mang đặc
trưng riêng của từng làng nghề. Do đó nó là nhân tố có vai trò quan trọng trọng việc duy trì
và phát triển của riêng làng nghề. Trong thực tế phát triển nghề hiện nay đội ngũ nghệ nhân
đóng vai trò rất quan trong trong việc truyền nghề lại cho các thế hệ kế tiếp. Tuy nhiên nhân tố
này lại cản trở việc phát triển nghề sang các địa phương khác, hạn chế việc mở mang phát
triển làng nghề.
1.2.6. Vốn phát triển sản xuất
Trong bất kỳ quá trình sản xuất kinh doanh nào, vốn là yếu tố không thể thiếu được.
Có vốn thì làng nghề mới có điều kiện đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ để



nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, có điều kiện đào tạo nâng cao kỹ năng của người
lao động, quảng cáo sản phẩm, xây dựng thương hiệu,
Thông thường vốn của các hộ sản xuất ở các làng nghề chủ yếu là vốn tự có do
chính các hộ tự tích luỹ, hoặc vay mượn của anh em, bạn bè. Do đó lượng vốn thường nhỏ,
không đáp ứng được nhu cầu sản xuất, đặc biệt là mở rộng thị trường, nâng cao sức cạnh
tranh của sản phẩm. Ngày nay nhờ những chủ trương của Đảng và Nhà nước, các cơ chế
chính sách về tài chính, tín dụng đã có nhiều thay đổi tạo điều kiện cho các cơ sở, các hộ
sản xuất trong các làng nghề vay vốn tạo điều kiện cho các làng nghề phát triển sản xuất.
1.2.7. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
Đây là yếu tố quan trọng, không chỉ để làng nghề phát triển mà còn để làng nghề
phát triển bền vững. Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với quy luật
khách quan thì sẽ thúc đẩy làng nghề phát triển, ngược lại thì hạn chế sự phát triển của
làng nghề. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước một mặt hỗ trợ, khuyến
khích người dân mạnh dạn đầu tư sản xuất, áp dụng các công nghệ hiện đại vào sản xuất,
nâng cao năng lực cạnh tranh. Mặt khác đảm bảo làng nghề phát triển theo đúng quy
hoạch, kế hoạch, đảm bảo môi trường. Nhà nước xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát
triển làng nghề, ban hành các chính sách khuyến khích phát triển như hỗ trợ vay vốn ưu
đãi, đền bù đất đai, đào tạo lao động, thuế, Mặt khác, sự tổ chức, quản lý của Nhà nước

tạo điều kiện cho làng nghề phát triển bền vững, hạn chế gây ô nhiễm, tàn phá môi trường,
gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, văn hoá, xã hội, làm thất thu thuế. Không có sự quản
lý của Nhà nước, làng nghề tự do cạnh tranh không lành mạnh, chẳng những không phát
triển mà còn kìm hãm sự phát triển, không nâng cao được năng lực cạnh tranh của làng
nghề với thị trường trong và ngoài nước
Trước đổi mới, chúng ta không chú ý phát triển kinh tế tư nhân nên các làng nghề
theo nghĩa là các đơn vị kinh tế độc lập đã chuyển thành các HTX TTCN hoặc các tổ hợp
tác, các đội ngành nghề trong các HTX sản xuất nông nghiệp. Các HTX này với trình độ
quản lý yếu kém đã làm cho các làng nghề không phát triển được, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Các
chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đã khuyến khích phát triển kinh tế
nói chung và làng nghề nói riêng. Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn,



làng nghề luôn giữ một vị trí quan trọng, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đề cập
nhiều qua các kỳ Đại hội. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định: "Phát triển các ngành nghề, làng nghề và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu " [12, tr.45]. Đại hội IX của Đảng Cộng
sản Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh: "Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ nông thôn,
hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng
nghề gắn với thị trường xuất khẩu " [13, tr.172]. Nhà nước đã ban hành nhiều luật pháp
và chính sách liên quan đến phát triển làng nghề như Luật Đất đai, Luật Thuế sử dụng đất
nông nghiệp, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư các chính sách tín dụng, chính sách đầu
tư, Đặc biệt là Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24 tháng 11 năm 2000 của Thủ
tướng Chính phủ "về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn"
và Nghị định 66/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 7 năm 2006 về "Phát triển
ngành nghề nông thôn" (phụ lục 1). Nhờ những chủ trương chính sách đó làng nghề đã có
bước phát triển mới. Tốc độ tăng bình quân số hộ và cơ sở ngành nghề nông thôn hàng
năm là 8,9-9,8%/năm. Theo tiêu chí làng có 20% số hộ tham gia ngành nghề nông thôn thì

cả nước có 2.017 làng nghề, thu hút trên 11 triệu lao động, chiếm 29,5% tổng số lao động
tại các làng nghề. Một số làng nghề có thể thu hút đến trên 60% tổng số lao động của địa
phương vào các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp [3].
Tuy vậy, các chính sách của Nhà nước đối với làng nghề còn ít, ban hành quá chậm.
Một số chính sách hiệu quả chưa cao, nội dung chưa hợp với thực tế. Nhiều địa phương đã
có những chính sách riêng khuyến khích phát triển làng nghề.
Trên đây là một số nhân tố chủ yếu. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển các
làng nghề trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó có những nhân tố tạo điều kiện
tốt, nhưng có những nhân tố tác động xấu, ngay cả trong từng nhân tố cũng có mặt tác
động tốt, mặt tác động xấu.
1.3. Kinh nghiệm phát triển làng nghề ở một số tỉnh
1.3.1. Tỉnh Thái Bình
Đến nay, tất cả 285 xã, phường, thị trấn của Thái Bình đều có hoạt động ngành
nghề, trong đó 125 xã có làng nghề truyền thống như dệt vải, đan chiếu, làm hàng mây tre,
thêu ren, tồn tại từ lâu đời, xen kẽ với những làng có nghề mới du nhập như đan túi sợi,

×