Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.69 KB, 88 trang )







LUẬN VĂN:

Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm
cho thanh niên ngoại thành Hà Nội









MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mọi quốc gia,
đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Giải
quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề
quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành
thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiếp kịp khu vực và thế
giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm, Đảng và Nhà nước ta đã đề
ra nhiều chủ chương, đường lối, chính sách thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy tối đa nội lực,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo nhiều việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở


thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn, góp phần tăng thu nhập và cải thiện
đời sống nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn về tăng trưởng kinh tế,
Việt Nam cũng đạt được những kết quả quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho
người lao động, đời sống người lao động trong đó có tầng lớp thanh niên được cải thiện rõ
rệt. Thanh niên là lực lượng tiên phong trong phát triển chính trị, kinh tế và xã hội, đồng
thời cũng là lực lượng mang lại sự thay đổi và đổi mới. Thế giới việc làm tạo môi trường
cho thanh niên để họ tham gia một cách chủ động vào xã hội, cống hiến tài năng và tầm nhìn
cho tương lao, phát triển cam kết và các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, tính trung bình, tỷ lệ
thất nghiệp ở thanh niên cao hơn từ hai đến ba lần so với nhóm dân số lớn tuổi hơn, nhất là
thanh niên ở nông thôn, những vùng khó khăn.
Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, ở khu vực ngoại thành Hà Nội, quá
trình đô thị hoá đang diễn ra nhộn nhịp. Đó là một quy luật phát triển tất yếu, đem lại một
cuộc sống văn minh, hiện đại hơn và một nền kinh tế phát triển hơn. Song, đằng sau những
biến đổi tích cực đó còn những vấn đề xã hội khác đang cần quan tâm giải quyết. Điển
hình hơn cả là vấn đề việc làm của thanh niên ngoại thành. Điều này được phát huy hiệu
quả hay không phụ thuộc một phần vào chính sách và sự quan tâm của chính quyền địa
phương và các cơ quan chức năng.



Điều đó đặt ra yêu cầu cần có sự nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống vấn đề
giải quyết việc làm cho thanh niên ở thành phố Hà Nội, đảm bảo kinh tế thành phố Hà Nội
có thể tăng trưởng cao, ổn định trong điều kiện Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới và khu vực. Để góp phần vào những nghiên cứu chung đó, tôi chọn vấn đề
“Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội” làm đề tài
luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
này, dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể nêu một số đề tài sau:

- Đề tài cấp nhà nước 70 A.02.02 “Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở
nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”, của Bộ Lao động-
Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 1994.
- Đề tài cấp nhà nước KX-07-05-05: “Những đặc trưng và xu hướng biến đổi của cơ
cấi xã hội nghề nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay, dự báo và kiến nghị”, do tiến sĩ
Nguyễn Đình Tấn-Giám đốc Trung tâm Xã hội học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh làm chủ nhiệm, 1995.
- Đề tài “Quản lý nhà nước về việc làm ở Hà Nội”, luận án Tiến sĩ Kinh tế Trần Văn
Tuấn, Hà Nội, 1995.
- “Thị trường sức lao động thực trạng và giải pháp” của Phó Tiến sĩ Nguyễn Quang
Hiền, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1995.
- “Chiến lược việc làm và đào tạo nghề thời kỳ 2001-2010” của tiến sĩ Nguyễn Hữu
Dũng, Tạp chí Lao động Xã hội, 2001.
- Đề tài “Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm qua thực tế ở Hà Nội”,
luận án Tiến sĩ Kinh tế Đỗ Thị Xuân Phương, Hà Nội, 2005.
- Đề tài “Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc”, luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội, 2002 bảo vệ tại Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề này với những cách
tiếp cận khác nhau.
Có thể thấy rằng, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào đã công bố, tập
trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội.



Tuy vậy, nghiên cứu các công trình đã công bố, tôi cũng tham khảo được nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn rất có giá trị đối với đề tài của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc
những vấn đề được nghiên cứu trong các công trình khoa học đó, kết hợp với khảo sát thực
tế ở địa bàn thành phố Hà Nội, tôi có thể rút ra và kiến nghị những giải pháp giải quyết
việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn
của vấn đề lao động, việc làm, giải quyết việc làm cho thanh niên trong điều kiện nền kinh
tế thị trường ở nước ta nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng. Trên cơ sở đó, đề xuất
những giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về lao động, việc làm, giải
quyết việc làm cho thanh niên trong điều kiện kinh tế thị trường.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
- Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về hỗ
trợ giải quyết việc làm cho thanh niên, trong đó tập trung vào những biện pháp hỗ trợ từ
phía chính quyền thành phố.
Quản lý và giải quyết việc làm cho người lao động có phạm vi rất rộng và phức tạp.
Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên
thuộc 5 huyện ngoại thành Hà Nội (cũ) dưới góc độ quản lý nhà nước.
Về thời gian luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá vấn đề giải quyết việc làm cho
thanh niên trước ngày 01/8/2008.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách pháp luận của nhà nước, lý luận về
thất nghiệp, việc làm trong kinh tế học hiện đại.



Ngoài các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp trừa tượng
hoá là những phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên

cứu khoa học xã hội, nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn, phân pháp phân tích tổng
hợp, diễn dịch, quy nạp, phương pháp hệ thống, so sánh, thống kê
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần phân tích và làm rõ những vấn đề cơ bản về lao động, việc làm,
giải quyết việc làm cho thanh niên, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên
ở thành phố Hà Nội, đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt
hơn việc làm cho thanh niên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế của
thành phố Hà Nội.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý, nghiên cứu hoạch định
chính sách và chỉ đạo thực tiễn của thành phố Hà Nội đối với vấn đề giải quyết việc làm
cho thanh niên ngoại thành.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỖ TRỢ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở CÁC VÙNG
NGOẠI THÀNH TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY

1.1. VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN KHU
VỰC NGOẠI THÀNH
1.1.1. Khái niệm và phân loại việc làm
1.1.1.1. Khái niệm việc làm
Ngày nay, việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn đề có tính
chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển của một đất nước. Tăng việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp là một trong những biện
pháp quan trọng để từng bước ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo phát triển
bền vững. Đặc biệt đối với Việt Nam, tốc độ tăng dân số, nguồn lao động cao, trong khi




tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm bị hạn chế do khả năng cung về vốn, tư liệu sản
xuất còn thấp.
Về mặt bản chất, việc làm là quan hệ tích cực, sáng tạo của chủ thể việc làm với hoạt
động sống của mình, với ý nghĩa, nội dung và mục đích đặt ra. Tuỳ thuộc vào từng thời
điểm, không gian và từng chủ thể có cách tiếp cận vấn đề, đưa ra các khái niệm khác nhau
về việc làm.
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân
khẩu; nó thuộc loại vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội. Hiện nay, trên các
phương tiện thông tin đại chúng, khái niệm “việc làm” và “thị trường lao động” không
hiếm khi bị đồng nhất với nhau. Hệ thống việc làm được đưa thêm hàng loạt chức năng
không đúng là tính chất của nó, còn thị trường lao động được tăng thêm tính chất tổng hợp.
Khái niệm việc làm và khái niệm lao động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không
hoàn toàn giống nhau. Việc làm không phải là hoạt động mà là những quan hệ xã hội giữa
con người, mà trước hết là những quan hệ kinh tế và pháp lý về việc đưa người lao động
vào hợp tác lao động cụ thể trong một chỗ làm việc xác định. Hoạt động lao động, trước
hết, đó là một quá trình, còn việc làm là tài sản của chủ thể mà bằng cách nào đấy được
đưa vào (hay là loại trừ ra) từ quá trình đó. Về giác độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương
quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong
quá trình sản xuất. Việc làm gắn với quá trình tăng thu nhập, giảm sự nghèo khổ của người
lao động, đồng thời không đi ngược lại với lợi ích cộng đồng mà pháp luật quy định. Nói
cách khác, việc làm là công việc, những hoạt động có ích, không bị pháp luật cấm và mang
lại thu nhập cho bản thân hoặc tạo điều kiện để tăng thu nhập cho các thành viên trong gia
đình, đồng thời góp một phần cho xã hội.
Nhà khoa học nổi tiếng trong kinh tế lao động người Nga Kotlia A., đã đưa ra khái
niệm việc làm như phạm trù kinh tế nói chung tồn tại ở mọi hình thái xã hội. Đồng thời,
việc làm là phạm trù tái sản xuất xã hội, mà không thể đồng nhất với lao động và sử dụng
sức lao động. Nó định rõ đặc tính dân số hoạt động kinh tế so với những yếu tố sản xuất
vật chất thể hiện quan hệ giữa con người về việc tham gia của họ vào trong sản xuất xã
hội.

Các nhà khoa học kinh tế Anh thì lại cho rằng “việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ
các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩ là tất cả những gì quan hệ đến cách kiếm sống



của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ
của quá trình kinh tế” 4, tr.315. Theo quan điểm này thì tất cả những việc làm tạo ra thu nhập
mà không cần phân biệt có được pháp luật thừa nhận hay ngăn cấm đều được gọi là việc làm.
Các nhà kinh tế Sônhin và Grincốp của Liên xô lại cho rằng, “việc làm là sự tham
gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong khu vực xã hội
hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong kinh tế phụ của các nông
trang viên” 4, tr.315. Theo khái niệm này thì những người đang đi học, đang tham gia
hoạt động trong các lực lượng vũ trang, những người nội trợ đều coi là người có việc làm.
Ngày nay, ở Liên Bang Nga khái niệm này được quy định rõ trong Bộ Luật Việc làm của
dân cư Liên bang Nga như sau: “việc làm là hoạt động của công dân nhằm thoả mãn
những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem đến cho họ thu nhập và không bị pháp luật Liên
bang ngăn cấm” 4, tr.315.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khái niệm việc làm chỉ đề cập đến trong mối
quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được phân thành hai loại: Có trả công
(những người làm thuê, học việc ) và không được trả công nhưng vẫn có thu nhập (những
người như giới chủ làm kinh tế gia đình ). Vì vậy, “việc làm có thể được định nghĩa như
một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích
cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất” 4, tr.314. Theo khái niệm này,
người có việc làm là người làm việc gì đó để được trả công, lợi nhuận được thanh toán
bằng tiền hoặc hiện vật, hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì
lợi ích hay vì thu nhập của gia đình (không được nhận tiền công hay hiện vật). Khái niệm
này đã được chính thức nêu tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 của nhà thống kê lao động
(ILO.1993) và đã được áp dụng ở nhiều nước. Tuy nhiên, quan niệm này mang nghĩa rất
rộng, bao trùm mọi hoạt động lao động của con người. Trong thời đại ngày nay, với quan
niệm trên, có rất nhiều người sẽ thuộc diện có việc làm, bao gồm: những hoạt động mang

tính hợp pháp và những hoạt động mang tính phi pháp hay là những hoạt động lao động
của con người vi phạm pháp luật hoặc bị cho là vi phạm đạo đức xã hội và bị ngăn cấm ở
một số nước. Ví dụ, việc buôn bán heroin, mại dâm, ở các nước như Hà Lan, Colômbia
thì không cấm, nhưng những hoạt động này bị cấm ở các nước khác, đặc biệt là các nước
Châu Á như: Việt Nam, Trung Quốc Do vậy, khái niệm trên chỉ mang tính khái quát, là
cơ sở nghiên cứu vấn đề chung cho các nước trên thế giới.



Ở nước ta, trong thời kỳ tập trung bao cấp, nhà nước đã đứng ra giải quyết việc làm,
trực tiếp quản lý nguồn lao động kể từ khâu đào tạo, phân bổ đến việc sử dụng đãi ngộ đối
với người lao động thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh. Trong giai đoạn này, những khái
niệm về thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy đủ hầu như không được
biết đến. Còn khái niệm “thất nghiệp” dường như là điều cấm kị nói tới dưới bất kỳ hình
thức nào, trong nền kinh tế quốc dân, xu hướng quốc doanh hoá được coi là một điều tất
yếu. Hướng phấn đấu của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh là chuyển nhanh vào khu vực
quốc doanh, đối với mỗi công dân là vào đội ngũ viên chức nhà nước. Do đó việc làm và
người có việc làm được xã hội thừa nhận và trân trọng là những người làm việc trong
thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực Nhà nước và kinh tế tập thể.
Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, quan điểm về việc làm được hiểu là hoạt động lao
động không bị pháp luật ngăn cấm tạo thu nhập hoặc tạo ra điều kiện cho các thành viên
trong hộ gia đình có thêm thu nhập. Điều này cũng phù hợp với các nhìn nhận và phân tích
của Nhà nước ta, được quy định trong Điều 13 của Bộ luật Lao động: “Mọi hoạt động lao
động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”
27, tr.13.
Khái niệm việc làm của Bộ luật Lao động Việt Nam được cụ thể hoá, có thể hiểu
dưới ba dạng hoạt động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc hiện vật.
- Làm các công việc để thu lợi nhân cho bản thân.

- Làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình
thức tiền lương, tiền công cho công việc đó.
Theo quan niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn hai tiêu thức:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho các
thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu
nhập của việc làm.
Thứ hai, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỏ rõ tính pháp lý
của việc làm, quan niệm đã rõ ràng hơn so với quan niệm của tổ chức ILO. Hoạt động có
ích không giới hạn về phạm vi, ngành nghề và hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của thị
trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người



lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tư do
liên kết kinh doanh, tự do tìm kiếm việc là, tự do thuê mướn lao động trong khuôn khổ của
pháp luật, không bị phân biệt đối xử dù làm việc trong hay ngoài khu vực Nhà nước. Điều
này khẳng định tính chấp pháp lý trong hoạt động của người lao động thuộc khu vực ngoài
Nhà nước và các khu vực phi chính thức.
Hai điều kiện đó có quan hệ chặt chẽ với nhau và là điều kiện cần và đủ để một hoạt
động lao động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động tạo ra thu nhập, nhưng vi
phạm pháp luật như trộm cắp, buôn bán ma tuý, mại dâm thì không được thừa nhận là
việc làm. Mặt khác một hoạt động là hợp pháp và có ích, nhưng không tạo ra thu nhập
cũng không được thừa nhận là việc làm.
Nhận thức về việc làm và tạo việc làm đã có sự chuyển biến căn bản. Nếu như trước
đây, quan niệm phổ biến là Nhà nước chịu trách nhiệm tạo việc làm và bố trí việc làm cho
người lao động thì nay đã chuyển sang quan niệm tạo việc làm là trách nhiệm của Nhà
nước, doanh nghiệp, xã hội và của chính bản thân người lao động. Sự thay đổi quan niệm
về việc làm của Nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường, coi hoạt động lao động tao
ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm, có vai trò quan
trọng trong giải phóng sức lao động, thúc đẩy tạo mở việc làm và phát triển thị trường lao

động ở nước ta.
Quan niệm về việc làm nêu trên đã mang tính khái quát cao, tuy nhiên vẫn còn một
số hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất, xét trên phạm vi rộng thì tính hợp pháp của một hoạt động lao động được
thừa nhận là việc làm tuỳ thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia và mỗi thời kỳ. Có hoạt
động là việc làm ở nước này nhưng lại không được thừa nhận là việc làm ở nước khác.
Thứ hai, không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình và xã hội đều tạo
ra thu nhập mặc dù nó góp phần làm giảm chi tiêu cho gia đình thay vì thuê người làm
công.
Theo giáo trình Kinh tế Lao động của Khoa Kinh tế Lao động và Dân số- Trường đại
học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, khái niệm việc làm được hiểu “là phạm trù để chỉ trạng thái
phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ ) để
sử dụng sức lao động đó” 48.



Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỉ lệ giữa chi phí ban đầu (C)
như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và chi phí về sức lao động (V). Quan
hệ tỉ lệ biểu diễn sự kết hợp giữa sức lao động với trình độ công nghệ sản xuất. Khi công
nghệ thay đổi thì sự kết hợp đó cũng thay đổi theo, có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn
hoặc công nghệ sử dụng nhiều sức lao động. Chẳng hạn, trong điều kiện kỹ thuật thủ công
một đơn vị chi phí ban đầu về tư liệu sản cuất, vốn có thể kết hợp với nhiều đơn vị sức lao
động. Còn trong điều kiện tự động hoá, sản xuất theo dây chuyền hiện đại thì chi phí về
vốn, thiết bị, công nghệ rất cao, nhưng chỉ đòi hỏi sức lao động với tỉ lệ thấp. Do đó, tuỳ
từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phương án phù hợp để có thể tạo việc làm cho người lao
động.
Trong điều kiện của tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự áp dụng các thành tựu của khoa
học công nghệ vào sản xuất mạnh mẽ như hiện nay, quan hệ tỉ lệ giữa C và V thường
xuyên biến đổi theo các dạng khác nhau.
- Sự phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động có nghĩa là mọi người có khả năng

lao động, có nhu cầu làm việc đều có việc làm. Nếu chỉ xem xét trên phương diện sử dụng hết
thời gian lao động có nghĩa là việc làm đầy đủ. Trong trường hợp sự phù hợp của mối quan hệ
này cho phép sử dụng triệt để tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động ta có khái
niệm việc làm hợp lý.
- Sự không phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động sẽ dẫn đến thiếu nguồn
nhân lực tức thiếu việc làm và thất nghiệp.
Trong luận văn này, từ những phân tích trên, tác giả đồng tình với khái niệm việc
làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết
(vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ ) để sử dụng sức lao động đó. Trên cơ sở này sẽ hình
thành các dạng việc làm cũng như phân tích các nhân tố ảnh hướng đến hỗ trợ giải quyết
việc làm.
1.1.1.2. Các dạng việc làm
Trong lý thuyết và cả trong thực tế việc làm được chia làm nhiều hình thức khác
nhau. Những hình thức việc làm là các phương pháp tổ chức pháp lý và những điều kiện sử
dụng lao động. Trong khuôn khổ của thị trường lao động quốc gia hoạt động lao động của
con người được tổ chức với sự trợ giúp của những hình thức tổ chức pháp lý khác nhau,



được phân biệt bởi định mức điều tiết pháp lý thời gian và chế độ ngày làm việc, sự đều
đặn của hoạt động lao động, vị trí thực hiện công việc
- Việc làm đầy đủ: khái niệm việc làm đầy đủ không thể chỉ giải thích theo một
nghĩa, nó phụ thuộc vào tiêu chí và tính chất của vấn đề. Đầy đủ ở đây không có nghĩa là
việc làm chung cho tất cả mọi người, đảm bảo chỗ làm việc cho tất cả dân số có khả năng
lao động. Xã hội luôn có khuyng hướng đạt được cân đối nguồn lao động trong mức tối đa,
dự đoán dòng chuyển động nguồn lao động được dựa trên cơ sở dự báo và lên kế hoạch tạo
chỗ làm việc.
Trong tư duy và thực tế ở phương Tây, việc làm đầy đủ là tình hình nền kinh tế, mà ở
đó tất cả những người mong muốn làm việc có việc làm với mức lương thực tế khống chế.
Trong ngữ cảnh này nó được sử dụng đồng nhất như khái niệm “toàn dụng nhân lực”.

Trong lý thuyết kinh tế và thực tế người ta còn chia việc làm đầy đủ ra thành nhiều
dạng như việc làm năng suất, hiệu quả và hợp lý.
- Việc làm năng suất có nghĩa là việc làm tạo ra những phúc lợi và dịch vụ hữu ích cả
cho xã hội và cả cho từng người lao động.
- Việc làm hợp lý dự đoán sự phân chia một cách tối ưu người đang làm việc theo các
ngành sản xuất và các khu vực lãnh thổ của đất nước với mục đích sản xuất ra những sản
phẩm và sử dụng những dịch vụ phục vụ cho nhu cầu.
- Việc làm hiệu quả là việc làm trong sản xuất sinh lợi nhuận được trang bị kỹ thuật
với tổ chức lao động tiên tiến, năng suất lao động cao và đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Nó dự đoán sự hiện có những cán bộ và đội ngũ những nhà quản lý có trình độ chuyên
nghiệp cao và hướng tới công việc có hiệu quả. Khái niệm việc làm hiệu quả này thường
hướng vào sự phát triển toàn diện con người và hoàn toàn chấp nhận được, nhưng nó khá
rộng và không có khả năng đo được bằng một chỉ tiêu. Tuy nhiên có thể đưa ra tính chất
định lượng để đánh giá qua hệ thống chỉ tiêu như:
+ Mức độ việc làm của cư dân bằng lao động chuyên nghiệp trên tổng dân số, thể
hiện dưới dạng phần trăm (gọi là hệ số việc làm). Hệ số này cho thấy sự phụ thuộc mức độ
việc làm vào yếu tố nhân khẩu, có nghĩa là hệ số sinh, chết và tốc độ tăng trưởng dân số,
được tính toán trên các con số thống kê, hệ số đó là một trong những con số biểu hiện sự
phồn vinh của xã hội.



+ Mức độ việc làm của dân số có khả năng lao động trong nền kinh tế - xã hội. Về
quan điểm kinh tế học, mức độ việc làm của dân số có khả năng lao động thể hiện, một
mặt là đòi hỏi của kinh tế-xã hội đối với người lao động, mặt khác là đòi hỏi của người lao
động về chỗ làm việc. Nó được tính theo hệ số phần trăm giữa tổng số dân cư đang hoạt
động chuyên nghiệp với số lượng toàn bộ dân số có khả năng lao động (nguồn nhân lực).
+ Tỉ lệ phân chia nguồn lao động xã hội theo lĩnh vực công ích xã hội. Khi tính được
hệ số việc làm bằng lao động chuyên nghiệp ta có thể xác định được hệ số việc làm bởi
việc học hành cũng như các dạng hoạt động công ích xã hội khác. Điều đó cho phép làm rõ

những tỉ lệ cần thiết.
+ Cấu trúc phân bố người lao động hợp lý theo ngành và theo khu vực kinh tế. Chỉ
tiêu này, thường được gọi là chỉ tiêu hợp lý, tỉ lệ phân chia tiềm năng lao động theo dạng
việc làm, ngành, khu vực kinh tế
+ Chỉ tiêu gắn với việc tối ưu hoá cấu trúc chuyên môn nghề nghiệp củ người lao
động, cho phép làm rõ ràng sự phù hợp cấu trúc chuyên môn nghiệp vụ của dân số lao
động với cấu trúc chỗ làm việc, đồng thời cũng xác định hệ thống đào tạo cán bộ là phù
hợp với đòi hỏi của nền kinh tế.
Về hiệu quả việc làm có thể theo chỉ tiêu định mức thất nghiệp. Hiện nay, ở phương
Tây, việc làm đầy đủ và có hiệu quả đạt được khi có sẵn định mức thất nghiệp tự nhiên.
Định mức thất nghiệp tự nhiên là mức độ của nó mà kiềm chế mức lương thực tế và giá cả
không thay đổi với mức tăng trưởng năng suất lao động bằng không. Trong thực tế định
mức thất nghiệp được tính bằng cách tính tổng thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cấu
trúc. Phương pháp đơn giản nhất để tính định mức thất nghiệp tự nhiên là tính theo mức độ
của nó trong điều kiện lạm phát ở mức vừa phải. Vì vậy, không nên đánh giá việc làm đầy
đủ và có hiệu quả chỉ theo một phương pháp, mà để nhận được thông tin chính xác thì nên
sử dụng hệ thống các chỉ tiêu đã nêu trên.
- Việc làm hợp lý: là sự thoả mãn nhu cầu làm việc cho bất cứ ai có khả năng lao
động trong nền kinh tế quốc dân và phù hợp với trình độ, nguyện vọng của họ.
Việc làm hợp lý không những hàm chứa nội dung việc làm đầy đủ mà còn nói rõ
việc làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người lao động. Việc làm hợp
lý, do vậy có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế-xã hội cao hơn so với việc làm đầy
đủ. Trong quá trình thực hiện việc làm đầy đủ, cần từng bước, từng bộ phận thực hiện việc



làm hợp lý. Việc làm hợp lý phản ánh sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các
yếu tố con người với điều kiện vật chất của sản xuất và xã hội, hợp lý giữa lợi ích cá nhân
người lao động với lợi ích của xã hội.
Khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối. Vì

trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý không có
nghĩa là không có người thất nghiệp. Mục tiêu phấn đấu của chúng ta là việc làm, tiến tới
việc làm đầy đủ, việc làm hợp lý và tự do lựa chọn việc làm.
- Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất hoặc có thu
nhập cao hơn so với các công việc khác. Như vậy, những hoạt động lao động của con người
mang lại nguồn thu nhập chính cho bản thân và gia đình họ thì đó là việc làm chính. Hiện nay,
các hoạt động lao động được coi là việc làm chính, ví dụ những người lao động làm việc trong
các doanh nghiệp, các cơ quan đơn vị bởi vì thời gian và nguồn thu nhập của họ lại chiếm cao
hơn so với các công việc làm thêm ngoài giờ của họ. Mặc dù hiện nay, vấn đề làm thêm giờ
hoặc làm ở nhà do có cửa hàng của gia đình nhưng số thời gian mà họ việc trong một ngày
vẫn chiếm tỉ lệ cao tại các doanh nghiệp, cơ quan.
Mặt khác, những hộ gia đình có cơ sở sản xuất kinh doanh dựa vào nguồn sẵn có của
mình để mở một cửa hiệu mà nguồn thu nhập lại phụ thuộc rất lớn vào cửa hiệu thì khi đó,
công việc mà họ làm tại cửa hàng đó cũng được coi là việc làm chính.
- Việc làm phụ là việc làm thêm theo nhu cầu hoặc mong muốn của người lao động
để kiếm thêm thu nhập ở một công sở khác hoặc là ngay tại chính nơi mình đang làm việc.
Việc làm phụ được xếp vào nhóm những công việc kiêm nhiệm cả ở những công sở khác
và cả ở nơi đang làm việc; những công việc dịch vụ vào những lúc nhàn rỗi; buôn bán lặt
vặt Trong số nhiều hình thức việc làm khác nhau thì việc làm phụ chiếm một vị trí đặc
biệt. Nó gắn với đặc thù bản chất việc làm và cả với tác động mà nó ảnh hưởng tới hoạt
động của thị trường lao động. Việc làm phụ là hình thức sử dụng lực lượng lao động bổ
sung vào hoạt động lao động, hay nói cụ thể là việc làm có thu nhập thêm ở doanh nghiệp
(công sở) khác hoặc là ngay tại nơi đang làm việc, mà đang được sử dụng rộng rãi trên thế
giới, trong đó có Việt Nam.
Việc làm thêm là nhu cầu chính đáng của người lao động để tăng thu nhập trong điều
kiện mức sống còn thấp như ở Việt Nam, đồng thời còn là mong muốn thể hiện khả năng
cạnh tranh của chính bản thân người lao động trên thị trường lao động và cũng là một “cầu




nối đặc biệt” đảm bảo thay thế chỗ làm việc mới trong tương lai mà không phải trải qua
thời kỳ thất nghiệp. Hiện nay, việc làm thêm tuỳ tiện ở một số ngành (như giáo dục, y tế),
sự khác biệt quá lớn giữa tiền lương và thu nhập của một bộ phận công chức dưới danh
nghĩa việc làm thêm của khu vực nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay lại ảnh
hưởng rất tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội nói chung và sự phát triển đồng bộ thị
trường lao động nói riêng.
Cùng với chính sách mới cho người lao động được tự do lựa chọn công việc và nghề
nghiệp thì việc làm phụ là một biểu hiện hợp lý. Tuy nhiên, ở Việt Nam, biểu hiện này về cơ
bản nó gắn với những xuất hiện tiêu cực như: việc làm không đầy đủ, thu nhập của người lao
động thấp, tăng trưởng kinh tế chưa bền vững. Xét từ góc độ này thì phát triển việc làm phụ
rộng rãi chỉ là biểu hiện tạm thời và nó sẽ giảm khi nền kinh tế - xã hội của đất nước phát triển
ổn định.
- Việc làm không trọn ngày hay việc làm dở dang có đặc điểm công việc trong chế độ
thời gian làm việc không trọn ngày làm việc hoặc tuần làm việc không đầy đủ, nghỉ phép
bắt buộc không hưởng lương theo chủ động của lãnh đạo công sở (doanh nghiệp), có thể
được ấn định từ phía công ty, người thuê lao động và thậm chí có thể từ sự thoả thuận
đồng ý của người lao động, đó là việc làm không trọn ngày tự nguyện. Thời gian gần đây,
cả chế độ này hay chế độ kia đều được sử dụng rộng rãi ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển.
Đối với người lao động, việc làm không trọn ngày hoàn toàn có thể chấp nhận được
trong hàng loạt các trường hợp: phụ nữ có con nhỏ, những lao động lớn tuổi, những người
tàn tật, thanh niên vừa đi học, vừa đi làm đều có lợi thế với loại hình việc làm này.
- Việc làm độc lập: là công việc độc lập theo chủ động cá nhân không thu nhận lao
động làm thuê khi sản xuất những hàng hoá tiêu dùng và các dịch vụ khác nhau. Đồng thời
người lao động làm chủ những phương tiện sản xuất nhất định và tự tổ chức công việc cho
mình. Trong giới hạn nhất định việc làm độc lập là tình thế phải chọn của người lao động
thất nghiệp (có thể do doanh nghiệp không đủ năng lực đảm bảo khả năng với mức lương
đầy đủ), nhưng điều đó không thể phủ nhận vai trò tích cực chủ động của nó.
- Việc làm tổng thể: là việc làm trong tất cả các lĩnh vực hoạt động lao động, cả trong
nền kinh tế của đất nước, cả trong các hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên nghiệp, trong




dịch vụ quốc phòng, kinh tế gia đình, trong các công sở, tôn giáo và trong cả trong các
dạng khác hoạt động công ích xã hội.
- Việc làm linh hoạt (thời gian linh hoạt): là việc làm tồn tại dưới nhiều dạng, hình
thức phổ biến là khi người lao động thoả thuận với người sử dụng lao động có thể tự lựa
chọn thời gian bắt đầu và kết thức công việc, đồng thời bắt buộc người lao động phải tuân
theo chế độ ngày làm việc hoặc quỹ thời gian theo tuần (tháng) đã quy định.
- Việc làm tạm thời: là những công việc theo hợp đồng hoặc là công việc khoán. Các
công ty quan tâm tới loại hình công việc này vì họ có thể tự do thay đổi số lượng lao động
làm thuê, giảm chi phí cho nhân viên bằng cách trả lương tạm thời thấp hơn cho người
đang làm việc, thay thế linh hoạt những người thường xuyên vắng mặt vì lý do nào đó,
tăng nhanh chóng số người làm việc. Việc làm tạm thời được sử dụng rộng rãi trong các
ngành thương mại, dịch vụ và xây dựng.
- Việc làm theo thời vụ: là loại hình việc làm gắn với những công việc theo thời vụ
trong nông nghiệp, xây dựng, khai thác rừng, ở các khu nghỉ mát, trong các ngành mía
đường, đánh bắt hải sản và nhiều ngành khác với công việc không đều trong năm. Với loại
hình này phần thời gian còn lại đáng kể trong năm người lao động không có việc làm. Về
bản chất nó là biến thể của việc làm tạm thời, nhưng có điểm khác ở chỗ là việc làm thời
vụ có thể lặp lại hàng năm ở chỗ này hay chỗ khác.
- Việc làm không tiêu chuẩn hoá: là loại việc làm bao gồm rất nhiều hình thức, một
trong số đó là làm việc tại nhà, khi người lao động nhận nguyên vật liệu, máy móc, công
cụ từ công ty rồi thường kỳ trao trả thành phẩm hoặc bán thành phẩm. Không ít người
quan tâm tới loại hình công việc này, bởi vì chính họ tự xác định được thời gian, khối lượng
công việc, vì chính họ xác định được thời gian, khối lượng công việc và có thể kết hợp với
việc khác như: chăm sóc con cái, vừa làm, vừa học thêm, làm các việc lặt vặt trong gia đình.
Mặt khác, công ty lại giảm được diện tích sản xuất, tiết kiệm chi phí lương mà những người
làm ở nhà thường được nhận ít hơn những người làm chính.
Hình thức quan trọng của việc làm không theo tiêu chuẩn hoá là những công việc xã hội,

được tổ chức bởi các dịch vụ việc làm và chính quyền địa phương dành riêng cho những người
thất nghiệp. Đó là những công việc tạm thời ít cần đến chuyên môn như: thu dọn địa hạt, tham
gia vào xây dựng đường giao thông
1.1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của giải quyết việc làm cho thanh niên



1.1.2.1. Khái niệm giải quyết việc làm
Theo khái niệm việc làm nêu ở phần trên, việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù
hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ ) để
sử dụng sức lao động đó. Rõ ràng tạo được việc làm cho người lao động hoặc tạo nhiều
việc làm luôn gắn với quá trình phát triển kinh tế xã hội, phát huy sức mạnh tiềm năng của
con người, phát huy trí tuệ người lao động để tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Chính vì vậy,
Văn kiện Đại hội X của Đảng đã nêu rõ “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát
huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân” 17. Vấn đề giải quyết việc
làm cho người lao động là cần thiết, không những mang tầm quốc gia mà vượt ra bên
ngoài khu vực và thế giới. Tuỳ thuộc vào các cách thức tiếp cận và mục đích nghiên cứu
khác nhau mà người ta đưa ra khái niệm về giải quyết việc làm:
Giải quyết việc làm là một quá trình tạo ra môi trường hình thành các chỗ làm việc
và sắp xếp người lao động phù hợp với chỗ làm việc để có các việc làm chất lượng, đảm
bảo nhu cầu của cả người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời đáp ứng được
mục tiêu phát triển đất nước.
Với khái niệm trên, việc giải quyết việc làm không chỉ có nhiệm vụ chức năng của
Nhà nước mà còn là trách nhiệm của xã hội, của các cơ quan doanh nghiệp và ngay bản thân
người lao động. Hiện nay, các chính sách của Nhà nước luôn quan tâm chú trọng đến tạo
công ăn việc làm cho người lao động thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các
chương trình, chính sách hỗ trợ tới tận hộ gia đình, các cá nhân sẵn sàng làm việc. Chính
vì vậy, chính sách nhà nước là một trong những tác động quan trọng rất mạnh đến việc làm
của người lao động như khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất như giảm thuế

tiền sử dụng đất, thuê nhà xưởng, văn phòng, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng điện đường, trường
trạm nhằm phục vụ cho các công trình sản xuất Chính sách chính sách nhà nước tác động
toàn diện đến vấn đề giải quyết việc làm. Bên cạnh đó, các chương trình, chiến lược phát
triển, các hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp tác động trực tiếp đến giải quyết việc làm
cho người lao động như đào tạo nguồn lao động, tuyển dụng, bố trí sắp xếp lao động phù hợp
năng lực và yêu cầu
Trong khái niệm trên, giải quyết việc làm còn có một ý nghĩa là tạo thêm được công
ăn việc làm mới cho người lao động. Ở đây là tạo thêm công ăn việc làm mới cho người



lao động mang tính chất là người lao động đang không có việc làm nay có việc làm chứ
không phải là người lao động đang đi làm có thêm được việc làm khác nữa. Với khái niệm
như vậy, theo cách hiểu trên thì giải quyết việc làm là tạo thêm việc làm mới từ các cơ chế
chính sách của Nhà nước cũng như việc tuyển dụng thêm lao động của các doanh nghiệp.
Ngoài ra, hình thành môi trường cho sự kết hợp các yếu tố sức lao động và tư liệu
sản xuất. Ở đó thông qua cơ chế chính sách khuyến khích thu hút của Nhà nước, thông qua
sự hoạt động đầu tư của nhà sản xuất nhằm tạo thêm nơi làm việc mà người lao động có
thể vận dụng sức lao động của mình mà sản xuất của cải cho xã hội.
1.1.2.2. Nội dung cơ bản của giải quyết việc làm
Từ khái niệm giải quyết việc làm như đã nêu trên, có thể thấy được nội dung cơ bản
của giải quyết viẹc làm đó là: Dự báo nguồn lao động, phân tích thực trạng giải quyết việc
làm và ban hành chính sách việc làm.
Một là, dự báo nguồn lao động. Đó là việc tính toán lượng lao động tương lai dựa
vào những giả thiết nhất định về xu hướng vận động của dân số nói chung và lượng lao
động nói riêng trong cả một quá trình dài hạn.
Bản thân dự báo nguồn lao động không chỉ đơn thuần là dự báo về số lượng lao động
trong khu vực hay trong một vùng là bao nhiêu trong những năm tiếp theo, mà thực chất
dự báo nguồn lao động là một khái niệm tổng hợp gồm nhiều vấn đề liên quan phản ánh
mối quan hệ và tác động qua lại đến nguồn lao động. Chẳng hạn, để có thể đưa ra được

một chính sách, cơ chế đúng đắn về giải quyết việc làm thì bản thân các quan hoạch định
chính sách rất cần biết về các thông tin dự báo về nguồn lao động như chất lượng lao động,
số lượng lao động có sự khác nhau hay nói cách khác có một khoảng cách quá xa hay
không tại cùng một thời điểm của các khu vực, đơn vị khác nhau , ở các địa phương có
những điều kiện văn hoá, xã hội, tự nhiên khác nhau thì sẽ tác động tới chất lượng, số
lượng lao động và ý thức của người lao động như thế nào Chính vì tính chất tổng hợp
này đã xác định việc lựa chọn được phương pháp dự báo và cũng như đưa ra được chính
sách chính xác.
Tuỳ thuộc vào mục đích của việc xây dựng, hoạch định chính sách người ta đưa ra
cách tính dự báo. Nếu theo tính chất dự báo nguồn lao động thì có thể dự báo theo thời
gian (ngắn hạn 5 năm, trung hạn 10 năm hay dài dạn trên 10 năm ) hay dự báo theo phạm



vi lãnh thổ (quốc gia, vùng, miền, địa phương ). Có thể dự báo nguồn lao động theo tính
chất nghề nghiệp, theo chất lượng lao động hay theo từng lĩnh vực.
Các kết quả dự báo được ứng dụng nhiều cho xây dựng, hoạch định chính sách phát
triển kinh tế xã hội, là một bộ phận của kế hoạch dài hạn và trung hạn cho mỗi đơn vị, địa
phương. Mức độ chính xác của kết quả dự báo phụ thuộc vào nguồn lực liên quan tới
nguồn lao dộng. Hay nói cách khác, các giả thiết đưa ra phụ thuộc vào khả năng làm thay
đổi các xu hướng tăng, giảm của tỉ lệ sinh, chết, di dân, xu hướng chất lượng sao cho phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội.
Hai là, phân tích thực trạng nguồn lao động. Thực chất phân tích nguồn lao động
thường được gắn liền với quá trình dự báo nguồn lao động. Bản thân của quá trình dự báo
nguồn lao động thì các số liệu cũng phản ánh theo một xu hướng nhất định nào đó. Tuy
nhiên, hiện nay để có được số liệu chính xác cũng như cần thiết cho quá trình nghiên cứu
và thực thi ban hành chính sách giải quyết việc làm thì cần một con số chính xác, phù hợp
với tiêu chí, tính chất của sự việc.
Việc phân tích thực trạng nguồn lao động thường được xem xét trên hai khía cạnh cơ
bản đó là: phân tích tổng quát chung và phân tích theo từng lĩnh vực, khía cạnh khác nhau.

Thông thường phân tích tổng quát chung là đưa ra các số liệu mang tính tổng quát
như sẽ có bao nhiêu người trong độ tuổi lao động, có bao nhiêu người hiện nay và dự báo
trong thời gian tới không có việc làm hay còn gọi là thất nghiệp, bao nhiêu người bước ra
khỏi độ tuổi lao động hoặc không còn khả năng lao động. Những điều đó ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển kinh tế xã hội của khu vực, có bị thiếu hụt lao động hoặc bị thất nghiệp
với mức tỉ lệ cao quá không. Với số liệu như vậy, người đọc có thể hình dung ra được mức độ
quan trọng của việc cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động.
Sự phân tích thực trạng nguồn lao động theo từng khía cạnh cụ thể hoặc lĩnh vực nào
đó. Ví dụ, cần đánh giá chất lượng nguồn lao động trong thời gian tới cũng như cần tạo
việc làm ở hiện tại thì cần dựa vào dự báo của chất lượng lao động như lao động được đào
tạo, không qua đào tạo, lao động có bằng nghề chuyên môn, lao động không có nghề
chuyên môn. Ngoài ra cũng có thể phân tích một cách kết hợp giữa chất lượng lao động
với từng lĩnh vực cụ thể. Với việc dự báo như vậy, sẽ giúp cho người ban hành chính sách
có thêm cơ sở để hoạch định chính sách một cách chính xác, đúng đắn.



Người ta sử dụng các chỉ tiêu thất nghiệp và tỉ lệ thất nghiệp để phân tích đánh giá giải
quyết việc làm tại một khu vực nào đó, trong đó tỉ lệ thất nghiệp thường được sử dụng hơn. Tỉ
lệ thất nghiệp sẽ cho ta biết được mức độ với với con số so sánh mang tính tương đối của
người lao động đã có việc làm. Với con số tỉ lệ thất nghiệp mà cho phép người hoạch định
chính sách có thể xem xét và đánh giá một cách tổng quát nhất tình hình giải quyết việc làm.
Có thể giúp cho nhà hoạch định chính sách so sánh mức độ tương đối giải quyết việc làm qua
các thời kỳ khác nhau tại một khu vực, địa phương nhất định nào đó.
Với sự đánh giá phân tích về giải quyết việc làm tại mỗi quốc gia, địa phương khác
nhau trên cơ sở đó mà người ta đặt ra mục tiêu mức độ cần giảm tỉ lệ thất nghiệp. Thông
thường, nhà hoạch định chính sách có xu hướng ban hành chính sách việc làm mà muốn
tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, có nghĩa là giảm tỉ lệ thất nghiệp
càng thấp càng tốt. Đó là một trong những điều đáng lưu ý qua tâm của nhà hoạch định
chính sách.

Tuy nhiên, theo các nhà kinh tế học, không thể giảm hết tỉ lệ thất nghiệp, tuy rằng đó
là lý tưởng nhưng cần tính đến khả năng thúc đẩy cũng như tạo động lực cho mọi người
lao động có ý thức vươn lên, tự giác trao đổi học tập và phấn đấu bồi dưỡng bản thân.
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, hiện tượng thất nghiệp vẫn xảy ra, theo nghiên cứu
cho thấy, để kích thích sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội thì cần duy trì mức tỉ lệ thất
nghiệp từ 3-5%. Đây cũng là điều khó khăn cho việc xây dựng và hoạch định chính sách, tính
toán sao cho vẫn đạt mục tiêu gia tăng năng suất lao động cao nhưng vẫn phải đảm bảo tình
hình xã hội trong nước có công ăn, việc làm cho người lao động. Điều đó đòi hỏi có sự phối
hợp giữa các chính sách của chính phủ, chính quyền địa phương có sự linh hoạt áp dụng cho
từng thời điểm sao cho phù hợp.
Ba là, ban hành chính sách việc làm. Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm,
tư tưởng, các mục tiêu, giải pháp và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động và tạo việc
làm cho lực lượng lao động đó. Hay nói cách khác, chính sách việc làm là sự thể chế hoá
pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan điểm,
phương hướng mục tiêu và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động.
Chính sách việc làm thực chất là một hệ thống các chính sách chung có quan hệ và
tác động đến việc mở rộng và phát triển việc làm cho lực lượng lao động của toàn xã hội, như
các chính sách: Khuyến khích phát triển các lĩnh vực, những ngành nghề có khả năng thu hút



nhiu lao ng, chớnh sỏch to vic lm cho nhng i tng c bit (lao ng n, ngi tn
tt, i tng t nn xó hi ); chớnh sỏch hp tỏc v xut khu lao ng i nc ngoi
1.1.2.3. c im gii quyt vic lm cho thanh niờn ngoi thnh
c im ca lao ng thanh niờn
Theo N. OHiggins, thanh niờn l la tui ang trong thi gian chuyn tip gia thi
thiu niờn v trng thnh 8. Tuy nhiờn, theo c cu la tui ca dõn s cỏc nc trờn
th gii cú nhng quy nh khỏc nhau v tui thanh niờn, thụng thng t 15 n 24,
25, 29 hoc 34 tui. Theo Liờn hp quc la tui 15-34 l thuc c cu lao ng tr.
Thanh niờn thng tớnh trong tui 15-24 hm ý tui ny thanh niờn gm nhng

ngi ri gh nh trng sm nht t 15 tui (kt thỳc PTCS khi 15 tui) v kt thỳc vic o
to ngh nghip cp H lỳc 24 tui. Nhiều n-ớc quy định ở độ tuổi 15-24, riêng Việt
Nam quy định ở độ tuổi 15-30 theo Luật Thanh niên năm 2005 28.
Trong phm vi nghiờn cu ca ti ny xem xột TNNT cú h khu thng trỳ
ngoi thnh H Ni l lc lng tham gia th trng lao (trong la tui 15-30), cú th chia
ra lm cỏc nhúm:
- Nhúm sau khi tt nghip trung hc c s hoc trung hc ph thụng khụng cú iu
kin hc lờn, tham gia ngay vo th trng lao ng. ú l lao ng ph thụng, cha cú
ngh;
- Nhúm sau khi tt nghip cỏc trng C, H, DN sn sng tham gia vo th trng
lao ng. ú l lao ng cú chuyờn mụn k thut (cú ngh);
- Nhúm b mt vic lm hoc tht nghip ang cú nhu cu vic lm, sn sng tham
gia hoc tr li th trng lao ng.
Thanh niờn l lc lng lao ng tr cú tim nng rt ln. Tim nng lao ng thanh
niờn th hin th cht, trớ tu v tinh thn ca tng cỏ nhõn v cng ng thanh niờn ang
sung sc v phỏt trin nhanh. Tim nng ú ph thuc vo cỏc nhõn t bờn trong v bờn
ngoi rt a dng, tỏc ng qua li an xen nhau, cú th mụ t bng hỡnh nh sau:





Biểu đồ 1.1: Mô hình hình thành tiềm năng lao động cá nhân
của thanh niên 8.

Tiềm năng lao động cá nhân thanh
niên

Thể lực, trí lực,
tâm lực


Điều kiện sống và
làm

việc

Những nhân tố bên ngoài
Những nhân tố bên trong












Yu t trỡnh ngh nghip ca thanh niờn rt quan trng khi tham gia th trng lao
ng, thm chớ quyt nh nng lc cnh tranh ca h v phi thụng qua o to, tớch lu
kinh nghim trong cuc sng v lm vic, th hin hỡnh sau:














Trỡnh ngh nghip c biu hin v mt hỡnh thc l trỡnh t c qua o
to ngh nghip; v mt ni dung l trỡnh ngh nghip thc t th hin nng sut, hiu
qu lm vic.
Lao ng thanh niờn cú nhiu tim nng, tuy nhiờn thanh niờn ang trong tui
phỏt trin, cha n tui ca lao ng trng thnh, nờn lao ng thanh niờn cú mt s
hn ch:
Biu 1.2: Mụ hỡnh v trỡnh ngh nghip ca lao ng thanh niờn

8

.

TRèNH NGH NGHIP

Kin thc ngh nghip
K nng thc t,
kinh nghim lm vic
K nng thớch ng
ngh nghip, cụng vic
Cp trỡnh
v ngnh o to
Thõm niờn lm vic
Trỡnh thc t
Trỡnh v hỡnh thc

-
Sức
khoẻ
-
Hình
thể

-
Giới
tính
-

Lứa
-
Trí
tuệ
-

Tinh
Trình độ
nghề
nghiệp
- Điều kiện
ăn ở
- Điều kiện
làm việc
- Khí hậu,
thời tiết




- Lao động mới tăng thêm thường 100% là ở tuổi thanh niên, nhưng chủ yếu là lao
động phổ thông chưa qua đào tạo nghề nghiệp;
- Số lao động thanh niên qua đào tạo, khi tham gia thị trường lao động phải có
khoảng thời gian nhất định để làm quen, thích nghi với công việc và vẫn phải tiếp tục được
đào tạo;
- Kinh nghiệm tích luỹ trong thực tế còn hạn chế.
Chính vì những đặc điểm nêu trên, việc làm có vai trò rất lớn đối với thanh niên. Việc
làm cho lao động xã hội nói chung, cho thanh niên nói riêng là vấn đề toàn cầu và cũng là
vấn đề xã hội bức xúc, gay gắt nhất của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Đặc điểm của giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành
Để hiểu hơn về việc làm cho thanh niên ngoại thành cần nghiên cứu những nét đặc
trưng của giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành. Xã hội càng phát triển thì cơ cấu
việc làm cho thanh niên cũng có sự biến đổi, trong phạm vi nghiên cứu của mình, tác giả
có thể đưa ra một số đặc điểm cở bản của giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành
như sau:
- Xu hướng giảm việc làm của lao động có trình độ thấp, đặc biệt là trong nông
nghiệp và những ngành, nghề truyền thống đang mất dần do áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ mới.
- Xu hướng tăng việc làm cho các nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các khu
công nghiệp, khu chế xuất, vùng kinh tế động lực…
Đối với nước đang phát triển thì trên tổng thể là một thị trường dư thừa lao động,
nhất là lao động phổ thông, tuy nhiên lại thiếu lao động trình độ cao. Kết quả là tình
trạng thiếu việc làm và thất nghiệp luôn tồn tại, trong đó thanh niên thất nghiệp
thường chiếm tỷ lệ cao nhất. Nguyên nhân thanh niên gặp khó khăn tìm việc làm trên
thị trường lao động chủ yếu là do:
- Cung lao động rất lớn trong khi cầu lao động thanh niên lại rất chọn lọc.
- Thiếu sự chuẩn bị đào tạo nghề nghiệp, tỷ lệ được đào tạo thường rất nhỏ, còn đa số
thanh niên, nhất là TNNT chưa có điều kiện tiếp cận các cơ hội đào tạo nghề nghiệp trước
khi bước vào thị trường lao động.




- Đối với những người được đào tạo, cũng gặp phải vấn đề chưa ăn khớp, hoặc bất
cập của hệ thống đào tạo với yêu cầu của thị trường lao động, nên khả năng hội nhập thị
trường lao động của thanh niên cũng gặp khó khăn.
- Thanh niên chưa đủ thời gian để tích luỹ kinh nghiệm, khi vào thị trường lao động
họ phải cạnh tranh quyết liệt với lao động ở độ tuổi trưởng thành, có nhiều kinh nghiệm
hơn trong nghề nghiệp.
Do áp lực của kinh tế thị trường, người sử dụng lao động yêu cầu lao động thanh niên
phải có trình độ nghề nghiệp, kinh nghiệm làm việc, trong khi đáp ứng của lao động thanh
niên đối với yêu cầu này còn hạn chế, mặt khác khi tuyển lao động thanh niên, người sử
dụng lao động cũng phải cân nhắc tính hiệu quả, vì phải tăng chi phí đào tạo lại, đào tạo bổ
sung kỹ năng mới cho họ phù hợp với công nghệ đang áp dụng.
1.1.2.4. Ý nghĩa của giải quyết việc làm cho thanh niên
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi quốc gia
nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Chính sách việc làm
vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt chính trị xã hội cũng như giáo dục
con người. Việc hoạch định và thực thi không tốt chính sách việc làm sẽ dẫn đến những
hậu quả, những thiệt hại trực tiếp cả về kinh tế, chính trị và xã hội cho đất nước.
Trước hết, giải quyết việc làm đảm bảo việc làm cho thanh niên tham gia hoạt động
kinh tế, kết nối họ vào các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, tạo khả năng cho họ nhận được
những khoản thu nhập thiết yếu để tái sản xuất sức lao động của chính bản thân mình,
cũng như nuôi sống gia mình. Tạo nhiều việc làm tạo điều kiện cho thanh niên dễ dàng lựa
chọn công việc phù hợp, tạo năng suất cao hơn và có cơ hội nhận được thu nhập cao hơn.
Thông qua giải quyết việc làm cho thanh niên, các doanh nghiệp, công ty, người sử
dụng lao động được lựa chọn sức lao động trẻ cần thiết theo khối lương và chất lượng đòi
hỏi của doanh nghiệp. Nhưng không phải lúc nào cũng sẵn có lực lượng thanh niên cần
thiết trong một khu vực, chính vì vậy nhờ việc giải quyết việc làm sẽ cung cấp đầy đủ các
thông tin về ngành nghề, nơi nào đang dư thừa lao động thanh niên và nơi nào thì khan

hiếm lao động trẻ, cũng như việc thanh niên cần phải trang bị những kiến thức và kỹ năng
nghề nghiệp gì để có thể kiếm được việc làm.
Giải quyết việc làm cho thanh niên có quy hoạch, kế hoạch sẽ giúp cho cả cho người sử
dụng lao động trẻ cũng như bản thân thanh niên có những kế hoạch hoạt động trong tương lai



của họ. Trong thực tế, những năm vừa qua đã cho chúng ta thấy rằng, lao động trẻ có tay nghề
cao, có óc sáng tạo, năng động, biết thích ứng nhanh với môi trường mới thì sẽ không bao giờ
thiếu việc làm. Mặc khác, giải quyết việc làm cho thanh niên sẽ tạo ra môi trường làm việc
thuận lợi, thể hiện sự quan tâm nhất định về thoả mãn cần thiết và đảm bảo quan hệ qua lại
trong tập thể lao động , cũng như giữa chủ doanh nghiệp với lao động trẻ.
Giải quyết việc làm cho thanh niên còn đảm bảo việc phân chia, sắp xếp lại lao động
trẻ hoạt động kinh tế thường xuyên trong trường hợp cải cách, sắp xếp lại các doanh
nghiệp. Ở Việt Nam, vẫn đang cổ phẩn hoá, sắp xếp lại các doanh nghiệp đã làm cho lao
động trẻ mất việc. Nhưng bên cạnh đó, cũng cho phép thành lập nhiều doanh nghiệp mới đã
giải quyết nhiều chỗ việc làm mới cho lao động trẻ. Tỷ trọng lao động trẻ trong các thành phần
kinh tế, các ngành nghề, các khu vực dần thay đổi theo hướng hợp lý, thích ứng và phù hợp.
Tóm lại, giải quyết việc làm cho thanh niên có quy hoạch, kế hoạch hợp lý thì sẽ có
tác động tích cực đến kinh tế - xã hội nói chung và bản thân thanh niên nói riêng. Nhưng,
nếu không có sự sắp xếp, giải quyết hợp lý, thì giải quyết việc làm cho thanh niên sẽ tạo
cho bản thân thanh niên tính ỷ lại, trông chờ vào sự sắp xếp công việc của Nhà nước, là
thói quen ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ người Việt Nam.
1.2. HỖ TRỢ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN KHU VỰC
NGOẠI THÀNH
1.2.1. Sự cần thiết hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên khu vực ngoại
thành
Xuất phát từ những hạn chế của khu vực ngoại thành như sự chuyển dịch cơ cấu các
ngành trong nền kinh tế, dân số bước vào độ tuổi lao động tăng, đất đai bị thu hẹp do ảnh
hưởng của đô thị hoá sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm của thanh niên ngoại thành.

Nếu thanh niên ngoại thành không được giải quyết tạo nhiều việc làm, sẽ gây mất ổn định
an ninh, trật tư xã hội, người ảnh hưởng đến đời sống của họ và gia đình họ do không có
thu nhập, từ đó ảnh hưởng đến tình hình phát triển kinh tế khu vực ngoại thành nói chung.
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động TNNT sang làm các ngành phi nông nghiệp (công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ) do sự tác động của đô thị hoá. Mặc dù xu hướng tăng lao
động thanh niên phi nông nghiệp trong khu vực nông thôn còn chậm, nhưng tỉ lệ TNNT
hàng năm bước vào tuổi lao động cao, do giai đoạn trước tỉ lệ tăng dân số nông thôn cao.
Ở khu vực ngoại thành chậm chuyển sang sản xuất hàng hoá, các loại thị trường ít phát



triển, tăng trưởng kinh tế chậm, ảnh hưởng đến cơ cấu lao động TNNT. Tỷ lệ TNNT qua
đào tạo tập huấn thấp hạn chế khả năng phát triển các loại hình doanh nghiệp ở nông thôn.
Thu hút được ít đầu tư của các cấp chính quyền, tư nhân và các công ty nước ngoài cho
phát triển ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng khó khăn về cơ sở hạ tầng và điều kiện tư
nhiên, đầu tư ít có khả năng sinh lãi. Những vấn đề này sẽ tạo thành vòng luẩn quẩn thiếu
việc làm và nghèo đói.
Sự xuất hiện nhiều ngành nghề mới đòi hỏi TNNT phải có sự đổi mới, nâng cao chất
lượng để thích ứng, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Thêm vào đó, lực lượng
TNNT chủ yếu là sản xuất nông nghiệp trong điều kiện lạc hậu, trình độ sản xuất hàng hoá
thấp, năng suất lao động thấp nên chất lượng lao động của TNNT nhìn chung là thấp. Bộ
phận lớn hộ nông dân chưa có khả năng đầu tư cho giáo dục, đào tạo, cho nên lao động được
đào tạo ít, trình độ văn hoá thấp nên thanh niên ngoại thành ít có cơ hội tham gia hiệu quả vào
thị trường lao động.
Sự di chuyển lao động TNNT ra thành thị là xu thế không thể đảo ngược. Nó có tác
dụng giảm sức ép về việc làm tại các vùng nông thôn và cung ứng lao động cho các công
nghiệp, khu chế xuất tập trung Sự di chuyển lao động TNNT dẫn đến hiện tượng giảm
bớt một bộ phận lao động nông thôn, mà trong đó, đa số là lao động vừa tốt nghiệp các cấp
phổ thông chưa qua đào tạo. Lao động TNNT nhập cư vào khu vực ngoại thành là nguồn
lực quan trọng đảm bảo cho sự phát triển quy mô các ngành nghề, sự hoạt động sôi nổi của

thị trường lao động, có tác dụng làm biến đổi chất lượng lao động nông thôn, dần có vị trí
mới trong hệ thống sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, sự di chuyển lao động
TNNT một cách ồ ạt vào ngoại thành có mặt trái, đó là gây nên tình trạng quá tải lao động
giản đơn tại các khu vực ngoại thành, quá tải về cơ sở hạ tầng và gây ảnh hưởng đến cảnh
quan môi trường đô thị.
Quy mô lao động ngành nghề truyền thống, nghề tiểu thủ công nghiệp tăng lên và có
vai trò quan trọng trong việc đảm bảo việc làm và thu nhập của lao động nông thôn. Các
làng nghề được cơ giới hoá, điện khí hoá, sản xuất hướng vào xuất khẩu nhiều hơn, có vai
trò lớn trong phát triển lao động thanh niên phi nông nghiệp ở nông thôn. Vấn đề đặt ra là
phát triển, đào tạo nghề cho thanh niên đủ cung ứng lao động trẻ cho các làng nghề và các
cơ sở tiểu thủ công nghiệp. Đây là một trong những giải pháp quan trọng để cải thiện tình

×