LUẬN VĂN:
Giải quyết việc làm cho lao động
nông nghiệp trong quá trình đô thị
hóa ở nước ta hiện nay
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước đang phát triển, có tiềm năng lao động rất lớn với trên 42
triệu lao động trong đó lao động nông nghiệp chiếm trên 70% (trên 30 triệu lao động
nông nghiệp). Khả năng tạo việc làm cho lao động nói chung và đặc biệt là lao động nông
thôn rất khó khăn, tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp có xu hướng gia tăng, điều đó đã
ảnh hưởng rất lớn đến tới sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh của quốc gia,
nguyên nhân của vấn đề này là: Nền kinh tế của đất nước phát triển chậm, khả năng thu
hút lao động và tạo việc làm mới hạn chế; trình độ của độ ngũ người lao động thấp,
không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, thông tin về thị trường, thông tin về khoa
học công nghệ rất yếu, nghèo, thiếu vốn, thiếu công nghệ
Để phát triển nền kinh tế đòi hỏi đất nước phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ cơ
cấu kinh tế thuần nông, độc canh hay nói cách khác là một đất nước nông nghiệp, sản
xuất nhỏ lạc hậu phải chuyển sang nền văn minh mới: nền văn minh công nghiệp, thực
hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), phấn đấu đến năm
2020 Việt Nam trở thành một đất nước công nghiệp hiện đại ngang tầm với các nước
trong khu vực.
Đi liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước theo hướng CNH,
HĐH, nhiều thành phố, khu công nghiệp, thị trấn, thị tứ mới được mọc lên. Hay có thể
nói, đô thị hóa là kết quả tất yếu của quá trình CNH, HĐH nền kinh tế nước nhà.
Đô thị hóa đem lại nhiều cái lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của đất
nước, song bản thân nó lại gây ra không ít những mâu thuẫn mới đòi hỏi phải được giải
quyết: quá trình đô thị hóa gia tăng sẽ đẩy một bộ phận nông dân ra khỏi vùng đất mà họ
vẫn thường sinh sống (quá trình bần cùng hóa những người lao động) làm cho đất canh
tác bình quân đầu người đã thấp (0,17ha/người lao động) nay còn thấp hơn.
Lao động nông nghiệp không có việc làm, thất nghiệp gia tăng, đời sống thấp, mâu
thuẫn xã hội tăng. Góp phần giải quyết các vấn đề bức xúc nêu trên, đề tài "Giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay" là
một vấn đề có ý nghĩa trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
a) Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về lao động và việc làm của lao động nông
nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam và một số nước láng giềng trong khu vực, từ
đó đề xuất phương hướng, biện pháp giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nước ta
trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam hiện nay.
b) Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về việc làm của lao động nông nghiệp trong
quá trình đô thị hóa, kinh nghiệm tạo việc làm cho lao động ở một số nước trong khu
vực.
- Nghiên cứu thực trạng của quá trình đô thị hóa ở Việt Nam và tác động của nó
tới việc làm cho người lao động.
- Nghiên cứu hiện trạng việc làm của lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị
hóa hiện nay ở nước ta.
- Đề xuất những biện pháp tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình
đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu lao động
nông nghiệp; quá trình đô thị hóa; việc làm cho lao động nông nghiệp; tạo việc làm cho
lao động nông nghiệp trongquá trình đô thị hóa.
- Phạm vi nghiên cứu: Tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô
thị hóa
- Thời gian: từ 1986 đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp
luận chung. Đặc biệt, chú trọng sử dụng các phương pháp đặc trưng của kinh tế chính trị -
phương pháp trừu tượng hóa. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp khác: thống kê, so
sánh, điều tra, phân tích, tổng hợp
5. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về việc làm của lao động nông
nghiệp trong quá trình đô thị hóa.
- Đánh giá được thực trạng, định hướng quá trình đô thị hóa ở nước ta thời gian
qua và tác động của nó tới việc làm của người lao động.
- Đánh giá được thực trạng về việc làm của người lao động nông nghiệp trong quá
trình đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
- Đề xuất phương hướng biện pháp tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong
quá trình đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 8 mục.
Mục lục
Trang
Mở đầu
1
Chương 1: một số vấn đề lý luận, th
ực tiễn về việc làm cho lao
động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa
4
1.1. Lao động nông nghiệp, ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đ
ến việc
làm của lao động nông nghiệp
4
1.2. Kinh nghiệm quốc tế về giải quyết việc làm cho người lao đ
ộng
nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa
20
Chương 2: thực trạng về việc làm cho lao đ
ộng nông nghiệp
trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay
30
2.1. Thực trạng của quá trình đô thị hóa và ảnh hư
ởng của nó tới việc làm
cho lao động nông nghiệp ở nước ta
30
2.2. Thực trạng về việc làm của người lao động nông nghiệp nư
ớc ta
hiện nay
53
2.3. Đánh giá chung về giải quyết việc làm cho lao đ
ộng nông nghiệp
trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam
64
Chương 3: phương hư
ớng và giải pháp giải quyết việc làm cho
người lao động nông nghiệp trong quá trình đô th
ị
hóa ở nước ta
74
3.1. Định hướng đô thị hóa ở nước ta tới năm 2010 74
3.2. Phương pháp giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nước
ta
tới năm 2010
83
3.3. Giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho người lao đ
ộng nông
nghiệp trong quá trình đô thị hóa
87
Kết luận
108
Danh mục tài liệu tham khảo
110
phụ lục
115
Chương 1
Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về việc làm
cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa
1.1. Lao động nông nghiệp, ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến việc làm
của lao động nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm lao động nông nghiệp
Khái niệm "lao động" tùy theo góc độ nghiên cứu mà các nhà khoa học đưa ra
các quan niệm về "lao động" tương ứng. Tuy nhiên, các quan điểm đều tập trung chủ yếu
vào hai khía cạnh: Thứ nhất, coi lao động là hoạt động, là phương thức tồn tại của con
người. Thứ hai, coi lao động chính là bản thân con người, là sự nỗ lực vật chất và tinh
thần của con người dưới dạng hoạt động tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần để
thỏa mãn nhu cầu của con người. Dựa vào quan niệm lao động là hành động xã hội,
người ta phân biệt năm yếu tố cơ bản tạo nên cấu trúc của lao động: đối tượng lao động,
mục đích lao động, công cụ lao động, điều kiện lao động và chủ thể lao động. Trong đó
chủ thể lao động là con người với tất cả đặc điểm tâm sinh lý, xã hội được hình thành và
phát triển trong quá trình xã hội hóa cá nhân. Đối với mỗi dạng hoạt động lao động đòi
hỏi ở mỗi cá nhân một tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhất định. Trên cơ sở đó, tác giả luận văn
đồng tình với khái niệm "lao động" chính là bản thân con người với tất cả sự nỗ lực vật
chất, tinh thần của nó, thông qua hoạt động lao động của mình, sử dụng các công cụ lao
động, tác động đến đối tượng lao động để đạt được mục đích nhất định [14, tr. 15]. Lao
động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nông nghiệp được coi là lao động
nông nghiệp.
Để hiểu rõ hơn bản chất khái niệm "lao động", chúng ta cần nghiên cứu thêm các
khái niệm: nguồn nhân lực, nguồn lao động.
Nguồn nhân lực theo nghĩa rộng là nguồn lực con người của một quốc gia, một
vùng lãnh thổ, là một bộ phận nguồn lực có thể huy động được để tham gia vào quá trình
phát triển đất nước.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là bộ phận của dân số trong độ tuổi lao động
theo quy định của pháp luật có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu
hiện trên hai mặt: về số lượng, là tổng thể những người trong độ tuổi lao động và thời
gian làm việc có thể huy động được của họ. Về chất lượng, nguồn nhân lực thể hiện ở sức
khỏe, trình độ chuyên môn, ý thức, tác phong, thái độ làm việc của người lao động.
Nguồn lao động (hay lực lượng lao động) là một bộ phận dân số trong độ tuổi lao
động quy định thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm nhưng
đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được biểu hiện trên hai mặt: số
lượng và chất lượng như nguồn nhân lực. Về độ tuổi, mỗi quốc gia có quy định giới hạn
tối đa và giới hạn tối thiểu khác nhau: giới hạn tối thiểu ở Braxin: 10 tuổi, úc: 15 tuổi,
Mỹ: 16 tuổi, phần lớn các quốc gia quy định độ tuổi này từ 14 hoặc 15 tuổi. ở Việt Nam
quy định 15 tuổi, giới hạn tối đa: các nước Bắc Âu (Đan Mạch, Thụy Sĩ, Na Uy, Phần
Lan) quy định độ tuổi này là 74 tuổi. Còn các nước đang phát triển: Malaixia, Ai Cập,
Mêhicô, quy định độ tuổi này là 65 tuổi. ở Việt Nam độ tuổi này được quy định: 60 tuổi
đối với nam và 55 tuổi đối với nữ [25, tr. 5].
Trong điều kiện ngày nay (nền kinh tế thị trường, hội nhập với nền kinh tế khu
vực và thế giới, nền kinh tế tri thức, ) việc không ngừng nâng cao chất lượng nguồn lao
động có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Số lượng lao động đông đảo không còn chiếm ưu thế,
nhất là với lao động có chất lượng thấp.
Điểm đáng lưu ý của lao động nông nghiệp là mọi hoạt động lao động, sản xuất
kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp đều gắn liền với đối tượng cây trồng, vật nuôi - là
những cơ thể sống với những đặc điểm riêng biệt, không thể xóa bỏ, làm cho lao động
nông nghiệp mang sắc thái riêng, không giống với lao động trong một số ngành kinh tế
khác. Đặc biệt là tính chất thời vụ của lao động nông nghiệp, làm cho lao động nông
nghiệp lúc thì căng thẳng, lúc lại nhàn rỗi; tình trạng thiếu việc làm tạm thời là khá phổ
biến.
1.1.2. Khái niệm việc làm
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao động
được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Điều 13, chương 2 (việc làm) Bộ luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm
đều được thừa nhận là việc làm". Khái niệm này được vận dụng trong các cuộc điều tra
về thực trạng lao động và việc làm hàng năm của Việt Nam và được cụ thể hóa thành ba
dạng hoạt động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương dưới dạng bằng tiền hoặc bằng
hiện vật.
- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân. Bao gồm sản xuất nông
nghiệp trên đất do chính thành viên được quyền sử dụng; hoặc hoạt động kinh tế phi nông
nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một phần.
- Làm công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình
thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản xuất nông nghiệp trên đất do
chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ có quyền sử dụng; hoạt động kinh tế phi nông
nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ làm chủ hoặc quản lý.
Theo khái niệm trên, hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều kiện:
+ Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho
các thành viên trong gia đình.
+ Hai là, hoạt động đó phải đúng luật; không bị pháp luật cấm.
Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, và là điều kiện cần và đủ của một
hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động chỉ tạo ra thu nhập nhưng vi
phạm luật pháp như: trộm cắp, buôn bán hêrôin, mại dâm, Không thể được công nhận
là việc làm. Mặt khác, một hoạt động dù là hợp pháp, có ích nhưng không tạo ra thu nhập
cũng không được thừa nhận là việc làm - chẳng hạn như công việc nội trợ hàng ngày của
phụ nữ cho chính gia đình mình: đi chợ, nấu cơm, giặt giũ quần áo, Nhưng nếu người
phụ nữ đó cũng thực hiện các công việc nội trợ tương tự cho gia đình người khác thì hoạt
động của họ lại được thừa nhận là việc làm vì được trả công.
Điểm đáng lưu ý là tùy theo phong tục, tập quán của mỗi dân tộc và pháp luật của
các quốc gia mà người ta có một số quy định khác nhau về việc làm: Ví dụ: mại dâm của phụ
nữ được coi là việc làm của phụ nữ ở Thái Lan, Philippin vì được pháp luật bảo hộ và quản
lý; nhưng ở Việt Nam hoạt động đó được coi là hoạt động phi pháp, vi phạm pháp luật và
không được thừa nhận là việc làm.
Tuy nhiên, với khái niệm trên, theo tác giả luận văn có điểm còn bất hợp lý: có
những hoạt động có ích cho gia đình, cho xã hội, không vi phạm pháp luật, nhưng không
tạo ra thu nhập "trực tiếp" cho người tham gia hoạt động - như công việc nội trợ của phụ
nữ, lại không được coi là việc làm. Nhờ phụ nữ làm công việc nội trợ, đã góp phần làm
giảm chi tiêu của gia đình; tạo điều kiện cho chồng, con yên tâm hoạt động sản xuất, kinh
doanh đồng thời góp phần tăng thêm lượng vốn đầu tư vào sản xuất, phát triển sản xuất,
tăng thu nhập cho cả gia đình. Như vậy, thực chất của vấn đề ở đây là công việc nội trợ của phụ
nữ cũng đã góp phần làm tăng thu nhập của cả gia đình.
Với ý nghĩa đó, tác giả luận văn đồng tình với quan điểm: việc làm là một dạng hoạt
động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, có thu nhập hoặc tạo điều kiện tăng thêm thu
nhập cho người thân, gia đình hoặc cộng đồng [39, tr. 32].
Trong nền kinh tế thị trường, ở đâu có lợi nhuận, các doanh nghiệp sẽ tăng cường
sử dụng lao động, tăng sản lượng, khối lượng việc làm sẽ tăng lên. Mặt khác, khi nhu cầu
thị trường suy giảm, các doanh nghiệp sẽ phải cắt giảm sản lượng, khối lượng việc làm sẽ
giảm.
Trong xu thế CNH, HĐH nền kinh tế, khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ,
được ứng dụng nhanh chóng vào sản xuất và tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống
kinh tế - xã hội đã làm cho khối lượng công việc có yêu cầu về mặt kỹ thuật cao tăng
nhanh chóng.
Mặt khác, năng suất lao động tăng đã làm ảnh hưởng rất lớn tới "cầu" lao động
và "cơ cấu" lao động. Nếu người lao động không tự nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ
của mình theo kịp với yêu cầu của sản xuất kinh doanh; phân công lao động xã hội không
phát triển, không tạo ra được nhiều chỗ làm mới cho người lao động thì tình trạng thất
nghiệp, thiếu việc làm là điều khó tránh khỏi.
Trong nông nghiệp, lao động mang tính thời vụ, do vậy vào thời kỳ căng thẳng, khối
lượng công việc nhiều, tăng đột biến. Tuy nhiên, lúc nhàn rỗi, khối lượng công việc giảm đột
ngột, thậm chí có lúc người nông dân không có việc làm. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay
dân số ở khu vực nông thôn vẫn tăng nhanh, đất canh tác không tăng thậm chí có xu hướng
giảm xuống vì nhiều lý do: đô thị hóa, đất ở, tăng, mặt khác với khả năng ứng dụng máy
móc, tiến bộ khoa học công nghệ, làm cho năng suất lao động tăng nhanh, giải phóng một
lượng lao động lớn ra khỏi ngành nông nghiệp. Nếu không tạo đủ công ăn, việc làm cho
người nông dân, đặc biệt trong lúc nông nhàn với thu nhập được người nông dân chấp nhận,
sẽ dẫn đến hiện tượng nông dân đổ xô ra các thành phố và các khu công nghiệp tìm kiếm
việc làm gây nhiều vấn đề phức tạp cho việc quản lý lao động, quản lý xã hội, tình trạng xóm
liều, phố liều, tệ nạn xã hội gia tăng.
1.1.3. Đô thị hóa
1.1.3.1. Đô thị
Đô thị là khái niệm đã được xuất hiện từ khá lâu và được quan tâm nghiên cứu
trong vài chục năm trở lại đây.
Thuật ngữ "đô thị" bắt nguồn từ tiếng la tinh: Urbanus - thuộc về đô thị, Urban -
thành thị, đô thị, châu thị, "Đô thị là một khái niệm cơ bản và được sử dụng khá thống
nhất ở các quốc gia, nhằm chỉ những nơi có dân cư đông đúc, sinh sống bằng các nghề
phi nông nghiệp".
Theo G.S.Harold Chestnut trường đại học kỹ thuật Presden (Hoa Kỳ): "Đô thị là
các điểm dân cư ở đó biểu hiện một quá trình kinh tế - xã hội - kỹ thuật gắn bó mật thiết
với nhau. Các hoạt động của đô thị được phản ánh thông qua các hoạt động sản xuất kinh
doanh, sinh sống, đi lại, vui chơi giải trí, của dân cư, chúng tồn tại và phát triển theo các
quy luật của xã hội".
Theo G.S Đàm Trung Phường:
Đô thị là một đơn vị kinh tế - xã hội phản ánh sự vận động của bản
thân lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó làm cho cấu trúc của đô thị
thường xuyên có sự chuyển hóa; sự chuyển hóa này vừa mang tính sinh học
vừa mang tính cơ học. Đô thị là một cơ thể sống luôn vận động, phát triển trên
cơ sở đan kết tổng hòa cân bằng động của nhiều ngành trong một đơn vị lãnh
thổ và sự tác động tương hỗ của các hệ thống nội lực, ngoại lực theo nhiều
chiều khác nhau [29].
ở Việt Nam, theo quan niệm của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được thể hiện rõ trong Quyết định số 132 HĐBT ngày 5-5-1990 của Hội đồng Bộ
trưởng: Đô thị là các điểm dân cư có các yếu tố cơ bản sau đây:
1. Là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội của vùng lãnh thổ nhất định.
2. Có quy mô dân số nhỏ nhất là 4.000 người, quy mô dân số tối thiểu trong nội thị
không nhỏ hơn 2.000 người/ km
2
(vùng núi có thể thấp hơn).
3. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 60% trở lên trong tổng số lao động; là nơi
sản xuất và dịch vụ thương mại hàng hóa phát triển.
4. Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng phục vụ dân cư đô thị.
5. Mật độ dân cư được xác định theo từng loại đô thị phù hợp với đặc điểm từng
vùng.
"Điểm dân cư" được hiểu: là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là
lao động phi nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung
tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của cả nước,
của một miền lãnh thổ, của một huyện hoặc một vùng trong tỉnh, trong huyện.
- Trung tâm tổng hợp: những đô thị là trung tâm tổng hợp, khi chúng có vai trò và
chức năng nhiều mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
- Trung tâm chuyên ngành: Những đô thị là trung tâm chuyên ngành, khi chúng
có vai trò và chức năng chủ yếu về mặt nào đó như: công nghiệp, cảng, du lịch - nghỉ
dưỡng, đầu mối giao thông,
- Một đô thị là trung tâm tổng hợp của một vùng, tỉnh có thể là trung tâm chuyên
ngành của một vùng liên tỉnh hoặc toàn quốc. Do đó, việc xác định một trung tâm tổng
hợp hay chuyên ngành còn phải căn cứ vào vị trí của đô thị đó trong một vùng lãnh thổ
nhất định.
- Lãnh thổ đô thị gồm: nội thành, hoặc nội thị và ngoại ô. Các đơn vị hành chính
của nội thị gồm: quận và phường, còn các đơn vị hành chính của ngoại ô gồm huyện và
xã [10].
Như vậy, đô thị là các thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định thành lập [11].
Đô thị được chia thành 5 loại:
1. Đô thị loại 1: Là đô thị rất lớn, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội,
khoa học kỹ thuật, du lịch - dịch vụ giao thông công nghiệp, giao dịch quốc tế, có vai trò
thúc đẩy sự phát triển của cả nước - dân số từ 1 triệu trở lên, có tỉ suất hàng hóa cao, tỉ lệ
lao động phi nông nghiệp từ 90% trở lên trong tổng số lao động. Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật
và mạng lưới công trình công cộng được xây dựng đồng bộ. Mật độ dân cư bình quân
15.000 người/km
2
trở lên.
2. Đô thị loại 2: Là đô thị lớn, trung tâm kinh tế, văn hóa xã hội, sản xuất công
nghiệp, du lịch - dịch vụ, giao thông, giao dịch quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển của
một vùng lãnh thổ. Dân số từ 35 vạn đến dưới 1 triệu. Sản xuất hàng hóa phát triển, tỷ lệ lao
động phi nông nghiệp từ 90% trở lên trong tổng số lao động - cơ sở hạ tầng kỹ thuật và mạng
lưới công cộng được xây dựng nhiều mặt tiến tới đồng bộ - Mật độ dân cư bình quân 12.000
người/km
2
trở lên.
3. Đô thị loại 3: Là đô thị trung bình lớn, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã
hội là nơi sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung, du lịch - dịch vụ, có vai trò
thúc đẩy phát triển của một tỉnh, hoặc từng lĩnh vực đối với vùng lãnh thổ. Dân số từ 10 vạn
đến dưới 35 vạn (vùng núi có thể thấp hơn - nhưng không quá 70% theo quy định) - sản xuất
hàng hóa tương đối phát triển, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 80% trở lên trong tổng số
lao động. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và mạng lưới công trình công cộng được xây dựng từng
mặt. Mật độ dân cư bình quân 10.000 người/km
2
(vùng núi có thể thấp hơn).
4. Đô thị loại 4: là đô thị trung bình nhỏ, trung tâm tổng hợp chính trị, kinh tế,
văn hóa - xã hội hoặc trung tâm chuyên ngành sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thương nghiệp có vai trò thúc đẩy sự phát triển của một tỉnh hay một vùng trong
tỉnh. Dân cư từ 3 vạn đến dưới 10 vạn (vùng núi có thể thấp hơn). Là nơi có sản xuất
hàng hóa, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 70% trở lên trong tổng số lao động. Đã và
đang đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng từng phần. Mật
độ dân cư 8.000 người/ km
2
trở lên (vùng núi có thể thấp hơn).
5. Đô thị loại 5: Là đô thị nhỏ, trung tâm tổng hợp kinh tế - xã hội, hoặc trung
tâm chuyên ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp, có vai trò thúc đẩy sự phát triển của
một huyện hay một vùng trong tỉnh hoặc một vùng trong huyện. Dân số từ 4.000 đến 3
vạn người (vùng núi có thể thấp hơn). Tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 60% trở lên
trong tổng số lao động. Bước đầu xây dựng một số công trình công cộng và hạ tầng kỹ
thuật. Mật độ dân cư bình quân 6.000 người/km
2
(vùng núi có thể thấp hơn). Đối với các
khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tập trung nằm trong quy hoạch, khi cần
thiết sẽ xếp vào khu vực đô thị để quản lý.
Điểm đáng lưu ý là: với các đô thị ở miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo, các
tiêu chuẩn quy định cho từng đô thị có thể thấp hơn, nhưng phải đảm bảo mức tối thiểu
không dưới 70% so với chỉ tiêu chung. Với các đô thị có chức năng nghỉ mát, du lịch,
điều dưỡng, nghiên cứu khoa học, đào tạo thì tiêu chuẩn quy mô dân số thường trú có thể
thấp hơn, nhưng phải đạt tối thiểu 70% so với quy định chung [29, tr. 15].
Đô thị loại 1, 2 chủ yếu do trung ương quản lý; loại 3, 4 do tỉnh quản lý; loại 5 do
huyện quản lý.
1.1.3.2. Đô thị hóa
Theo E.B.Alaev (Liên Xô cũ) Đô thị hóa là một quá trình kinh tế - xã hội được
gia tăng mạnh mẽ trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, biểu hiện của nó là sự tăng
nhanh về số lượng và quy mô của các điểm dân cư đô thị, sự tập trung hóa về dân cư
trong các thành phố và đặc biệt là trong các thành phố lớn, sự phổ biến lối sống đô thị
trong toàn bộ mạng lưới dân cư. Đô thị hóa là sự phản ánh những chuyển biến sâu sắc
trong cấu trúc kinh tế và trong các hoạt động của đời sống xã hội.
Theo các chuyên gia thuộc trung tâm định cư của Liên hợp quốc (Habitat), đô thị
hóa là quá trình mà nhờ nó, dân số của các quốc gia, chuyển dịch từ các nghề nghiệp
nông thôn sang các nghề nghiệp đô thị, và vì thế mà diễn ra sự chuyển dịch từ các điểm
dân cư nông thôn sang các điểm dân cư đô thị ở các quy mô khác nhau. Đô thị hóa không
đơn thuần là vấn đề dân số học, nó là vấn đề bao trùm về sự phân bố; đô thị hóa có thể
được hiểu như là sự biểu hiện của các mô hình phát triển các điểm dân cư.
Theo giáo sư Đàm Trung Phường, đô thị hóa là quá trình chuyển dịch lao động từ
hoạt động sơ khai nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên sẵn có như các hoạt động của
ngành nông, lâm, ngư nghiệp, khai thác phân tán trên các địa bàn rộng sang những hoạt
động tập trung hơn như các hoạt động sản xuất công nghiệp và thương mại dịch vụ,
cũng có thể nói là chuyển từ hoạt động nông nghiệp phân tán, sang các hoạt động phi
nông nghiệp tập trung trên một địa bàn thích hợp được gọi là đô thị.
Như vậy, đô thị hóa với các khái niệm đa dạng tùy theo góc độ nghiên cứu của
các tổ chức và các nhà khoa học, tuy nhiên, đều có những nét chung cơ bản phản ánh đặc
trưng của đô thị hóa là: quá trình tập trung dân số vào các đô thị, là sự hình thành nhanh
chóng các điểm dân cư đô thị trên cơ sở phát triển sản xuất và đời sống. Quá trình đô thị
hóa là quá trình công nghiệp hóa đất nước, đồng thời cũng là quá trình biến đổi sâu sắc về
cơ cấu sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu tổ chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu tổ chức
không gian kiến trúc biến nông thôn thành thành thị, hay nói cách khác đô thị hóa là
quá trình biến các làng quê với hoạt động nông nghiệp là chủ yếu thành các đô thị (thành
phố, thị xã, thị trấn) với các hoạt động phi nông nghiệp là chủ yếu (từ 60% - 90% tùy
theo các cấp độ đô thị) xóa bỏ dần thói quen của những người nông dân, xây dựng phong
cách, thói quen, và tư duy, lối sống của người dân trong các đô thị.
Quá trình đô thị hóa được diễn ra theo hướng:
1- Xây dựng mới ngay từ đầu: khu công nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch vui
chơi giải trí
2- Mở rộng, nâng cấp và cải tạo các thành phố, tụ điểm dân cư thành các đô thị
mới: sát nhập một số đơn vị hành chính lân cận để mở rộng quy mô của thành phố, thị xã,
thị trấn.
3- Đô thị hỗn hợp: nghĩa là đô thị mới được xây dựng bên cạnh đô thị cũ.
4- Liên kết các đô thị lại với nhau tạo nên một trung tâm mới - vùng đô thị với
quy mô lớn: hình thành tổ hợp khu công nghiệp, hình thành các thành phố trung tâm và
các thành phố vệ tinh. Để đánh giá tình hình đô thị ở một nước người ta dùng hai chỉ tiêu:
* Mức độ đô thị hóa, được tính bằng tỷ lệ phần trăm dân số đô thị so với tổng số
toàn quốc hay vùng
Mức độ đô thị hóa =
Số dân đô thị
(%)
Tổng số dân
* Tốc độ đô thị hóa
Tốc độ đô thị
hóa
=
Số dân đô thị cuối kỳ - Số dân đô thị đầu
kỳ
(%/năm
)
Số dân đô thị đầu kỳ x N
Trong đó N là số năm giữa hai kỳ thống kê.
Lịch sử đã chứng minh: [38, tr. 26-33]
- Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến việc hình
thành các trung tâm kinh tế, thương mại giao dịch lớn, tập trung.
- Sự phát triển mạnh mẽ của phân công lao động xã hội hình thành các ngành
mới đặc biệt là các ngành phi nông nghiệp, sự lớn mạnh của các ngành dịch vụ đã đóng
góp phần hết sức to lớn vào phát triển kinh tế đất nước - được coi như ngành công nghiệp
không có ống khói.
- Trong thời đại khoa học công nghệ, CNH, HĐH, hội nhập với nền kinh tế thế
giới, tất yếu sẽ hình thành các thành phố, các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa
học kỹ thuật, du lịch vui chơi giải trí,
- Phát triển đô thị đem lại nhiều ưu việt: đô thị hóa là hiện thân của nền sản xuất
lớn, văn minh hiện đại là nơi tập trung mọi yếu tố vật chất và tinh thần cho sản xuất của
xã hội. Do vậy, đây cũng là nơi sản xuất đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.
Đô thị (đặc biệt là các đô thị lớn) tạo nhiều khả năng cho người lao động lựa chọn ngành
nghề, trường học, nơi làm việc, Đồng thời đô thị cũng là nơi phát triển nhu cầu mới và
tạo điều kiện tốt nhất để thỏa mãn những nhu cầu ấy, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho mọi thành viên. Có thể nói: phát triển đô thị là tạo động lực cho nền
kinh tế nói chung và với nông nghiệp nói riêng phát triển. Mặc dù phát triển đô thị cũng có
những mặt trái: ô nhiễm môi trường, tiếng ồn, tai nạn ô tô, bệnh tật, nhưng những ưu
việt của phát triển đô thị là rất lớn không thể phủ nhận.
Thực hiện quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn chính là từng bước đô
thị hóa nông nghiệp, nông thôn xây dựng nền văn minh công nghiệp trong nông nghiệp,
nông thôn.
V.I. Lênin đã luôn nhấn mạnh vai trò chủ đạo của thành phố đối với nông thôn,
vai trò tiến bộ của các thành phố lớn đối với sự phát triển của xã hội, thành phố tất yếu
dấn dắt nông thôn. Nông thôn tất yếu đi theo thành phố [24, tr. 5]. Lênin cho rằng: "dân
cư nông thôn chuyển vào thành phố" là một hiện tượng tiến bộ [22, tr. 576 -578] "
thành phố là trung tâm sinh hoạt kinh tế, chính trị của sự tiến bộ" [23, tr. 341].
Thực tiễn đã và đang tiếp tục chỉ rõ, phát triển đô thị đang là xu thế của thời đại
và do đó không có ngoại lệ đối với Việt Nam.
1.1.4. Nhân tố ảnh hưởng tới việc làm của lao động nông nghiệp trong quá
trình đô thị hóa
Quá trình đô thị hóa, làm thay đổi mọi mặt của đời sống, xã hội của khu vực nông
thôn đặc biệt là cơ cấu lao động và việc làm của lao động nông nghiệp. Việc làm của lao
động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố:
1.1.4.1. Giảm diện tích đất canh tác
Đô thị hóa làm giảm diện tích đất canh tác, đất canh tác bình quân trên một người
lao động trong nông nghiệp giảm, làm cho lao động nông nghiệp thiếu việc làm gia tăng.
Quá trình đô thị hóa là quá trình gia tăng và lớn lên của hệ thống đô thị, quá trình
biến từng vùng nông thôn thành đô thị là nguyên nhân cơ bản làm giảm đất canh tác
trong nông nghiệp.
Trong xu thế phát triển của nền kinh tế, các cơ sở hạ tầng ngày càng được phát
triển: đường giao thông, bến cảng, trung tâm thương mại, Cũng góp phần làm giảm đất
canh tác trong nông nghiệp, nông dân mất dần ruộng đất. với các nước đang phát triển,
công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực nông nghiệp còn chậm chạp và khá lạc hậu, phương
thức canh tác theo lối truyền thống vẫn là chủ yếu, do vậy đất đai là yếu tố hết sức cơ bản
và cần thiết đối với sản xuất nông nghiệp và khả năng tạo việc làm cho người lao động
nông nghiệp. Nhiều đất khả năng tạo việc làm cho lao động nông nghiệp lớn, ít đất khả
năng tạo việc làm cho lao động nông nghiệp sẽ giảm đi.
Đô thị hóa đã đẩy nhanh quá trình phân công lao động, tạo cơ sở hạ tầng thuận
lợi cho sản xuất phát triển, tuy nhiên với các nước đang phát triển có mức thu nhập trung
bình thấp, trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, tay nghề của người lao động thấp, không
đủ khả năng khai thác những thuận lợi của quá trình đô thị hóa tạo ra, để giải quyết công
ăn việc làm cho mình. Do vậy, quá trình đô thị hóa càng diễn ra nhanh chóng nguy cơ
thất nghiệp và thiếu việc làm trong nông nghiệp, nông thôn càng gia tăng.
Trong quy hoạch phát triển đô thị, vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp (đặc biệt là những người "mất" đất canh tác) là vấn đề hết sức cần thiết và cấp
bách.
1.1.4.2. Cơ cấu lao động và trình độ của người lao động
Quá trình đô thị hóa là quá trình phát triển các thành phố, các trung tâm kinh tế,
chính trị và xã hội; là quá trình CNH, HĐH đất nước. Biến nông thôn thành thành thị,
phân công lao động được diễn ra nhanh, mạnh cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Tạo nhiều
công ăn việc làm cho người lao động. Việc làm ở các đô thị rất đa dạng và phong phú,
bao gồm: lao động trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp (chiếm tỷ trọng 10-40% lao
động trong tổng số); lao động trong các nhà máy công nghiệp hiện đại; lao động trong
các trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội; lao động trong các ngành dịch vụ,
Cơ cấu lao động và việc làm là đơn đặt hàng cho "cung" lao động.
Ngoài 10-40% lao động trong ngành nông nghiệp và một bộ phận không lớn
trong một số ngành dịch vụ có trình độ văn hóa, khoa học công nghệ chưa cao, còn lại
phần lớn lao động ở các đô thị là lao động được đào tạo, có trình độ văn hóa, khoa học
công nghệ, trình độ quản lý, tri thức về nền kinh tế thị trường cao và rất cao.
Với các nước đang phát triển, trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, của lao động
nông nghiệp, nông thôn thường rất thấp, do vậy khi tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn, xây dựng và phát triển các đô thị, phát triển các ngành phi nông nghiệp gắn
với nền kinh tế thị trường, cơ hội tìm kiếm công ăn việc làm của lao động nông nghiệp ở
các đô thị là rất khó khăn. Ngay cả trong sản xuất nông nghiệp ngày nay - thời đại khoa
học công nghệ - lao động nông nghiệp cũng đòi hỏi phải được đào tạo và đào tạo lại.
Cùng với tiến trình đô thị hóa, CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn đặt ra những yêu cầu
mới cho người lao động, đòi hỏi người lao động phải nâng cao năng lực, trình độ của
mình. Nếu người lao động nông nghiệp nói riêng, người lao động trong các ngành nói
chung không được đào tạo và đào tạo lại đáp ứng yêu cầu mới, thì tự họ sẽ mất công ăn
việc làm, cơ hội tìm kiếm việc làm sẽ rất khó khăn tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm
là không thể tránh khỏi.
Thực trạng về lao động và việc làm ở các nước đang phát triển đã chứng minh:
lao động có tay nghề cao, có trình độ chuyên môn giỏi đang rất thiếu, trong khi lao động
thủ công và lao động có tay nghề thấp lại thừa với số lượng lớn. Do vậy, muốn giải quyết
được công ăn việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa cần thiết phải
quan tâm tới việc đào tạo, đào tạo lại đội ngũ người lao động nông nghiệp nói riêng, lao
động xã hội nói chung theo cơ cấu lao động hợp lý phù hợp với từng giai đoạn đô thị hóa,
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
1.1.4.3. Sự gia tăng mạnh mẽ dân số ở khu vực nông nghiệp, nông thôn
Xuất phát từ nhiều lý do: Trình độ nhận thức, quan niệm sống, mà dẫn đến một
thực tế là: tốc độ gia tăng dân số ở khu vực nông nghiệp, nông thôn thường cao hơn
nhiều so với khu vực thành thị. Vì vậy diện tích đất canh tác bình quân đầu người thấp
nay lại càng thấp hơn; thu nhập bình quân đầu người đã thấp, nay khó có thể được cải
thiện, khả năng đào tạo và đào tạo lại cho người lao động nông nghiệp bị hạn chế; yêu
cầu về lao động qua đào tạo, có chất lượng cao của xã hội ngày càng cao. Trong nông
nghiệp, ngành trồng trọt vẫn là chủ yếu - tính thời vụ của lao động nông nghiệp cao, vì
vậy, tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp của lao động nông nghiệp có xu hướng gia
tăng. Đây là một thực tế cần sớm có biện pháp khắc phục.
1.1.4.4. Vốn đầu tư
Vốn đầu tư có ý nghĩa to lớn đối với việc làm của người lao động: Vốn dùng để
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm máy móc, thiết bị, đào tạo đội ngũ người lao
động Đặc biệt trong điều kiện ngày nay, để phát triển sản xuất đòi hỏi phải đổi mới nhanh
chóng máy móc, thiết bị, tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, hơn nữa hoạt động
trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, tính rủi ro cao. Có vốn lớn,
"trường vốn" đem lại lợi thế cho doanh nghiệp và người sản xuất, thực tế là: muốn phát triển
một ngành nào đó đều cần phải có một lượng vốn đầu tư tương ứng cho một chỗ làm mới (ví
dụ: để có một chỗ làm mới trong nông nghiệp cần một lượng vốn từ 10-15 triệu đồng còn
trong lĩnh vực công nghiệp cần khoảng 50 triệu đồng cho một chỗ làm mới, )
Các nước đang phát triển phần lớn là các nước có xuất phát điểm thấp (nghèo,
trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, thấp) đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Quá trình đô thị hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cho người lao động có việc làm nâng cao thu nhập,
ổn định đời sống, song tình trạng đói, nghèo, thiếu vốn đầu tư đã làm hạn chế việc mở rộng
cơ sở sản xuất hoặc phát triển các ngành nghề mới, thu hút lao động nông nghiệp bị giải
phóng ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp (mất đất, không có đất để canh tác do đô thị hóa ) hoặc
một bộ phận lao động nông nghiệp thiếu việc làm lúc thời vụ nông nhàn. Do đó, nếu đứng
trên góc độ nông nghiệp để tự giải quyết việc làm cho mình là rất khó khăn, để giải quyết
vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa cần phải có sự quan tâm
giúp đỡ của nhà nước cũng như các cấp, các ngành liên quan.
1.1.4.5. Vai trò của nhà nước
Với xuất phát điểm thấp, bản thân nông nghiệp và những người lao động nông
nghiệp không đủ khả năng để tự giải quyết công ăn việc làm cho chính mình trong quá
trình đô thị hóa, để góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động nông
nghiệp cần thiết phải có sự hỗ trợ của nhà nước trên nhiều mặt. Vai trò của nhà nước ảnh
hưởng tới việc làm của người lao động nông nghiệp thông qua việc xây dựng chiến lược
phát triển đất nước, quy hoạch phát triển đô thị.
Qua quy hoạch phát triển các ngành, quy hoạch phát triển các vùng mà các
ngành, các vùng xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, vùng mình, xây dựng
đội ngũ người lao động cho phù hợp.
Nếu quy hoạch đô thị gắn với quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn, gắn
với chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn các ngành sẽ hỗ trợ nhau và tạo
điều kiện cho nhau phát triển, tạo nhiều việc làm cho người lao động.
Ngoài ra, thông qua các chính sách, các chương trình, các dự án của mình nhà
nước đã tác động tới việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, hướng dẫn,
khuyến khích người lao động phát triển ngành nghề, tạo việc làm, tạo vốn cho đầu tư phát
triển ngành nghề: qua đền bù đất, qua vay ưu đãi, qua luật đầu tư, qua việc tạo lập môi
trường kinh doanh, môi trường pháp lý ổn định, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài
nước
1.2. Kinh nghiệm quốc tế về giải quyết việc làm cho người lao động nông
nghiệp trong quá trình đô thị hóa
Quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các
nước đang phát triển. Theo tính toán của Liên hợp quốc đến giữa năm 1990 dân số đô thị
thế giới đã đạt đến mức 43% tức 2,3 tỉ người. Tỉ lệ này đã tăng nhanh gấp 2,5 lần dân số
nông thôn. Vào năm 2005 sẽ có trên 50% dân số thế giới sống ở đô thị, và khoảng 60%
vào năm 2025.
ở các nước đang phát triển năm 1970, dân số đô thị chiếm 25%; năm 1990 lên tới
34%; năm 2015: 50% và lên 57% vào năm 2025. Như vậy, tốc độ tăng dân số đô thị ở
các nước đang phát triển khá cao bình quân/ năm là: 3,8%, trong khi dân số nông thôn chỉ
tăng 1,2% / năm.
Sự phát triển mạnh mẽ của đô thị hóa, đã đặt ra rất nhiều vấn đề cần phải giải
quyết: phát triển kinh tế đô thị, giải quyết việc làm cho người lao động, môi trường, thực
tiễn phát triển đô thị của các quốc gia trên thế giới nhất là các quốc gia trong khu vực đã có
nhiều bài học kinh nghiệm được rút ra trong việc giải quyết các vấn đề trên, đặc biệt những
kinh nghiệm quý báu trong giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, lao động nông
nghiệp nói riêng. Đây thực sự là những bài học hữu ích đối với vấn đề đô thị hóa và giải
quyết việc làm cho lao động nói chung và lao động nông nghiệp nói riêng ở Việt Nam và
các nước đang phát triển. Để giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp, các
quốc gia đang phát triển tập trung vào các vấn đề sau:
1.2.1. Làm tốt công tác quy hoạch đô thị, gắn quy hoạch phát triển đô thị với
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Quy hoạch đô thị luôn là vấn đề được các nước phát triển cũng như các nước
đang phát triển đặc biệt quan tâm. Vấn đề quy hoạch không gian, quy hoạch phát triển đô
thị phát triển kinh tế đô thị, xác định rõ các trọng tâm phát triển kinh tế, giải quyết việc
làm cho người lao động, môi trường, là nội dung được tập trung giải quyết ngay từ
khâu quy hoạch.
ở cộng hòa Liên bang Đức, quy hoạch không gian liên quan tới sự phát triển
trong toàn bộ lãnh thổ liên bang, các bang và các vùng. Với mục tiêu: đảm bảo sự thống
nhất về điều kiện sống trong cả nước, tránh sự giãn cách quá xa giữa các bang, vùng
miền. Quy hoạch không gian là công việc được nhà nước trực tiếp tiến hành vì nó mang
tính liên ngành, liên địa phương. Nhà nước ban hành "khung" bao gồm các quy định về
nội dung và thủ tục; các bang sẽ tự chịu trách nhiệm cụ thể hóa "khung" ở bang mình để
thực hiện phát triển kinh tế ở bang mình thành phố hay thị trấn của mình. Quy hoạch phát
triển các ngành do Bộ trưởng chủ quản chịu trách nhiệm thi hành.
Các vấn đề Quy hoạch sử dụng mặt bằng, quy hoạch các cụm dân cư, các địa bàn
trung tâm, các trọng tâm phát triển giải quyết tốt công ăn việc làm cho những người lao
động được gắn chặt chẽ với nhau. Các công việc này được các cơ quan chức năng xây
dựng, người dân được quyền xem đồ án dự thảo, được quyền góp ý về đồ án quy hoạch
và phát triển đô thị; Hội đồng địa phương thông qua. Có thể nói: mục tiêu của quy hoạch
ở đây là để phát triển, trước tiên là phát triển kinh tế, nhằm xóa bỏ sự cách biệt giàu
nghèo giữa các bang, vùng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Với
mục tiêu phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động ở các đô thị, chính
quyền liên bang, các bang đã thực hiện một loạt đồng bộ các giải pháp: từ giúp đỡ hình
thành các doanh nghiệp mới, chuẩn bị mặt bằng, cơ sở hạ tầng khuyến khích và đổi mới
công nghệ, đổi mới việc thực hiện các chính sách tài chính ưu đãi: miễn giảm thuế, tín
dụng, ưu đãi, Thành phố Nordhorn và Lingen là những thành phố đi đầu trong các lĩnh
vực này.
Công tác quy hoạch và phát triển đô thị được thực hiện tốt đặc biệt là các quy
hoạch "có tầm nhìn xa" đã là căn cứ (cơ sở) cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển các ngành đúng hướng, giúp cho các nhà đầu tư có hướng đầu tư, mở rộng sản xuất,
đồng thời cũng có thể ngăn chặn được một số dự án dạng "ăn xổi" dẫn đến hiệu quả kinh
tế xã hội không cao, làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của các đô thị. Tạo nhiều
công ăn việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, bài học không thành công từ sự quy hoạch phát triển kinh tế của
Philippin theo hướng: phát triển nhanh, mạnh CNH, HĐH các ngành thay thế hàng nhập
khẩu các ngành có năng suất cao, nước này hy vọng sẽ sớm biến từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm cao (tỷ lệ thất nghiệp khoảng 10%, tỷ lệ
thiếu việc làm là 35%) thành một nước công nghiệp, thu hút và tạo nhiều việc làm cho
người lao động. Nhưng thực tế đã không như mong muốn. Kết quả là nông dân lũ lượt đổ
xô ra các đô thị, khu công nghiệp để tìm kiếm việc làm, sản xuất nông nghiệp đình đốn,
sa sút, trì trệ giá cả nông sản phẩm tăng vọt, giá cả nguyên liệu cho công nghiệp chế biến
tăng, chi phí tăng, mục tiêu thu hút tạo việc làm cho người lao động cũng không giải
quyết được. Đây cũng là bài học bổ ích cho hướng quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế
cho chúng ta cũng như các nước đang phát triển đi lên từ nền văn minh nông nghiệp.
1.2.2. Thu hút đầu tư nước ngoài, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn trong nước
Phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp tạo nhiều việc làm cho người
lao động. Tạo việc làm cho người lao động luôn là chính sách ưu tiên số một và là chiến
lược hàng đầu trong các kế hoạch 5 năm của các quốc gia (Hàn Quốc, Philippin, Thái
Lan, ) trong quá trình đô thị hóa.
Các quốc gia đang phát triển (đặc biệt là các nước trong khu vực) phần lớn đều là
những nước nghèo, có tài nguyên, có nguồn nhân lực dồi dào (trình độ thấp), muốn phát
triển đô thị, CNH, HĐH đất nước rất cần phải có vốn. Vốn cho đô thị hóa, CNH, HĐH có
được từ hai nguồn: trước tiên phải huy động tối đa nguồn vốn trong nước thông qua việc
kêu gọi dân chúng phát huy tinh thần tiết kiệm, "tiết kiệm tiêu dùng hiện tại để tăng tiêu
dùng trong tương lai". Giảm tỉ lệ cất trữ, tăng vốn cho đầu tư sản xuất, phát triển ngành
nghề. Thứ hai là: kêu gọi đầu tư nước ngoài (vốn, công nghệ, chất xám, ) thông qua việc
thực hiện chính sách ưu đãi cho người đầu tư: miễn, giảm thuế, chính sách tự do luân
chuyển tư bản, đơn giản hóa, gọn nhẹ trong việc cấp phép, thủ tục hành chính,
Nhờ thành công từ chính sách này đã giúp cho Hàn Quốc, Thái Lan, Inđônêxia,
Xingapo, vượt qua được khó khăn, thực hiện thành công CNH, HĐH nền kinh tế và trở
thành các con "rồng" châu á.
Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ chính phủ các nước này lại có chính sách tập trung vào
một số đối tượng.
Trước năm 1990, Hàn Quốc mục tiêu phát triển mạnh các ngành cần nhiều lao
động, lao động không có kỹ năng hoặc kỹ năng thấp. Sau năm 1990 trở đi Hàn Quốc đẩy
mạnh CNH, HĐH, đầu tư đổi mới công nghệ, biến đổi cơ cấu kinh tế thúc đẩy xuất khẩu,
tăng năng suất lao động. Chương trình này của Hàn Quốc được Chính phủ đặt trong mối
quan hệ đồng bộ với các biện pháp khác: Thực hiện chương trình trợ cấp thất nghiệp, mở
rộng các chương trình đào tạo, đào tạo lại kỹ năng cho người lao động, áp dụng các
chương trình bảo đảm việc làm, tăng hiệu quả của hoạt động thị trường lao động.
Để tạo nhiều việc làm cho người lao động trong quá trình đô thị hóa, các nước
trong khu vực thường tập trung phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp: khai
thác mỏ, phát triển mạnh công nghiệp chế biến, công nghiệp chế tạo, phát triển mạnh các
ngành thuộc khu vực kinh tế phi chính thức (khu vực kinh tế bao gồm các hoạt động sản
xuất quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ), các hoạt động không đăng ký hoặc trốn tránh pháp luật,
các hoạt động chưa được pháp luật quy định, do đó không chịu sự kiểm soát và điều tiết
của nhà nước. ở thành phố ngành nghề đa dạng, đặc biệt trong lĩnh vực ăn uống, dịch vụ,
và các ngành nghề truyền thống. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp theo hướng xuất khẩu. Sử dụng công nghệ thu hút nhiều lao động [41].
ở Hàn Quốc 96,9% người lao động có việc làm, tỉ lệ thất nghiệp thiếu việc làm
thấp: 3-4%. Thái Lan là một quốc gia đang phát triển, có tốc độ tăng trưởng khá cao 5-
6% bình quân năm và cũng là một quốc gia có thành tích cao trong khu vực về việc giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động (tỉ lệ thất nghiệp rất thấp 1-2% bình quân/
năm, tỷ lệ người thiếu việc làm cũng rất thấp, chỉ khoảng 4%, trong khi ở các nước đang
phát triển tỷ lệ này thường chiếm tới hơn 25%) [41, tr. 41]. Thành tích đó có được từ các
chính sách gắn kết giữa đô thị hóa, tăng trưởng và phát triển kinh tế, với chuyển dịch cơ