Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

LUẬN VĂN: Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm sứ vệ sinh Viglacera của Công ty Sứ Thanh Trì pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951 KB, 103 trang )














LUẬN VĂN:

Một số biện pháp nâng cao khả năng
cạnh tranh của sản phẩm sứ vệ sinh
Viglacera của Công ty Sứ Thanh Trì














Lời nói đầu

Đất nước ta đang trên đà phát triển với cơ chế mới, cơ chế thị trường. Cơ chế thị
trường đã làm cho nền kinh tế nước ta phát triển đáng kể trong những năm gần đây. Cùng
với đó, các doanh nghiệp đã hoạt động hiệu quả hơn để có thể đáp ứng được nhu cầu của
thị trường cũng như của người tiêu dùng và tự tìm được chỗ đứng cho mình trên thị
trường. Bên cạnh những thuận lợi do cơ chế mới mang lại là những thách thức, khó khăn
mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng không thể tránh khỏi. Những khó khăn trong cạnh tranh,
đổi mới hoạt động kinh doanh cho phù hợp với cơ chế mới… đã khiến cho rất nhiều doanh
nghiệp gặp lúng túng trong hoạt động của doanh nghiệp mình. Công ty Sứ Thanh Trì cũng
là một trong những công ty được thành lập trong cơ chế cũ và cũng phải đối mặt với những
khó khăn, thách thức đó.
Hiện nay, nhu cầu về xây dựng tăng lên nhiều. Chính vì thế mà nhu cầu về gốm sứ
cũng tăng lên đáng kể. Đây là một thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh
doanh trong lĩnh vực gốm sứ xây dựng, nhất là sứ vệ sinh để có thể tiêu thụ sản phẩm,
thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Tuy nhiên, hiện nay, trên thị trường có rất nhiều hãng
sản xuất kinh doanh loại sản phẩm này, trong đó lại có rất nhiều hãng nổi tiếng không chỉ
trong nước, khu vực mà trên toàn thế giới như Inax, American Standard, Ceasar Do đó,
cạnh tranh là một tất yếu trong nền kinh tế thị trường và buộc các doanh nghiệp khi tham
gia vào thị trường phải chấp nhận.
Sản phẩm sứ vệ sinh mang thương hiệu Viglacera đã có mặt cùng với các sản phẩm
mang các thương hiệu nổi tiếng từ lâu và hiện cũng đang khẳng định vị trí của mình trên
thị trường. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các hãng kinh doanh sản phẩm này đã khiến cho sản
phẩm ngày một phong phú, chất lượng ngày càng hoàn hảo. Chính vì lẽ đó, Công ty Sứ
Thanh Trì cần có những biện pháp thật cụ thể, phù hợp với tình hình để dần nâng cao khả
năng cạnh tranh của sản phẩm sứ vệ sinh Viglacera trên thị trường.
Được thực tập tại Công ty Sứ Thanh Trì, trong phòng Xuất nhập khẩu thời gian qua
là một điều may mắn cho em. Vì ở đó, em được học hỏi và biết thêm rất nhiều từ thực tế
hoạt động của Công ty. Lượng kiến thức đó rất quan trọng để bổ sung và hoàn thiện những
gì em đã được học trên giảng đường đại học. Thấy được sự cạnh tranh gay gắt giữa sứ vệ

sinh Viglacera với các sản phẩm sứ vệ sinh của các hãng khác đang có mặt trên thị trường
Việt Nam và với kiến thức đã được học, em quyết định chọn đề tài: “ Một số biện pháp


nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm sứ vệ sinh Viglacera của Công ty Sứ
Thanh Trì”.
Đề tài của em gồm có 3 phần:
Chương I: Một số vấn đ
ề về cạnh tranh và khái quát về Công ty Sứ Thanh
Trì.
Chương II: Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm và khả năng cạnh tranh của sản
phẩm sứ vệ sinh Viglacera của Công ty Sứ Thanh Trì
Chương III: Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm sứ
vệ sinh Viglacera của Công ty Sứ Thanh Trì








ch¬ng I Một số vấn đề về cạnh tranh và khái quát về công ty sứ thanh trì
Khi một nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường thì quy luật cạnh tranh xuất hiện
như là một tất yếu khách quan và cạnh tranh chính là môi trường kinh tế thị trường. Do
vậy, tất cả các thành phần kinh tế khi tham gia vào thị trường đều phải chấp nhận quy luật
này. Chương này tập trung vào hai nội dung chính là một số vấn đề về cạnh tranh và khái
quát về một công ty trong cơ chế thị trường hiện nay – Công ty Sứ Thanh Trì.
1. Một số vấn đề về cạnh tranh
Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh

1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường có rất nhiều đặc trưng, trong đó, cạnh tranh
là một đặc trưng nổi bật và rất quan trọng.
Có thể hiểu cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các đối thủ thể hiện
trên thị trường nhằm giành giật những điều kiện sản xuất thuận lợi và nơi tiêu thụ hàng
hoá, dịch vụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cạnh tranh kinh tế là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm
mọi biện pháp cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thông
thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị
trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh
là tối đa hoá lợi ích ( Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu
dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi).
Để có thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường, một trong những yêu cầu đặt ra cho tất
cả doanh nghiệp là phải chấp nhận cạnh tranh để giành được khách hàng bằng những sản
phẩm hay dịch vụ có khả năng cạnh tranh của mình với các đối thủ, tức là giành được thị
trường. Một sản phẩm có khả năng cạnh tranh và có thể đứng vững trên thị trường khi sản
phẩm đó có mức giá thấp hơn hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với chất lượng hay
dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn. Muốn như vậy, các doanh nghiệp phải có khả năng cạnh
tranh.
Khả năng cạnh tranh là năng lực cần thiết để doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của
mình một cách lâu dài và có ý thức, ý chí trên thị trường cạnh tranh, đảm bảo thực hiện


một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất phải bằng tỷ lệ cho đầu tư vào những mục tiêu của doanh nghiệp
để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Như vậy có thể thấy, khả năng cạnh tranh là đặc biệt quan trọng đối với mỗi doanh
nghiệp. Với tầm quan trọng đó, các doanh nghiệp không chỉ phải duy trì khả năng cạnh
tranh mà còn phải ngày càng nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình, phải
coi đó là một quá trình lâu dài, để doanh nghiệp không chỉ tồn tại mà ngày càng phát triển
trong cơ chế thị trường hiện nay.

1.1.2. Vai trò của cạnh tranh
Có thể nói rằng khi nền kinh tế thị trường ra đời thì cạnh tranh xuất hiện, và cạnh
tranh là môi trường của kinh tế thị trường. Quy luật cơ bản của cạnh tranh là quy luật điều
chỉnh tỷ suất lợi nhuận, được dựa trên sự chênh lệch giữa giá trị và chi phí sản xuất và khả
năng có thể bán được hàng hoá dưới giá trị của nó mà vẫn thu được lợi nhuận. Vì lẽ đó mà
các doanh nghiệp luôn luôn phải tìm hiểu, đưa ra các biện pháp để không chỉ cạnh tranh
với các đối thủ khác trên thị trường mà còn để doanh nghiệp hoạt động vẫn có lãi, duy trì
và phát triển doanh nghiệp.
Cạnh tranh là một trong những quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường và nó
có tầm quan trọng rất lớn đối với nhiều đối tượng.
Đối với doanh nghiệp, cạnh tranh là một điều kiện tốt để doanh nghiệp quan tâm cải
tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng, dịch vụ, giá cả, tạo cho sản phẩm có sự khác biệt; đầu
tư những công nghệ, dây chuyền sản xuất hiện đại để hoạt động sản xuất có hiệu quả; từ đó
làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp ngày một tăng, giúp cho doanh nghiệp có được chỗ
đứng vững chắc trên thị trường.
Nhờ có cạnh tranh, người tiêu dùng có thể thoải mái, dễ dàng trong việc lựa chọn
những hàng hoá phù hợp với sở thích và khả năng chi trả của mình; không những thế,
khách hàng ngày càng được quan tâm hơn bởi các dịch vụ trước và sau bán. Bởi vậy, trong
cơ chế thị trường, nhu cầu của khách hàng ngày một tăng và lợi ích mà khách hàng thu
được ngày càng nhiều.
Cạnh tranh có tác động rất lớn đến nền kinh tế của một quốc gia. Cạnh tranh đã khiến
cho nền kinh tế xuất hiện nhiều thành phần kinh tế và nó đồng thời cũng là một công cụ
hữu hiệu để Nhà nước chống độc quyền. Cạnh tranh cũng là một chất xúc tác khiến cho
tình hình sản xuất của một đất nước được phát triển, năng suất được nâng cao do các


doanh nghiệp buộc phải quan tâm đến việc nghiên cứu, áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại
vào sản xuất kinh doanh để cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Như vậy, cạnh tranh có vai trò rất lớn đối với không chỉ người dân, mà còn rất quan
trọng đối với các doanh nghiệp và cả nền kinh tế của một nước. Cạnh tranh chính là động

lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một cách hợp lý giữa lợi ích của doanh nghiệp với lợi
ích của xã hội, tạo điều kiện để doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Chính vì
tầm quan trọng rất lớn đó của cạnh tranh mà buộc các doanh nghiệp phải quan tâm, duy trì
và ngày càng phải nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình bằng nhiều biện
pháp khác nhau để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
1.1.3. Các loại hình cạnh tranh
Cạnh tranh có thể được chia thành nhiều loại dựa trên nhiều góc độ. Dưới đây là một
số căn cứ và các loại hình cạnh tranh.
- Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường: có ba loại là
+ Cạnh tranh giữa người bán với người mua: Đây là sự cạnh tranh được diễn ra theo
quy luật mua rẻ – bán đắt, tức là người bán muốn bán với giá cao, còn người mua muốn
mua với giá rẻ.
+ Cạnh tranh giữa người mua với người mua: Nó được diễn ra khi lượng hàng hoá
bán ra (lượng cung) nhỏ hơn nhu cầu của người tiêu dùng (lượng cầu). Điều này làm cho
giá tăng và người mua chấp nhận giá đó để mua được hàng cần mua.
+ Cạnh tranh giữa người bán với người bán: Đây là cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp, làm cho giá giảm xuống do lượng cung lớn hơn lượng cầu. Loại hình cạnh tranh
này có lợi cho thị trường, khiến cho các doanh nghiệp phải chịu sức ép lớn của thị trường
- Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế: Có hai loại là
+ Cạnh tranh nội bộ ngành: là sự cạnh tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp trong
cùng một ngành.
+ Cạnh tranh giữa các ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các ngành
với nhau để giành lợi nhuận lớn nhất.
- Căn cứ vào mức độ cạnh tranh: Có ba loại là


+ Cạnh tranh hoàn hảo: là cạnh tranh mà trên thị trường không một ai (kể cả người
bán và người mua) có tác động và ảnh hưởng đến giá cả và sản lượng của thị trường, nghĩa
là họ không có sức mạnh thị trường. Sản phẩm bán ra được người mua xem là đồng nhất.
Người bán và người mua chỉ có thể chấp nhận giá thị trường.

+ Cạnh tranh không hoàn hảo: Là cạnh tranh mà ở đó các sản phẩm được dị biệt hoá
và có thể thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng không phải là thay thế hoàn hảo, thị
trường có một số người bán và nhiều người mua.
+ Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh trên thị trường ở đó chỉ có một số người bán
sản phẩm thuần nhất.
- Căn cứ vào tính chất cạnh tranh: có hai loại là cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh
không lành mạnh.
- Căn cứ vào khả năng cạnh tranh
+ Cạnh tranh quốc gia
+ Cạnh tranh ngành
+ Cạnh tranh của doanh nghiệp
+ Cạnh tranh của sản phẩm
Với những hiểu biết về cạnh tranh và quá trình thực tập tại Công ty Sứ Thanh Trì, với
đề tài đã chọn, giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về
cạnh tranh sản phẩm, là khả năng cạnh tranh được đánh giá bằng thị phần mà sản phẩm
chiếm được trên thị trường, để qua đó đánh giá khả năng cạnh tranh của Công ty Sứ Thanh
Trì so với các đối thủ cạnh tranh đang có mặt tại thị trường Việt Nam để tìm ra một số biện
pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm sứ vệ sinh Viglacera của Công ty Sứ
Thanh Trì.
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh
Khả năng cạnh tranh có thể được đánh giá thông qua những chỉ tiêu sau:
1.2.1. Thị phần:
Để có thể đánh giá khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp, người ta thường
sử dụng chỉ tiêu này. Chỉ tiêu này đánh giá mức độ chiếm lĩnh thị trường của một doanh
nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.


+ Thị phần sản phẩm của doanh nghiệp so với toàn thị trường sản phẩm:
Công thức:
100

trêng thÞ lîng Dung
DN cña phÈm ns¶ tõ thu Doanh
DN cña phÈm ns¶ phÇn ThÞ 
+ Thị phần sản phẩm của doanh nghiệp so với phân đoạn thị trường mà nó phục vụ:
Công thức:
100
vô phôc d· trêng thÞ o¹n lîng Dung
DN cña phÈm ns¶ tõ thu Doanh
DN cña phÈm ns¶ phÇn ThÞ 
d

Chỉ tiêu này sẽ cho biết doanh nghiệp đứng ở vị trí nào trên thị trường, đánh giá khả
năng cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp, xem xem doanh nghiệp chiếm được bao
nhiêu phần trăm thị trường.
1.2.2. Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp tính theo doanh thu từ sản phẩm cạnh tranh
Công thức:
1
1




t
tt
t
DT
DTDT
Gt

Trong đó: Gt

1
: Tốc độ tăng trưởng thời kỳ nghiên cứu
DT
t
: Doanh thu kỳ nghiên cứu
DT
t-1
: Doanh thu kỳ trước
ý nghĩa: Chỉ tiêu này đánh giá mức độ tăng hoặc giảm doanh thu của doanh nghiệp
trên thị trường qua các năm liên tiếp, qua đó cho thấy tình hình tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp tăng hay giảm để đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm, khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp.
1.2.3. Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp theo lợi nhuận thu được từ sản phẩm cạnh
tranh
Công thức:
1
1
Pr
PrPr




t
tt
t
Gr

Trong đó: Gr
t

: Tốc độ tăng trưởng kỳ nghiên cứu
Pr
t
: Lợi nhuận kỳ nghiên cứu
Pr
t-1
: Lợi nhuận kỳ trước


ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh thực chất và chính xác hơn chỉ tiêu trên vì nó so
sánh tốc độ tăng, giảm lợi nhuận và lợi nhuận mới thực sự phản ánh kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
1.2.4. Tốc độ tăng của hoạt động xuất khẩu sản phẩm qua các năm
Công thức:
1
1




t
tt
t
EX
EXEX
EG

Trong đó: EG
t
: Tốc độ tănng kim ngạch xuất khẩu kỳ nghiên cứu

EX
t
: Kim ngạch xuất khẩu kỳ nghiên cứu
EX
t-1
: Kim ngạch xuất khẩu kỳ trước
ý nghĩa: Chỉ tiêu này nói lên khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp tăng hoặc giảm;
nếu khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp tăng thì có thể cho biết khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp có phần tăng lên.
Ngoài ra, người ta cũng có thể đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm của doanh
nghiệp thông qua những chỉ tiêu về giá hay mức độ nổi tiếng, uy tín của thương hiệu của
sản phẩm đó.
1.3. Các biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp
Các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường luôn luôn cố gắng nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình bằng nhiều cách. Và doanh nghiệp phải luôn tìm ra những thuận lợi, khai
thác nội lực của doanh nghiệp mình để có thể cạnh tranh với các đối thủ. Điều đó có nghĩa
là các doanh nghiệp phải khai thác lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp mình.
Lợi thế cạnh tranh là ưu thế đạt được của doanh nghiệp (so với các doanh nghiệp
khác cùng ngành) một cách tương đối dựa trên các nguồn lực và năng lực sản xuất của
doanh nghiệp đó.
Muốn có được lợi thế cạnh tranh, doanh nghiệp phải hoạt động thực sự có hiệu quả,
cùng với đó, sản phẩm tung ra thị trường phải có chất lượng ngang bằng hoặc cao hơn đối
thủ cạnh tranh. Hơn nữa, sản phẩm và dịch vụ doanh nghiệp cung cấp phải luôn có sự đổi
mới và phù hợp với nhu cầu ngày càng cao và luôn thay đổi của khách hàng.
Để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh, doanh nghiệp có thể sử dụng các biện pháp
sau:


1.3.1. Cạnh tranh bằng sản phẩm
Để doanh nghiệp có thể cạnh tranh trên thị trường thì yếu tố quyết định đầu tiên và

cũng là quan trọng nhất đó là sản phẩm của doanh nghiệp có thể cạnh tranh với các sản
phẩm khác trên thị trường hay không. Bởi một doanh nghiệp muốn có được thị trường thì
đồng nghĩa với đó, doanh nghiệp phải có được khách hàng, nghĩa là sản phẩm của doanh
nghiệp phải được khách hàng chấp nhận. Muốn như vậy thì sản phẩm đó phải thoã mãn
các nhu cầu của người tiêu dùng, không những thế, sản phẩm phải ngang bằng hoặc cao
hơn các sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh về cả chất lượng, kiểu dáng, mầu
sắc…
Một doanh nghiệp có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của mình bằng biện pháp này
nếu doanh nghiệp biết đưa ra những chiến lược sản phẩm đúng đắn, tạo ra những sản phẩm
phù hợp với những nhu cầu khác nhau của người tiêu dùng.
Với chiến lược này, doanh nghiệp có thể có những hướng sau:
Đa dạng hoá sản phẩm là việc mở rộng danh mục các chủng loại sản phẩm, tạo ra
một cơ cấu sản phẩm giúp khách hàng dễ dàng trong việc lựa chọn.
Có một số cách phân loại hình thức đa dạng hoá sản phẩm:
- Xét theo sự biến đổi danh mục sản phẩm:
+ Biến đổi chủng loại: tức là hoàn thiện, cải tiến những sản phẩm đang sản xuất để
vừa giữ thị trường hiện tại, vừa thâm nhập vào thị trường mới.
+ Đổi mới chủng loại: là không sản xuất những sản phẩm đã lỗi thời hay khó tiêu thụ
để sản xuất những sản phẩm mới.
- Xét theo tính chất của nhu cầu về sản phẩm:
+ Đa dạng hoá theo chiều sâu của mỗi loại sản phẩm: biện pháp này sẽ làm tăng thêm
mẫu mã, kiểu dáng của cùng một loại sản phẩm để thoả mãn nhu cầu đa dạng của người
tiêu dùng.
+ Đa dạng theo bề rộng nhu cầu các loại sản phẩm: bằng biện pháp này, mỗi sản
phẩm chế tạo ra sẽ có kết cấu, công nghệ và giá trị sử dụng cụ thể khác nhau để thoả mãn
đồng bộ một số nhu cầu có liên quan tới một đối tượng cụ thể.
- Xét theo phương thức thực hiện:


+ Đa dạng hoá trên cơ sở nguồn lực hiện có

+ Đa dạng hoá trên cơ sở nguồn lực hiện có, cộng với đầu tư bổ sung
+ Đa dạng hoá sản phẩm bằng đầu tư mới
Chất lượng của sản phẩm là một chỉ tiêu quan trọng đối với việc tăng khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng
kinh tế kỹ thuật thể hiện sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện xác định, phù hợp với
công dụng sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn.
Chất lượng của sản phẩm được hình thành từ quá trình thiết kế đến quá trình sản xuất
và đến cả quá trình tiêu dùng. Chính vì vậy khi sản xuất sản phẩm, doanh nghiệp cần phải
chú ý đến chất lượng của sản phẩm sao cho chất lượng không chỉ đạt các tiêu chuẩn về
kinh tế kỹ thuật mà chất lượng sản phẩm còn phải phù hợp với nhu cầu của thị trường. Có
như vậy, doanh nghiệp mới có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường.
1.3.2. Cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm
Cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm là một biện pháp quan trọng trong việc nâng cao
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Việc định giá của sản phẩm sau khi sản xuất để có thể tiêu thụ được trên thị trường
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chi phí sản xuất, chi phí bán hàng chi phí lưu thông, chi
phí yểm trợ và xúc tiến bán hàng (những yếu tố kiểm soát được); hay việc cạnh tranh với
các đối thủ, quan hệ cung – cầu trên thị trường, sự điều tiết của Nhà nước (những yếu tố
không kiểm soát được). Chính vì thế, doanh nghiệp cần phải cân nhắc trong việc ấn định
giá bán sao cho sản phẩm vừa có thể tiêu thụ được, cạnh tranh được mà lại có thể bù đắp
được chi phí sản xuất và đảm bảo có lãi.
1.3.3. Cạnh tranh bằng hệ thống kênh phân phối sản phẩm
Theo định nghĩa của Marketing: “Kênh phân phối là một tập hợp các doanh nghiệp
và cá nhân độc lập và phụ thuộc lẫn nhau, tham gia vào quá trình đưa hàng hoá từ người
sản xuất tới người tiêu dùng”.
Kênh phân phối có các chức năng rất quan trọng như: nghiên cứu thị trường, xúc tiến
khuếch trương cho những sản phẩm mà họ bán, thương lượng, phân phối vật chất, thiết lập
mối quan hệ, hoàn thiện hàng hoá, tài trợ, san sẻ rủi ro. Các chức năng này đã khẳng định
vai trò không thể thiếu của kênh phân phối.



Có nhiều loại kênh phân phối:
Phân phối trực tiếp: Nhà sản xuất > Người tiêu dùng
Kênh một cấp: Nhà sản xuất > Nhà bán lẻ > Người tiêu dùng
Kênh 2 cấp: Nhà sản xuất >Bán buôn >Bán lẻ > Người tiêu dùng
Kênh 3cấp: Nhà sản xuất >Đại lý >Bán buôn >Bán lẻ >Người tiêu dùng
Mỗi loại kênh phân phối có đặc điểm và những ưu nhược diểm riêng. Bởi thế, việc
lựa chọn kênh phân phối phải được các doanh nghiệp cân nhắc kỹ nếu muốn việc tiêu thụ
của doanh nghiệp mình đạt hiệu quả. Cùng với việc lựa chọn hệ thống kênh phân phối, các
doanh nghiệp cũng cần phải đưa ra các chính sách phân phối sản phẩm sao cho phù hợp,
có hiệu quả đồng thời đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
Ngoài ba biện pháp chính đã nêu, còn có những biện pháp khác như cạnh tranh bằng
các dịch vụ sau bán, bằng các phương thức thanh toán hay cạnh tranh bằng không gian và
thời gian. Do các biện pháp này ảnh hưởng không nhiều đến khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp nên không đề cập đến trong đề tài.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp
Có rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp luôn luôn phải quan tâm để điều chỉnh hoạt động của doanh
nghiệp mình để không chỉ duy trì khả năng cạnh tranh mà còn để ngày càng cải thiện và
nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
1.4.1. Các nhân tố khách quan
- Môi trường vĩ mô
+ Môi trường tự nhiên
+ Môi trường chính trị
+ Môi trường kinh tế
+ Môi trường luật pháp
+ Môi trường văn hoá
+ Điều kiện cơ sở hạ tầng
- Môi trường vi mô



+ Đối thủ cạnh tranh hiện tại
+ Khách hàng
+ Nhà cung ứng
+ Các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng
+ Sản phẩm thay thế…
1.4.2. Các nhân tố chủ quan
- Thương hiệu
- Nguồn nhân lực
- Vấn đề quản lý doanh nghiệp
- Nguồn vốn, tình hình tài chính
- Công nghệ
- Các chiến lược, chính sách của Công ty
- Mẫu mã, chủng loại sản phẩm
2. Khái quát về Công ty Sứ Thanh Trì (Thanhtri Sanitary Ware Company)
2.1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty Sứ Thanh Trì là một công ty thuộc Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây
dựng. Công ty hiện có chỗ đứng tương đối vững chắc trên thị trường trong nước cũng như
một số thị trường nước ngoài với xuất phát điểm là một cơ sở sản xuất bát nhỏ của tư nhân.
Theo quyết định số 236/BKT ngày 22/03/1961 của bộ trưởng Bộ Kiến Trúc (nay là
Bộ Xây Dựng), ngày 24 tháng 3 năm 1961, xí nghiệp gạch Thanh Trì được thành lập, là xí
nghiệp trực thuộc Liên hiệp các xí nghiệp sành sứ thuỷ tinh với nhiệm vụ sản xuất các loại
ống thoát nước, gạch lá nem, gạch chịu lửa cấp thấp, gạch lát vỉa hè…với số lượng không
đáng kể.
Năm 1980, Xí nghiệp gạch Thanh Trì sau khi được đổi tên thành Nhà máy sành sứ
xây dựng Thanh Trì đã bắt đầu sản xuất những sản phẩm gốm sứ có tráng men và sản
phẩm sứ vệ sinh với số lượng nhỏ, chất lượng thấp, mẫu mã đơn điệu, nghèo nàn song vẫn
được tiêu thụ hết do cơ chế bao cấp của Nhà nước.



Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (tháng 12/1986), nền kinh tế chuyển từ chế độ tập
trung bao cấp sang cơ chế thị trường, Nhà máy gặp nhiều khó khăn trong tiêu thụ sản
phẩm do không kịp thích ứng với tình hình mới, và lúng túng trước sự thay đổi trong cơ
chế mới. Tháng 12 năm 1991, Ban lãnh đạo công ty, dưới sự chỉ đạo của Bộ Xây Dựng và
Liên hiệp các xí nghiệp thuỷ tinh và gốm xây dựng (nay là Tổng công ty Thủy tinh và
Gốm xây dựng) do thấy được nhu cầu về sứ vệ sinh ngày càng tăng cùng với quan điểm
“Công nghệ quyết định chất lượng sản phẩm”, đã cho nhà máy ngừng sản xuất để đổi mới
công nghệ và nhập dây chuyền sản xuất. Tháng 11 năm 1992, Nhà máy chính thức đi vào
hoạt động với hàng loạt các yếu tố mới như:
- Nguyên liệu mới.
- Bài phối liệu xương men mới.
- Một số công nghệ mới như: Phương pháp nung một lần hở không bao, phương
pháp phun men hoàn toàn với áp lực cao, thay thế men frít bằng men sống.
- Một số máy móc thiết bị mới như máy nghiền bi, máy khuấy, máy bơm bùn, hệ
thống phòng sấy tận dụng nhiệt thải lò nung…và đặc biệt là đưa lò Tuynel do Tổng
công ty tự thiết kế và xây dựng vào hoạt động.
Và với sự đổi mới này, Công ty đã thu được một số kết quả khả quan. Cụ thể, chỉ
trong vòng 11 tháng Nhà máy đã tăng sản lượng khá nhanh và đạt năng suất 20.400 sản
phẩm, gấp 3 – 4 lần sản lượng của cả năm 1990 và 1991. Cùng với đó, những sản phẩm
mà Nhà máy sản xuất ra đạt được những tiêu chuẩn về mẫu mã và chất lượng theo quy
định của Bộ Xây Dựng và của Tổng công ty đã đề ra.
Năm 1993, theo quyết định thành lập số 076/BDX – TCL ngày 24/03/1993, Nhà máy
Sứ Thanh Trì được chuyển đổi thành doanh nghiệp Nhà nước. Và vào tháng 08/1994, Nhà
máy được đổi tên thành Công ty Sứ Thanh Trì, là một trong những công ty trực thuộc
Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng theo quyết định đổi tên doanh nghiệp Nhà nước
số 484/BXD – TCLĐ ngày 30/07/1994 và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 109762
ngày 21/08/1994 của Uỷ ban kế hoạch Nhà nước. Giai đoạn này, để cải thiện tình hình sản
xuất, nâng dần sản lượng và chất lượng sản phẩm sứ vệ sinh, Công ty cũng đầu tư 53 tỷ
đồng để mua dây chuyền sản xuất hiện đại của Italy, dây chuyền công nghệ có công suất
thiết kế là 70.000 sản phẩm/năm.

Năm 1996, Công ty lại tiếp tục đầu tư lần 2 với dây chuyền máy móc thiết bị mới và
hiện đại của Italy, Mỹ, Anh dể có thể sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao với số


lượng nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Lần đầu tư này, công suất lên đến
400.000 sản phẩm/năm và tổng số vốn đầu tư khá lớn là 90 tỷ đồng Việt Nam.
Ngày 01/06/1998, Công ty đã liên kết với xí nghiệp xây dựng Việt Trì, đưa tổng
công suất của Công ty hiện nay lên khoảng 650.000 sản phẩm/năm. Đến tháng 01/2001,
theo quyết định của Tổng công ty, xí nghiệp gạch Việt Trì tách ra khỏi Công ty Sứ Thanh
Trì.
Để sản phẩm có thể cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, Công ty quyết
định áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002:2000. Tháng 10/2000,
chất lượng sản phẩm của Công ty đã được cấp chứng chỉ công nhận sản phẩm đạt tiêu
chuẩn ISO 9002, một lần nữa sản phẩm sứ vệ sinh cao cấp nhãn hiệu Viglacera khẳng định
vị trí của mình trên thị trường trong và ngoài nước.
Tháng 08/2002, để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và mở rộng thị trường
tiêu thụ, Công ty đã thành lập Công ty Sứ Bình Dương thuộc tỉnh Bình Dương với chế độ
hạch toán độc lập.
Trải qua 40 năm phát triển với nhiều khó khăn, Công ty đã không ngừng cố gắng
hoàn thiện và có những thay đổi, đầu tư phù hợp để không chỉ đứng vững mà còn có thể
phát triển trong cơ chế mới. Đạt được điều này, bên cạnh sự chỉ đạo sát sao của Bộ Xây
Dựng và Tổng công ty, là sự cố gắng, nỗ lực của cán bộ, công nhân viên của Công ty. Đó
chính là cơ sở để Công ty có thể phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty
2.2.1. Chức năng
Công ty thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh sản phẩm sứ vệ sinh từ đầu tư, sản
xuất, cung ứng đến tiêu thụ sản phẩm, nhập khẩu nguyên vật liệu, phụ liệu, thiết bị, phụ
kiện, sản xuất sản phẩm sứ vệ sinh và các loại hàng hoá có liên quan đến vật liệu xây
dựng, liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Nghiên cứu ứng
dụng công nghệ tiên tiến, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật,

tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật và các nhiệm vụ
khác do Nhà nước giao.


2.2.2. Nhiệm vụ của Công ty trong cơ chế thị trường
Khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, Công ty Sứ Thanh Trì cũng đã xác định
nhiệm vụ của công ty mình rất rõ ràng và cụ thể, gồm tám nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, Công ty Sứ Thanh Trì có nhiệm vụ sản xuất mặt hàng sứ vệ sinh phục vụ cho
nhu cầu xây dựng trong và xuất khẩu ra nước ngoài.
Hai là, các sản phẩm của Công ty Sứ Thanh Trì mang nhãn hiệu độc quyền Viglacera
bao gồm:
- Bệt + Két nước: có nhiều loại như VI1, VI2, VI1P, VI8P…
- Chậu + Chân chậu: VI 1T, VK2, VTL3, VI3N, VG1…
- Các sản phẩm khác: như tiểu treo TT1, TT3, TT7; Bidel VB1, VB3, …
Ba là, Công ty có nhiệm vụ quan trọng trong việc nghiên cứu nhu cầu và khả năng
của thị trường về sản phẩm sứ vệ sinh để xây dựng chiến lược phát triển của Công ty, xây
dựng kế hoạch dài hạn và kế hoạch sản xuất hàng năm để trình lên Bộ Xây Dựng duyệt.
Bốn là, Công ty phải tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh theo ngành nghề đã đăng
ký, thực hiện đúng kế hoạch, nhiệm vụ Nhà nước giao.
Năm là, Công ty có nhiệm vụ phải tổ chức nghiên cứu, triển khai các biện pháp để
nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm bằng cách nâng cao hiệu quả sử dụng
máy móc thiết bị và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Sáu là, Công ty phải chấp hành pháp luật và thực hành đúng chế độ chính sách của
Nhà nước, sử dụng có hiệu quả tiền vốn, vật tư, tài sản và đất đai Nhà nước giao. đồng thời
có nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ cho ngân sách Nhà nước.
Bẩy là, bảo vệ doanh nghiệp, môi trường, giữ gìn an ninh chính trị và an toàn xã hội
theo quan điểm, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Tám là, Công ty phải chịu trách nhiệm về tính sát thực của các hoạt động tài chính.
2.3. Hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban, bộ phận trực thuộc
2.3.1. Hệ thống tổ chức

Mô hình tổ chức hoạt động của Công ty Sứ Thanh Trì được thể hiện trong sơ đồ 1.




S 1: Mụ hỡnh t chc cụng ty S Thanh Trỡ
Giám đốc công ty
XN sản
xuất
khuôn
mẫu
Nhà máy
Sứ Thanh
Trì
Phòng
kinh
doanh
Văn
phòng
Công ty
Phòng
T
C
L
Đ
Phòng
T
C
K
T

Phòng
xuất
khẩu
Phòng K
H
Đ
T
Phòng
Kỹ thuật
KCS
P. Tổng
hợp
Xởng
KM
P. thiết
kế
PX sản
xuất
PX 1
PX 3
PX 2
PX 4
PX phân
loại
P.
Marketing
P.Tiếp
thị
Kho, vận
CNĐN

Văn th
lu trữ
Hành
chính
quản trị
Nhà bếp
TĐTL
T.tra,
bảo vệ
CĐ, chính
sách
Y tế
TĐKT
Tài chính
Kế toán
Kiểm
soát
Phân tích
thị
trờng và
xúc tiến
TM
Giao
dịch, đối
ngoại
KHSX
Điều độ
sản xuất
Đầu t
XDCB

Quản lý
CN
Nghiên
cứu, thí
nghiệm
Thiết bị,
ATLĐ
Phó Giám đốc công ty


2.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban, bộ phận trực thuộc
Trước đây, cơ cấu tổ chức của Công ty được tổ chức theo kiểu trực tuyến. Cơ cấu này
đảm bảo chế độ một thủ trưởng, giám đốc trực tiếp điều hành các phòng ban, phân xưởng.
Kể từ khi Công ty mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, hiện nay Công ty đã chuyển sang
cơ cấu tổ chức quản lý trực tuyến chức năng. Cơ cấu này vừa đảm bảo chế độ một thủ
trưởng, vừa phát huy quyền độc lập tự chủ và tính sáng tạo giữa các phòng, ban.
Chức năng của các phòng ban được cụ thể như sau:
Giám đốc là người chịu trách nhiệm cao nhất trong việc điều hành quản lý hoạt động
sản xuất kinh doanh của toàn công ty, đồng thời chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước
Tổng công ty và trước tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty về kết quả sản xuất
kinh doanh của Công ty.
Phó giám đốc là người trợ giúp cho giám đốc giải quyết các công việc trong toàn
công ty hoặc được ủy quyền điều hành Công ty khi giám đốc đi vắng.
Phòng tổ chức lao động là phòng có nhiệm vụ và chức năng tham mưu cho giám đốc
công ty về việc sắp xếp và bố trí cán bộ, đào tạo và phân loại lao động cho phù hợp với
công việc, và thực hiện thanh quyết toán chế độ cho người lao động theo chế độ, chính
sách của Nhà nước và quy chế của Công ty.
Phòng tài chính kế toán là phòng có nhiệm vụ ghi chép, phản ánh toàn bộ hoạt động
sản xuất kinh doanh trong đơn vị, qua đó phòng này giám sát các mặt tài chính của công
ty. Cuối kỳ, Phòng tài chính kế toán phải lập báo cáo tổng hợp xác định kết quả hoạt động

sản xuất kinh doanh của Công ty.
Phòng kinh doanh nội địa và xuất khẩu là phòng có trách nhiệm nhận các đơn đặt
hàng của khách hàng. Các đơn đặt hàng này rất đa dạng, có những đơn đặt hàng sản xuất
sản phẩm hiện có và cả những đơn đặt hàng sản xuất sản phẩm mới. Đối với các sản phẩm
hiện có thì đã có khuôn để sản xuất, còn các sản phẩm mới thì cần phải làm khuôn mới để
sản xuất ra sản phẩm. Do vậy, hai phòng này kết hợp với phòng KCS, xí nghiệp sản xuất
khuôn thực hiện việc xem xét hợp đồng và ký kết hợp đồng dưới sự phê duyệt của Giám
đốc công ty, lập đơn đặt hàng gửi Phòng kế hoạch đầu tư, đồng thời quản lý tiền hàng cùng
với những cơ sở vật chất mà Công ty đã giao cho.


Phòng kế hoạch đầu tư là phòng có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc công ty về
công tác lập và tổng hợp kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty đồng thời thực hiện
triển khai công tác kinh doanh tại Công ty.
Phòng kỹ thuật – KCS là phòng có chức năng giúp Giám đốc công ty thực hiện quản
lý kỹ thuật, công nghệ sản xuất và thiết bị máy móc trong toàn công ty, kết hợp với phòng
xuất khẩu và xí nghiệp sản xuất khuôn trong việc thực hiện hợp đồng.
Xí nghiệp sản xuất khuôn là phòng có trách nhiệm phải cung cấp và sửa chữa khuôn
cho nhà máy Sứ Thanh Trì theo đúng kế hoạch đã giao, đồng thời cung cấp cho nhà máy
những khuôn mới để sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng.
Nhà máy Sứ Thanh Trì sẽ thực hiện các kế hoạch sản xuất của phòng kế hoạch đầu
tư lập ra, đồng thời kiểm soát các quá trình sản xuất đảm bảo kế hoạch sản xuất hàng
tháng, sản xuất thử nghiệm và bảo đảm chế độ công nghệ được duy trì.
Cấu trúc của Công ty đơn giản, gọn nhẹ, mọi thông tin đều được tập trung về cho
Giám đốc xử lý và các quyết định quản lý cũng được xuất phát từ đó. Các phòng ban có
nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc trong việc ra các quyết định quan trọng và trong giới
hạn quyền hạn của mình ra các quyết định về chuyên môn. Mỗi một phòng, ban trong
Công ty là một mắt xích, là cầu nối quan trọng trong việc bảo đảm cho Công ty hoạt động
một cách nhịp nhàng, thống nhất và đúng kế hoạch. Để đáp ứng yêu cầu quản lý hoạt động
sản xuất hiệu quả hơn của Tổng Công ty và phù hợp với xu thế hiện nay, trong năm 2005,

Công ty sẽ tiến hành Cổ phần hoá để đổi mới chính mình một lần nữa, góp phần nâng cao
vị trí của Công ty trong giai đoạn tới.
2.4. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Sứ Thanh Trì
2.4.1. Đặc điểm về lao động
Lực lượng lao động của Công ty đã tăng lên gần gấp ba lần tính từ năm 1991 đến
nay. Năm năm trở lại đây, số lượng lao động có giảm đi vì nhiều lý do, nhưng lý do chính
là Công ty đã sàng lọc và lựa chọn những lao động đảm bảo đủ các tiêu chuẩn đối với công
việc. Công tác này đã giúp cho Công ty có một đội ngũ cán bộ công nhân viên với năng
lực làm việc tốt, tay nghề vững vàng. Chính vì thế mà Công ty ngày càng phát triển, hoạt
động sản xuất kinh doanh ngày càng hiệu quả. Bởi vậy, Công ty không những thực hiện tốt
nghĩa vụ đối với Nhà nước, đảm bảo có lãi, mà còn ngày càng nâng cao thu nhập của lực
lượng lao động trong toàn công ty. Số liệu cụ thể được cho trong bảng sau:


Bảng số 1: Lực lượng lao động và thu nhập của người lao động tại Công ty Sứ Thanh
Trì năm 1991 – 2004

Stt

Năm Tổng số người
Thu nhập bình quân
(nghìn đ/tháng)
1 1991 182 100
2 1992 130 180
3 1993 244 309
4 1994 260 400
5 1995 260 549
6 1996 321 955
7 1997 389 1.000
8 1998 594 789

9 1999 582 1.000
10 2000 650 1.200
11 2001 632 1.370
12 2002 550 1.500
13 2003 517 1.600
14 2004 525 1.700
15 2005 550 1.700
Nguồn: Phòng Tổ chức lao động
Trong Công ty:
+ Lao động gián tiếp: 20%
+ Lao động trực tiếp : 61,3%
+ Lao động phục vụ : 18,7%
+ Lao động nam : 430 người chiếm 78%
+ Lao động nữ : 120 người chiếm 22%
2.4.2. Đặc điểm sản phẩm
Xuất phát từ nhiệm vụ kinh doanh của Công ty là sản xuất các loại sản phẩm sứ vệ
sinh cao cấp mang nhãn hiệu đã được đăng ký nhãn hiệu sản phẩm là Viglacera và


Monaco để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân nên thành phẩm của Công ty có một số đặc
điểm sau:
- Thành phẩm đa dạng phong phú về chủng loại và mẫu mã, màu sắc như: két nước,
xí bệt, chậu rửa, xí xổm, tiểu treo, bidel Cụ thể là:
+ Xí bệt và két nước các loại: 29 loại (trong đó có 4 sản phẩm thế hệ mới)
+ Chậu các loại: 15 loại (trong đó có 2 sản phẩm thế hệ mới)
+ Các sản phẩm khác
với đủ màu: trắng, xanh nhạt, hồng, ngà, mận, cốm, xanh đậm, đen trong đó cơ cấu
màu thì căn cứ vào nhu cầu, thị hiếu của khách hàng như sau:
+ Màu trắng: chiếm 70%
+ Cốm, Ngà, Hồng:20%

+ Mận, xanh nhạt: 5%
+ Đen, xanh đậm: 5%
- Do thành phẩm có tính chất vật lý dễ vỡ nên khi sản xuất cần được đóng gói, bọc
khung, hộp cẩn thận.
- Nhu cầu về các sản phẩm sứ vệ sinh là quanh năm tuy nhiên sản lượng sản xuất
cũng tăng, giảm theo hợp đồng, sở thích, Điều này có vai trò quan trọng trong việc lập
kế hoạch sản xuất.
- Tình hình biến động thành phẩm lớn, nó xảy ra thường xuyên trong một ngày như:
nhập - xuất thành phẩm.
Do có đặc điểm như vậy việc quản lý thành phẩm và hạch toán thành phẩm phải
được phân công trách nhiệm rõ ràng, dứt khoát cho từng bộ phận.
2.4.3. Đặc điểm thị trường tiêu thụ
Đến nay thị trường tiêu thụ trong nước chiếm khoảng 70% sản lượng tiêu thụ của
Công ty với mạng lưới tiêu thụ rộng khắp cả nước, còn khoảng gần 30% sản lượng của
Công ty là dành cho xuất khẩu ra nước ngoài.
ở thị trường nội địa, với 70% sản lượng tiêu thụ, sản phẩm của Công ty có mặt ở các
cửa hàng vật liệu xây dựng từ thành phố đến nông thôn. Trong đó, sản phẩm tiêu thụ tại thị
trường miền Bắc chiếm khoảng 53,5%; miền Trung khoảng 19,7%; miền Nam khoảng
26,8% trên tổng doanh thu nội địa( trên dưới 100 tỷ đồng). Công ty hiện đang chiếm
khoảng 30% thị phần trong cả nước, cạnh tranh trực tiếp với các hãng nổi tiếng như INAX
của Nhật Bản, SELTA của Hàn Quốc, AMERICAN STANDARD


Với thị trường xuất khẩu, sản phẩm của Công ty mới ở trong giai đoạn thăm dò để
phát triển thị trường. Do vậy sản lượng tiêu thụ ở thị trường này còn thấp. 30% sản lượng
tiêu thụ là xuất khẩu đi các nước chủ yếu là Nga (chiếm 40%),Ukraine ( chiếm 30%), Italy,
Bangladesh, Bỉ… Doanh thu xuất khẩu hàng năm ngày một tăng, cụ thể là: Năm 1999 là
461.480 USD, năm 2000 là 470.075 USD, năm 2001 là 758.160 USD. Năm 2001, công ty
đã ký hợp đồng với Iraq trị giá 1,5 triệu USD, năm 2002, ký hợp đồng với Hàn Quốc trị
giá 1,2 triệu USD, năm 2003 ký hợp đồng với Mianma. Đây là những con số, sự kiện đáng

mừng cho toàn công ty, điều đó càng khẳng định vị trí của Công ty ngày một tăng và sản
phẩm của Công ty ngày càng được tiêu thụ rộng rãi.
Cùng với đó, ban lãnh đạo công ty đã đề ra mục tiêu phấn đấu vì tương lai của Công
ty và nâng cao hơn nữa sản lượng và chất lượng sản phẩm, đa dạng mẫu mã sản phẩm,
tăng cường hơn nữa công tác tiêu thụ trong nước và ngoài nước, xây dựng mối quan hệ:
Công ty - Đại lý – Cửa hàng tiêu thụ, dần dần nâng cao uy tín của Công ty, cố gắng phấn
đấu đưa thị phần của Công ty lên 40% năm 2005. mở rộng quy mô sản xuất, tăng số lượng
và chất lượng lao động, nâng cao mức thu nhập cho cán bộ công nhân viên trong toàn công
ty và có chiến lược thu hút nhân tài ở bên ngoài công ty.
2.4.4. Đặc điểm về quy trình công nghệ
Công ty luôn nhận thức rằng quy trình công nghệ là yếu tố cơ bản tác động mạnh mẽ
và ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm và năng suất lao
động phụ thuộc trình độ hiện đại, cơ cấu, khả năng làm việc theo thời gian của máy móc
thiết bị. Muốn sản phẩm có chất lượng, đủ khả năng cạnh tranh thì phải có công nghệ mới,
hiện đại, phù hợp với nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng và khả năng của công ty.
Chiến lược sản xuất sản phẩm của Công ty Sứ Thanh Trì là sản xuất sản phẩm sứ vệ
sinh cao cấp phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Nâng cao chất lượng
sản phẩm là một trong những mục tiêu chủ yếu của Công ty để nâng cao vị thế cạnh tranh
trên thị trường. Vì vậy, Công ty đã nhập máy móc, thiết bị hiện đại của các nước tiên tiến
như Anh, Mỹ, Italy… Đây là những dây chuyền công nghệ rất hiện đại và đồng bộ, có khả
năng đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Song, việc khai thác hết khả
năng của máy móc hiện nay của Công ty còn hạn chế, chỉ đạt khoảng 80% công suất thiết
kế.


Hiện nay, Công ty đang áp dụng hệ thống chất lượng ISO – 9002, hệ thống 5S của
Nhật Bản và việc áp dụng công nghệ mới của Italy, nung một lần không hở, trình độ công
nghệ đạt tiêu chuẩn Châu Âu có những ưu việt sau:
- Chu trình sản xuất ngắn.
- Dây chuyền tự động và cơ giới cao.

- Mặt bằng sản xuất gọn, chi phí xây dựng cơ bản nhỏ.
- Chi phí nguyên liệu thấp, giá thành hạ, hiệu quả kinh doanh cao.
- Chất lượng sản phẩm cao, mẫu mã đẹp.
Quy trình công nghệ sản xuất sứ vệ sinh của Công ty Sứ Thanh Trì
(nguồn: Nhà máy Sứ Thanh Trì) được thể hiện theo sơ đồ dưới đây:



Nguyªn liÖu
KT1
ChÕ t¹o hå
KT3
T¹o h×nh
KT5
SÊy hoµn thiÖn
KT6
Phun men
KT7
Nung
KT8
Lu kho
KT10
Bao gãi
Giao hµng
QT13
QT13
QT13
KT9
QT13
Söa ch÷a

ChÕ t¹o khu«n
KT2 QT13
ChÕ t¹o men
KT4
kh«ng
kh«ng
kh«ng
kh«ng
kh«ng





Yes
kh«ng
kh«ng

kh«ng

kh«ng
kh«ng
kh«ng



Sơ đồ 2: Quy trình công nghệ sản xuất sứ vệ sinh của Cty Sứ Thanh Trì




Giải thích quy trình công nghệ sản xuất sứ vệ sinh (theo tài liệu của Nhà máy Sứ
Thanh Trì):
- Nguyên liệu: được kiểm tra, cân định lượng trước khi đưa vào máy nghiền.
- Chế tạo hồ: nguyên liệu được đưa vào máy nghiền, nghiền kỹ, sau đó được lọc qua
máy sàng rung, rồi được bơm xuống bể ngầm. Hồ được lưu trong bể ngầm có máy khuấy
chậm trước khi bơm sang phân xưởng gia công tạo hình.
- Tạo hình: bằng hai phương pháp là đổ rót băng và đổ rót thủ công. Tại đây, hồ được
bơm vào các khuôn thạch cao. Sau một thời gian lưu sẽ tiến hành dỡ khuôn. Sản phẩm sau
khi dỡ khuôn được gọi là sản phẩm mộc. Sản phẩm mộc được sấy qua bằng dàn sấy môi
trường trước khi đưa sang bộ phận và hoàn thiện mộc.
- Sấy và hoàn thiện mộc: sản phẩm mộc được đưa vào hầm sấy và sấy trong khoảng
8h ở nhiệt độ từ 50
0C
– 90
0C
. Sau khi sấy, sản phẩm được đưa ra các cacbin để kiểm tra.
Nếu không bị nứt thì sản phẩm mộc được đưa sang phun men. Nếu sản phẩm không đạt sẽ
được đưa trở lại chế tạo hồ.
- Phun men: men được chế tạo song song với khâu chế tạo hồ và được đưa đến các
cacbin phun men. Men được phun vào sản phẩm nhờ các súng khí nén.
- Nung: sản phẩm sau phun men được dán chữ rồi đưa sang sấy men và được đưa vào
lò nung Tunel.
- Lưu kho: Sản phẩm sau khi nung được kiểm tra, nếu đạt yêu cầu sẽ được lưu kho,
còn nếu không đạt thì được sửa chữa và nung lại bằng lò nung Shuttle.
- Bao gói: Sản phẩm cuối cùng được phân loại, bao gói và đem giao hàng.
Tất cả các công đoạn đều có quy trình, phụ lục, biểu mẫu đi kèm (ví dụ: quy trình
phun men, đổ rót…). Người lao động phụ trách công đoạn nào thì đều được học quy trình
của công đoạn đó.
2.5. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Sứ Thanh Trì
Kể từ sau Đại hội Đảng lần VI đến nay đã được 20 năm và cùng với sự phát triển của

đất nước, của các ngành, nghề, công ty Sứ Thanh Trì cũng đã dần dần phát triển và có
những thành tựu đáng kể. Khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với sự phát triển về nhiều mặt là những
khó khăn mà cơ chế mới gây ra. Trước đây, các công ty được sự trợ giúp đắc lực của Nhà

×