Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

LUẬN VĂN: Những vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 122 trang )

LUẬN VĂN:

Những vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm
phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong
mùa nước nổi


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nằm ở phần cuối của lãnh thổ Việt Nam thuộc khu vực hạ lưu sông Cửu
Long, với một địa bàn 13 tỉnh gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà
Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, An Giang,
Kiên Giang, có diện tích tự nhiên là 3.956.900 ha, dân số trên 16 triệu người, chiếm
12% diện tích và 21% dân số cả nước, hàng năm đóng góp trên 80% sản lượng gạo
và 60% sản lượng thủy sản để xuất khẩu. Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ
được đánh giá là một vùng đất trù phú, màu mỡ, nhiều tài nguyên, là vùng đồng
bằng lớn nhất Việt Nam, được thiên nhiên ưu ái dành cho nhiều điều kiện thuận lợi
để phát triển, mà còn được xem như là một vùng kinh tế có vị trí và vai trò chiến
lược trong nền kinh tế nước ta nhất là trong sản xuất nơng nghiệp, góp phần quan
trọng trong đảm bảo an ninh lương thực không chỉ cho quốc gia, mà cịn cho xuất
khẩu.
Tuy nhiên, đồng bằng sơng Cửu Long cũng là vùng đất phải chịu nhiều thiên
tai lũ lụt có tính chu kỳ hàng năm theo kiểu 6 tháng mùa khơ, 6 tháng mùa nước.
Chính lũ lụt là điều kiện ưu đãi của thiên nhiên giúp cho đồng bằng sông Cửu Long
thêm màu mỡ, trù phú thông qua tác dụng tháo chua, rửa phèn, bồi đắp phù sa, tạo
lợi thế riêng có về khai thác và ni trồng thủy sản… Đồng thời cũng chính lũ lụt
lại là nguyên nhân chính gây nhiều thiệt hại về người và của, tàn phá cơ sở hạ tầng
kỹ thuật…
Bên cạnh đó, do đặc thù về tự nhiên, đồng bằng sơng Cửu Long có hệ thống
sơng ngịi chằng chịt, vừa có tác dụng đưa nước vào đồng, phục vụ sinh hoạt và lưu


thông lại vừa có tác dụng thốt lũ nên khơng giống như vùng đồng bằng sông Hồng
là đắp đê chống lũ triệt để, vùng đồng bằng sông Cửu Long phải chọn giải pháp là
sống chung với lũ. Sống chung với lũ là một hiện tượng tự nhiên, xã hội đã và đang
được cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long tiếp nhận trong suốt quá trình hình


thành và phát triển của vùng đất này. Từ chỗ sống chung với lũ một cách thụ động,
con người ngày càng hiểu thêm về lũ, nắm bắt được nhiều hơn những quy luật của
lũ để dần hạn chế đến mức thấp nhất những tác hại do lũ mang lại cũng như khai
thác tối đa những lợi ích mà lũ mang lại, tiến dần đến chủ động sống chung với lũ,
kiểm soát một cách hiệu quả hiện tượng tự nhiên này.
An Giang là tỉnh đầu nguồn, có tồn bộ diện tích nằm trong vùng lũ và phải
chịu ảnh hưởng của lũ lâu dài và nặng nề nhất. Thời gian chịu lũ kéo dài khoảng 6
tháng trong năm nên vấn đề được đặt ra là làm thế nào để khai thác một cách có
hiệu quả nhất những cơng trình, cơ sở hạ tầng kiểm soát lũ đã được đầu tư phục vụ
cho việc chủ động sống chung với lũ, khai thác tối đa những lợi thế của lũ cũng như
trong phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế thấp nhất những thiệt hại do lũ mang lại.
Quyết định 99/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 9/2/1996 về định hướng
dài hạn và kế hoạch 5 năm 1996-2000 đối với việc phát triển thủy lợi, giao thông và
xây dựng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho
phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sơng Cửu Long, cho q trình chủ động
sống chung với lũ. Song quá trình này cũng đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải nghiên
cứu như: xây dựng các cụm tuyến dân cư vượt lũ nhằm đảm bảo an toàn tính mạng,
tài sản của nhân dân trong mùa lũ nhưng cũng làm thay đổi phong tục, tập quán,
cách sống của nhân dân; xây dựng đê bao chống lũ kết hợp với phát triển đường
giao thông nông thôn nhưng cũng ngăn khơng cho nước tràn đồng, có thể làm tăng
mực nước lũ trên các dịng chính...
Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề: "Những vấn đề đặt ra và các giải pháp
nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi "
là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc chủ động sống chung với lũ,

thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nơng nghiệp nơng thơn An
Giang. Qua đó, tổng kết kinh nghiệm và góp phần thúc đẩy quá trình khai thác lợi
thế mùa nước nổi của người dân vùng lũ bao đời nay từ tự phát lên tự giác dưới sự
định hướng và hỗ trợ của Nhà nước.


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, việc nghiên cứu về lũ ở châu thổ sông Cửu Long đã các cơng
trình sau:
GS.TS Nguyễn Ngọc Trân (Chủ biên): "Đồng bằng sông Cửu Long tài
nguyên - môi trường - phát triển", Ủy ban Khoa học Nhà nước (Chương trình điều
tra cơ bản tổng hợp vùng đồng bằng sông Cửu Long), Hà Nội - Thành phố Hồ Chí
Minh - Đồng bằng sơng Cửu Long, 1990. Đây là cơng trình của Ủy ban Khoa học
kỹ thuật Nhà nước về điều tra, nghiên cứu, đánh giá tài nguyên và điều kiện thiên
nhiên của đồng bằng sơng Cửu Long, từ đó đưa ra những nhận định về tiềm năng
nông nghiệp và những kiến nghị khoa học về sử dụng và bảo vệ tài nguyên, cung
cấp các tư liệu điều tra, nghiên cứu khoa học làm luận cứ cho quy hoạch phát triển
vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Nguyễn Cơng Bình (Chủ biên): "Đồng bằng sơng Cửu Long nghiên cứu
phát triển", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995. Đây là những chuyên đề khảo cứu
về đồng bằng sơng Cửu Long dưới góc độ các ngành khoa học về lịch sử, kinh tế,
xã hội, văn hóa, tự nhiên, môi trường, kỹ thuật, nông nghiệp.
PGS.TS Phương Ngọc Thạch: "Định hướng và một số giải pháp chuyển dịch
cơ cấu kinh tế vùng ngập lụt đồng bằng sông Cửu Long", Trung tâm Nghiên cứu
kinh tế miền Nam, 1998.
PGS.TS Phương Ngọc Thạch: "Những biện pháp thúc đẩy cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn vùng đồng bằng sơng Cửu Long", Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích đặc điểm và thực trạng kinh tế - xã
hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long, những nhân tố tác động và mối quan hệ
giữa đồng bằng sơng Cửu Long với các tỉnh phía Nam nhất là đối với Thành phố

Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm đưa nông
nghiệp nông thôn đồng bằng sông Cửu Long phát triển theo hướng cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa.


PGS.TS Đào Công Tiến (Chủ biên): "Kinh tế - xã hội và môi trường vùng
ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 và
"Vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long hiện trạng và giải pháp", Nxb Đại học
quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. Đây là đề tài khoa học độc lập cấp nhà
nước tiến hành điều tra nghiên cứu về vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long trên
các lĩnh vực: điều kiện tự nhiên, tài nguyên và đa dạng sinh học; cơ cấu kinh tế
vùng ngập lũ; hệ thống canh tác nông - lâm - ngư kết hợp; nước sạch và vệ sinh môi
trường; giáo dục và dạy nghề...
Dương Văn Nhã: "Báo cáo tác động của đê bao đến kinh tế - xã hội - mơi
trường", chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan, An Giang, 2004. Chương
trình đã điều tra và đánh giá những tác động việc thực hiện đê bao chống lũ tại một
số địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long, đưa ra một số nhận định về việc thực
hiện đê bao triệt để, đê bao tháng 8 và khơng đê bao.
Ngồi ra, cịn nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí, các đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ, địa phương. Các cơng trình trên đã nghiên cứu về mùa lũ ở châu
thổ sông Cửu Long và vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long dưới nhiều góc độ
khác nhau và đề cập đến một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, điều tra tổng hợp về kinh tế - xã hội - môi trường - văn hóa - giáo
dục vùng đồng bằng sơng Cửu Long, cung cấp số liệu cho công tác quy hoạch phát
triển vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Hai là, đánh giá tác động và đưa ra những khuyến nghị về việc phát triển
đồng bằng sông Cửu Long trong mối quan hệ với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
nhất là trong mối quan hệ với Thành phố Hồ Chí Minh.
Ba là, đánh giá bước đầu ảnh hưởng của việc thực hiện chương trình đê bao
chống lũ triệt để ở một số địa phương.

Bốn là, đưa ra những kiến nghị nhằm khuyến khích phát triển kinh tế - xã
hội - mơi trường và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu
Long trong điều kiện chung sống với lũ.


Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào nghiên cứu mùa lũ ở châu thổ sông Cửu
Long với tư cách là một nguồn lực - nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long nói
chung và trên địa bàn tỉnh An Giang nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở phát huy hiệu quả của các cơng trình cơ sở hạ tầng phục vụ cho
việc chủ động chung sống và phát triển kinh tế - xã hội trong mùa nước nổi; nghiên
cứu những lợi thế của mùa nước nổi có thể khai thác để phục vụ cho quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở An Giang; từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang
trong mùa nước nổi, nêu lên được những vấn đề đã và đang đặt ra trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang và đề xuất một số giải pháp cơ bản để giải
quyết những vấn đề đó.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích được tác hại và lợi thế của mùa nước nổi đối với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở An Giang trên cơ sở có tác động của các cơng trình đã và
đang xây dựng để chung sống trong mùa nước nổi.
- Phân tích, đánh giá những thành cơng bước đầu của quá trình phát triển
kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi; những tác động của phát triển kinh
tế - xã hội trong mùa nước nổi đối với phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang.
- Xác định được những vấn đề đã và đang đặt ra cũng như đề xuất những
giải pháp cơ bản để giải quyết những vấn đề đó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề đã và đang đặt ra cho
quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang.
Phạm vi nghiên cứu là địa bàn tỉnh An Giang, tuy nhiên trong một chừng

mực nhất định, luận văn có đề cập đến những tác động chung của mùa nước nổi đối


với đồng bằng sông Cửu Long. Thời gian nghiên cứu khi có chủ trương chung sống
với lũ từ năm 2000 đến nay. Trong quá trình nghiên cứu, một số dữ liệu phát triển
kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi chỉ có từ 2002 đến nay do ngun
nhân khách quan là những chương trình đó được triển khai trong thực tiễn từ 2002.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng quan điểm cơ bản và phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghị quyết và chủ trương của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước có liên quan đến phát triển nơng nghiệp nơng thơn nói
chung và vùng đồng bằng sơng Cửu Long nói riêng. Tham khảo và tiếp thu có chọn
lọc các kết quả nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ những lợi thế tự nhiên trong trong mùa nước nổi có tác động tích
cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ngập lũ đồng bằng sơng Cửu Long nói
chung và An Giang nói riêng.
- Khái quát những vấn đề cấp thiết đang đặt ra đối với phát triển kinh tế - xã
hội ở An Giang trong mùa nước nổi.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết những vấn đề được đặt ra
để phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.


Chương 1
LỢI THẾ VÀ HẠN CHẾ CỦA MÙA NƯỚC NỔI
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở AN GIANG

1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1. Quan niệm mùa nước nổi
Đồng bằng sơng Cửu Long có diện tích tự nhiên là 3.956.900 ha, được hình
thành từ phù sa của phần hạ lưu vực sông Mêkông. Sông Mêkông dài 4.200 km, có
diện tích lưu vực 795.000 km2, chảy qua Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào,
Campuchia và Việt Nam. Phần hạ lưu chảy vào Việt Nam theo hai nhánh chính là
sơng Tiền và sông Hậu, chảy ra biển theo 9 cửa là: cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai,
cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu, cửa Đình An, cửa Bát Xác và cửa
Tranh Đề, nên đoạn sông Mêkông chảy vào Việt Nam được gọi là sông Cửu Long
và đồng bằng sông Cửu Long cũng được gọi theo tên sông.
Là một vùng đất trù phú, được thiên nhiên ưu đãi với nhiều lợi thế để phát
triển nhưng đồng bằng sông Cửu Long cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của lũ lụt.
Hàng năm, vào khoảng tháng 6 đến tháng 12, nước từ sơng chính, theo các nhánh
phụ và hệ thống sơng ngịi, kênh rạch chằng chịt của sông Cửu Long chảy vào đồng
(người dân thường gọi là nước tràn đồng), gây ngập trên một diện tích rộng khoảng
1,87 triệu ha. Phần diện tích ngập này (cịn được gọi chung là: vùng ngập lũ đồng
bằng sơng Cửu Long) nằm trong diện tích của 9 tỉnh là: An Giang, Bến Tre, Cần
Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long. An
Giang là một trong ba tỉnh có tồn bộ diện tích tự nhiên nằm trong vùng ngập lũ.
Vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long được chia thành 4 tiểu vùng là:
vùng Tứ giác Long Xuyên, vùng Đồng Tháp Mười, vùng Tây sông Hậu và vùng
giữa sông Tiền và sông Hậu. Vùng Tứ giác Long Xuyên và vùng Tây sông Hậu có
địa hình thấp dần về phía vịnh Thái Lan, có dạng ngập lũ hở. Vùng Đồng Tháp


Mười được bao bọc bởi các vùng đất cao nên có dạng ngập lũ kín. Vùng giữa sơng
Tiền và sơng Hậu có những vùng đất cao ven dịng sơng, trũng ở giữa, có dạng ngập
lũ lịng máng.
Mùa lũ ở đồng bằng sơng Cửu Long có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long kéo dài khoảng 6 tháng, là hiện
tượng tự nhiên, có chu kỳ thường xuyên hàng năm, không xuất hiện bất thình lình, đột

ngột. Thường bắt đầu từ cuối tháng 6 và kết thúc vào tháng 12 hàng năm, lúc này
cũng chính là mùa mưa ở châu thổ sơng Cửu Long. Ta có thể tạm chia mùa lũ ở đồng
bằng sơng Cửu Long thành ba giai đoạn: giai đoạn đầu mùa lũ là lúc nước bắt đầu tràn
từ thượng nguồn về các vùng trũng thường tính từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 8; giai
đoạn cao điểm lũ là giai đoạn có đỉnh lũ lớn nhất được tính từ đầu tháng 8 đến nửa
đầu tháng 10; giai đoạn nước rút là giai đoạn lũ giảm dần ở các tỉnh đầu nguồn và
dồn về các tỉnh hạ lưu.
Hai là, mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long lên xuống với cường suất nhỏ,
khoảng 5-7cm/ngày và kéo dài trong suốt mùa lũ. Mức độ biến động lũ giữa các
năm không lớn, nguyên nhân chính là do sự điều tiết tự nhiên của Biển Hồ ở
Campuchia. Vì thế mà dạng lũ ở đồng bằng sông Cửu Long là tương đối ổn định và
được điều hịa một cách tự nhiên, khơng có hiện tượng cường suất lũ dâng cao
nhanh như lũ ở miền Trung và miền Bắc. Tuy nhiên, do địa hình đồng bằng sơng
Cửu Long tương đối bằng phẳng nên chỉ cần đỉnh lũ tăng thêm vài chục cm là mức
độ ngập lũ tăng một cách đáng kể. Đối với đồng bằng sông Cửu Long, việc xác định
lũ lớn hay nhỏ không phụ thuộc vào cường độ lũ, lưu lượng, tổng lượng mà yếu tố
quan trọng là dựa vào mực nước. Theo phân cấp của Tổng cục Khí tượng Thủy văn,
mực nước trên sơng Tiền tại Tân Châu thấp hơn 3,83 m là lũ nhỏ, từ 3,83 m đến
4,83 m là lũ trung bình và trên 4,83 m là lũ lớn.
Ba là, lũ ở đồng bằng sông Cửu Long thường là lũ một đỉnh, đạt lớn nhất
vào khoảng từ cuối tháng 9 đến nửa đầu tháng 10. Tháng 8 thường xuất hiện một
"đỉnh phụ", bởi sau đỉnh này, vào đầu tháng 9, lũ hoặc bị hạ thấp đôi chút hoặc nằm


ngang hay tăng chậm hơn so với thời kỳ trước và sau đó. Đơi khi đỉnh lũ này lại cao
hơn đỉnh lũ chính tháng 10 (lũ năm 1978, 1991).
Bốn là, khơng chỉ chảy theo các nhánh sơng chính, lũ cịn tràn vào đồng
bằng sông Cửu Long bằng cách tràn qua và lấp đầy các khu trũng thấp dọc theo
biên giới (nhất là ở hai vùng ngập chính Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên).
Diện tích ngập lũ khoảng 2 triệu ha, chiếm khoảng 2,5% diện tích lưu vực sơng

Mêkơng nhưng phải gánh chịu tổng lượng lũ khoảng 400 tỷ m3 của tồn lưu vực đổ
về. Trong đó, lượng theo các sơng chính khoảng 320 tỷ m3, cịn lại thì tràn đồng và
theo hệ thống kênh rạch đổ ra sông chính. "Trong các trận lũ lớn, lượng nước lũ
theo dịng chính chiếm khoảng 83,2 - 90,86% và tràn đồng khoảng 9,14 - 16,8%.
Nước lũ tràn đồng là tác nhân chính gây ngập lụt cho vùng trũng Đồng Tháp Mười
và Tứ giác Long Xuyên" [47, tr. 25].
Có nhiều nguyên nhân làm tác động đến mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng
sông Cửu Long như: triều cường của thủy triều biển Đông, mùa mưa hàng năm, lũ
thượng nguồn, chế độ mưa nội đồng, sự điều tiết của Biển Hồ, tác động khai phá
thiên nhiên của con người... Trong đó, tác nhân chính tạo nên tính đặc trưng của
mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long là: do địa hình đặc trưng của lưu
vực sơng Mêkơng và lượng mưa hàng năm.
Khởi nguồn từ cao nguyên Tây Tạng của Trung Quốc, đi qua các nước Trung
Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia vào Việt Nam và chảy ra biển Đông.
Lưu vực sơng MêKơng có diện tích rộng (khoảng 795.000 km2), kéo dài (khoảng
4.200 km), trên một địa hình phức tạp có nhiều đồi núi cao, bị chia cắt bởi các
thung lũng sơng và thấp dần về phía hạ lưu. Lượng mưa bình qn tồn lưu vực
khoảng 1.600 mm (có nhiều nơi có lượng mưa cao như: cao nguyên Boloven - Lào
là 3.000 mm, Tây Trường Sơn là 2.000 - 3.000 mm), phân phối không đồng đều
giữa các vùng đã tạo nên sự tập trung và tích tụ nước khơng đồng đều giữa các vùng
làm cho lượng nước đổ về hạ lưu không ồ ạt nhưng kéo dài trong suốt mùa mưa.
Kết hợp với lượng mưa tại chỗ, hai nguyên nhân trên đã tạo nên tính đặc trưng của


mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long là tính chu kỳ, tốc độ chậm, tràn
trên một diện rộng, không đột ngột, nhanh, mạnh như lũ ở miền Trung và miền Bắc.
Nói một cách khác, đối với mùa lũ ở vùng châu thổ sông Cửu Long, con người có
thể dự đốn một cách tương đối chính xác thời điểm lũ về, thời điểm lũ lớn nhất,
thời điểm lũ rút… Tóm lại là nắm được quy luật hoạt động cơ bản nhất của lũ, các
nhân tố còn lại chỉ có tác động làm cho lũ lớn hay nhỏ mà thơi.

Với những đặc trưng riêng có như trên của mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu
Long ta cần phải có một tên gọi vừa thể hiện được đặc trưng đó, vừa thể hiện được
tính lạc quan của việc chung sống trong mùa lũ mà cư dân vùng sông nước đã quen
sống bao đời nay.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay, từ lũ, lụt thường được
dùng để chỉ mùa lũ chung cho các loại hình lũ, chỉ khác nhau là có thêm tên địa
danh để phân biệt như: lũ ở sông Hồng, lũ ở miền Trung, lũ ở đồng bằng sông Cửu
Long…
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì:
Lũ (dt): "Hiện tượng nước dâng cao đầu nguồn, dồn vào dòng chảy, thường
là rất mạnh, trong thời gian tương đối ngắn" [70, tr. 1055].
Lụt (dt): "Hiện tượng nước dâng cao tràn ngập cả một vùng rộng lớn do
mưa lũ gây ra" [70, tr. 1066].
Cả hai khái niệm trên chỉ diễn tả được những tính chất chung nhất của lũ lụt
nhưng không thể hiện được những đặc trưng cơ bản của mùa lũ ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long.
Theo PGS.TS Trần Thanh Xuân thì:
Thuật ngữ lũ chỉ hiện tượng nước sông dâng cao trong một
khoảng thời gian nhất định, sau đó giảm dần. Trong mùa lũ, những trận
mưa liên tiếp trên lưu vực sông (vùng hứng nước mưa và sinh dịng
chảy) làm cho nước sơng cũng từng đợt nối tiếp nhau dâng cao, tạo ra


những trận lũ trong sông suối. Khi lũ lớn, nước lũ tràn qua bờ sông (đê)
chảy vào những chỗ trũng và gây ra ngập lụt trên một diện rộng [69, tr.
7].
Các cách gọi như trên là đúng nhưng chưa đủ, để chỉ lũ ở đồng bằng sơng
Cửu Long thì chúng ta phải dùng cả cụm từ là "mùa lũ (lũ) ở châu thổ sông Cửu
Long". Đây là cách gọi đúng và đủ nhưng mang nặng tính bi quan, thiên về những
tác hại do lũ gây ra (lũ, lụt được ông cha ta từ xưa xếp vào một trong những thiên

tai nguy hiểm nhất), bao hàm những ý nghĩa tiêu cực của những thiệt hại về tài sản,
tính mạng khơng bao hàm được tính lạc quan trong chung sống với lũ.
Vì thế, ta không thể dùng khái niệm lũ, lụt, hay lũ lụt để gọi chung cho mùa
lũ ở đồng bằng sơng Cửu Long.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì:
Mùa nước nổi: Mùa lũ ở châu thổ sông Cửu Long do nước sông
Tiền và Hậu tràn bờ, làm ngập cả châu thổ với các độ sâu khác nhau và
thời gian dài ngắn khác nhau khiến chỉ cấy được một vụ lúa nổi nhưng
có tác dụng rửa mặn, xổ phèn, cả châu thổ có nước ngọt đưa vào một
lượng phù sa đáng kể [70, tr. 1049].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì:
Mùa nước nổi: mùa lũ ở châu thổ sơng Cửu Long. Mùa nước nổi
đưa về một khối lượng nước ngọt lớn, cùng với phù sa chi phối toàn bộ
hoạt động nông nghiệp, chế độ canh tác, các hệ thống sản xuất ở châu thổ
sông Cửu Long. Cảnh quan của châu thổ trong mùa nước nổi có những
nét đặc trưng, cũng là mùa khai thác các loài thủy sản [25, tr. 959].
Như vậy, cách gọi mùa nước nổi là cách gọi vừa ngắn, diễn tả một cách đầy
đủ nhất những đặc trưng riêng có của lũ ở đồng bằng sơng Cửu Long vừa thể hiện
tính lạc quan trong q trình chung sống và chinh phục vùng đất này của cư dân nơi
dây.


Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng vùng đất Nam bộ nói
chung và vùng đồng bằng sơng Cửu Long nói riêng khơng phân biệt thành bốn mùa
xn, hạ, thu, đơng rõ rệt hay có nắng nóng, mưa dầm, gió bấc như miền Bắc mà
chỉ có hai mùa là mùa nắng và mùa mưa (tương ứng là mùa khô và mùa nước). Dân
gian đồng bằng sông Cửu Long thường dùng câu nói "sáu tháng đạp đất đồng khơ,
nửa năm đi trên mặt nước" để hình dung một cách đơn giản về khí hậu của vùng đất
mà cha ơng đã khai phá. Và khi mùa nước nổi về, cư dân vùng đồng bằng sông Cửu
Long lại tất bật chuẩn bị cho cuộc sống "đi trên mặt nước", tránh những tai họa,

khai thác những nguồn lợi mà thiên nhiên mùa nước nổi mang lại cho họ; vẫn sinh
sống, mua bán, trao đổi những vật phẩm khai thác được cũng như những hàng hóa
thiết yếu cho cuộc sống...
Mùa nước nổi là cách gọi truyền thống từ bao đời nay của người dân vùng
sơng nước, là cách gọi mang đầy tính lạc quan của những cư dân khai phá và sinh
sống trên vùng đất này, thể hiện tinh thần chủ động chung sống với lũ theo hướng
khai thác mùa lũ như là một trong những lợi thế để phát triển, từ đó tác động tích
cực đến tư duy và các hoạt động cần thiết khác để cùng chung sống trong mùa nước
nổi như: chủ động điều chỉnh lịch mùa vụ để hạn chế thấp nhất những thiệt hại do
mùa nước nổi gây ra cũng như khai thác tốt nhất những lợi thế mà mùa nước nổi
mang lại cho đồng bằng sông Cửu Long để xóa đói, giảm nghèo; triển khai các mơ
hình kinh tế hiệu quả cao trong mùa nước nổi để phát triển kinh tế...
Chính vì thế, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả sẽ dùng khái
niệm mùa nước nổi để chỉ mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long và cũng để thể hiện
rõ mục đích nghiên cứu chính của luận văn là phân tích những lợi thế của mùa nước
nổi trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang.
1.1.2. Một số khái niệm thường dùng trong phịng chống lũ lụt
Có nhiều khái niệm được dùng trong phòng chống lũ lụt, trong phạm vi
nghiên cứu của luận văn, chúng ta chỉ tập trung tìm hiểu một số khái niệm thường
dùng trong phịng chống lũ lụt có liên quan như:


Điều tiết lũ là sử dụng các dung tích lớn như các hồ chứa, khu
trũng... để phân bố lại dòng chảy lũ theo thời gian, tích nước khi có lũ, xã
nước khi sông cạn kiệt.
Điều khiển lũ là sử dụng các biện pháp cơng trình như đê bao
ngăn lũ, kênh thốt lũ, cống điều tiết để phân bố lại dịng chảy lũ theo
khơng gian.
Kiểm sốt lũ là khái niệm rộng hơn, trong đó chủ yếu là làm thay
đổi hướng truyền lũ, thốt lũ (theo khơng gian), song cũng có phần phân bố

lại lũ theo thời gian (như sử dụng một số dung tích trống, vùng trũng để
làm chậm lũ, cắt lũ, trữ nước cuối mùa lũ [46, tr. 91].
Với cách hiểu như trên, điều tiết lũ là giải pháp phòng chống lũ theo thời
gian, có tác dụng làm chậm tốc độ gia tăng của lũ trên phạm vi cả khu vực ngập;
điều khiển lũ là giải pháp phòng chống lũ theo khơng gian, có thể làm giảm lũ ở
vùng này và gia tăng lũ ở vùng khác, tránh hướng lũ vào những vùng có thể gây
nhiều thiệt hại, đưa hướng lũ vào những vùng ít thiệt hại; Kiểm sốt lũ là giải pháp
tổng hợp của hai giải pháp điều tiết lũ và điều khiển lũ. Kiểm soát lũ là mục tiêu lâu
dài không thể chỉ thực hiện trong phạm vi vùng ngập lũ đồng bằng sơng Cửu Long
mà phải có một chiến lược cấp vĩ mô liên quan đến các nước, nơi lưu vực sơng đi
qua, là cái đích cuối cùng mà các nhà hoạch định chính sách đang hướng tới. Hiện
tại, các cơng trình phịng chống lũ ở đồng bằng sông Cửu Long mà chúng ta đang
xây dựng là hệ thống những giải pháp nhằm từng bước kiểm soát lũ thơng qua các
kênh thốt lũ, cống, đê bao kết hợp giao thơng…
Với những đặc trưng riêng có của mình, mùa nước nổi có những tác động
nhất định đến phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ngập lũ đồng bằng sơng Cửu Long
nói chung và An Giang nói riêng.
1.2. LỢI THẾ CỦA MÙA NƯỚC NỔI TRONG PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI


1.2.1. Mang một lượng phù sa lớn, màu mỡ bồi đắp cho đồng bằng sơng
Cửu Long
Lưu lượng trung bình của sông Cửu Long là 10.700 m3/s, cao nhất vào mùa
nước nổi là 53.000 m3/s, thấp nhất vào mùa kiệt là 2.000 m3/s. Hàm lượng phù sa
của sông Cửu Long không cao như hàm lượng phù sa của sông Hồng nhưng do lưu
lượng dòng chảy cao, khối lượng nước lớn nên tổng khối lượng phù sa của sông
Cửu Long lên đến 150 triệu tấn/năm, gấp 7 - 8 lần tổng khối lượng phù sa của sông
Hồng. Một phần phù sa theo nước tràn đồng, lắng đọng và bồi đắp cho ruộng đồng;
một phần theo sông chảy ra cửa sông, bồi tụ cho những vùng ven biển. Chính sự bồi

lắng của phù sa đã làm cho ruộng đồng luôn trù phú, màu mỡ, tiết kiệm nhiều chi
phí trong trồng trọt, năng suất cao hơn, hiệu quả cao hơn.
Quá trình chuyển tải và bồi lắng phù sa hay nói cách khác là khối lượng phù
sa bồi đắp thực tế cho đồng bằng sông Cửu Long phụ thuộc nhiều vào vị trí vùng
đất, các cơng trình kiểm sốt lũ, bờ bao lũ, yếu tố dòng chảy... tuy nhiên, lượng phù
sa bồi đắp cho đồng bằng sông Cửu Long hàng năm là khá cao và có chất lượng tốt
hơn lớp đất cũ. "So với đất tại chỗ, phù sa bồi lắng giàu khoáng, lân, kali hơn, có tác
dụng gia tăng độ tơi xốp, độ no bazơ và lượng lân tổng số trong đất" [46, tr. 143].
Riêng tại An Giang, theo kết quả nghiên cứu của dự án Bắc Vàm Nao - năm
2003, lượng phù sa phủ trên đồng ruộng tại An Giang là khoảng 80 tấn/ha, có chất
lượng cao hơn lớp đất mặt trước lũ.
Lượng phù sa bồi tích nhiều nhất ở điểm đặt khai số 1: 19092,2
2

g/m ; điểm số 4: 14314,4 g/m2; điểm số 8: 12585,5 g/m2; điểm số 22:
10851,0 g/m2; điểm số 23: 10734,4 g/m2; điểm số 19: 7696,4 g/m2; điểm
có lượng thấp nhất là 1124,5 g/m2 - điểm số 5, lượng bồi tích trung bình:
7965,6 g/m2, như vậy có thể suy ra lượng phù sa phủ lên đồng ruộng trên
1 ha khoảng 80 tấn/ha .
Thành phần hóa học của phù sa có ưu thế về "chất lượng" hơn so
với thành phần phần hóa học đất ở tầng 0 - 5 cm trước lũ


thể hiện rõ nét qua các chỉ tiêu pH, Ca2+, đạm dễ tiêu và lân tổng
số [21, tr. 7-8].
Lượng phù sa mới, có chất lượng cao hơn lớp đất mặt được bồi đắp hàng
năm do mùa nước nổi mang lại góp phần nâng dần độ cao cho vùng trũng của đồng
bằng (Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười) và là một nhân tố chính làm cho
đồng bằng sơng Cửu Long ln trù phú, làm tăng diện tích canh tác, tăng năng suất
và tiết kiệm chi phí sử dụng phân bón.

Bên cạnh tác dụng bồi đắp phù sa làm cho đồng bằng thêm màu mỡ, nâng
dần độ cao của các vùng trũng... lưu lượng nước, độ dốc của dòng chảy cịn có tác
dụng to lớn đối với vùng châu thổ là ngăn chặn mặn xâm nhập sâu vào châu thổ
sông Mêkông.
Với tổng lượng lũ lớn, thời gian kéo dài cùng với độ dốc âm
của lịng sơng Tiền và sơng Hậu tạo nên bức tường nước ngọt khổng lồ
có tác dụng to lớn đối với việc ngăn chặn mặn xâm nhập vào sâu châu
thổ Mêkơng và giữ ngọt. Điều đó cũng có nghĩa là khơng nên nạo vét
các cửa sơng với hy vọng tăng khả năng thoát lũ [8, tr. 12].
Điều này cũng là một khuyến cáo đối với các nhà hoạch định chính sách là
khi áp dụng các giải pháp đào kênh nhằm thốt lũ nhanh về phía biển Tây và làm
thủy lợi phải gắn với việc quy hoạch một hệ thống cống, đập thích hợp nhằm đảm
bảo thốt nước nhanh vào mùa nước nổi và giữ một mức nước thích hợp để tránh
xâm mặn vào mùa kiệt.
1.2.2. Mang lại nguồn lợi thủy sản tự nhiên đa dạng, phong phú và là
điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng các loại thủy sản
Thành phần loài cá vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long là khá phong
phú và đa dạng, chủ yếu là cá nước ngọt, thuận lợi khai thác, đem lại nguồn lợi to
lớn cho người dân trong vùng.


Thành phần lồi cá vùng ngập lũ đồng bằng sơng Cửu Long khá
phong phú với khoảng 183 loài thuộc 38 họ trong tổng số 267 loài cá
thuộc vùng đồng bằng sơng Cửu Long. Trong số này, có 122 lồi hiện
diện ở hạ lưu sông Mêkông thuộc địa phận Campuchia. Các lồi chiếm
ưu

thế

thuộc


nhóm



trắng

bao

gồm

9 họ (114 lồi). Kế đến là nhóm cá nước lợ, gồm 19 họ (46 lồi); nhóm
cá đen là 8 họ (18 lồi) và ít nhất là nhóm cá di cư có nguồn gốc từ biển
bao gồm 3 họ (4 lồi) [46, tr. 37-38].
Trong đó, có nhiều lồi có giá trị kinh tế cao trong xuất khẩu như: cá tra, cá
ba sa, cá bống tượng, cá lóc...
Vào mùa nước nổi, cá từ sơng, theo nước vào tìm mồi, sinh sống và sinh
sản ở nội đồng - những vùng ngập nước vì những nơi đó vào mùa này có rất nhiều
thức ăn và thuận lợi trong cư trú. Trong những tháng mùa nước, với những điều
kiện thuận lợi trên, cá sinh sản và sinh trưởng nhanh tạo nên một trữ lượng cá tự
nhiên nội đồng khá lớn. Khi nước rút, từ nội đồng, cá lại quay về sông và người dân
rất dễ dàng đánh bắt bằng những biện pháp đơn giản như: làm đăng, đặt dớn, kéo
lưới... mang lại nguồn lợi khai thác tự nhiên to lớn cho cư dân vùng ngập lũ.
Cũng trong mùa nước nổi, lượng cá bột tự nhiên từ thượng nguồn theo nước
đổ về đã góp phần hình thành những nghề như vớt cá bột, ươm cá giống, nuôi cá...
Cư dân vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long đã sớm khai thác ưu thế được thiên
nhiên ưu đãi về lượng nước, dòng chảy, nguồn cá bột tự nhiên... để ni trồng các
lồi thủy sản có giá trị xuất khẩu cao. Tuy nhiên, từ năm 1999 đến nay, khi ngành
nghề nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, lượng con giống tự nhiên không đủ cung
cấp và việc vớt cá bột ươm giống đã bị cấm theo pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thủy

sản nên đã hình thành và phát triển nghề sinh sản con giống nhân tạo. Trong đó phát
triển mạnh nhất là ni cá da trơn, chủ yếu là cá tra, ba sa… đã và đang là những
thương hiệu hàng hóa có uy tín, và chiếm lĩnh được thị trường trong nước và trên
thế giới.


Bên cạnh đó, mùa nước nổi cịn đem lại cho vùng ngập lũ đồng bằng sông
Cửu Long một khối lượng nước ngọt lớn, trên một diện tích rộng hàng trăm ngàn
ha, trong thời gian tương đối dài, có độ ngập nông sâu khác nhau tùy vùng đất, tạo
nhiều điều kiện thuận lợi để khai thác diện tích mặt nước trên đồng cho nuôi nhiều
loại thủy sản và trồng nhiều loại cây thủy sinh.
1.2.3. Tháo chua, rửa phèn, giảm dịch hại và độc chất trong đất làm
sạch đất tạo điều kiện thuận lợi cho khai hoang, làm tăng diện tích đất nông
nghiệp
Do tác động của các yếu tố thiên nhiên, đất đai vùng đồng bằng sơng Cửu
Long có nhiều loại đất, khi nghiên cứu, các nhà khoa học thường phân chia thành 7
nhóm đất chính là đất phù sa, đất phèn, đất mặn, đất phèn mặn, đất phù sa cổ, đất
than bùn, đất núi. Trong diện tích tự nhiên của vùng đồng bằng sơng Cửu Long, các
nhóm đất chiếm diện tích nhiều là: đất phù sa có diện tích khoảng 1.094.248 ha, có
độ phì tự nhiên cao, thuận lợi cho nhiều loại cây trồng; đất nhiễm phèn có diện tích
khoảng 1.054.342 ha, có độ chua của phèn, nồng độ độc tố nhơm cao, độ phì kém,
đây là vùng đất đã và đang được tập trung khai phá nhằm tăng diện tích đất sản
xuất; đất nhiễm mặn khoảng 809.034 ha, khó có khả năng ngọt hóa, chỉ có thể trồng
được 1 vụ lúa (vào mùa mưa) và ni các lồi hải sản.
Bảng 1.1: Các nhóm đất chính ở đồng bằng sơng Cửu Long
Nhóm đất

Diện tích

Tỷ lệ (%)


(ha)
1. Đất phù sa

1.094.248

28,91

2. Đất phèn

1.054.342

28,02

3. Đất mặn

890.034

21,38

4. Đất phèn mặn

631.443

16,98


5. Đất phù sa cổ

108.989


2,84

6. Đất than bùn

34.027

0,92

7. Đất núi

34.678

0,95

Nguồn: [51, tr. 38].
Vào mùa mưa, các đợt mưa đầu mùa làm hịa tan phèn tích lũy trong đất do
sự ơxy hóa trong mùa khơ. Lượng mưa càng nhiều kết hợp với lượng nước từ
thượng nguồn đổ về làm loãng độ phèn và sau một thời gian dài ngâm nước, lượng
nước có chứa phèn hịa tan theo hệ thống sơng ngịi, kênh rạch và hệ thống thủy lợi
thoát về hạ lưu, ra biển. Tác động này làm cho vùng đất nhiễm phèn nhẹ chuyển đổi
từ sản xuất nông nghiệp một vụ vào mùa mưa sang sản xuất được hai vụ; chuyển
đất nhiễm phèn nặng từ không sản xuất nông nghiệp được sang sản xuất một vụ và
dần chuyển sang sản xuất hai vụ; đồng thời cũng gây nhiễm phèn trên một phần
diện tích các thủy vực ven biển vào mùa mưa. Ta có thể nhìn thấy tác động tháo
chua, rửa phèn của mùa nước nổi đối với vùng ngập lũ đồng bằng sơng Cửu Long
theo một quy trình chung nhất qua kết quả nghiên cứu sau:
Bảng 1.2: Quá trình tháo chua, rửa phèn cho đất nhiễm phèn
trong mùa nước nổi
Thời điểm

Đầu mùa khơ (I-II)

Đất phèn

Nước

Bắt đầu ơxy hóa. Độ chua Ít đến không chua sau thời
gia tăng nhanh.

gian dài ngâm lũ.

Giữa đến cuối mùa Độ chua ngày càng gia tăng, Độ chua tăng dần theo quá
khô (III-V)

đạt cực điểm vào cuối mùa trình tiêu nước vụ Đơng
khơ.

Đầu mùa mưa (VI)

xn.

Rửa trơi các ion vào môi Chua cực độ do dịch phèn


trường nước. Độ chua vẫn đậm đặc hòa tan trong nước.
cao vì khống chất bắt đầu bị
cơng phá.
Đầu mùa lũ (VII- Độ chua bắt đầu giảm.

Độ chua vẫn còn cao.


VIII)
Giữa mùa lũ (IX-X)

Độ chua giảm mạnh đến Độ chua bắt đầu giảm do
thấp nhất nhờ vào quá trình lượng nước về nhiều và một
ngâm lũ.

phần nước phèn đã được tải
về hạ lưu.

Cuối mùa lũ (XI- Đất ít chua.

Nước ít chua nhất.

XII)
Nguồn: [46, tr. 132].
Bên cạnh tác động tháo chua, rửa phèn, mùa nước nổi còn giúp rửa sạch
những độc chất mà chủ yếu là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cịn tồn đọng trên
đồng ruộng trong q trình sử dụng; thời gian ngập lâu cũng góp phần đáng kể vào
việc giảm thiểu hay tiêu diệt các loài sâu bệnh có nguy cơ tiềm tàng trong lịng
đất…
1.3. HẠN CHẾ CỦA MÙA NƯỚC NỔI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI
Bên cạnh những lợi thế trên, mùa nước nổi cũng gây ra những tổn thất to
lớn cho sản xuất, kết cấu hạ tầng, tài sản của nhân dân và Nhà nước, tính mạng của
nhân dân nhất là trẻ em ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long, thiệt hại lên đến
hàng ngàn tỷ đồng mỗi năm và làm tốn kém thêm công sức và hàng ngàn tỷ đồng để
khắc phục.



Trong khoảng 15 năm gần đây, liên tiếp có nhiều trận lũ lớn ở đồng bằng
sông Cửu Long gây nhiều hậu quả nghiêm trọng, mà nguyên nhân chính là do
những biến động bất thường của môi trường trái đất, sự tàn phá rừng nhất là rừng
đầu nguồn, sự khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho dân số
và nhu cầu ngày càng tăng của con người, sự chủ quan của con người....
Lũ gây thiệt hại to lớn về tính mạng và tài sản của nhân dân, mỗi năm có
hàng trăm người bị chết đuối (trong đó phần lớn là trẻ em, nguyên nhân chính là do
sự bất cẩn của người lớn), hàng ngàn hộ dân phải di dời nhà, hàng trăm căn nhà bị
hư hỏng...; các cơ sở hạ tầng y tế - trường học - cơ quan nhà nước bị ngập, xuống
cấp nhanh, không sử dụng được...; các cơng trình thủy lợi, giao thơng vận tải bị tàn
phá... làm gián đoạn hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội bình thường của cư dân.
Trong sản xuất nông nghiệp, lũ sớm đe dọa thu hoạch vụ lúa hè thu, gây
mất trắng hay giảm chất lượng lúa do gặt ép (lúa cịn chưa thật sự chín); lũ muộn
làm chậm thời gian xuống giống vụ Đông - Xuân, làm mất tính thời vụ của vụ lúa.
Làm ngập úng, giảm năng suất thậm chí làm chết các vườn cây ăn trái, cây cơng
nghiệp khi nước vượt ngưỡng trung bình; phá vỡ hệ thống đê bao; một bộ phận
không nhỏ nơng dân có thời gian nơng nhàn khá dài trong mùa nước nổi...
Trong bảo vệ mơi trường, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, dòng nước
mang hàm lượng phù sa lớn gây khó khăn trong xử lý nước sinh hoạt nhất là
vùng nông thôn quen sử dụng nước sông là nước sinh hoạt chính; dịng nước bị ơ
nhiễm với chất thải, chất vi sinh, các hóa chất khác từ các vùng khác trên lưu
vực chảy về; một số vùng, nước còn bị nhiễm phèn; tốn kém nhiều chi phí trong
xây dựng nhà vệ sinh tự hoại; xử lý rác thải sinh hoạt... Những nguy hiểm trên
nếu khơng có biện pháp phịng chống thích hợp, có thể sẽ là nơi phát sinh những
"ổ dịch" lớn và nguy hiểm như: sốt xuất huyết, dịch tả …
Ta có thể thấy tác hại của mùa nước nổi qua một số năm nước lớn (báo chí
thường gọi là lũ lớn) như: năm 1994 (tương ứng mực nước 453 cm, tại trạm Tân
Châu), làm cho 407 người chết, gây thiệt hại tài sản trị giá khoảng 2.284 tỷ đồng.



Trận lũ năm 1996 (tương ứng mực nước 487 cm, tại trạm Tân Châu), làm cho 217
người chết, gây thiệt hại tài sản trị giá khoảng 2.182 tỷ đồng Trận lũ năm 2000
(tương ứng mực nước 506 cm, tại trạm Tân Châu), làm cho 453 người chết, gây
thiệt hại tài sản trị giá khoảng 4.000 tỷ đồng.
Trận lũ lịch sử năm 2000 là trận lũ lớn và gây thiệt hại nghiêm trọng nhất
trong hơn 70 năm qua. Tính đến 5/11/2000, thiệt hại do lũ gây ra ở đồng bằng sông
Cửu Long như sau:
Bảng 1.3: Thiệt hại trong mùa nước nổi ở đồng bằng sông Cửu Long năm 2000
Thiệt hại

Đơn vị tính

Số lượng

Người

448/319

Hộ

865.166

Điểm /phịng

2.751/12.282

Học sinh

830.899


Điểm

376

Km

11.010

- Sạt lở bờ bao, kênh

M3

27.822.400

- Đê, bờ bao bị hư hại

Km

1.470

- Cống, bộng, đập bị hư hại

Cái

2.440

8. Thiệt hại về nông nghiệp

Ha


330.266

Tỷ đồng

4.000

1. Người chết/trẻ em
2. Số hộ bị ngập
3. Số trường/phòng học bị ngập
4. Số học sinh nghỉ học
5. Trạm xá, bệnh viện bị ngập, hư hỏng
6. Đường giao thông bị ngập
7. Thiệt hại về thủy lợi

Tổng trị giá thiệt hại
Nguồn: [52, tr. 10].


Qua phân tích lợi thế và hạn chế của mùa nước nổi đối với phát triển kinh tế
- xã hội ở An Giang, chúng ta nhận thấy, mùa lũ đối với vùng ngập lũ đồng bằng
sơng Cửu Long có tác động hai mặt: tích cực và tiêu cực. Mặt tiêu cực, lũ gây thiệt
hại to lớn trên nhiều mặt như: tính mạng, tài sản, thiệt hại cơ sở hạ tầng, gián đoạn
các hoạt động kinh tế - xã hội... Mặt tích cực, lũ cũng mang đến những yếu tố sinh
thái đặc trưng, những nguồn lợi về nước ngọt, phù sa, thủy sản... là những tiềm
năng có thể khai thác để phát triển vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long. Nhận
dạng được tính 2 mặt của mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long là một
trong những nhân tố quan trọng cho việc hình thành những đối sách với lũ ở vùng
ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long. Chính tính đặc trưng riêng có này đã hình thành
nên cách gọi mùa nước nổi để gọi mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long

nhằm thể hiện tính lạc quan của cư dân trong q trình khai phá vùng đất này cũng
như nhấn mạnh đến những nguồn lợi tự nhiên được mang đến trong mùa nước nổi
mà con người có thể khai thác được.
Sơng Mêkơng là sơng lớn, có lưu vực rộng, gắn chặt với mơi trường tự
nhiên, kinh tế và cả văn hóa của những quốc gia nơi lưu vực sông Mêkông chảy
qua. Lũ ở lưu vực sơng Mêkơng nói chung và lũ ở đồng bằng sơng Cửu Long nói
riêng là một hiện tượng tự nhiên gắn liền với quá trình khai thác, hình thành và
phát triển của vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Đối sách với lũ ở vùng
ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long phải được tiếp cận từ quan điểm lịch sử, hợp
quy luật, đặc điểm riêng, từ việc nhận dạng được tính hai mặt, là đặc trưng riêng
có của mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long.
Từ thế kỷ thứ 19, Ph. Ăngghen cũng đã chỉ ra rằng, con người có thể thống
trị được giới tự nhiên không phải bằng cách chinh phục và đối đầu với giới tự nhiên
mà phải tìm, nắm bắt và nhận thức được những quy luật của giới tự nhiên để phục
vụ cho q trình phát triển của lồi người.
… Và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên biểu
hiện ở chỗ là chúng ta có ưu thế hơn tất cả các sinh vật khác, nghĩa là


chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng
được những quy luật đó một cách chính xác.
Và trên thực tế, chúng ta học hỏi để hiểu được một cách chính
xác hơn những quy luật đó, và biết được những hậu quả gần gũi cũng
như xa xơi của những sự can thiệp tích cực của chúng
ta vào trong tiến trình bình thường của các sự vật trong giới tự nhiên [1,
tr. 269-270].
Các kết quả nghiên cứu khoa học trong những năm gần đây cũng cho thấy
bên cạnh những tác hại, lũ ở đồng bằng sơng Cửu Long cũng mang lại nhiều lợi ích
thiết thực mà nếu biết khai thác hợp lý vào quá trình phát triển thì đó sẽ chính là
những tặng phẩm q giá mà thiên nhiên đã ban cho vùng đất này. Vì thế, đối sách

với lũ được chọn cho vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long là "không chống lũ
triệt để như đồng bằng Bắc bộ, không xa lánh lũ, hãy chung sống hòa thuận với lũ
một cách chủ động, ổn định và khai thác những lợi thế của lũ mang lại để phát
triển", đây chính là là con đường đúng đắn và hiệu quả nhất cho vấn đề ổn định đời
sống, phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long trong
điều kiện có lũ hàng năm.
Đối sách này có những đặc trưng cơ bản là: phải nắm được quy luật hoạt
động tự nhiên của lũ để có được những dự báo lũ kịp thời và thích hợp; chủ động
nghiên cứu để có đánh giá cơ bản về những diễn biến bất thường của lũ dưới tác
động khai phá thiên nhiên của con người; phải có những giải pháp đồng bộ về quy
hoạch cơ sở hạ tầng dần theo hướng kiểm soát lũ để hạn chế thấp nhất những thiệt
hại do lũ mang lại; có những giải pháp tổng hợp về kinh tế - mơi trường - văn hóa xã hội thích hợp để khai thác có hiệu quả những lợi thế do lũ mang lại vào quá trình
phát triển.
Đối sách này được lựa chọn dựa trên những kinh nghiệm được đúc kết từ
thực tiễn q trình khai phá vùng đồng bằng sơng Cửu Long của người dân Nam
bộ; dựa trên những tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại giúp chúng ta có thể nắm


bắt được quy luật vận động cơ bản của lũ, có thể dự báo tương đối chính xác diễn
biến lũ...; dựa trên những cơng trình cơ sở hạ tầng điều khiển lũ và hướng tới mục
tiêu lâu dài là kiểm sốt lũ cho vùng ngập lũ đồng bằng sơng Cửu Long, đã và đang
được quy hoạch xây dựng nhằm giúp duy trì cuộc sống bình thường cho nhân dân
trong mùa nước nổi...
Các tác động trên đã giúp hạn chế thấp nhất những tác hại trong mùa nước
nổi thì việc phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện chung sống trong mùa nước
nổi như thế nào nhằm khai thác lợi thế mùa nước nổi cho phù hợp với điều kiện
phát triển của từng địa phương là một vấn đề rất quan trọng và
cần thiết.



×