Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Luận văn: Thực trạng thị trường và một số biện pháp nhằm phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.31 KB, 83 trang )

Luận văn
Thực trạng thị trường và
một số biện pháp nhằm
phát triển thị trường hàng
hóa của doanh nghiệp
thương mại nước ta trong
thời gian tới


LỜI NÓI ĐẦU
Thương mại là một ngành của nền kinh tế quốc dân, là lĩnh vực trao đổi
hàng hóa thơng qua mua bán trên thị trường. Thương mại Việt Nam rất phát
triển từ sau thời kỳ đổi mới (1986) và đạt được nhiều thành tựu to lớn trong
phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại góp phần nâng
cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại trong việc lưu
thơng hàng hóa phục vụ tiêu dùng và sản xuất.
Để tăng cường sự hội nhập quốc tế, đẩy mạnh hơn cơng cuộc cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặc biệt sau khi gia nhập AFTA vào năm
2006 thì phát triển thị trường hàng hóa cho các doanh nghiệp thương mại
nước ta là yêu cầu khách quan, cấp thiết.
Trong bài viết này, em xin trình bày về "Những biện pháp nhằm phát
triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời
gian tới" nhằm mục đích nhận thức đúng đắn hơn về thực trạng phát triển thị
trường hàng hóa của các doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian
qua từ đó nêu ra những biện pháp đúng đắn nhằm phát triển thị trường hàng
hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới.
Trong bài viết này em xin trình bày các vấn đề sau:
+ Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển thị trường hàng hóa ở doanh
nghiệp thương mại.
+ Phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta
trong thời gian tới.


+ Những biện pháp nhằm phát triển thị trường hàng hóa của doanh
nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới.
Em xin chân thành cám ơn thầy: ThS Nguyễn Văn Tuấn và PGS.TS
Đặng Đình Đào đã hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiều trong q trình hồn
thành bài viết này!

1


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG
HÀNG HÓA Ở DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

1.1. THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRỊ CỦA THỊ TRƯỜNG HÀNG HĨA.
1.1.1. Khái niệm về thị trường hàng hóa.

Thị trường là một phạm trù của kinh tế hàng hóa. Thị trường được nhiều
nhà kinh tế định nghĩa khác nhau. Có người coi thị trường là cái chợ, là nơi
mua bán hàng hóa. Hội quản trị khoa học Hoa Kỳ coi: "thị trường là tổng hợp
các lực lượng và các điều kiện, trong đó người mua và người bán thực hiện
các quyết định chuyển hàng hóa và dịch vụ từ người bán sang người mua". Có
nhà kinh tế lại quan niệm: "thị trường và lĩnh vực trao đổi mà ở đó người mua
và người bán cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hóa và dịch vụ",
hoặc đơn giản hơn: thị trường là tổng hợp các số cộng của người mua về một
sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ. Gần đây có nhà kinh tế lại định nghĩa: "thị
trường là nơi mua bán hàng hóa, là một q trình trong đó người mua và
người bán một thứ hàng hóa tác động qua lại nhau để xác định giá cả và số
lượng hàng, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán bằng tiền trong một thời
gian và không gian nhất định".

Các định nghĩa trên đây về thị trường có thể nhấn mạnh ở địa điểm mua
bán, vai trò của người mua, người bán hoặc chỉ người mua, coi người mua giữ
vai trò quyết định trong thị trường, chứ không phải người bán, mặc dù khơng
có người bán, khơng có người mua, khơng có hàng hóa và dịch vụ, khơng có
thoả thuận thanh tốn bằng tiền hoặc bằng hàng thì khơng thể có thị trường,
khơng thể hình thành thị trường. Cho dù thị trường hiện đại, có thể một trong
vài yếu tố trên khơng có mặt trên thị trường thì thị trường vẫn chịu tác động
của các yếu tố ấy và thực hiện trao đổi hàng hóa thơng qua thị trường. Vì vậy
đã nói đến thị trường phải nói đến các yếu tố sau:
2


Một là, phải có khách hàng, khơng nhất thiết phải gắn với địa điểm
xác định.
Hai là, khách hàng phải có nhu cầu chưa được thỏa mãn. Đây chính là
cơ sở thúc đẩy khách hàng mua hàng hóa và dịch vụ.
Ba là, khách hàng phải có khả năng thanh tốn, tức là khách hàng phải
có khả năng trả tiền để mua hàng.
1.1.2. Các yếu tố thị trường.

Các yếu tố của thị trường gồm: cung, cầu và giá cả thị trường.
Tổng hợp các nhu cầu của khách hàng (người mua) tạo nên cầu về hàng hóa.
Tổng hợp các nguồn cung ứng sản phẩm cho khách hàng trên thị trường
tạo nên cung hàng hóa.
Sự tương tác giữa cung và cầu, tương tác giữa người mua và người mua,
người bán với người bán và người bán với người mua hình thành giá cả thị
trường. Giá cả thị trường là một đại lượng biến động do sự tương tác của cung
và cầu trên thị trường của một loại hàng hóa, ở địa điểm và thời điểm cụ thể.
1.1.3. Các quy luật của thị trường.


* Quy luật giá trị:
Đây là quy luật kinh tế của kinh tế hàng hóa. Khi nào cịn sản xuất và
lưu thơng hàng hóa thì quy luật giá trị cịn phát huy tác dụng. Quy luật giá trị
yêu cầu sản xuất và lưu thơng hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị lao động.
Xã hội, cần thiết trung bình để sản xuất và lưu thơng hàng hóa và trao đổi
ngang giá. Việc tính tốn chi phí sản xuất và lưu thơng bằng giá trị là cần thiết
bởi đòi hỏi của thị trường, của xã hội với nguồn lực có hạn phải sản xuất được
nhiều của cải vật chất cho xã hội nhất, hay là chi phí cho một đơn vị sản phẩm
là ít nhất với điều kiện chất lượng sản phẩm cao nhất. Người sản xuất hoặc
kinh doanh nào có chi phí lao động xã hội cho một đơn vị sản phẩm thấp hơn,
trung bình thì người đó có lợi, ngược lại người nào có chi phí cao thì khi trao
đổi thì sẽ khơng thu được giá trị đã bỏ ra, khơng có lợi nhuận và phải thu hẹp
sản xuất, người kinh doanh phải tiết kiệm được chi phí, phải khơng ngừng cải
3


tiến kỹ thuật công nghệ, đổi mới sản phẩm, đổi mới kinh doanh, dịch vụ để
thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, để bán được nhiều hàng hóa và
dịch vụ.
* Quy luật cung cầu.
Cung cầu hàng hóa dịch vụ không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà thường
xuyên tác động qua lại với nhau trên cùng một thời gian cụ thể. Trong thị
trường, quan hệ cung cầu là quan hệ bản chất, thường xuyên lắp đi lắp lại, khi
tăng, khi giảm tạo thành quy luật trên thị trường. Khi cung cầu gặp nhau, giá
cả thị trường được xác lập. Đó là giá cả bình qn, gọi là giá cả bình qn
nghĩa là ở mức giá đó cung và cầu ăn khớp với nhau. Tuy nhiên mức giá đó
lại khơng đứng n, nó ln ln giao động trước sự tác động của lực cung,
lực cầu trên thị trường. Khi cung lớn hơn cầu, giá sẽ hạ xuống, ngược lại khi
cầu lớn hơn cung giá lại tăng lên. Việc giá ở mức bình quân cân bằng chỉ là
tạm thời, việc mức giá thay đổi là thường xuyên. Sự thay đổi trên là do hàng

loạt các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp tác động đến cầu, đến cung, cũng
như kỳ vọng của sản xuất, người kinh doanh và cả của khách hàng.
* Quy luật cạnh tranh.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế, có nhiều người mua, người
bán với lợi ích kinh tế khác nhau thì việc cạnh tranh giữa người mua và người
mua, người bán với người bán và cạnh tranh giữa người mua và người bán tạo
nên sự vận động của thị trường và trật tự của thị trường. Cạnh tranh trong
kinh tế là cuộc chạy đua khơng đích cuối cùng cạnh tranh trong kinh tế là
cuộc thi đấu không phải với một đối thủ mà đồng thời với hai đối thủ. Đối thủ
thứ nhất là giữa hai phe của hệ thống thị trường và đối thủ thứ hai là giữa các
thành viên của cùng một phía với nhau.Tức là cạnh tranh giữa người mua và
người bán và cạnh tranh giữa người bán với nhau, không thể lẫn tránh cạnh
tranh mà phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng sử dụng
vũ khí cạnh tranh hữu hiệu.
1.1.4. Các chức năng của thị trường.

4


* Chức năng thừa nhận.
Doanh nghiệp thương mại mua hàng hóa về để bán. Hàng hóa có bán
được hay khơng phải thông qua chức năng thừa nhận của thị trường, của
khách hàng, của doanh nghiệp.
Nếu hàng hóa bán được, tức là được thị trường thừa nhận, doanh nghiệp
thương mại mới thu hồi được vốn có nguồn thu trang trải chi phí và có lợi
nhuận. Ngược lại, nếu hàng hóa đưa ra bán nhưng khơng có ai mua, tức là
khơng được thị trường thừa nhận. Để được thị trường thừa nhận, doanh
nghiệp thương mại phải nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, hàng hóa phải
phù hợp với nhu cầu của khách hàng, phù hợp ở đây là phù hợp về số lượng,
chất lượng, sự đồng bộ, quy cách, cỡ loại, mầu sắc, bao bì, giá cả, thời gian và

địa điểm thuận tiện cho khách hàng.
* Chức năng thực hiện.
Chức năng này địi hỏi hàng hóa và dịch vụ phải được thực hiện giá trị
trao đổi: hoặc bằng tiền hoặc bằng hàng, bằng các chứng từ có giá trị khác.
Người bán hàng cần tiền, còn người mua cần hàng. Sự gặp gỡ giữa người bán
và người mua được xác định bằng giá hàng. Hàng hóa bán được tức là có sự
dịch chuyển hàng hóa từ người bán sang người mua.
* Chức năng điều tiết và kích thích.
Qua hành vi trao đổi hàng hóa và dịch vụ trên thị trường, thị trường điều
tiết và kích thích sản xuất và kinh doanh phát triển hoặc ngược lại. Đối với
doanh nghiệp thương mại, hàng hóa và dịch vụ bán hết nhanh sẽ kích thích
doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động tạo nguồn hàng, thu mua hàng hóa để cung
ứng ngày càng nhiều hơn hàng hóa và dịch vụ cho thị trường. Ngược lại, nếu
hàng hóa và dịch vụ không bán được, doanh nghiệp sẽ hạn chế mua, phải tìm
khách hàng mới, thị trường mới, hoặc chuyển hướng kinh doanh mặt hàng
khác đang hoặc sẽ có khả năng có khách hàng. Chức năng điều tiết kích thích
này luôn điều tiết sự gia nhập ngành hoặc rút ra khỏi ngành của một số doanh
nghiệp. Nó khuyến khích các nhà kinh doanh giỏi và điều chỉnh theo hướng
5


đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh có lợi, các mặt hàng mới, chất lượng cao, có
khả năng bán được khối lượng lớn.
* Chức năng thông tin.
Thông tin thị trường là những thơng tin về nguồn cung ứng hàng hóa
dịch vụ, nhu cầu hàng hóa và dịch vụ. Đó là những thông tin kinh tế quan
trọng đối với mọi nhà sản xuất, kinh doanh, cả người mua và người bán, cả
người cung ứng và người tiêu dùng, cả người quản lý và người nghiên cứu
sáng tạo. Có thể nói đó là những thơng tin được sự quan tâm của tồn xã hội.
Thông tin thị trường là những thông tin kinh tế quan trọng, khơng có thơng tin

thị trường khơng thể có quyết định đúng đắn trong sản xuất, kinh doanh, cũng
như các quyết định của các cấp quản lý. Việc nghiên cứu thị trường và tìm
kiếm các thơng tin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc ra quyết định
đúng đắn trong kinh doanh. Nó có thể đưa đến thành cơng, cũng như có thể
đưa đến thất bại bởi sự xác thực của các thông tin được sử dụng.
1.1.5. Vai trị của thị trường hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân.

* Vị trí:
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường có vị trí trung tâm. Thị trường
vừa là mục tiêu của người sản xuất kinh doanh vừa là môi trường của hoạt
động sản xuất và kinh doanh hàng hóa. Thị trường cũng là nơi chuyển tải các
hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên thị trường người mua, người bán và
người trung gian gặp nhau trao đổi hàng hóa - dịch vụ.
Q trình sản xuất xã hội có 4 khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu
dùng, thì thị trường gồm hai khâu phân phối và trao đổi. Đó là khâu trung
gian cần thiết, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Vì vậy nó có tác động
nhiều mặt đến sản xuất, đến tiêu dùng xã hội.
* Tác dụng của thị trường.
Một là, bảo đảm điều kiện cho sản xuất phát triển liên tục với quy mô
ngày càng mở rộng và bảo đảm hàng hóa cho người tiêu dùng phù hợp với thị
hiếu (sở thích) và sự tự do lựa chọn một cách đầy đủ, kịp thời, thuận lợi với
6


dịch vụ văn minh.
Hai là, nó thúc đẩy nhu cầu, gợi mở nhu cầu, đưa đến cho người tiêu
dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân những sản phẩm mới. Nó kích thích sản
xuất ra sản phẩm chất lượng cao và gợi mở nhu cầu hướng tới các hàng hóa
chất lượng cao văn minh và hiện đại.
Ba là, dự trữ hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng sản xuất, giảm bớt

dự trữ ở các khâu tiêu dùng, bảo đảm việc điều hòa cung cầu.
Bốn là, phát triển các hoạt động dịch vụ phục vụ tiêu dùng sản xuất và
tiêu dùng cá nhân ngày càng phong phú, đa dạng, văn minh. Giải phóng con
người khỏi các cơng việc khơng tên trong gia đình, vừa nặng nề vừa mất thời
gian. Con người được nhiều thời gian tự do hơn.
Năm là, thị trường hàng hóa dịch vụ ổn định có tác dụng to lớn để ổn
định sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân.
1.1.6. Phân loại thị trường hàng hóa.
1.1.6.1. Căn cứ vào cơng dụng của hàng hóa.

* Thị trường hàng tư liệu sản xuất.
Đó là những sản phẩm dùng để sản xuất. Thuộc về hàng tư liệu sản xuất
có: các loại máy móc, thiết bị như máy tiện, phay, bào... các loại nguyên vật
liệu, các loại nhiên liệu, các loại hóa chất, các loại dụng cụ, phụ tùng... Người
ta con gọi thị trường hàng tư liệu sản xuất là thị trường yếu tố đầu vào của các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
* Thị trường hàng tư liệu tiêu dùng.
Đó là những sản phẩm dùng để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của con
người. Ví dụ: lương thực, quần áo, giày dép, thuốc chữa bệnh, các sản phẩm
hàng tiêu dùng cho cá nhân người tiêu dùng. Các sản phẩm này ngày càng nhiều
theo đà phát triển của sản xuất và nhu cầu đa dạng, nhiều vẻ của con người.
1.1.6.2. Căn cứ vào nguồn sản xuất ra hàng hóa.

* Thị trường hàng công nghiệp.
Thị trường hàng công nghiệp bao gồm sản phẩm hàng hóa do các xí
nghiệp cơng nghiệp khai thác, chế biến sản xuất ra.
7


Công nghiệp khai thác tạo ra sản phẩm là nguyên liệu. Nguyên liệu trải

qua một hoặc một vài công đoạn chế biến thì thành vật liệu. Cơng nghiệp chế
biến tạo các nguyên vật liệu thành các sản phẩm hàng công nghiệp. Đó là các
loại hàng hóa có tính chất kỹ thuật cao, trung bình hoặc thơng thường, có đặc
tính cơ, lý, hóa học và trạng thái khác nhau. Nhìn chung các loại hàng hóa này
có hàm lượng kỹ thuật khác nhau và thường là vật chất (không phải sinh vật).
* Thị trường hàng nông nghiệp (nông, lâm, hải sản)
Thị trường hàng nơng nghiệp là thị trường hàng hóa có nguồn gốc từ
sinh vật (động vật hoặc thực vật). Những sản phẩm có nguồn gốc nơng nghiệp
mới sơ chế (chưa qua cơng nghiệp chế biến), ví dụ như thóc, gạo,ngơ, khoai...
cá, lợn, gà, vịt... có thể ở dạng ngủ nghỉ hoặc cịn tươi sống muốn bảo quản
được lâu phải có phương tiện kỹ thuật. Nói chung chúng dễ bị ảnh hưởng bởi
mơi trường bên ngồi. Sản phẩm có tính chất địa phương (rau, quả, củ) giá trị
không cao nếu không được chế biến và không đưa đến các thị trường xa bằng
phương tiện vận tải thông thường.
1.1.6.3. Căn cứ vào nơi sản xuất.

* Hàng sản xuất trong nước.
Hàng sản xuất trong nước là do các doanh nghiệp trong nước sản xuất ra.
Hàng sản xuất trong nước ngày càng nhiều chứng tỏ trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất trong nước đến mức độ nào đó nhu cầu của thị trường.
Hàng sản xuất trong nước cũng phải hướng theo tiêu chuẩn quốc tế vừa để
thỏa mãn tiêu dùng trong nước vừa có khả năng xuất khẩu. Khơng có một
quốc gia nào trên thế giới lại hoàn toàn dùng hàng trong nước. Ngược lại nếu
sản phẩm sản xuất trong nước chất lượng quá thấp thì việc sử dụng nguồn lực
để sản xuất hàng hóa đó là lãng phí và khơng thể đứng vững trên thị trường
trong nước khi có hàng ngoại nhập vào. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
thực chất là phát triển sản xuất hàng trong nước. Có như vậy mới chủ động, tạo
nhiều công ăn việc làm, đất nước phát triển và mới có hàng hóa để trao đổi với
nước ngoài.
* Hàng nhập ngoại.

8


Hàng nhập ngoại là hàng cần thiết phải nhập từ nước ngoài do nguồn
hàng trong nước chưa sản xuất đủ hoặc do kỹ thuật công nghệ, chưa thể sản
xuất được. Nhập hàng ngoại (kể cả kỹ thuật, công nghệ tiên tiến) là một yếu
tố không thể thiếu được và là một tác nhân kích thích cho sản xuất tiến lên.
Trên thế giới ngày nay, khơng có một quốc gia nào lại khơng có ngoại
thương, khơng có xuất nhập hàng hóa. Xuất nhập khẩu hàng hóa là lợi dụng
được ưu thế tương đối và tuyệt đối của mỗi quốc gia và là yếu tố cho cả hai
bên có quan hệ xuất nhập khẩu.
1.2. Doanh nghiệp thương mại (DNTM).
1.2.1. Khái niệm.

Doanh nghiệp thương mại là một đơn vị kinh doanh được thành lập hợp
pháp nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại, tổ chức lưu
chuyển hàng hóa, mua hàng hóa ở nơi sản xuất và đem bán ở nơi có nhu cầu
nhằm thu lợi nhuận.
Đặc thù của DNTM là hoạt động trong lĩnh vực phân phối lưu thông,
thực hiện lưu chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng chứ khơng
sản xuất ra các hàng hóa đó, mua để bán chứ không phải để tiêu dùng.
DNTM là một tổ chức, một đơn vị kinh doanh có đủ các điều kiện mà
pháp luật qui định và cho phép kinh doanh những mặt hàng pháp luật không
cấm. DNTM phải có tổ chức, đảm bảo những điều kiện về vốn, về tư cách
pháp nhân và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi kinh doanh và hàng
hóa kinh doanh của mình.
1.2.2. Các loại hình doanh nghiệp thương mại.
1.2.2.1. Căn cứ vào tính chất của mặt hàng kinh doanh.

* Doanh nghiệp kinh doanh chun mơn hóa: đó là các doanh nghiệp

chuyên kinh doanh một hoặc một số mặt hàng có cùng cơng dụng, trạng thái
hoặc tính chất nhất định.
* Các doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp: là các doanh nghiệp kinh
doanh nhiều mặt hàng có cơng dụng, trạng thái, tính chất khác nhau.
* Các doanh nghiệp kinh doanh đa dạng hóa (hỗn hợp): các doanh
9


nghiệp kinh doanh cả sản xuất, cả kinh doanh hàng hóa và thực hiện các hoạt
động dịch vụ thương mại.
1.2.2.2. Theo quy mô của doanh nghiệp.

* Doanh nghiệp thương mại có quy mơ nhỏ.
* Doanh nghiệp thương mại có quy mơ vừa.
* Doanh nghiệp thương mại có quy mơ lớn.
Để xếp loại doanh nghiệp người ta thường căn cứ vào hệ thống các tiêu
thức khác nhau. Đối với DNTM tiêu thức để xếp loại là số vốn kinh doanh, số
lượng lao động, doanh số hàng hóa lưu chuyển hàng năm, phạm vi kinh doanh.
1.2.2.3. Theo phân cấp quản lý.

* Các DNTM do các bộ, các ngành của Trung ương quản lý.
* Các DNTM do địa phương quản lý như các DNTM thuộc tỉnh (thành
phố), thuộc huyện, quận, thị trấn, thị xã quản lý.
1.2.2.4. Theo chế độ sở hữu tư liệu sản xuất.

* Doanh nghiệp thương mại nhà nước: là DNTM được nhà nước đầu tư
hoặc cấp 100% vốn kinh doanh.
* Doanh nghiệp thương mại tập thể: là DNTM mà vốn kinh doanh do tập
thể người lao động tự nguyện góp vào để kinh doanh.
* Các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh.

* Doanh nghiệp tư nhân: do các tư nhân trong nước và nước ngồi bỏ
vốn kinh doanh.
* Hệ thống người bn bán nhỏ: là hộ cá thể có các cửa hàng, quầy hàng
kinh doanh các hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
1.2.3. Chức năng của DNTM.

Chức năng của DNTM là những nhiệm vụ chung nhất gắn liền với sự tồn
tại, phát triển của DNTM và là tiêu thức để phân biệt DNTM với các doanh
nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp xây dựng và các doanh nghiệp của các
ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường DNTM
có các chức năng:
DNTM phát hiện nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và tìm mọi
10


cách để thỏa mãn các nhu cầu đó. DNTM trở thành bộ phận trung gian độc lập
giữa sản xuất với tiêu dùng. DNTM cần nghiên cứu nhu cầu thị trường để phát
hiện, tìm ra những chủng loại hàng hóa, dịch vụ mà thị trường có nhu cầu và
tìm mọi cách tạo ra chúng nhằm đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu đó của khách hàng.
Chức năng thứ hai: là DNTM phải khơng ngừng nâng cao trình độ thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng để nâng cao hiệu quả kinh doanh. DNTM phải là
người hậu cần tốt của sản xuất và tiêu dùng, đem đến cho người tiêu dùng
những hàng hóa đủ về số lượng, tốt về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, kịp thời
gian với giá cả hợp lý.
Chức năng thứ ba: giải quyết tốt các mối quan hệ bên trong nội bộ doanh
nghiệp và quan hệ giữa doanh nghiệp với bên ngồi. Vì giải quyết tốt các mối
quan hệ bên trong và bên ngoài là việc cần thiết để tạo ra sự phối hợp nhịp
nhàng trong kinh doanh. Giải quyết các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp
là giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp với
nhau, làm cho mọi người thân thiện, hiểu biết lẫn nhau, hiểu biết được mục

tiêu nhiệm vụ của doanh nghiệp từ đó đồn kết, phấn đấu vì mục tiêu chung.
Giải quyết mối quan hệ bên trong là cơ sở, là nền tảng để giải quyết mối quan
hệ bên ngồi DNTM. Đó là quan hệ với bạn hàng, người cung ứng, với cơ
quan cấp trên, với cơ quan quản lý, với khách hàng... tạo nền văn hóa doanh
nghiệp, quyết định thành bại trong kinh doanh.
1.2.4. Nhiệm vụ của DNTM.

DNTM có nhiệm vụ kinh doanh đúng theo ngành, nghề đã đăng ký và
mục đích thành lập doanh nghiệp. Theo luật Việt Nam, các DNTM có quyền
tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh mà pháp luật
cho phép.
DNTM có nhiệm vụ quản lý tốt lao động, vật tư, tiền vốn để không
ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Để thực hiện kinh doanh có lợi nhuận
DNTM phải sử dụng triệt để các nguồn lực của doanh nghiệp, đề ra các chiến
lược chiếm lĩnh thị trường để tiêu thụ hàng hóa một cách nhanh chóng. Vì thị
trường hàng hóa là đầu ra của DNTM, quyết định thành cơng hay thất bại. Vì
11


có bán được hàng hóa thì DNTM mới thu được vốn và lãi để từ đó tiếp tục
mua hàng hóa khác để kinh doanh.
DNTM có nhiệm vụ thực hiện phân phối theo lao động và chăm lo đời
sống cho cán bộ cơng nhân viên. Có như vậy nhân viên trong doanh nghiệp
mới hoạt động hiệu quả, gắn bó với doanh nghiệp. Để làm được điều này
DNTM phải phát triển kinh doanh, tạo mở đầy đủ việc làm, tăng thêm thu
nhập cho cán bộ công nhân viên, thực hiện phân phối cơng bằng quỹ khen
thưởng, quỹ phúc lợi. Điều đó sẽ tạo động lực để DNTM có đội ngũ nhân
viên nhiệt tình, phục vụ tốt nhất cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
Nhiệm vụ thứ tư là DNTM thực hiện đầy đủ trách nhiệm xã hội. Trước

hết DNTM chỉ kinh doanh những hàng hóa bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng đã
đăng ký để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái,
không gây ô nhiễm hay hủy hoại môi trường.
Nhiệm vụ thứ năm là DNTM phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật
nhà nước. DNTM thực hiện nộp thuế đầy đủ và các nghĩa vụ khác của pháp
luật. Thực hiện tốt các chính sách và chế độ quản lý kinh tế của nhà nước
về thương mại.
1.2.5. Vai trò của DNTM.

Doanh nghiệp thương mại là hợp phần tất yếu, quan trọng đối với nền
kinh tế quốc dân, là nơi thể hiện đầy đủ, tập trung nhất các mối quan hệ lớn
trong xã hội: quan hệ giữa sản xuất với tiêu dùng; giữa cung và cầu; giữa tiền
và hàng; giữa xuất khẩu với nhập khẩu; giữa thu và chi ngân sách, đồng thời
cũng là nơi diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa cơ chế quản lý cũ
chưa bị xóa bỏ hoàn toàn với cơ chế quản lý mới chưa hoàn chỉnh cùng đan
xen tồn tại với nhau. Bởi vậy DNTM phải phát huy vai trò là cầu nối, là trung
gian cần thiết giữa sản xuất với tiêu dùng. Hoạt động của các DNTM góp
phần tạo ra các điều kiện vật chất cần thiết để phát triển sản xuất, nâng cao
đời sống của nhân dân; điều chỉnh tỷ lệ cân đối trong sự phát triển của các
12


ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế, phát huy vai trò chỉ đạo, điều tiết thị
trường, xứng đáng là công cụ chủ yếu của Nhà nước trong việc điều tiết và
quản lý vĩ mơ.
Doanh nghiệp thương mại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản
xuất, mở rộng lưu thông tạo điều kiện không ngừng nâng cao hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp, tích cực góp phần tăng tích lũy xã hội nhằm
thực hiện thắng lợi cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập mau
chóng vào nền kinh tế thế giới.

Doanh nghiệp thương mại thơng qua hoạt động kinh doanh của mình đã
làm tốt việc phân phối hàng hóa từ nơi thừa đến nơi thiếu qua đó nâng cao
mức hưởng thụ của người dân. Và khi mức sống của người dân được tăng lên
thì vai trò của doanh nghiệp thương mại càng quan trọng.
DNTM có vai trị quan trọng trong việc mở rộng thị trường, đặc biệt là
thị trường nước ngồi thơng qua hoạt động xuất nhập khẩu, đưa hàng hóa
trong nước ra nước ngồi và nhập hàng hóa, thiết bị kỹ thuật.
1.3. thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại.
1.3.1. Khái niệm.

Thị trường hàng hóa của DNTM là một hay nhiều nhóm khách hàng với
các nhu cầu về hàng hóa, có khả năng thanh tốn và những người bán cụ thể
nào đó mà ở đó DNTM có thể mua hàng hóa, dịch vụ để cung cấp và làm thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng.
Đối với DNTM, thị trường hàng hóa bao gồm các nhân tố: khách hàng
có nhu cầu và khả năng thanh tốn, các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa bao
gồm bản thân doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh, hàng hóa và giá cả.
Thị trường hàng hóa của DNTM bao gồm: thị trường nguồn hàng và thị
trường bán hàng.
Thị trường nguồn hàng của DNTM là nơi cung cấp toàn bộ khối lượng
và cơ cấu hàng hóa mà doanh nghiệp thương mại cần mua.
Thị trường bán hàng của DNTM là tất cả các khách hàng có nhu cầu, có
13


khả năng thanh tốn về hàng hóa mà doanh nghiệp kinh doanh.
1.3.2. Vai trị của thị trường hàng hóa đối với DNTM.

Thị trường hàng hóa có vai trị quan trọng đối với DNTM. Nó vừa là
mục tiêu vừa là mơi trường kinh doanh của DNTM, quyết định thành công

hay thất bại đối với DNTM.
1.3.2.1. Thị trường nguồn hàng : cung cấp hàng hóa mà DNTM cần mua để

kinh doanh, để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Thị trường nguồn hàng của
DNTM gồm có: thị trường nguồn hàng trong nước và thị trường nguồn hàng
nước ngoài. Nhiều mặt hàng thị trường trong nước khơng có hoặc giá thành
cao, chất lượng thấp thì DNTM phải thực hiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa
đó từ thị trường nước ngồi.
Thị trường nguồn hàng là khâu hoạt động nghiệp vụ kinh doanh đầu tiên,
mở đầu cho hoạt động lưu thơng hàng hóa (T - H). Mua hàng là một hoạt
động nghiệp vụ cơ bản của DNTM. Nếu không mua được hàng hoặc mua
hàng không đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh thì DNTM khơng có hàng
để bán. Nếu DNTM mua phải hàng xấu, hàng giả, chất lượng kém hoặc không
mua đúng số lượng, chất lượng hàng hóa, đúng thời gian yêu cầu, DNTM sẽ
bị ứ đọng hàng hóa, vốn lưu động khơng lưu chuyển được, doanh nghiệp sẽ
khơng bù đắp được chi phí, sẽ khơng có lãi. Điều này chỉ rõ vị trí quan trọng
của thị trường nguồn hàng có ảnh hưởng đến các nghiệp vụ kinh doanh khác
và kết quả kinh doanh của DNTM.
Một vấn đề quan trọng đối với DNTM là tạo được nguồn hàng có giá rẻ,
chất lượng tốt và phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Nếu DNTM mua hàng
hóa có giá cao thì khách hàng sẽ khơng mua. DNTM khó tiêu thụ hàng hóa.
DNTM phải mua hàng với giá thấp hơn giá thị trường và bán với giá mà
khách hàng có thể chấp nhận được. Tuy nhiên chất lượng hàng hóa cũng rất
quan trọng. Nếu cùng một giá mà DNTM bán hàng hóa có chất lượng tốt hơn
thì khách hàng sẽ ưa thích hơn. Như vậy thị trường nguồn hàng có vai trị
quyết định hiệu quả kinh doanh của DNTM, quyết định DNTM có lãi hoặc lỗ
14


khi bán hàng hóa. Nhưng điều này chỉ đúng với một số hàng hóa thơng

thường cịn một số hàng hóa có giá trị cao thì lợi nhuận phụ thuộc vào độ tin
cậy về chất lượng và cơng tác dịch vụ.
Ví dụ: để mua một chiếc xe máy trị giá 25 triệu VND thì khách hàng sẽ
hết sức chú ý tới chất lượng của xe còn giá cả chênh lệch 1 triệu đến 2 triệu
thì khơng quan trọng miễn là chất lượng xe tốt.
Thị trường nguồn hàng thuận lợi, cách thu mua phù hợp sẽ giúp cho
DNTM đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Thị trường nguồn hàng càng gần
DNTM hoặc điều kiện giao thơng vận tải thuận lợi thì sẽ giúp cho DNTM
mua được hàng nhanh chóng, kịp thời, giảm chi phí cho vận chuyển, làm cho
giá thành của sản phẩm giảm đáng kể. Còn cách thu mua hợp lý tránh cho
DNTM những khoản chi phí khơng cần thiết mà vẫn mua được hàng hóa đạt
yêu cầu.
DNTM có thể áp dụng các hình thức thu mua sau:
Mua theo đơn đặt hàng và hợp đồng kinh tế ký trước. Hình thức mua này
giúp cho DNTM ổn định được nguồn hàng, có nguồn hàng chắc chắn để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng.
Mua hàng khơng theo hợp đồng: đây là hình thức mua đứt bán đoạn và
mua hàng trôi nổi (vãng lai) trên thị trường. Với hình thức này thì người mua
hàng cần có một nghiệp vụ mua hàng thơng thạo, có kỹ năng mua hàng để
bảo đảm hàng mua về có thể bán được.
Mua qua đại lý: áp dụng khi nguồn hàng khơng tập trung, khơng thường xun.
Mua hàng bằng hình thức liên doanh liên kết: DNTM có thể lợi dụng ưu
thế của mình về vốn, nguyên vật liệu hoặc thị trường tiêu thụ cùng các doanh
nghiệp khác liên doanh liên kết để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao
sản lượng sản phẩm sản xuất ra và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
Nhận bán hàng ủy thác hoặc ký gửi: DNTM sẽ nhận được chi phí ủy thác
hoặc chi phí ký gửi. Với hình thức này DNTM có thể lợi dụng được vốn kinh
doanh và làm phong phú thêm nguồn hàng của doanh nghiệp.
15



Gia công hoặc bán nguyên liệu thu mua thành phẩm: DNTM đưa ngun
vật liệu đến xí nghiệp gia cơng, trả phí gia cơng hoặc bán ngun vật liệu cho
doanh nghiệp sản xuất và mua thành phẩm theo hợp đồng và tiêu thụ sản
phẩm trên thị trường.
Hình thức cuối cùng là tự sản xuất, khai thác hàng hóa: với hình thức
này địi hỏi vốn của DNTM phải có vốn lớn, có đủ năng lực sản xuất, áp dụng
tốt khoa học công nghệ, kỹ thuật để đạt được hàng hóa có chất lượng tốt, giá
thành rẻ.
DNTM cần phải lựa chọn các hình thức thu mua trên hoặc xen kẽ các
hình thức thu mua để giảm được chi phí, có được hàng tốt, giá phù hợp với
nhu cầu của khách hàng. DNTM cần coi trọng vai trị của thị trường nguồn
hàng thì mới có thể đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Nhưng để bán được
hàng thì DNTM phải có thị trường bán.
1.3.2.2. Thị trường bán hàng.

Thị trường nguồn hàng có vai trị quan trọng trong việc tạo nguồn hàng
cho DNTM để DNTM làm thỏa mãn kịp thời nhu cầu của khách hàng nhưng
điều quan trọng nhất đối với DNTM là bán được hàng hóa mình đã mua để
thu vốn và lợi nhuận để tiếp tục q trình kinh doanh, có như vậy DNTM mới
tiếp tục phát triển, tức là DNTM phải có thị trường bán.
Thị trường bán của DNTM gồm: thị trường bán trong nước và thị trường
bán nước ngoài (xuất khẩu).
Vai trò của thị trường bán đối với DNTM được thể hiện ở các mặt sau:
+ Thị trường bán là nơi tiêu thụ hàng hóa cho DNTM mà ở đó DNTM
bán hàng, thu hồi vốn và lợi nhuận có thị trường bán hàng tức là có khách
hàng và có nhu cầu về hàng hóa mà DNTM bán. Vấn đề đối với DNTM
khơng chỉ là bán được hàng mà cịn phải làm cho khách hàng thỏa mãn, hài
lịng. Có như vậy DNTM mới tạo được niềm tin với khách hàng, tạo được bạn
hàng lâu dài, đảm bảo lợi ích lâu dài đối với DNTM.

+ Thị trường bán quyết định hàng hóa kinh doanh, phương thức phục vụ
16


của DNTM. DNTM kinh doanh những hàng hóa mà khách hàng đang có nhu
cầu lớn, chưa được thỏa mãn. Nếu DNTM kinh doanh hàng hóa khơng có nhu
cầu thì sẽ không bán được hàng. Khi đời sống của nhân dân được cải thiện thì
nhu cầu của họ càng tăng lên và những địi hỏi về chất lượng hàng hóa,
phương thức phục vụ của DNTM ngày càng tăng cao. DNTM phải có phương
thức phục vụ tốt nhất, xem khách hàng là "thượng đế" để khách hàng được
thỏa mãn tốt nhất. Khách hàng có xu hướng mua hàng hóa của những DNTM
có phương thức phục vụ nhiệt tình, có uy tín, đảm bảo chất lượng hàng hóa.
+ Thị trường bán hàng trở thành vấn đề sống cịn đối với DNTM. Nếu
DNTM có thị trường bán ổn định, tiêu thụ được hàng hóa và thu được lợi
nhuận cao thì DNTM có điều kiện tiếp tục phát triển, tiếp tục mở rộng kinh
doanh. Còn nếu DNTM khơng bán được hàng, bị thua lỗ thì DNTM có thể
phải ngừng hoạt động hoặc phải chuyển sang kinh doanh mặt hàng khác.
DNTM có thể áp dụng các phương thức bán hàng sau:
Căn cứ vào địa điểm giao hàng cho khách hàng có hình thức bán tại kho
của người cung ứng, tại kho của DNTM, bán qua cửa hàng quầy hàng và bán
tại đơn vị tiêu dùng.
Hình thức bán tận đơn vị tiêu dùng, bán tại nhà theo yêu cầu của khách
hàng là hình thức bán tạo thuận lợi cho người mua và là phương thức chủ yếu
nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và cạnh tranh lẫn nhau, đang được
các DNTM áp dụng hiệu quả.
Theo khâu lưu chuyển hàng hóa có bán bn và bán lẻ. Bán buôn là khối
lượng lớn, theo hợp đồng và thanh tốn khơng dùng tiền mặt, giá bán rẻ hơn
và doanh số thường cao hơn so với bán lẻ.
Bán lẻ là bán theo yêu cầu nhỏ lẻ của người tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu
kịp thời của khách hàng thanh toán ngay. Vì hàng hóa phải qua khâu bán

bn, lưu kho, chi phí cho bán hàng nên giá bán lẻ thường cao hơn, việc tăng
doanh số của DNTM chậm hơn nhưng lại được nhiều thông tin trực tiếp từ
người tiêu dùng.
17


Theo phương thức bán theo hợp đồng và đơn hàng, thuận mua vừa bán,
bán đấu giá và xuất khẩu hàng hóa.
Bán theo hợp đồng đối với hàng hóa có khối lượng lớn. Bán đấu giá
với hàng khó tiêu chuẩn hóa, hàng chuyên dùng. Khối lượng lớn để tìm
người mua với giá cao nhất. Xuất khẩu cần tuân thủ theo quy định xuất
nhập khẩu của Chính phủ và chỉ có các đơn vị được phép kinh doanh xuất
nhập khẩu thực hiện.
Theo mối quan hệ thanh tốn, có mua đứt bán đoạn và sử dụng các hình
thức tín dụng trong thanh tốn như bán trả chậm, bán trả góp.
Hình thức bán trả chậm, bán trả góp đối với những hàng hóa có giá trị
lớn mà người mua hàng không đủ khả năng trả hết tại thời điểm mua.
Hình thức bán hàng trực tiếp, bán hàng từ xa qua điện thoại, bán qua
người môi giới, qua nhân viên tiếp thị và bán qua mạng Internet.
DNTM cần kết hợp các hình thức bán để tiêu thụ hàng hóa tốt nhất.

18


CHƯƠNG 2
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA CỦA DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA

2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA NƯỚC TA.
2.1.1. Những đặc trưng cơ bản của thị trường hàng hóa nước ta.


Thị trường hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần. Cơ sở
khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do cịn nhiều hình thức sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng IX đã khẳng định tiếp tục
thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư và
phát triển sản xuất kinh doanh, tập trung sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách,
pháp luật, đổi mới công tác chỉ đạo thực hiện để bảo đảm các thành phần kinh
tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh...
đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư
bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
Thị trường hàng hóa có sự quản lý, điều tiết của nhà nước. Thơng qua
hệ thống các chính sách, chiến lược, quy hoạch, nhà nước quản lý, dự báo
và định hướng thị trường trong và ngoài nước, giải quyết các vấn đề về thị
trường hàng hóa.
Thị trường hàng hóa phát triển trên cơ sở tự do lưu thơng hàng hóa dịch
vụ theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. Đây là điều kiện nhất
thiết phải có vì nếu khơng được tự do lưu thơng hàng hóa dịch vụ thì hàng
hóa sẽ khơng được chuyển đến người tiêu dùng có nhu cầu, không được phân
phối theo đúng quy luật thị trường thì thị trường hàng hóa khơng phát triển
được.
Giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quy luật cung - cầu trên thị
trường. Giá cả thị trường được hình thành trên cơ sở giá trị thị trường, nó là
giá trị trung bình và là giá trị cá biệt của những hàng hóa chiếm phần lớn trên
19


thị trường. Mua bán theo giá cả thị trường tạo ra động lực để thúc đẩy sản
xuất kinh doanh phát triển, tạo cơ hội để doanh nghiệp vươn lên.
Tất cả các mối quan hệ được tiền tệ hóa, tuân theo các quy luật của lưu

thơng hàng hóa của kinh tế thị trường.
2.1.2. Hệ thống các doanh nghiệp thương mại nước ta hiện nay.
2.1.2.1. Doanh nghiệp thương mại nhà nước.

Doanh nghiệp thương mại nhà nước được nhà nước đầu tư hoặc cấp vốn
100% để kinh doanh, phục vụ những mục tiêu chiến lược của nhà nước. Khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp thương mại nhà nước đã
có sự thay đổi về số lượng và hiệu quả kinh doanh. Về số lượng các doanh
nghiệp thương mại nhà nước đã giảm đáng kể. Tính đến thời điểm 31/12/1999
nước ta có khoảng 1576 doanh nghiệp thương mại nhà nước. Các doanh
nghiệp thương mại nhà nước chưa đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh,
còn thua lỗ. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại nhà nước còn
thấp. Tuy nhiên doanh nghiệp thương mại nhà nước có vai trị quan trọng
trong việc định hướng, điều tiết thị trường hàng hóa ở nước ta.
2.1.2.2. Doanh nghiệp thương mại tập thể.

Loại doanh nghiệp này vốn do tập thể người lao động góp, tạo nên theo
nguyên tắc tự nguyện hoặc một phần vốn tập thể, một phần vốn do Nhà nước
bảo đảm. Hình thức tổ chức kinh doanh là các hợp tác xã hoặc tổ hợp tác, các
cửa hàng hợp tác xã mua bán cịn tồn tại ở các vùng nơng thơn, thị xã, thành
phố. Nó có đóng góp tích cực vào việc bảo đảm đời sống của dân cư và giao
lưu hàng hóa cơng nghiệp với nơng nghiệp, thành thị với nơng thôn. Trong
những năm đổi mới, tổng giá trị sản lượng của khu vực hợp tác xã đã tăng liên
tục. Năm 1998, tổng sản phẩm trong nước do khu vực kinh tế hợp tác xã tạo
ra đạt 32.979 tỷ đồng, tăng 17% so với năm 1997. Năm 1999 đạt khoảng
35.100 tỷ đồng, tăng 6,6% so với năm 1998 và chiếm 9% GDP của cả nước.
Doanh số bán của các hợp tác xã thương mại năm 1998 tăng 6%.
2.1.2.3. Các doanh nghiệp thương mại tư nhân.

Đây là các doanh nghiệp do tư nhân trong nước bỏ vốn thành lập và tổ

20


chức kinh doanh. Các doanh nghiệp này phải tự bỏ vốn, bảo tồn vốn, tự tìm
kiếm thị trường. Các doanh nghiệp tư nhân lớn ở nước ta chưa nhiều nhưng
tiềm năng và sức mạnh của nó khơng phải là nhỏ.
2.1.2.4. Các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.

Đây là các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thành
lập tại Việt Nam. Doanh nghiệp thương mại 100% vốn đầu tư nước ngồi được
thành lập theo hình thức cơng ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo
pháp luật Việt Nam. Các doanh nghiệp thương mại 100% vốn đầu tư nước ngoài
thường là các chi nhánh của các doanh nghiệp nước ngoài thành lập tại Việt
Nam để tiêu thụ các sản phẩm của các hãng nước ngồi tại Việt Nam.
2.1.2.5. Các cơng ty cổ phần, cơng ty trách nhiệm hữu hạn.

Đây là hình thức biểu hiện sự kết hợp và giao lưu các thành phần kinh tế.
các doanh nghiệp này có đặc điểm là chế độ sở hữu vốn, tài sản không thuần
nhất. Đơn giản nhất là các doanh nghiệp liên doanh giữa các thành phần kinh
tế hoặc giữa các bên của Việt Nam và các bên nước ngồi. Ở nước ta, cơng ty
trách nhiệm hữu hạn có hai loại: Cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
và công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên.
Xu hướng các doanh nghiệp thương mại là Công ty cổ phần và công ty
trách nhiệm hữu hạn sẽ ngày càng phát triển.
2.1.2.6. Hệ thống tiểu thương.

Đây là hệ thống cửa hàng, quầy hàng, điểm bán hàng của cá nhân. Lực
lượng này rất đông đảo và rất khó quản lý. Thành phần tham gia rất đa dạng:
cán bộ nhân viên Nhà nước về hưu, mất sức và các tầng lớp dân cư. Kinh
doanh hàng hóa dịch vụ rất đa dạng và nhiều người trong số họ khơng có

đăng ký kinh doanh.
Ưu thế của tiểu thương thể hiện trong việc đáp ứng tốt các yêu cầu nhỏ
lẻ, không thường xuyên, nhanh nhạy đáp ứng yêu cầu của thị trường. Là lực
lượng đáng kể, hệ thống tiểu thương cần mẫn đáp ứng nhu cầu của dân cư và
điều tiết hàng hóa giữa các vùng. Một số tiểu thương kinh doanh có hiệu quả, có
thể tích lũy mở rộng kinh doanh và chuyển thành các doanh nghiệp tư nhân.
2.2. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ

21


TRƯỜNG HÀNG HÓA CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NƯỚC TA.
2.2.1. Thị trường trong nước phát triển mạnh.
2.2.1.1. Quy mô ngày càng tăng.

Trong những năm qua quy mô thị trường trong nước đã tăng liên tục,
trước hết phải kể đến sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các đơn vị tham
gia hoạt động thị trường, bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế và đông đảo hộ kinh doanh cá thể. Mạng lưới chợ, các điểm bán hàng
hóa và kinh doanh dịch vụ phát triển rộng khắp trên phạm vi cả nước. Đặc
biệt, các loại hình thị trường "văn minh" như trung tâm thương mại, siêu thị
và các loại khách sạn, nhà hàng đạt tiêu chuẩn cao cũng được hình thành và
phát triển trong những năm vừa qua. Tình hình này được thể hiện qua các số
liệu dưới đây:
Về số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại dịch vụ: Năm
1991 có 1.774 doanh nghiệp nhà nước, năm 1995 có 10.806 doanh nghiệp và
năm 1999 có 16.226 doanh nghiệp. Trong số hơn 12.000 doanh nghiệp mới
được thành lập của năm 2.000 có tới 3.000 doanh nghiệp thương mại, dịch vụ,
nâng tổng số doanh nghiệp thương mại, dịch vụ, nâng tổng số doanh nghiệp
thương mại dịch vụ đến cuối năm 2000 lên đạt 19.226 doanh nghiệp, gấp

10,8 lần năm 1991. Như vậy, trong 10 năm 1991 - 2000 số lượng doanh
nghiệp thương mại, dịch vụ đã tăng 17.457 doanh nghiệp. Tỷ lệ doanh
nghiệp thương mại, dịch vụ trong tổng số doanh nghiệp của cả nước cũng
tăng lên nhanh chóng, từ chỗ chỉ chiếm 12% năm 1990 đã tăng lên chiếm
46% vào năm 1999.
Số điểm bán hàng hóa và kinh doanh các dịch vụ phục vụ đời sống cũng
tăng lên đáng kể. Năm 1991 cả nước có 26.909 điểm, nhưng đến năm 1999 đã
có 38.000 điểm bán hàng và kinh doanh dịch vụ. Nếu kể cả hộ kinh doanh thì
con số này cịn lớn hơn nhiều.
Số hộ cá thể tham gia hoạt động thương mại, dịch vụ gia tăng nhanh
chóng. Năm 1991 cả nước có 631 ngàn hộ kinh doanh, năm 2000 đã tăng lên
đạt 1,1 triệu hộ, gấp 2 lần năm 1991. Nếu so với tổng số hộ sản xuất kinh
22


doanh (trừ hộ sản xuất nơng nghiệp) thì hộ cá thể kinh doanh thương mại,
dịch vụ chiếm trên 60%.
Mạng lưới chợ (hình thức truyền thống của thị trường) đã được củng cố
và phát triển rộng khắp trên phạm vi cả nước. Năm 1994 cả nước có 4.763 xã
có chợ thì đến năm 1999 tồn quốc có 8.231 chợ, bình qn 0,8 chợ/xã.
Hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, hội chợ và triển lãm hàng hóa
cũng được hình thành và phát triển. Tại các tỉnh và thành phố lớn như Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phịng, Đà Nẵng... loại hình phục vụ mới, văn
minh, lịch sự và hiện đại đang trở nên phổ biến.
Về tình hình phát triển thương mại ở các vùng trong nước thì vùng Đơng
Nam Bộ có số doanh nghiệp thương mại, dịch vụ nhiều nhất với 5571 doanh
nghiệp vào cuối 1999, thứ nhì là đồng bằng sông Hồng với 3075 doanh
nghiệp. Theo số liệu thống kê thì số doanh nghiệp thương mại, dịch vụ tại
thời điểm 31/12/1999 phân theo địa phương như sau:
Các loại doanh nghiệp

Tổng số
Vùng
DNTMDV
1. Đồng bằng sông Hồng
3075

DNN
N
540

TNHH DNTN

CTCP

DNTT

DTNN

1594

806

27

102

42
3

2. Đồng bằng Bắc Bộ


643

171

115

316

3

35

3. Tây Bắc Bắc Bộ

90

51

6

28

1

4

4. Bắc Trung Bộ

642


165

86

364

6

20

1

1545

128

202

1178

5

29

5

6. Tây Nguyên

808


80

39

682

3

2

2

7. Đông Nam Bộ

5571

307

1688

3400

36

81

59

8. Đồng bằng Sông Cửu

Long

3852

172

286

3559

4

26

5

Cả nước

16226

1576

3816

10333

85

299


117

5. Duyên hải Nam Trung
Bộ

Chú thích:

+ DNTMDV: Doanh nghiệp thương mại, dịch vụ
+DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
+ TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
+ DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
+ CTCP: Công ty cổ phần
+ DNTT: Doanh nghiệp tập thể
23


+ DTNN: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
Số người tham gia hoạt động thương mại, dịch vụ tăng lên đáng kể theo
các vùng trong cả nước. Tính đến năm 1999 cả nước có 1501,6 nghìn người
tham gia thì đến năm 2000 đã tăng lên 1584,8 nghìn người tham gia, tăng
83,2 nghìn người. Đồng bằng sơng Hồng có 262,1 nghìn người tham gia năm
2000 chiếm 16,54% số người tham gia hoạt động thương mại, dịch vụ trong
cả nước. Đông Nam Bộ có số người tham gia là lớn nhất với 431,7 nghìn
người (năm 2000) chiếm 27,24% cả nước.
Theo số liệu thống kê thì số người kinh doanh thương mại, dịch vụ phân
theo địa phương như sau:
Đơn vị: Nghìn người
Năm
Khu vực
1. Đồng bằng sông Hồng


1995

1997

1998

1999

2000

212,1

245,6

243,7

253,1

262,1

2. Đồng bằng Bắc Bộ

124,2

93,8

92,3

97,9


109,3

3. Tây Bắc Bắc Bộ

17,5

16,2

16,6

17,2

17,8

4. Bắc Trung Bộ

139,2

119,6

123,0

130,2

135,6

5. Tây Nguyên

53,6


50,3

56,1

59,0

64,4

6. Đông Nam Bộ

425,9

312,0

384

401,7

431,7

7. Đồng bằng Sơng Cửu
Long

441,2

400,4

409,4


409,9

427,2

8. Dun hải Nam Trung
Bộ

149,3

151,1

130,3

132,5

136,7

Cả nước

1563,0

1389,0

1455,4

1501,6

1584,8

Nhìn chung số lượng các đơn vị tham gia hoạt động thị trường của cả

nước và từng khu vực trong nước trong thời gian qua đều tăng theo các năm
tạo thêm động lực thúc đẩy thương mại nước ta phát triển.
Quy mơ ngày càng tăng khơng thể tính đến sự gia tăng nhanh chóng tổng
mức lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ ngày càng tăng, năm 2000 đã đạt 219.400 tỷ đồng, gấp 11,52 lần năm
1990 và 565,8 lần năm 1986, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 216.300
tỷ đồng (gồm khu vực nhà nước 40.000 tỷ đồng, ngoài quốc doanh 176.300 tỷ
24


×