Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

tiểu luận thực trạng sử dụng thiết bị điện tử và nhận thức của sinh viên về ảnh hưởng của chúng đối với sức khỏe

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.17 KB, 52 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NHẬT BẢN HỌC
LỚP NHẬT 1-09
µ
Bài thực hành: Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
Đề tài:
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ
VÀ NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN VỀ ẢNH
HƯỞNG CỦA CHÚNG ĐỐI VỚI SỨC KHỎE
(Trường ĐH KHXH&NV-cơ sở Linh Trung- Thủ Đức)
Giảng viên hướng dẫn: Châu Văn Ninh
Thành phố Hồ Chí Minh,tháng 1 năm 2011
1
MỤC LỤC
Phần 1: Dẫn nhập….……… …………………………………………… 3
1.1. Lí do chọn đề tài………………………………………………… … 4
1.2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu……… …………………………… 6
1.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………… 6
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………….7
1.5. Tổng quan tình hình nghiên cứu ………………………………………8
Phần 2: Nội dung… ………………… ……………….……………… 11
Chương I : Cơ sở lí luận….…………………….……….… ……………11
2.I.1. Quá trình hình thành và phát triển của thiết bị điện tử …………… 11
2.I.2. Tác hại của thiết bị điện tử đối với sức khỏe sinh viên…………… 19
2.I.3. Giả thuyết nghiên cứu……………………………………………….26
Chương II : Thực trạng sử dụng thiết bị điện tử của sinh viên……… 27
2.II.1. Thực trạng sử dụng laptop………………………………………… 29
2.II.2. Thực trạng sử dụng điện thoại di động…………………………… 32
2.II.3. Thực trạng sử dụng tai nghe……………………………………….34
Chương III: Kết luận và giải pháp.………………………… …………41


2.III.1 Kết luận.……………………………………………………………41
2.III.2 Giải pháp….……………………………………………………… 41
Tài liệu tham khảo……………………………………………………… 45
Phụ lục……………………………………………………………….…….46
2
PHẦN 1: DẪN NHẬP
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, các thiết bị điện tử
ngày càng trở nên phổ biến và đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống con
người. Những thành tựu của khoa học công nghệ đã và đang thay đổi thế giới từng
giờ từng phút, đáp ứng và cung cấp cho con người những loại máy móc, thiết bị
tiện dụng và hiện đại nhất. Kỷ nguyên của thông tin đã gắn con người với máy tính
xách tay, với điện thoại di động, với máy nghe nhạc, với tai nghe ngày càng nhiều
hơn. Những loại thiết bị điện tử này được sản xuất và tiêu thụ với tốc độ chóng
mặt. Chúng phổ biến đến mức có thể được trông thấy ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào.
Hình ảnh những người hàng ngày hàng giờ sử dụng điện thoại di động, làm việc,
học tập liên tục với máy tính xách tay, hay đeo tai nghe mọi lúc mọi nơi có lẽ đã
trở nên quá quen thuộc trong cuộc sống.
Năm 2006, ước tính khoảng 730 triệu điện thoại di động được tiêu thụ và đã có
khoảng gần hai tỷ người trên toàn thế giới dùng điện thoại di động. Theo
International Data Corporation (IDC), doanh số bán ra của máy tính xách tay trên
toàn cầu đã đạt mức kỷ lục, đạt 47,5 triệu chiếc tính đến năm 2005. Và đúng như
IDC dự đoán, số lượng máy tính xách tay đã đạt ngưỡng 50% trên tổng số máy tính
cá nhân bán ra vào năm 2008. Khoảng nửa triệu máy tính xách tay đã được tiêu thụ
qua các kênh trong năm 2009, tương đương 42.000 máy mỗi tháng. Tại Việt Nam,
theo thống kê của Công ty nghiên cứu thị trường GFK, năm 2005, lượng máy tính
xách tay tiêu thụ ước đạt 28.500 chiếc. Và kèm theo việc sử dụng máy tính, máy
nghe nhạc và điện thoại di động, các loại tai nghe cũng được tiêu thụ tới mức kỉ
lục.
3

Kết hợp giữa nhu cầu chia sẻ thông tin với khả năng lưu động và kết nối của
thiết bị điện tử, một lần nữa người ta phải thừa nhận điều mà các chuyên gia vẫn
khẳng định lâu nay rằng công nghệ đang thay đổi về căn bản cách mà con người
chúng ta sống, làm việc và suy nghĩ. Thiết bị điện tử mà tiêu biểu là máy tính xách
tay, điện thoại di động, đã, đang và sẽ chi phối thế giới, tác động trực tiếp đến
cuộc sống con người. Nhìn nhận một cách khách quan thì quả thật sự ra đời và phát
triển của các thiết bị này đã góp phần làm cuộc sống của chúng ta trở nên thuận
tiện, dễ chịu và hiệu quả hơn rất nhiều.
Đi cùng với những thành công không thể chối cãi của công nghệ thông tin và
thiết bị điện tử nói chung, cũng như của điện thoại di động, máy tính xách tay, tai
nghe, nói riêng, chúng ta cũng cần nhìn nhận những tác hại mà chúng mang lại
cho con người. Vài năm gần đây, người tiêu dùng khá hoang mang trước những tin
tức khác nhau về việc có hay không những rủi ro do các loại thiết bị này gây ra.
Các nhà khoa học, các tổ chức, chuyên gia trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau đã
tiến hành nhiều công trình nghiên cứu, đưa ra những ý kiến trái chiều về ảnh
hưởng của các thiết bị này đối với sức khỏe con người.
Các nhà nghiên cứu của Đại học Quốc gia Thuỵ Điển, dưới sự tài trợ của Tổ
chức Y tế thế giới (WHO) đã tìm ra mối liên hệ giữa thời gian sử dụng điện thoại
di động với sự phát triển khối u não ác tính khi tiến hành nghiên cứu trên 905 bệnh
nhân ung thư trong độ tuổi từ 20 đến 80. “85 trong số 905 bệnh nhân được nghiên
cứu (gần 10%) là những người đã dùng điện thoại di động hoặc điện thoại không
dây ở độ tuổi sớm và sử dụng liên tục trong thời gian dài”, báo cáo nghiên cứu cho
biết. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn chỉ ra rằng không khó để nhận ra mức độ
nguy hiểm càng tăng lên đối với những khối u ở phần đầu, nơi trực tiếp tiếp xúc
với điện thoại.
Nghiên cứu trên 100 sinh viên đã phát hiện, những ai nghe nhạc với 80% dung
lượng âm thanh, tại điểm mà âm thanh được cho là to, thì không nên vượt quá 90
4
phút mỗi ngày. Thính giác của bạn sẽ bị hỏng nếu thường xuyên nghe nhạc mạnh
hơn 90 phút mỗi ngày bằng tai nghe từ máy chơi nhạc kỹ thuật số.

Theo nghiên cứu của một bác sỹ chuyên khoa ở bang Georgia, Mỹ, nếu đặt máy
tính xách tay trực tiếp lên đùi, nhiệt độ cơ quan sinh sản của nam giới tăng lên
trong vòng 20 phút có thể khiến hoạt động của tinh trùng giảm tới hơn 40%. Một
số tế bào sản sinh ra tinh trùng mới cũng có thể bị giết chết, vì thế khả năng thụ
thai sẽ yếu đi.
Trên đây mới chỉ là ba trong số hàng ngàn nghiên cứu về vấn đề này. Mặc dù
vẫn còn tồn tại rất nhiều nghi vấn xung quanh những kết luận của các nhà khoa
học, nhưng việc chúng ta tăng cường hiểu biết để có một cái nhìn toàn diện, rút ra
những phương pháp đề phòng và sử dụng hiệu quả các thiết bị điện tử mà không
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe vẫn là cực kì cần thiết.
Giới trẻ, đặc biệt là sinh viên thường có nhu cầu sử dụng rất nhiều và thường
xuyên nhất các thiết bị điện tử như điện thoai di động, máy tính xách tay, tai
nghe, để phục vụ cho học tập và giải trí. Tuy nhiên thực tế cho thấy không phải
bạn sinh viên nào cũng hiểu biết đầy đủ và sử dụng các thiết bị này một cách hiệu
quả. Việc lạm dụng quá mức điện thoại di động, máy tính xách tay, tai nghe và
thiếu hiểu biết về những tác động của chúng có thể đe dọa, ảnh hưởng lâu dài đến
sức khỏe của các bạn sinh viên. Nếu chúng ta có một cái nhìn tổng quát, đúng đắn
hơn về thực trạng sử dụng, mức độ hiểu biết của các bạn sinh viên về vấn đề này
thì có thể góp phần đưa ra những giải pháp phù hợp và kịp thời để cảnh báo, giảm
thiểu tối đa ảnh hưởng xấu, giúp các bạn tự bảo vệ sức khỏe cho bản thân. Một khi
thiết bị điện tử đang ngày càng chiếm ưu thế trong cuộc sống, sinh hoạt giải trí và
học tập của các bạn sinh viên thì việc nghiên cứu về vấn đề trên là vô cùng cần
thiết. Chính vì vậy chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu này.
5
1.2. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi :
- Phạm vi không gian nghiên cứu: Bộ môn Nhật Bản Học - Trường đại học
Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn – Đại học Quốc gia Tp.HCM.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: 2 tháng rưỡi (từ 01/11/2010 đến
15/01/2011)

- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Thực trạng sử dụng và sự hiểu biết của
sinh viên về ảnh hưởng của các thiết bị điện tử đối với sức khỏe của con người.
2. Đối tượng nghiên cứu
Thông tin về việc sử dụng thiết bị điện tử đối với sức khỏe sinh viên và sự
hiểu biết của sinh viên về vấn đề này
1.3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng các thiết bị điện tử và sự hiểu biết của sinh
viên về ảnh hưởng các thiết bị này đối với sức khỏe.
- Góp phần giúp sinh viên có cái nhìn cơ bản về ảnh hưởng của thiết bị điện
tử đối với sức khỏe.
- Từ đó giúp các bạn sinh viên có thể rút ra được những phương pháp riêng
để sử dụng các thiết bị điện tử vừa có hiệu quả vừa đảm bảo được sức khỏe.
2. Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu tài liệu có sẵn (sách báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu đã
có trước đó, phương tiện truyền thông…).
- Khảo sát thực trạng sử dụng thiết bị điện tử và kiến thức của sinh viên về
vấn đề này thông qua bảng câu hỏi.
6
- Tổng hợp , đánh giá, phân tích.
- Kết luận.
- Đưa ra một số giải pháp mang tính khả thi.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Nội dung cần thu thập : Kết quả các công trình nghiên cứu và các kiến thức
cơ bản về ảnh hưởng của thiết bị điện tử đối với sức khỏe con người.
- Nguồn: tài liệu có sẵn thông qua thư viện và Internet
- Phân tích tài liệu.
- Tổng hợp tài liệu
- Tóm tắt khoa học

2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Tổng thể: Sinh viên Trường Đại học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn – Đại
học Quốc gia Tp.HCM.
- Mẫu: 100 sinh viên bộ môn Nhật Bản học (mỗi khóa 25 sinh viên)
- Lập bảng hỏi
Một số loại câu hỏi sẽ sử dụng :
? Câu hỏi kèm phương án trả lời: “Có” và “Không”
? Câu hỏi kèm nhiều phương án trả lời, mở rộng khả năng lựa chọn
? Câu hỏi kèm phương án trả lời có trọng số để phân biệt mức độ quan
trọng
? Câu hỏi mở
- Xử lí kết quả
3. Phương pháp tổng hợp
Tổng hợp kết quả và đưa ra kết luận.
7
1.5. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
 Các công trình nghiên cứu trước đây:
Hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề ảnh hưởng của thiết bị điện tử
đối với sức khỏe con người. Đa số những công trình này là của các trung tâm
nghiên cứu nước ngoài, còn ở Việt Nam thì vẫn chưa nhiều.
1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài:
a. Sóng điện thoại có thể gây khó ngủ
- Tác giả: nhóm các nhà khoa học tại Học viện Karolinska của Thụy Điển và
Đại học Wayne State của Mĩ công bố tại Hội thảo nghiên cứu Điện từ, tổ chức ở
Học viện Công nghệ Massachusset.
- Nội dung: Công trình cho biết sóng điện từ do điện thoại di động phát ra có
thể gây mất ngủ, đau đầu và cảm giác mơ hồ. Những ảnh hưởng gây khó ngủ này
cộng với sự rút ngắn khoảng thời gian ngủ sâu sẽ khiến cơ thể con người không thể
phục hồi được đủ sức khỏe cho một ngày mới .
b. Mối liên hệ giữa việc sử dụng điện thoại di động và sự hình thành, phát triển

các khối u trong não
- Tác giả: Nhóm nghiên cứu của 18 nhà khoa học tại Thụy Điển
- Thời gian: Tháng 10/2007
- Nội dung: Những người sử dụng điện thoại di động trên 10 năm thì nguy cơ
phát triển từ u thần kinh đệm thành u não ác tính là gấp hai lần so với bình thường.
Thêm nữa, nguy cơ phát triển thành u não ác tính này là gấp hai lần rưỡi đối với
những người bị tổn hại dây thần kinh thính giác và sử dụng điện thoại di động lâu
năm.
c. Ảnh hưởng của laptop đến khả năng sinh sản của nam giới
8
- Tác giả: Nhóm nghiên cứu người Mỹ với sự chủ trì của Bác sỹ Yefim
Sheynkin, chuyên về Tiết niệu tại Đại học New York (Mỹ)
- Thời gian: năm 2010
- Nội dung : Công trình nghiên cứu trên hàng triệu đàn ông đang sử dụng
laptop hàng ngày, đặc biệt là những người đang trong độ tuổi sinh sản. Bác sỹ chia
sẻ: “Tôi không nói là nếu ai đó bắt đầu sử dụng laptop thì họ sẽ trở nên vô sinh
nhưng việc sử dụng laptop thường xuyên có thể đóng góp vào những rắc rối về
sinh sản bởi tinh hoàn không có thời gian để hạ nhiệt độ”.
2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
a. Ảnh hưởng của sóng siêu cao tần và tác dụng của chế phẩm Azolla
Microphyla đến số lượng và chất lượng tinh trùng
- Tác giả: 5 sinh viên trẻ lớp Dân y 1A (Học viện Quân y)
- Thời gian: năm 2004
- Nội dung: nhóm đã làm xét nghiệm tinh dịch đồ cho 142 công nhân tuổi từ
25 trở lên có thời gian làm việc tại các trạm radar từ 1-3 năm. Kết quả cho thấy
75/142 người tiếp xúc với sóng siêu cao tần có số lượng và chất lượng tinh trùng
giảm.
b. Ảnh hưởng của tư thế sử dụng laptop đối với xương.
- Tác giả: Bác sĩ Ngô Văn Toàn - Chủ nhiệm khoa Phẫu thuật chấn thương
chỉnh hình Bệnh viện Việt Đức

- Nội dung: tất cả những gì sai tư thế sinh lý bình thường đều gây biến dạng
cơ xương và gây đau mỏi, có thể dẫn đến tổn thương.
c. Ảnh hưởng của tai nghe đối với tai
- Tác giả: bác sĩ Nguyễn Thị Bích Thủy, Trưởng Khoa Thính học Bệnh viện
Tai Mũi Họng,
- Nội dung: Công trình nghiên cứu cho thấy do chỉ gây ảnh hưởng ở tần số
9
cao nên những đối tượng được khảo sát chưa nhận thấy thính lực của mình đang bị
giảm. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hiện nay có khoảng 4,2%
dân số thế giới có sức nghe kém. Riêng tại nước ta, tỉ lệ này cao hơn, người khiếm
thính chiếm 5% - 7%, từ mức độ nhẹ đến nặng. Công nhân được xem là mắc bệnh
điếc nghề nghiệp nếu trực tiếp làm việc trong môi trường có cường độ tiếng ồn từ
85 dB trở lên liên tục trong vòng 8 tiếng mỗi ngày và kéo dài trong 6 tháng
 Kết luận:
Dựa trên kết quả của những công trình nghiên cứu trên chúng ta có thể thấy
rằng ảnh hưởng của các thiết bị điện tử đến sức khỏe con người cũng là mối quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu , viện nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy nhiên
vẫn chưa có sự thống nhất về kết quả.
Chúng tôi nghiên cứu tập trung theo hướng tổng hợp tài liệu, các công trình
nghiên cứu trước đây, thực trạng sử dụng của sinh viên và tìm kiếm giải pháp cho
vấn đề trên.
10
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.1. Quá trình hình thành và phát triển của thiết bị điện tử
Từ khi loài người phát hiện ra điện, Alessandro Volta chế tạo ra pin thì các thiết
bị điện tử đã liên tục xuất hiện sau đó. Nói đến quá trình hình thành và phát triển
của thiết bị điện tử thì không thể không nhắc đến Thomas Edison. Năm 1879
Thomas Edison đã chế tạo ra chiếc bóng đèn hoàn chỉnh đầu tiên, đã mở ra một
trang mới trong lịch sử loài người. Cũng nhờ nghiên cứu đèn điện, Edison đã sáng

chế ra cầu chì, công tắc điện, đynamô, các lối mắc dây. . .Đây là những thiết bị vô
cùng quan trọng trong việc phát triển các thiết bị điện tử sau này…Người ta thống
kê được, Edison có tổng cộng đến 1.907 phát minh được cấp bằng sáng chế - một
con số khổng lồ. Trong đó có máy quay đĩa, máy chiếu phim, máy ghi âm, bóng
đèn là những thiết bị điển hình quan trọng , vẫn còn sử dụng đến ngày nay. Như
vậy có thể nói Edison là người có công rất lớn trong việc đặt nền móng cho việc
phát triển các thiết bị điện tử.
Vì đề tài mà chúng tôi nghiên cứu chủ yếu liên quan đến các thiết bị được các
bạn sinh viên thường xuyên sử dụng là máy tính xách tay, điện thoại di động, tai
nghe nên chúng tôi sẽ nêu sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của các thiết
bị này.
I.1.1 Máy tính xách tay (Laptop)
Máy tính xách tay đã có một chặng đường phát triển rất dài từ những mẫu nặng
tới hơn chục kg đến những thiết bị mà bạn có thể mang vác cả ngày không thấy
mệt mỏi. Hãy bắt đầu từ những năm 1980 để thấy được thiết bị thông dụng của bạn
đã thay đổi như thế nào qua 3 thập kỷ.
11
1981: Osborne 1
Sản phẩm thành công đầu tiên trong lĩnh vực thương mại của dòng máy tính
xách tay chính là Osborne 1. Chiếc máy tính nặng tới 10,6 kg này có vẻ ngoài
vuông vắn như một chiếc vali với bàn phím giản dị đến bất ngờ. Hệ thống hoạt
động trên nền hệ điều hành CP/M với màn hình đơn sắc chỉ rộng vẻn vẹn có 5
inch. Với cỡ màn hình như vậy, Osborne 1 thậm chí chẳng hiển thị nổi đủ dòng
văn bản trong WordStar vốn khá thông dụng thời bấy giờ.
1982: Compaq Portable
Vẻ bề ngoài của sản phẩm này trông có vẻ như là Osborne 1 với màn hình mở
rộng. Tuy nhiên, đây là máy tính hoạt động với hệ điều hành MS DOS của IBM.
Compaq cũng là thiết bị đóng vai trò quan trọng trong việc định ra các tiêu chuẩn
với sự nhất trí cao của các nhà sản xuất thay vì các xu hướng độc quyền và riêng
lẻ.

1982: Grid Compass 1100
Rất khó để xác định laptop nào là laptop dạng gập đầu tiên trên thế giới nhưng
Grid Compass 1100 có thể là ứng cử viên nặng kí. Với chi phí lên tới 10.000 USD
– một cái giá thực sự làm chùn tay khách hàng, sản phẩm này không dành cho số
đông. Tuy nhiên, nó đã được Nasa chọn để sử dụng cho các tàu con thoi.
1983: Epson HX-20
Đây được coi là chiếc máy tính xách tay chạy bằng pin được thương mại hóa
đầu tiên trên thế giới. HX-20 sở hữu một màn hình LCD nhỏ có độ phân giải 120 x
32 pixel. Sản phẩm có thể nhét vừa trong một chiếc cặp và có trọng lượng chỉ 1,6
kg. Tuy hiện nay có nhiều model khác nhẹ hơn, nhưng laptop này thực sự gây ấn
tượng ở thời điểm ra mắt.
1989: Poqet PC
12
18 năm trước khi chiếc netbook đầu tiên trên thế giới ra mắt, Poqet đã được
chào bán như một máy tính nhỏ, nhẹ và sở hữu sức mạnh tương đối khi hoạt động
trên nền MS-DOS (hệ điều hành phổ biến vào năm đó). Model có trọng lượng chỉ
0,7 kg và sử dụng pin AA. Theo như các khuyến cáo của nhà sản xuất, sản phẩm
này có thể hoạt động cả tuần lễ mà không cần thay pin.
1991: Apple PowerBook 100
Mặc dù đây không phải là máy tính Mac suất hiện sớm nhất, song sản phẩm này
là thương hiệu có tên PowerBook đầu tiên của Apple. Vào thời điểm lên sóng, thiết
bị là model duy nhất có một trackball nằm phía dưới phím cách – nơi mà hầu hết
các máy tính xách tay hiện đại đặt touchpad của chúng.
1992: IBM Thinkpad 700C
Khi hệ điều hành Windows trở nên phổ biến, nhu cầu bức thiết về một con trỏ
thay thế trên máy tính xách tay trở nên rõ ràng hơn. Và với Thinkpad 700C của
mình, IBM đã đặt một dấu ấn lên dạng thiết bị này bằng mô hình Trackpoint. Sản
phẩm laptop của hãng còn nổi bật ở việc sở hữu màn hình màu TFT rộng 10.4
inch.
1994: Apple PowerBook 500

Cả trackball cũng như trackpoint đều rất hữu dụng song lại không quá phổ
biến. Chính touchpad của Apple trên dòng sản phẩm PowerBook 500 mới định ra
tiêu chuẩn cho các laptop trong tương lai. Đây cũng là máy tính xách tay đầu tiên
sở hữu loa stereo.
1995: IBM Thinkpad 701
Vào giữa thập kỷ 90, laptop đã trở thành thiết bị xách tay đúng nghĩa với thiết
kế bàn phím nhỏ gọn hơn, dẫn đến việc rất dễ mắc lỗi chính tả khi gõ chữ. Bởi thế
mà IBM đã cho ra mắt dòng sản phẩm Thinkpad 710 với bàn phím kiểu bươm
bướm – có thể mở rộng ra khi mở nắp. Tuy nhiên, model này không tồn tại được
lâu.
13
1999: Apple iBook 3G
Đây là model đầu tiên tích hợp công nghệ Wi-Fi với các ăng-ten được gắn phía
sau màn hình. Sản phẩm đã được chào đón khá rộng rãi tuy rằng người ta vẫn còn
tranh cãi về thiết kế có phần hơi thái quá với các góc cạnh được vuốt tròn lại.
2005: Lenovo X41 Tablet
Các laptop có vẻ dễ dàng hơn trong chuyện đánh máy, còn máy tính bảng thì lại
thuận tiện hơn cho việc đọc – và người dùng có thể sở hữu cả hai nhờ X41 Tablet
của Lenovo. Lenovo X41 Tablet có màn hình xoay giúp chuyển đổi giữa hai loại
thiết bị trên – rất độc đáo. Song, điểm trừ dễ thấy khi dung lượng pin quá yếu.
2007 Asus Eee PC 4G
Asus đã đi tiên phong trong sản xuất dòng sản phẩm netbook với Eee PC 4G
hoạt động trên nền Linux. Trước khi model này ra mắt, những chiếc laptop nhỏ
hơn luôn có giá cao hơn. Tuy nhiên, Asus bán thiết bị nặng có 0.9kg này với cái
giá vỏn vẹn 400USD.
2007: OLPC XO
Đây là sản phẩm được thiết kế cho trẻ em tại các nước đang phát triển theo
chương trình OLPC (One Laptop Per Child – mỗi đứa trẻ một máy tính xách tay).
Nếu muốn sở hữu OLPC XO, bạn sẽ phải trả 400 USD cho cả 2 chiếc – một chiếc
bạn dùng và một chiếc làm từ thiện.

2010: Apple iPad
Thực sự đây không hoàn toàn là một chiếc máy tính xách tay, nhưng với thiết
kế mỏng và nhẹ, có vẻ như Apple đã thay đổi lại tiêu chuẩn thiết kế. Vấn đề chủ
yếu là làm thế nào để chúng ta tiếp cận một thiết bị giúp làm được các công việc
quen thuộc trên laptop và còn dễ đọc hơn một màn hình điện thoại di động. Và có
vẻ như iPad chính là câu trả lời.
14
I.1.2. Điện thoại di động
Tiến sĩ Martin Cooper, cựu tổng giám đốc đơn vị hệ thống của Motorola, được
coi là “cha đẻ” của thiết bị liên lạc di động cầm tay và cũng là người đầu tiên thực
hiện một cuộc gọi thông qua công cụ này.
Ý tưởng liên lạc di động được bộ phận nghiên cứu AT&T thuộc Trung tâm Bell
Labs (Mỹ) đưa ra năm 1947. Nhưng đến cuối những năm 60 và đầu thập kỷ 70 của
thế kỷ trước, Motorola và Bell Labs mới thực sự trở thành 2 đối thủ lao vào cuộc
đua trong việc tích hợp công nghệ này vào các thiệt bị cá nhân di động. Năm 1954,
ông được Motorola tuyển dụng và tham gia phát triển các sản phẩm di động. Năm
1973, ông thiết lập một trạm thu phát tại New York đồng thời tung ra mẫu đầu tiên
của cái gọi là điện thoại di động (cellphone): máy Motorola Dyna-Tac. Sau những
cuộc thử nghiệm ban đầu tại Washington, Cooper và Motorola quyết định đưa
công nghệ mới tới New York để quảng bá với công chúng. Chiếc điện thoại di
động đầu tiên ra đời ngày 13/10/1983 và được mệnh danh là "cục gạch". Tới nay,
sản phẩm công nghệ này đã trải qua đoạn đường dài một phần tư thế kỷ. chiếc điện
thoại có tên Motorola DynaTAC.
Motorola Dyna-Tac - chiếc điện thoại di động đầu tiên:
Kích thước (cm): 22,86 x 12,7 x 4,44
Trọng lượng: 1,13kg
Màn hình: không có
Số bo mạch điện: 30
Thời lượng thoại: 35 phút
Thời lượng pin: 10 tiếng

Tính năng: Nói, nghe, quay số.
15
Vì máy nặng tới 1,13 kg và cầm trên tay khá khó khăn.Giá bán của DynaTAC
thời bấy giờ cũng rất đắt, lên tới 3.995 USD, bên cạnh đó, người dùng cũng phải
trả 50 USD dịch vụ để gọi điện, thêm vào 0,4 USD một phút đàm thoại trong giờ
cao điểm và 0,24 USD một phút ngoài giờ cao điểm.
Nếu khi đó, điện thoại di động mới chỉ là một món đồ chơi xa xỉ cho người
giàu, thì nay, nó đang là một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Chỉ với 40
USD một tháng là bạn có thể gọi điện bất kể đêm, ngày, cuối tuần mà không giới
hạn về đường dài, vùng miền. Ngay cả những thiết bị cao cấp như iPhone cũng chỉ
có giá 200 USD, đây là một mức giá rất rẻ nếu so tính năng với DynaTAC.
Điều khác biệt cũng diễn ra trong 25 năm, sau khi giới thiệu dịch vụ đi động
được 12 tháng, năm 1984 nhà mạng Ameritech Mobile có 12.000 thuê bao. Ngày
nay, AT&T - hãng dịch vụ viễn thông lớn nhất nước Mỹ có tới 72,9 triệu khách
hàng.
Tới tháng 6-2010, nước Mỹ đã có tới 262,7 triệu thuê bao di động, chiếm 84%
dân số. Tại nước này, ta có thể gặp những đứa trẻ từ 8 đến 12 tuổi dùng điện thoại.
Tin nhắn được sử dụng nhiều hơn là thoại. Tổng kết quý II cho thấy một thuê
bao ở Mỹ, trung bình mỗi tháng gửi 375 tin nhắn so với 204 cuộc gọi mỗi tháng.
Tuy nhiên, tin nhắn chỉ tập trung nhiều vào giới trẻ, còn người già thì gọi điện
nhiều hơn.
Mạng di động cũng trang bị nhiều nội dung hỗ trợ người dùng hơn. Các nhà
mạng đã đầu tư hàng tỷ USD để xây dựng mới, nâng cấp tốc độ mạng lưới. Mạng
3G ngày nay cho phép người dùng lướt web, gửi e-mail, xem TV, download nhạc.
Các dịch vụ này đang phát triển rất nhanh.
Còn ở nước ta hiện nay, theo thống kê đến cuối tháng 3-2010, VNPT đã phát
triển thêm được 1.024.560 máy điện thoại, trong đó có 727.955 máy di động thuộc
2 mạng Vinaphone và MobiFone.
16
Tổng số mạng lưới của VNPT hiện có 14.364.672 máy điện thoại cố định và di

động. Cho đến thời điểm này, tổng số thuê bao di động của Vinaphone đạt
3.866.457 và của MobiFone đạt 3.436.574.
Trong khi đó, tổng số thuê bao di động của Viettel Mobile đạt trên 2 triệu thuê
bao, nâng tổng số thuê bao di động trên toàn quốc lên trên 9 triệu thuê bao.
I.1.3. Tai nghe:
Chiếc tai nghe đầu tiên ra đời năm 1937, tới nay đã được hơn 70 năm. Trong
quãng thời gian đó, sản phẩm đã phát triển từ dạng âm thanh nổi (stereo) thông
thường lên hiệu ứng âm thanh vòm, từ chiếc tai nghe chụp đến dạng earbud hay tai
nghe Bluetooth.
Cũng như nhiều thiết bị điện tử áp dụng các nguyên tắc vật lý và điện, lịch sử
phát triển của tai nghe cũng xuất phát từ phát kiến của nhà khoa học vĩ đại Thomas
Edison.
Năm 1924 Eugen Beyer thành lập hãng Beyerdynamic GmbH và năm 1937 ông
đã chế tạo được chiếc tai nghe đầu tiên DT 48, một phiên bản (đã có những thay
đổi) vẫn còn được sản xuất cho đến ngày nay. Thời bấy giờ, Eugen Beyer gọi
chúng là thiết bị “điện thoại năng động” (Dynamic Telephone – DT 48). Đến
những năm 50 công ty Beyerdynamic mới phát triển chúng thành tai nghe cao cấp
đầu tiên trên thế giới.
Thập niên 50 đánh dấu sự kết duyên giữa định dạng âm thanh nổi (stereo) với
tai nghe. Mặc dù định dạng âm thanh nổi (stereo) được phát minh từ những năm 30
của thế kỷ trước nhưng phải đến giữa thập kỷ 50 nó mới được áp dụng vào các sản
phẩm thương mại và xuất hiện trong ấn phẩm đĩa than (LP-long play records). Vào
năm 1958, John Koss là người tiên phong áp dụng tiêu chuẩn âm thanh nổi (stereo)
vào tai nghe nhằm đưa tới người sử dụng những âm thanh sống động, thực và rõ
nét hơn. Đây thực sự là bước ngoặt trong công nghệ sản xuất tai nghe. Từ đó, thiết
bị này đã bắt đầu hiện diện tại các phòng thu và sử dụng tại gia đình. Chất lượng
17
âm thanh tai nghe giai đoạn này tất nhiên không thể sánh với ngày nay, nhưng nó
là bước nhảy vọt về chất lượng.
Thập niên 60, lần đầu tiên trong công nghệ chế tạo tai nghe, màng rung kim loại

được thay bằng màng plastic hay còn gọi là tai nghe tĩnh điện (electrostatic). Loại
tai nghe này do John Koss sáng chế và được đánh giá là cho âm thanh tinh lọc hơn.
Trong suốt thập niên 60, công ty chuyên sản xuất tai nghe của John Koss - J.C.
Koss Hospital Television Rental Company (tiền thân tập đoàn Koss Corporation)
tìm cách phát triển tai nghe nhằm đem lại âm thanh ngày càng một tốt hơn cho
khách hàng.
Vào thập niên 80, Sony tung ra chiếc máy nghe nhạc cá nhân Walkman đầu
tiên, mở ra trang sử mới thay đổi cách thức nghe nhạc truyền thống của người tiêu
dùng. Với Walkman, bạn có thể nghe nhạc ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thể loại nào mà
không ảnh hưởng tới người khác chỉ với một nguồn âm nhỏ và chiếc tai nghe xinh
xắn. Điều đó đồng nghĩa với công nghệ chế tạo tai nghe phải thích ứng để sản xuất
các sản phẩm ngày một nhỏ hơn, tiện lợi hơn. Loại tai nghe trùm kín tai (circum-
aural headphone) dần bị thay thế bởi loại nhỏ gọn, nhẹ hơn và không trùm hết kín
tai (supra-aural headphone) mà được cấu tạo bởi miếng nỉ ôm sát tai người nghe.
Một thập kỷ sau, công nghệ sản xuất tai nghe bước sang một thời kỳ mới, tai
nghe dạng trùm được thay bằng dạng earbud (nhét tai). Loại này cung cấp chất
lượng âm thanh rất tốt đồng thời có tác dụng cách âm với môi trường xung quanh
người nghe.
Năm 2000 mở đầu cho kỷ nguyên tai nghe không dây. Công nghệ truyền tín
hiệu không dây được áp dụng cho các tai nghe thương mại. Một trong các tiêu
chuẩn được áp dụng phổ biến nhất là Bluetooth. Công nghệ mạng không dây cá
nhân (Wireless personal area network) là một chuẩn mở, cho phép truyền giọng nói
và dữ liệu kỹ thuật số. Một số ứng dụng phổ biến của Bluetooth có mặt trên điện
18
thoại di động, giúp kết nối không dây đến bộ tai nghe, hoặc trong hệ thống âm
thanh trên ôtô để rảnh tay trong khi lái.
Trong suốt quá trình phát triển, tai nghe đã trở thành một thiết bị nhỏ gọn chứa
đựng những thành tựu công nghệ tiên tiến nhất. Các sản phẩm tai nghe cao cấp
không những hướng tới việc giảm tối đa độ ồn và tiếng động xung quanh người
nghe mà còn tìm cách giảm độ méo trong kết nối giữa nó và thiết bị nguồn, nhằm

tạo ra thứ âm thanh trung thực nhất có thể.
I.2. Tác hại của thiết bị điện tử đối với sức khỏe sinh viên:
I.2.1. Sóng điện thoại có thể gây khó ngủ:
Đó là kết quả nghiên cứu mới đây nhất của nhóm các nhà khoa học tại Học viện
Karolinska của Thụy Điển và Đại học Wayne State của Mĩ công bố tại Hội thảo
nghiên cứu Điện từ tổ chức ở Học viện Công nghệ Massachusset. Báo cáo cho biết
sóng điện từ do điện thoại di động phát ra có thể gây mất ngủ, đau đầu và cảm giác
mơ hồ.
Những ảnh hưởng gây khó ngủ này cộng với sự rút ngắn khoảng thời gian ngủ
sâu sẽ khiến cơ thể con người không thể phục hồi được đủ sức khỏe cho một ngày
mới.
Việc nghiên cứu được tiến hành trên 35 người nam và 36 phụ nữ có độ tuổi từ
18 đến 45. Một số được cho nhận tín hiệu điện từ có cường độ, tần số tương tự như
sóng điện thoại di động, một số khác thì không. Kết quả là những người nhận tín
hiệu sóng điện từ rất khó đạt được trạng thái ngủ sâu và khoảng thời gian ngủ sâu
khi đạt được cũng ngắn hơn so với nhóm người không chịu sóng điện từ.
Kết quả nghiên cứu này cho rằng việc sử dụng điện thoại di động có liên quan
đến một số thay đổi trong các khu vực của não bộ chịu trách nhiệm về việc kích
hoạt và kết hợp các hệ thống stress.
19
Một giả thiết khác được đưa ra là sóng điện từ có thể can thiệp và làm ngưng
quá trình sản xuất một loại hoóc môn điều khiển nhịp sinh học của bên trong cơ
thể.
Cùng lúc đó, phát biểu với báo BBC, một phát ngôn viên của các nhà cung cấp
dịch vụ di động của Anh cho rằng nghiên cứu này chưa đủ để kết luận vì cho rằng
số lượng người tham gia làm mẫu trong nghiên cứu là quá nhỏ và nếu ảnh hưởng
này có thật thì nó cũng không hơn so với ảnh hưởng của một tách cà phê nhỏ đối
với giấc ngủ.
Đây không phải lần đầu tiên các nhà khoa học chỉ ra sự ảnh hưởng có thể có từ
việc sử dụng điện thoại di động. Các nghiên cứu trước đây còn chỉ ra những ảnh

hưởng nghiêm trọng hơn như nguy cơ phát triển ung thư và các ảnh hưởng này đặc
biệt nghiêm trọng đối với trẻ em.
I.2.2. Việc sử dụng điện thoại di động dẫn tới sự hình thành, phát triển các
khối u trong não
Từ vài năm nay, đã có nhiều nỗi lo về nguy cơ u não khi sử dụng điện thoại di
động. Nếu quả thật có nguy cơ đó thì đây thật sự là một vấn đề sức khỏe cộng đồng
đáng quan tâm vì số người sử dụng điện thoại di động (ÐTDÐ) trên thế giới ngày
càng tăng. Ðể phần nào làm sáng tỏ vấn đề này, một nhóm tác giả đã tiến hành một
nghiên cứu bệnh-chứng tại Boston (Hoa Kỳ) từ năm 1994 đến 1998.
Trong nghiên cứu bệnh chứng này, các tác giả đã khảo sát việc sử dụng ÐTDÐ
ở 782 BN có chẩn đoán khối u trong sọ, trong đó 489 trường hợp là u tế bào thần
kinh đệm, 197 trường hợp là khối u màng não, và 96 trường hợp u dây thần kinh số
VIII. Nhóm chứng là 799 BN mắc những bệnh lành tính khác nhau, ở cùng bệnh
viện với BN u não.
Kết quả cho thấy, so với những người chưa bao giờ hoặc rất hiếm khi sử dụng
ÐTDÐ, nguy cơ tương đối của việc sử dụng ÐTDÐ cộng dồn >100 giờ là 0,9 đối
với u thần kinh đệm (KTC 95%; 0,3-1,6), là 0,7 đối với u màng não (KTC 95%:
20
0,3-1,7), là 1,4 đối với u dây thần kinh số VIII (KTC 95%: 0,6-3,5), và là 1 đối với
mọi loại khối u gộp chung (KTC 95%: 0,6-1,5). Không có bằng chứng nào cho
thấy nguy cơ cao hơn ở những người dùng ÐTDÐ ?60 phút/ngày hoặc sử dụng đều
đặn trong thời gian >5 năm. Cũng không thấy khối u trong sọ hiện diện nhiều hơn
thiên về phía tai hay dùng nghe điện thoại.
Dữ liệu trên không ủng hộ giả thiết cho rằng việc sử dụng điện thoại cầm tay
gây u não do bức xạ không ion-hóa của máy phát ra. Tuy vậy, theo các tác giả, số
liệu vẫn chưa đủ để đánh giá nguy cơ trên những đối tượng sử dụng ÐTDÐ quá
nhiều và lâu dài.
I.2.3. Ảnh hưởng của laptop đến khả năng sinh sản của nam giới
Những nhà phát minh khi tạo ra chiếc máy tính xách tay (laptop) có thể đã không
mấy băn khoăn tới sức khoẻ sinh sản.

Tuy nhiên, nghiên cứu mới đây cho thấy, một chiếc laptop đặt trên đùi sẽ làm
tăng nhiệt độ tinh hoàn, điều này gây ảnh hưởng tới chất lượng tinh trùng.
Các nhà nghiên cứu đã cặp nhiệt độ ở "nhà máy sản xuất tinh trùng" của 29 nam
giới trong lúc mỗi người đặt một chiếc laptop lên đùi. Kết quả cho thấy, ngay cả
khi có lớp lót dưới computer thì nhiệt độ tinh hoàn vẫn tăng lên rất nhanh.
"Hàng triệu đàn ông đang sử dụng laptop hàng ngày, đặc biệt là những người đang
trong độ tuổi sinh sản. Trong vòng 10 – 15 phút, nhiệt độ tinh hoàn của họ đã ở
trên mức chúng ta vẫn coi là an toàn, nhưng họ không cảm thấy điều đó" – Bác sỹ
Yefim Sheynkin, chuyên về tiết niệu tại Đại học New York (Mỹ) - người chủ trì
nhóm nghiên cứu, cho biết.
Cho đến nay, thực tế chưa có nghiên cứu kiểm nghiệm laptop ảnh hưởng như
thế nào tới khả năng sinh sản của nam giới - bác sĩ Sheynkin cho biết - và cũng
không có chứng cớ đủ mạnh để khẳng định nó sẽ ảnh hưởng. Nhưng, những nghiên
cứu trước đây đã chỉ ra rằng, nếu nhiệt độ tinh hoàn tăng lên 1 độ C, tinh trùng sẽ
bị phá huỷ.
21
Trong những tình huống bình thường, vị trí của tinh hoàn ở bên ngoài cơ thể
đảm bảo chúng được giữ ở một nhiệt độ thấp hơn bên trong cơ thể. Điều này cần
thiết cho việc bảo vệ tinh trùng.
Theo Hiệp hội Nội tiết Mỹ, gần như là cứ sáu cặp thì có một cặp gặp rắc rối với
vấn đề thu thai, khoảng một nửa trong số đó, đàn ông luôn là nguyên nhân.
Để giữ laptop trên đùi, bạn cần khép hai chân lại. Sau một giờ đồng hồ ở tư thế
này, các nhà nghiên cứu cho hay nhiệt độ tinh trùng tăng lên 2,5 độ C.
Một chiếc đế lót có thể giúp hơi nóng từ máy tính không truyền sang da nhưng
nó chẳng có mấy tác dụng đối với tinh trùng.
Vị trí của chân đóng vai trò quan trọng hơn là chiếc đế lót. Khi người đàn ông
ngồi với hai chân mở rộng, computer đặt trên một miếng lót lớn - họ có thể giữ cho
tinh trùng mát hơn. Tuy nhiên, chỉ nên ngồi vậy khoảng 30 phút trước khi chúng
lại bắt đầu tăng nhiệt.
I.2.4. Ảnh hưởng của sóng siêu cao tần và tác dụng của chế phẩm Azolla

Microphyla đến số lượng và chất lượng tinh trùng
Đây là kết luận từ công trình nghiên cứu đầu tiên của Việt Nam về ảnh hưởng
của sóng siêu cao tần lên chất lượng tinh trùng. 5 chàng sinh viên trẻ lớp Dân y 1A
(Học viện Quân y) cũng đã giải quyết được bước đầu mối lo này bằng một chế
phẩm có tên Azolla Microphyla.
Không thể bàng quan trước thực trạng nhiều bộ đội radar bị rơi vào tình trạng
vô sinh, đầu năm 2004, họ bắt tay vào thực hiện công trình Nghiên cứu ảnh hưởng
của sóng siêu cao tần và tác dụng của chế phẩm Azolla Microphyla đến số lượng
và chất lượng tinh trùng.
Gần 1 năm, với 30 chú chuột nhắt đực trắng trong phòng thí nghiệm, họ cho các
chú chuột sống trong môi trường có chiếu sóng siêu cao tần ngày 2 giờ, trong điều
kiện 28 độ C, độ ẩm 90%. Chiếu liên tục trong 4 tuần thì bắt chúng đem giải phẫu.
Đếm qua kính hiển vi cho thấy số lượng và chất lượng tinh trùng của chuột đực
22
giảm rõ rệt. Khi cho lũ chuột này "cặp đôi" với chuột cái chẳng thấy có kết quả gì,
trong khi lũ chuột bình thường đã kịp sinh 7-8 con cùng thời gian nuôi.
Sau đó, sau khi xét nghiệm tinh dịch đồ cho 142 công nhân viên quốc phòng
tuổi từ 25 trở lên có thời gian làm việc tại các trạm radar từ 1-3 năm. Kết quả cho
thấy 75/142 người tiếp xúc với sóng siêu cao tần có số lượng và chất lượng tinh
trùng giảm.
I.2.5. Ảnh hưởng của tư thế sử dụng laptop đối với xương
Những nguy cơ đối với sức khoẻ
Tạp chí công nghệ trực tuyến Cnet mới đây đề cập tới trường hợp của Ram
Viswanadha - một kỹ sư phần mềm làm việc tại thung lũng Silicon (Mỹ), đã phải
nghỉ làm 3 tháng vì bị chấn thương căng cơ do làm việc quá nhiều trên máy ính
xách tay với tư thế lặp đi lặp lại trong 4 năm liền.
Tại Việt Nam, một số bác sĩ và chuyên gia nghiên cứu bảo hộ lao động cho biết
chưa từng phát hiện trường hợp nào tương tự do nguyên nhân nêu trên. Ngay cả ở
các nước phát triển, trường hợp của anh Viswanadha cho đến nay cũng tương đối
hiếm và thể hiện tình huống xấu nhất có thể xảy ra do lạm dụng máy tính xách tay.

Tuy nhiên, các chuyên gia quốc tế đã lên tiếng cảnh báo rằng với tình trạng máy
tính xách tay ngày càng trở nên phổ biến, những ca bệnh như vậy có nguy cơ sẽ
xuất hiện nhiều hơn.
Theo T.S Nguyễn Thế Công - Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu khoa học kỹ
thuật bảo hộ lao động, mặc dù Việt Nam chưa có nghiên cứu sâu rộng nào về
những ảnh hưởng của máy tính xách tay đối với sức khoẻ con người, nhưng sử
dụng phép nội suy trong khoa học có thể nhận thấy một số nguy cơ tiểm ẩn nếu
lạm dụng máy tính xách tay.
Thứ nhất, người dùng máy tính xách tay phải nhìn gần màn hình hơn (gây mỏi
mắt) và sử dụng bàn phím nhỏ hơn so với của máy tính để bàn (gây mỏi cổ tay,
ngón tay).
23
Thứ hai, thiết kế bàn phím và màn hình gần nhau khiến người dùng chỉ có hai
lựa chọn và đều có tác hại ngang nhau. Hoặc là để cánh tay được thoải mái thì phải
đặt máy thấp, từ đó cổ phải cúi gập xuống để nhìn màn hình, hoặc nếu đặt màn
hình cho hợp tầm mắt thì vai và cánh tay sẽ phải vươn lên cao rất căng thẳng.
Dựa vào những yêu cầu tiêu chuẩn về bảo hộ lao động đối với máy tính nói
chung, có thể thấy việc lạm dụng máy tính xách tay sẽ dẫn đến tình trạng đau mỏi,
có thể còn nhiều hơn so với máy tính để bàn.
Máy tính xách ta đã du nhập vào nước ta từ lâu, nhưng do giá thành khá cao
(hiện nay giá trung bình khoảng 1.000 USD/chiếc) nên chưa thật sự phổ biến. Chỉ
tới gần đây, máy tính xách tay mới bắt đầu tạo nên cơn sốt, khi ngày càng nhiều
người có nhu cầu ứng dụng công nghệ và có thu nhập cao. Với vẻ đẹp thời trang,
sự gọn gàng, tính tiện dụng, chất lượng và tốc độ xử lý cao, máy tính xách tay
khiến nhiều người say mê và thậm chí sử dụng nó thay thế cho máy tính để bàn -
một việc hết sức sai lầm và đi ngược lại những quy tắc cơ bản về tư thế sử dụng
máy tính.
Những quy tắc này từ lâu nay đã được nhắc tới rất nhiều trên các phương tiện
truyền thông và được không ít người biết đến, nhưng có lẽ phần lớn nghĩ rằng
chúng chỉ áp dụng cho máy tính để bàn, chứ ít ai để ý đến tầm quan trọng của tư

thế sử dụng máy tính xách tay.
Tư thế sử dụng máy tính xách tay cũng quan trọng đối với sức khoẻ như bất kỳ
tư thế làm việc nào khác.
Theo Bác sĩ Ngô Văn Toàn - Chủ nhiệm khoa Phẫu thuật chấn thương chỉnh
hình Bệnh viện Việt Đức, tất cả những gì sai tư thế sinh lý bình thường đều gây
biến dạng cơ xương và gây đau mỏi, có thể dẫn đến tổn thương.
I.2.6. Ảnh hưởng của tai nghe đối với tai
24
Do tính chất tiện lợi (nhỏ gọn, nén được nhiều nhạc) nên máy MP3 được nhiều
người ưa thích. Tuy nhiên, lạm dụng máy MP3 sẽ dẫn đến giảm thính lực, thậm chí
điếc vĩnh viễn.
Khảo sát gần đây của Bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM về đáp ứng thính giác
ở thanh niên VN cho thấy những trường hợp giảm thính lực được phát hiện ngẫu
nhiên đều là những người thích nghe nhạc hoặc học ngoại ngữ bằng tai nghe.
Âm thanh đập trực tiếp vào màng nhĩ
Theo bác sĩ Nguyễn Thị Bích Thủy, Trưởng Khoa Thính học Bệnh viện Tai
Mũi Họng, do chỉ gây ảnh hưởng ở tần số cao nên những đối tượng trên chưa nhận
thấy thính lực của mình đang bị giảm. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO), hiện nay có khoảng 4,2% dân số thế giới có sức nghe kém. Riêng tại nước
ta, tỉ lệ này cao hơn, người khiếm thính chiếm 5% - 7%, từ mức độ nhẹ đến nặng.
Theo quy định về bệnh điếc nghề nghiệp do tiếng ồn, công nhân được xem là
mắc bệnh điếc nghề nghiệp nếu trực tiếp làm việc trong môi trường có cường độ
tiếng ồn từ 85 dB trở lên liên tục trong vòng 8 tiếng mỗi ngày và kéo dài trong 6
tháng. Hiện nay, hầu hết các máy nghe nhạc đeo tai đều có công suất nghe đến 120
dB, tương đương âm thanh của máy cắt cỏ hay máy cưa. Tuy nhiên, theo bác sĩ
Bích Thủy, âm thanh máy nghe MP3 đập trực tiếp vào màng nhĩ nên quá trình
giảm thính lực sẽ diễn ra nhanh hơn và nặng hơn.
Điếc do tiếng ồn không thể phục hồi
Sau khi nghe nhạc xong, nếu vẫn thấy lùng bùng trong lỗ tai hoặc nghe những
âm thanh khác bị tắc nghẽn, đó là dấu hiệu do sử dụng máy MP3 với âm thanh lớn

quá mức cho phép. Sau đó nếu vẫn tiếp tục nghe MP3 nhiều với cường độ âm
thanh lớn, những triệu chứng của điếc sẽ xuất hiện như bệnh nhân nói lớn, ù tai,
nhức đầu Tình trạng giảm thính lực sẽ làm bệnh nhân tiếp xúc khó khăn hơn, làm
giảm chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng đến tính cách và công việc.
25

×