Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

LUẬN VĂN: Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (814.7 KB, 108 trang )






LUẬN VĂN:

Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản
Việt Nam trên thị trường Mỹ







Mở đầu

1. Sự cần thiết của đề tài
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam,
là một trong những biện pháp quan trọng để tạo ra đột phá tăng trưởng cao, chuyển dịch
cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Xuất khẩu được
đẩy mạnh sẽ góp phần giải quyết công ăn việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ,
kích thích đầu tư, đáp ứng được yêu cầu của CNH, HĐH đất nước. Muốn đẩy mạnh xuất
khẩu thì việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu chủ lực và thị trường nhập khẩu tiềm năng lớn
là hết sức quan trọng.
Thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, trong
hơn một thập kỷ qua kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của mặt hàng này đã gia tăng một
mức đáng kể. Năm 1995, KNXK thủy sản mới ở mức 550,5 triệu USD thì đến năm 2005,
KNXK thủy sản đã đạt 2,6 tỷ USD, tỷ lệ bình quân mỗi năm tăng 14,5%. Hiện nay thị
trường xuất khẩu thủy sản (XKTS) của Việt Nam đã được mở rộng tới trên 105 nước và


vùng lãnh thổ trên thế giới. Thủy sản Việt Nam ngày càng có chỗ đứng vững chắc trên thị
trường thế giới và hàng thủy sản của Việt Nam đã thâm nhập được một số thị trường lớn
như Mỹ, Nhật, EU…
Quan hệ thương mại Việt Nam - Mỹ bắt đầu phát triển từ sau khi Mỹ bỏ chính
sách cấm vận đối với nước ta. Hiệp định thương mại Việt Nam - Mỹ (BTA) được ký kết
và có hiệu lực vào ngày 10/12/2001, đã đánh dấu bước đột phá và cơ hội lớn để đẩy
mạnh và mở rộng quan hệ thương mại giữa hai quốc gia, đặc biệt tạo điều kiện cho việc
mở rộng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Thị trường Mỹ là một thị
trường lớn và nhiều tiềm năng, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa nói chung và hàng
thủy sản nói riêng sang thị trường Mỹ là hết sức cần thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với
tiến trình CNH, HĐH của Việt Nam.
Trong bối cảnh khu vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế đang tác động mạnh mẽ đến
mọi quốc gia, tính chất cạnh tranh về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng gay gắt thì hoạt
động xuất khẩu nói chung, xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ nói

riêng vừa có những cơ hội to lớn, đồng thời cũng có những thách thức không nhỏ. Hàng
thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ phải đáp ứng được những quy định rất
khắt khe của thị trường này, mặt khác phải cạnh tranh gay gắt với hàng thủy sản của
những nước khác như Trung Quốc, Thái Lan… Hàng thủy sản Việt Nam không thể thâm
nhập và đứng vững được trên thị trường Mỹ nếu không có năng lực cạnh tranh cao.
Qua các vụ kiện liên quan đến xuất khẩu cá tra, cá ba sa và tôm của Việt Nam ở
Mỹ vừa qua đã xuất hiện nhiều câu hỏi: phải chăng hàng thủy sản Việt Nam có sức cạnh
tranh cao trên thị trường Mỹ nên mới bị các chủ trang trại nuôi trồng thủy sản của Mỹ
kiện Việt Nam bán phá giá? Hàng thủy sản của Việt Nam đã đáp ứng được đầy đủ các
yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) (rào cản kỹ thuật) của thị trường Mỹ
hay chưa? Tại sao thị trường Mỹ rất rộng lớn nhưng hàng thủy sản của Việt Nam rất khó
vào?
Mặc dù đã có khá nhiều nghiên cứu tìm câu trả lời cho các vấn đề trên nhưng cho
tới nay vẫn chủ yếu là các bài viết dưới dạng báo có tính thông tin, ít nghiên cứu có tính
hệ thống. Một số nghiên cứu đã đề cập đến năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt

Nam trên thị trường Mỹ nhưng chưa sâu hoặc thiếu tính cập nhật. Do vậy, việc nghiên
cứu đề tài để làm rõ các cơ sở lý luận, thực tiễn và thực trạng của năng lực cạnh tranh
hàng thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ là rất cần thiết. Đây chính là lý do để tác
giả chọn đề tài " Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ
" làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những chủ đề được nhiều người nghiên cứu ở
nước ta. Các nghiên cứu đã được xuất bản (sách) có một số nội dung liên quan đến đề tài
như: "Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế" (GS. Chu Văn Cấp chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003); "Đổi mới
chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế" (TS. Lê Thị Vân Anh, Nxb Lao động, Hà Nội, 2003); "Chiến lược thâm
nhập thị trường Mỹ", (GS. Võ Thanh Thu, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2003); "Đánh giá tác

động kinh tế của hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ" (Dự án STAR
Việt Nam và Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003).
"Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ" (Đề
tài Bộ Thương mại, năm 2000) Các nghiên cứu này đã khái quát được khá đầy đủ thực
trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta hiện nay và nêu các giải pháp để nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, hàng xuất khẩu Việt Nam nói riêng
tới các thị trường trên thế giới, trong đó có thị trường Mỹ. Các nghiên cứu này cũng đã
nêu được các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của quốc gia, công ty và sản
phẩm. Một số tài liệu cũng đã nghiên cứu và đưa ra các giải pháp tổng quát nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, những đánh giá năng lực
cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam nói chung và hàng thủy sản xuất khẩu vào
Mỹ nói riêng, còn khá mờ nhạt.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu đã nêu, cũng có khá nhiều các nghiên cứu
dưới dạng dự án (sản phẩm nghiên cứu chưa được xuất bản), có nội dung liên quan đến
đề tài, trong đó tiêu biểu như: "Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông lâm thủy

sản" (Dự án của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 4/2003); "Nâng cao năng lực
cạnh tranh hàng hóa và dịch vụ Việt Nam" (Đề án của ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế
quốc tế phối hợp với các Bộ/ngành, 10/2001), "Phát triển quan hệ thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ" (Đề tài của Trung tâm tư vấn và đào tạo kinh tế thương mại); "Chương trình
phát triển xuất khẩu thủy sản đến năm 2010 và tầm nhìn 2020" (Dự thảo lần 4 của Ban
chỉ đạo chương trình phát triển XKTS của Bộ Thủy sản, năm 2006). Các nghiên cứu này
đã phân tích khá kỹ và có tính hệ thống về lý thuyết và thực tiễn của thực trạng năng lực
cạnh tranh các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, trong đó đặc biệt là hàng nông, lâm, thủy sản
của Việt Nam hiện nay. Tuy vậy, các nội dung về năng lực cạnh tranh hàng thủy sản của
Việt Nam vào thị trường Mỹ còn ít được đề cập tới.
Ngoài các công trình nghiên cứu có tính học thuật như đã nêu, còn có khá nhiều
các bài báo, thông tin về xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Mỹ, trong đó
phần nhiều là các thông tin liên quan đến các vụ kiện về xuất khẩu cá tra, các basa và tôm
của Việt Nam vào thị trường này.

Qua tổng quan các công trình nghiên cứu tiêu biểu có nội dung liên quan đến đề
tài cho thấy, việc làm rõ năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường
Mỹ vẫn còn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống và cập nhật. Do đó, luận văn sẽ
tiếp tục thực hiện nhiệm vụ này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Làm rõ năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản của Việt Nam trên thị
trường Mỹ, trên có sở đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của
hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường quan trọng này trong thời gian tới.
Nhiệm vụ của đề tài:
+ Hệ thống một số vấn đề lý luận về cạnh tranh, sức cạnh tranh của hàng hóa, các
nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường
Mỹ;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam
trên thị trường Mỹ;
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng

thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản của Việt Nam
trên thị trường Mỹ.
- Phạm vi nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản của Việt Nam trên
thị trường Mỹ từ giai đoạn hai bên bình thường hóa quan hệ ngoại giao đến nay và đề
xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam vào
thị trường Mỹ đến năm 2010. Do mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu, luận văn
không đi sâu nghiên cứu những vấn đề thuộc về kỹ thuật, nghiệp vụ của ngành thủy sản
mà định hướng nghiên cứu vào các vấn đề có tính vĩ mô.
5. Phương pháp nghiên cứu

Ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống được sử dụng trong nghiên cứu
kinh tế, luận văn sẽ sử dụng thêm hai phương pháp phân tích cạnh tranh hiện đại là
SWOT, GAP.
Lợi thế cạnh tranh hàng thủy sản xuất khẩu được phân tích theo từng phương
pháp riêng biệt hoặc kết hợp giữa các phương pháp phân tích cạnh tranh khác nhau.
Phương pháp phân tích SWOT sẽ được áp dụng như là phương pháp cơ bản nhất trong
phân tích cạnh tranh của sản phẩm thủy sản xuất khẩu sang Mỹ. Phương pháp phân tích
này dựa vào thống kê các điểm mạnh, yếu, cơ hội, thách thức trong tất cả các khía cạnh
ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của sản phẩm thủy sản của Việt Nam sang thị trường
Mỹ ở từng thời điểm cụ thể. Các khía cạnh này thuộc về các yếu tố: điều kiện tự nhiên, vị
trí địa lý, nguồn nhân công, số lượng, chất lượng, chủng loại, giá cả, công nghệ chế biến,
bảo quản công tác xúc tiến thương mại, hệ thống phân phối, quan hệ thương mại Việt -
Mỹ, hệ thống cơ sở hạ tầng, hàng rào thuế quan và kỹ thuật của Mỹ
Phương pháp phân tích GAP là so sánh mức độ cạnh tranh giữa các yếu tố đã nêu
của sản phẩm thủy sản tiêu thụ tại thị trường Mỹ (bao gồm tất cả các nguồn gốc xuất xứ -
trong và ngoài nước Mỹ)… So sánh tất cả các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh giữa các
sản phẩm thủy sản ở Mỹ là việc làm rất khó, do đó chỉ một số yếu tố cơ bản và nguồn cung
cấp chủ yếu được lựa chọn để phân tích so sánh. Các yếu tố này thường bao gồm các chỉ số

quan trọng là thị phần xuất khẩu, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu, điều kiện sản xuất chế
biến, phân phối sản phẩm, giá cả Các nước được lựa chọn là Mỹ, Thái Lan, Trung Quốc.
Mỗi phương pháp phân tích có ưu điểm và hạn chế riêng, bởi vậy việc kết hợp
giữa các phương pháp phân tích đã nêu sẽ mang lại đánh giá chính xác hơn về lợi thế
cạnh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống được cơ sở lý luận và thực tiễn của năng lực cạnh tranh hàng thủy sản
của Việt Nam vào thị trường Mỹ.
- Làm rõ thực trạng năng lực cạnh tranh hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường
Mỹ.

- Đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng
thủy sản của Việt Nam trên thị trường Mỹ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của phân tích năng lực cạnh tranh hàng
thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị
trường Mỹ.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản Việt
Nam trên thị trường Mỹ.

Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn của phân tích năng lực cạnh tranh hàng thủy sản Việt Nam
trên thị trường Mỹ

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của hàng hóa
1.1.1.1. Khái niệm, vai trò của cạnh tranh

 Khái niệm về cạnh tranh: ở mỗi thời kỳ lịch sử có quan niệm khác nhau về
khái niệm, phạm vi và các cấp độ của cạnh tranh. Từ lâu, lý luận về cạnh tranh đã được
nhiều nhà kinh tế nổi tiếng trên thế giới nghiên cứu. Adam Smith được coi là người có
công đầu trong việc đưa ra lý luận cạnh tranh một cách có hệ thống. Theo ông, thuộc tính
cơ bản của kinh tế thị trường là tự do cạnh tranh, không có cạnh tranh thì không có kinh
tế thị trường đích thực. Cạnh tranh được thực hiện thông qua thị trường và giá cả. Trong
tự do cạnh tranh các cá nhân phải ganh đua, thậm chí chèn ép nhau để đạt được mục đích
của mình và điều đó buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm việc của mình một cách chính
xác. Cạnh tranh khơi dậy sự nỗ lực chủ quan của con người trong sản xuất ra hàng hóa,
tìm kiếm lợi nhuận, từ đó làm tăng của cải cho nền kinh tế quốc dân.
Các Mác không xây dựng lý luận riêng về cạnh tranh trong các nghiên cứu của
ông, nhưng lý luận về cạnh tranh cũng được ông đề cập đến nhiều khi nghiên cứu về lý
luận giá trị, lý luận về tư bản và giá trị thặng dư. Theo C. Mác, điều kiện dẫn đến sự ra đời
và tồn tại của cạnh tranh là phân công lao động xã hội và quyền sở hữu độc lập của chủ
thể. Phân công lao động xã hội theo nghĩa rộng tức là sự phân công lao động xã hội trong
một đơn vị kinh tế, giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành trong một nền kinh tế quốc
dân và giữa các nền kinh tế trong khu vực hay phạm vi thế giới. Trong nền kinh tế thị
trường, các chủ thể có quyền sở hữu độc lập đều theo đuổi lợi ích kinh tế riêng và chính
điều đó tạo nên động lực của cạnh tranh. Cạnh tranh có khả năng điều tiết sự phân phối tư
bản và các nguồn lực xã hội giữa các ngành sản xuất khác nhau. Cạnh tranh làm thúc đẩy
sự phát triển của kỹ thuật sản xuất, làm thay đổi kết cấu tổ chức kinh tế và thúc đẩy sự

tăng trưởng của nền kinh tế xã hội. Cạnh tranh diễn ra dưới ba hình thức: Một là, cạnh
tranh giữa các nhà tư bản nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch, ở hình thức này các nhà
tư bản cạnh tranh trực tiếp với nhau thông qua hạ giá thành bằng cách đua nhau áp dụng
công nghệ tiến bộ, kỹ thuật mới để nâng cao năng suất lao động cá biệt và hạ thấp chi phí
cá biệt của từng doanh nghiệp; hai là, cạnh tranh giữa các nhà tư bản với nhau để hút
được một số lượng người tiêu dùng lớn về phía mình, áp lực cạnh tranh buộc họ phải
thường xuyên nâng cao chất lượng của hàng hóa thông qua việc nâng cao giá trị sử dụng,
cải thiện độ bền, tính năng, tác dụng của sản phẩm hàng hóa; ba là, cạnh tranh giữa các

ngành nhằm phân chia nhau giá trị thặng dư, đây là hình thức có tác dụng nhằm gia tăng
tính lưu động của tư bản, làm cho các năng lực tư bản trong xã hội có thể điều tiết một
cách linh hoạt vào các ngành sản xuất khác nhau.
Như vậy, theo C.Mác cạnh tranh kinh tế là hệ quả tất yếu của nền sản xuất hàng
hóa, là sự đối chọi của những người sản xuất hàng hóa dựa trên cơ sở thực lực kinh tế của
họ.
Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đề cập đến cạnh tranh ở những khía cạnh khác
nhau. Theo Michael E. Porter:
Cạnh tranh là tăng trưởng bền vững của GDP và được quyết định bởi
hiệu quả sử dụng các yếu tố vốn, lao động, các nguồn lực tự nhiên, nhờ đó cải
thiện được điều kiện sống của mọi người dân trong xã hội. ở phạm vi ngành,
theo Markusen, một ngành công nghiệp là cạnh tranh nếu nó có một mức chi
phí đơn vị bằng hoặc thấp hơn mức chi phí so với các ngành tương tự trên
phạm vi toàn cầu. Theo E. Siggel và J. Cocburn, ở phạm vi doanh nghiệp thì
cạnh tranh được quan niệm là việc cung ứng hàng hóa hoặc dịch vụ chất lượng
tốt với giá rẻ [18, tr. 7].
Các khái niệm, định nghĩa khác về khả năng cạnh tranh của ngành, của doanh
nghiệp đều đề cập khả năng bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận cao, phát triển bền vững và
được đo bằng tỷ trọng thị phần của sản phẩm hoặc dịch vụ trên thị trường.
ở Việt Nam, đề cập đến "cạnh tranh" một số nhà khoa học cho rằng, cạnh tranh là
vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa - dịch vụ (mua và bán) Mục đích trực tiếp của

hoạt động cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể kinh tế là giành lợi thế để hạ thấp giá
cả của các yếu tố "đầu vào" trong chu trình sản xuất - kinh doanh và nâng cao giá "đầu
ra", sao cho giành được mức lợi nhuận cao nhất với mức chi phí hợp lý nhất. Như vậy,
trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối
ưu và do đó nó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác,
đồng thời với tối đa hóa lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là yếu tố
thúc đẩy quá trình tích lũy và tập trung tư bản không đồng đều ở các doanh nghiệp. Cạnh
tranh còn là môi trường phát triển mạnh mẽ cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được

với các điều kiện thị trường, đào thải các doanh nghiệp ít khả năng thích ứng, dẫn đến
quá trình tập trung hóa trong từng ngành, vùng, quốc gia
Có thể khái quát định nghĩa về cạnh tranh như sau:
Cạnh tranh là một quá trình tranh đấu mà trong đó, các chủ thể kinh tế
ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp (kể cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn kinh doanh)
để đạt được mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình) như: chiếm lĩnh thị trường,
giành lấy khách hàng, cũng như đảm bảo tiêu thụ hàng hóa có lợi nhất, nhằm
nâng cao vị thế của mình. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong
quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích: đối với người kinh doanh là lợi
nhuận, còn đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng [44, tr. 7]
 Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế: Trên bình diện nền kinh tế quốc gia,
cạnh tranh có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần phân bổ nguồn lực hiệu quả
nhất thông qua việc kích thích các doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực tối ưu, góp phần
phân phối lại thu nhập một cách hiệu quả hơn và đồng thời góp phần nâng cao phúc lợi
xã hội.
Trên bình diện doanh nghiệp, bằng sự hấp dẫn của lợi nhuận từ việc đi đầu về
chất lượng, mẫu mã cũng như áp lực phá sản, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải
luôn cải tiến, nâng cao công nghệ, phương pháp sản xuất, quản lý nhằm nâng cao uy tín
của mình. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải mở rộng, tìm kiếm thị trường với mục
đích tiêu thụ, đầu tư huy động nguồn vốn, lao động, công nghệ, trình độ quản lý trên thị
trường quốc tế. Thông qua cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp thấy được lợi thế so

sánh, cũng như các điểm yếu kém của mình để hoàn thiện, xây dựng các chiến lược kinh
doanh trên thị trường quốc tế. Dưới góc độ lợi ích người tiêu dùng, cạnh tranh giúp cho
người tiêu dùng có được sự lựa chọn rộng rãi hơn, buộc người sản xuất không thể áp đặt
giá cả tùy tiện. Với khía cạnh đó, cạnh tranh là yếu tố điều tiết thị trường, giá cả, quan hệ
cung cầu.
Kinh tế thị trường là tiền đề cơ bản của cạnh tranh bởi một số đặc trưng cơ bản
của nó. Các quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường (KTTT) như quy luật cạnh tranh,
quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật giá cả tạo điều kiện để cạnh tranh hình thành,

vận hành và phát triển. Trong nền KTTT tồn tại nhiều thành phần kinh tế với các hình
thức sở hữu khác nhau cùng hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chủ thể kinh tế với khả
năng về vốn, lao động, công nghệ, trình độ quản lý khác nhau đều có mục đích tiến tới tối
đa hóa lợi ích. Do vậy, để tối đa hóa lợi nhuận và không bị đào thải buộc các chủ thể kinh
tế chỉ có cách duy nhất là cạnh tranh.
Cạnh tranh trong cơ chế thị trường tự do ở nhiều trường hợp chưa thực sự vận
hành hiệu quả, thậm chí có thể bị tắc nghẽn do những thất bại của thị trường. Do vậy,
phải có sự can thiệp hợp lý của Nhà nước để đảm bảo cơ chế cạnh tranh vận hành một
cách hiệu quả, giảm thiểu thất bại của thị trường. Điều cốt lõi là Nhà nước phải thực hiện,
xây dựng chính sách cạnh tranh hiệu quả, môi trường cạnh tranh, bình đẳng, lành mạnh
nhằm tránh thất bại của thị trường gây tổn hại đến năng lực cạnh tranh doanh nghiệp nói
riêng và nền kinh tế nói chung.
1.1.1.2. Phân loại các loại hình cạnh tranh
Trong nền KTTT, đứng từ các góc độ khác nhau để xem xét, các nhà nghiên cứu
đã chia thành các loại cạnh tranh:
Xét theo chủ thể cạnh tranh có cạnh tranh giữa những người sản xuất với nhau,
cạnh tranh giữa những người bán với nhau; cạnh tranh giữa những người mua với nhau;
cạnh tranh giữa người bán và người mua.
Xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể thì có cạnh tranh trong nội bộ ngành và
cạnh tranh giữa các ngành mà các nhà kinh tế học chia thành hai hình thức là: "cạnh tranh
dọc" và "cạnh tranh ngang".

 Cạnh tranh dọc: Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình
quân thấp nhất khác nhau. Cạnh tranh dọc làm cho thay đổi giá bán và doanh nghiệp sẽ
có "điểm dừng". Sau một thời gian nhất định sẽ hình thành một giá thị trường thống nhất
và doanh nghiệp nào có chi phí bình quân cao sẽ bị phá sản, còn các doanh nghiệp có chi
phí bình quân thấp nhất sẽ thu được lợi nhuận cao và phát triển.
 Cạnh tranh ngang: Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình
quân thấp nhất như nhau. Do đặc điểm này nên sẽ không có doanh nghiệp nào bị loại ra
khỏi thị trường song giá cả thấp ở mức tối đa, chỉ có người mua hưởng lợi nhiều nhất còn

lợi nhuận doanh nghiệp giảm dần. Sau một thời gian nhất định sẽ xuất hiện khuynh
hướng: hoặc liên minh với nhau bán hàng giá cao, giảm lượng bán - tiến tới độc quyền,
hoặc tìm cách giảm chi phí bằng cách nâng cao năng lực quản lý, tổ chức và hiện đại hóa
công nghệ , tức là chuyển sang cạnh tranh dọc, như nêu trên.
Xét theo tính chất của phương thức cạnh tranh thì có cạnh tranh lành mạnh và
cạnh tranh không lành mạnh. Trong cạnh tranh, các chủ thể kinh tế sẽ dùng tất cả các
biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn, để đạt được mục tiêu kinh tế của mình. Có những
biện pháp cạnh tranh hợp pháp hay cạnh tranh lành mạnh (Healthy Competition).
Ngược lại, có những thủ đoạn phi pháp, nhằm tiêu diệt đối phương chứ không phải
bằng nỗ lực vươn lên của mình, gọi là cạnh tranh bất hợp pháp hay cạnh tranh không
lành mạnh (Unfair Competition).
Xét theo hình thái cạnh tranh, thì có: cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không
hoàn hảo.
 Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Competition) hay gọi là cạnh tranh thuần túy
(Pure Competition) là tình trạng cạnh tranh mà giá cả của một loại hàng hóa là không đổi
trong toàn bộ các nơi của thị trường do có nhiều người bán và người mua, họ có đủ thông
tin về các điều kiện của thị trường. Trên thực tế đời sống kinh tế, ít tồn tại hình thái cạnh
tranh hoàn hảo này.
 Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition) là hình thái chiếm ưu thế
trong các ngành sản xuất kinh doanh. ở đó, các nhà sản xuất bán hàng đủ mạnh để chi
phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường hoặc từng nơi, từng khu vực cụ thể.

Trong cạnh tranh không hoàn hảo lại phân ra hai loại là: độc quyền nhóm và cạnh tranh
mang tính chất độc quyền. Độc quyền nhóm là một ngành chỉ có một số ít người sản xuất
và họ đều nhận thức được giá cả của mình không chỉ phụ thuộc vào sản lượng của mình
mà còn phụ thuộc vào hoạt động cạnh tranh của những đối thủ quan trọng trong ngành
đó. Cạnh tranh mang tính độc quyền là một ngành có nhiều người bán, sản xuất ra những
sản phẩm dễ thay thế cho nhau, mỗi hãng chỉ có thể hạn chế ảnh hưởng tới giá cả sản
phẩm của mình ở mức độ nhất định.
Xét theo các công đoạn của quá trình kinh doanh hàng hóa thì có cạnh tranh

trước khi bán hàng, trong khi bán hàng và cạnh tranh sau khi bán hàng.
Ngoài các loại hình cạnh tranh đã nêu trên, người ta còn xét theo một số tiêu chí
khác nữa: điều kiện không gian, lợi thế tài nguyên, nhân lực, đặc điểm tập quán sản xuất,
tiêu dùng, văn hóa ở từng dân tộc, khu vực, từng quốc gia khác nhau mà phân loại
thành cạnh tranh giữa các nước và các khu vực trên thế giới; cạnh tranh trong và ngoài
nước, cạnh tranh giữa cộng đồng, các vùng có bản sắc dân tộc và tập quán sản xuất tiêu
dùng khác nhau.
1.1.1.3. Năng lực cạnh tranh, các cấp độ của năng lực cạnh tranh
 Khái niệm về năng lực cạnh tranh (sức cạnh tranh)
Năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh (Competitive Power) là khả năng giành
được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại
một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp [43, tr. 349].
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển
kinh tế (OECD) đưa ra định nghĩa về năng lực cạnh tranh trên cơ sở kết hợp cho cả doanh
nghiệp, ngành và quốc gia như sau: Sức cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp,
ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện
cạnh tranh quốc tế.
 Các cấp độ của năng lực cạnh tranh:

Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành ba cấp độ: Năng lực cạnh tranh
quốc gia; năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hóa.
- Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia:
Năng lực cạnh tranh quốc gia là một chỉ tiêu tổng hợp, bao gồm nhiều nhóm yếu
tố khác nhau: chất lượng và trình độ phát triển của thể chế nhà nước, vai trò quản lý của
nhà nước, các thể chế của kinh tế thị trường, độ mở của nền kinh tế, trình độ quản lý của
doanh nghiệp, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, chất lượng và số lượng lao động và khoa học -
công nghệ là những yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia.
Năng lực cạnh tranh của một quốc gia được quyết định bởi sự lành mạnh của các
môi trường kinh tế vĩ mô, vi mô, chất lượng chiến lược và hiệu quả kinh doanh của các

công ty (theo Goger H. Ford, 2003). Còn theo A.Warner, năng lực cạnh tranh của quốc gia
là khả năng đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh GDP/đầu người trong suốt thời gian dài.
Diễn đàn Kinh tế Thế giới WEF năm 1997 định nghĩa năng lực cạnh tranh quốc
gia là "năng lực của nền kinh tế quốc dân đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ
sở các chính sách, thể chế và các đặc trưng kinh tế khác tương đối vững chắc" [44, tr. 9].
Như vậy, tuy có sự khác nhau trong các khái niệm, định nghĩa nhưng tất cả đều có
điểm chung cơ bản là cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của một quốc gia được quyết định
bởi năng suất các thành tố, nhờ đó duy trì được tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững của GDP
và cải thiện được điều kiện sống của người dân.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực tồn tại, duy trì và gia tăng lợi
nhuận, thị phần trên thị trường của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Một
doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh (hay năng lực cạnh tranh) và được đánh giá
là có thể đứng vững cùng các nhà sản xuất khác, khi các sản phẩm thay thế hoặc các sản
phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các sản phẩm cùng loại; hoặc cung cấp
các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng và dịch vụ ngang bằng hay cao
hơn. Nhìn chung, khi xác định năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một ngành

cần xem xét đến tiềm năng sản xuất kinh doanh một hàng hóa hay một dịch vụ ở mức giá
ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải trợ cấp.
Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp được xác định trên cơ sở bốn nhóm yếu tố chủ
yếu sau:
Nhóm yếu tố thứ nhất bao gồm các yếu tố liên quan đến chất lượng, khả năng
cung ứng các yếu tố đầu vào của sản xuất hàng hóa: tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân
lực; nguồn vốn; kết cấu hạ tầng kỹ thuật; thông tin; các yếu tố về khoa học và công nghệ;
hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước…
Nhóm yếu tố thứ hai liên quan đến các ngành công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ cho
hoạt động của doanh nghiệp, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ có liên quan để doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Nhóm yếu tố thứ ba liên quan đến nhu cầu của thị trường đối với các sản phẩm

và dịch vụ của doanh nghiệp, yêu cầu của khách hàng về chất lượng của sản phẩm, dịch
vụ. Phân tích những yếu tố thuộc nhóm này giúp doanh nghiệp các thông tin về dung
lượng, sức mua, mức độ đàn hồi của thị trường, nhu cầu và thị hiếu của khách hàng đối
với sản phẩm.
Nhóm yếu tố thứ tư phản ánh trực tiếp mức độ cạnh tranh ở lĩnh vực mà doanh
nghiệp kinh doanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương quan so sánh với
các doanh nghiệp khác (về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, thương hiệu, kinh nghiệm
quản lý ).
Nhìn chung trong chiến lược phát triển của mình, các doanh nghiệp đều phải tính
toán đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, doanh
nghiệp tập trung đầu tư vào những yếu tố phù hợp và từng bước nâng trình độ phát triển
lên mức cao hơn. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ được quyết định bởi
quy mô sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu tiêu thụ, khuyến mại, nghiên cứu
thị trường.
- Năng lực cạnh tranh của hàng hóa:

Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ là cơ sở tạo nên sức cạnh tranh của
doanh nghiệp, của ngành và thể hiện tập trung ở các yếu tố: giá cả, chất lượng, hệ thống
phân phối và thương hiệu của doanh nghiệp.
Một hàng hóa được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng được nhu cầu
của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính độc đáo hay sự khác biệt,
thương hiệu, bao bì hơn hẳn so với những sản phẩm hàng hóa cùng loại. Năng lực cạnh
tranh của sản phẩm hàng hóa lại được quyết định bởi năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Không thể có năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa cao trong khi doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó có năng lực cạnh tranh thấp.
Cạnh tranh về giá cả là một công cụ quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh
của hàng hóa. Nếu hai hàng hóa cùng loại và có chất lượng như nhau, thì hàng hóa nào
được bán với giá thấp hơn sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn. Giá cả hàng hóa được
quyết định bởi giá thành của nó. Muốn hạ giá thành sản phẩm thì doanh nghiệp phải cải
tiến tổ chức quản lý sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, khai thác

nguồn nguyên liệu đầu vào với chi phí thấp
Cạnh tranh về chất lượng là nội dung thứ hai có tính then chốt trong các biện
pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa. Hàng hóa có công dụng như nhau, giá
cả bằng nhau thì người tiêu dùng sẽ mua hàng hóa có chất lượng cao hơn. Ngày nay hàng
hóa có sức cạnh tranh cao phải là những hàng hóa "xanh và sạch", đáp ứng được những
yêu cầu khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm, về bảo vệ môi trường của các thị trường
khó tính như Mỹ, Nhật, EU… Việc xây dựng thương hiệu tốt cũng giúp doanh nghiệp thu
hút ngày càng nhiều khách hàng và thâm nhập thành công thị trường các nước nhập khẩu.
Thương hiệu là một tài sản vô hình có ảnh hưởng quan trọng đến quyết định mua hàng
của người tiêu dùng. Thương hiệu nổi tiếng sẽ ăn sâu vào trí nhớ người tiêu dùng và với
sức mạnh của thương hiệu, sản phẩm tạo ra giá trị gia tăng (GTGT) không chỉ ở giá mà
còn ở niềm tin người tiêu dùng.
Cạnh tranh về hệ thống phân phối, dịch vụ bán hàng ngày càng đóng vai trò quan
trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, đặc biệt trong điều kiện
toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế tất yếu trong nền kinh tế thế giới hiện nay. Khâu phân

phối sản phẩm có ý nghĩa quan trọng, là cầu nối giữa người sản xuất với người tiêu dùng.
Trong điều kiện hàng hóa được sản xuất từ nhiều doanh nghiệp với các chủng loại đa
dạng và phong phú như hiện nay, thì công tác tiếp cận thị trường, giới thiệu sản phẩm
phải được chú trọng đúng mức. Hệ thống phân phối được thiết kế hợp lý, phân định được
kênh phân phối chủ lực và các kênh phân phối phụ trợ có ý nghĩa quan trọng trong việc
giảm chi phí tiêu thụ sản phẩm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên
thị trường.
 Mối quan hệ giữa các cấp độ năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh ở các cấp độ phân biệt trên đây (cấp độ quốc gia, cấp độ
doanh nghiệp, cấp độ hàng hóa) có mối tương quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn
nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp nói chung, của doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng cần thiết phải đặt nó
trong mối tương quan chung giữa các cấp độ năng lực cạnh tranh nêu trên.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp là hai phạm trù khác nhau nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh
tranh của hàng hóa có được do năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra. Ngược lại,
mặc dù năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng
hóa mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, nhưng năng lực cạnh tranh của sản
phẩm hàng hóa có ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tổng số năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp của một nước tạo thành năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia đó. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế
nếu năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa thấp.
Năng lực cạnh tranh quốc gia thể hiện qua môi trường kinh doanh, khả năng cạnh tranh
quốc tế và trong nước. Sự ổn định về hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, việc mở rộng các
quan hệ kinh tế đối ngoại, các chính sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có ảnh
hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của sản phẩm hàng hóa trong
quốc gia đó.
Các cấp độ cạnh tranh có mối liên hệ hữu cơ với nhau, trong đó năng lực cạnh
tranh của hàng hóa dịch vụ là kết quả của năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh

tranh của doanh nghiệp, đồng thời năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trên thị
trường phản ánh một cách tổng quát nhất khả năng cạnh tranh quốc gia và doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của một quốc gia thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp ở quốc gia đó và năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa lại phản ánh năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa chịu tác động của
các yếu tố vĩ mô, được thể hiện ở năng lực cạnh tranh quốc gia và các yếu tố vi mô là
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy các giải pháp để nâng cao sức
cạnh tranh của hàng hóa bao gồm các giải pháp ở cả cấp độ quốc gia và cấp độ doanh
nghiệp. Để đánh giá được năng lực cạnh tranh của hàng hóa trong một giai đoạn nhất
định cần đánh giá năng lực cạnh tranh đó trong bối cảnh vận động của nền kinh tế trong
nước và quốc tế, so sánh nó với các sản phẩm cùng loại của các nước ở từng thời điểm
nhất định.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh hàng thủy sản xuất
khẩu

Cũng như các thuật ngữ kinh tế khác, khái niệm xuất khẩu hàng hóa được phân
tích dưới các góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, khái quát về xuất khẩu hàng hóa
được hiểu là việc bán hàng hóa cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện
thanh toán. Mục đích của hoạt động xuất khẩu hàng hóa là khai thác lợi thế của các quốc
gia trong phân công lao động quốc tế. Thực chất của hoạt động xuất khẩu hàng hóa là sự
trao đổi lao động kết tinh vào hàng hóa giữa các quốc gia. Thông qua hoạt động xuất
khẩu, các quốc gia phát huy được thế mạnh của mình để sản xuất những mặt hàng có lợi
thế so sánh để bán ra thị trường quốc tế và nhập khẩu về những sản phẩm phục vụ cho
sản xuất và tiêu dùng mà trong nước không có thế mạnh sản xuất.
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế ngày càng mở rộng và có tác động mạnh mẽ
đến tất cả các nền kinh tế trên thế giới như hiện nay, quá trình phân công lao động trên
phạm vi quốc tế ngày càng trở nên sâu sắc. Điều đó dẫn đến các quốc gia, các doanh
nghiệp ngày càng có nhiều cơ hội để tham gia vào thị trường thế giới, tập trung sản xuất
và xuất khẩu ra thế giới những mặt hàng mình có lợi thế. Nhưng mặt khác, tính gay gắt
trong cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp trong xuất khẩu những chủng loại

hàng hóa tương tự nhau ra thị trường thế giới, cũng ngày càng tăng lên. Để hàng hóa xuất
khẩu của doanh nghiệp thâm nhập và đứng vững trên thị trường quốc tế, tất yếu phải
nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng, từ đó có các biện pháp thích hợp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Mỗi chủng loại hàng hóa xuất khẩu có
những đặc điểm riêng, do vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh của một chủng loại hàng
xuất khẩu, thì một mặt phải chú ý đến các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
hàng xuất khẩu nói chung, mặt khác phải hết sức chú trọng đến các yếu tố đặc thù đối với
chủng loại hàng hóa đó.
Thủy sản là một ngành sản xuất nông nghiệp chuyên môn hóa hẹp, với các sản
phẩm chủ yếu phục vụ cho nhu cầu ăn - một nhu cầu thiết yếu của con người, các sản
phẩm của ngành thủy sản rất đa dạng như các loài tôm, cá, nhuyễn thể và các loại thủy
sản đặc biệt khác. Xuất khẩu thủy sản là việc bán ra nước ngoài những hàng hóa thủy sản
được khai thác, nuôi trồng, chế biến ở trong nước. Cũng như việc xuất khẩu các hàng hóa
khác, xuất khẩu thủy sản có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, mang lại

nguồn thu ngoại tệ, góp phần tăng tích lũy vốn cho người sản xuất, người xuất khẩu và
cho nền kinh tế nói chung. Năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu chịu ảnh
hưởng của các nhân tố tác động đến hàng hóa xuất khẩu nói chung và những nhân tố
riêng có, phù hợp với đặc thù của ngành thủy sản. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu có thể được chia thành hai nhóm chủ yếu đó là
các yếu tố thuộc môi trường cạnh tranh và các yếu tố thuộc về hàng hóa.
1.1.2.1. Các yếu tố thuộc môi trường cạnh tranh
- Điều kiện tự nhiên: Các yếu tố về điều kiện tự nhiên thuận lợi như vị trí địa lý,
khí hậu, tài nguyên thiên nhiên tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh
tranh.Vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí vận chuyển dẫn tới
giảm giá bán hàng hóa. Hoặc tài nguyên thiên nhiên phong phú giúp doanh nghiệp có
được khối lượng hàng hóa đầu vào ổn định với giá thấp. Đối với hàng thủy sản xuất khẩu,
yếu tố về điều kiện tự nhiên có tác động rất quan trọng đến việc nâng cao năng lực cạnh
tranh. Một quốc gia có bờ biển dài, hệ thống sông hồ thuận lợi cho việc nuôi trồng, đánh
bắt thủy sản với những chủng loại sản phẩm đa dạng, phong phú, có GTGT cao thì quốc

gia đó có những lợi thế rất lớn để phát triển ngành thủy sản nói chung, hàng thủy sản
xuất khẩu nói riêng. Thủy sản là một ngành kinh tế gắn chặt với điều kiện tự nhiên
không chỉ trong khâu đánh bắt, chế biến mà còn ở cả việc nuôi trồng, tạo nguồn giống và
việc vận chuyển đến các thị trường tiêu thụ.
- Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng
lực cạnh tranh của hàng hóa nói chung và hàng thủy sản nói riêng. Hệ thống cơ sở hạ
tầng bao gồm hệ thống điện, nước, viễn thông, đường, cầu, bến cảng đường sông, đường
biển, đường hàng không, kho tàng, bến bãi… Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ giúp doanh
nghiệp đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hóa, từ đó góp phần giảm chi phí đầu vào, hạ
thấp giá thành sản phẩm. Ngược lại, nếu cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu, chất lượng
dịch vụ thấp, giá cả đắt thì sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và xuất khẩu hàng
hóa. Cản trở nghiêm trọng nhất từ cơ sở hạ tầng đối với năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là hệ thống dịch vụ độc quyền, áp đặt giá quá cao với chất lượng dịch vụ thấp,
năng suất lao động và hiệu quả sử dụng phương tiện kém. Tỷ trọng chi phí về cơ sở hạ

tầng trong một đơn vị sản phẩm có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Nếu chi phí về điện, nước, viễn thông, thông tin liên lạc cao quá mức so với các nước
trong khu vực và trên thế giới nó sẽ làm giảm các lợi thế cạnh tranh khác như điều kiện
tự nhiên, lao động, sự ổn định chính trị xã hội v.v Hệ thống cơ sở hạ tầng lạc hậu và
yếu kém sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả đầu vào và do đó ảnh hưởng đến giá bán sản
phẩm.
- Kinh tế: Trước hết, tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và chính sách kinh tế
của một quốc gia có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước. Hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp chịu ảnh hưởng của những chính sách kinh tế của Chính phủ, do vậy các doanh
nghiệp cần xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với các chính sách kinh tế để nâng
cao hiệu quả hoạt động. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của Chính phủ được sử
dụng để điều tiết nền kinh tế, có tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Để tăng tổng cầu và tạo ra sự cạnh tranh cho các doanh nghiệp, Chính phủ có thể
tăng chi tiêu hoặc giảm thuế, hoặc Chính phủ có thể dùng chính sách mở rộng tài chính
và nới lỏng tiền tệ. Chính sách thương mại "mở" hay "đóng" sẽ có tác dụng thúc đẩy hay

hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Để thực hiện
chính sách thương mại "mở cửa", Chính phủ cần thỏa thuận để ký các hiệp định thương
mại song phương và đa phương với các nước, tham gia hội nhập thương mại quốc tế.
Việc hội nhập thương mại quốc tế sẽ buộc các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình, bởi vì mức độ cạnh tranh trên thị trường quốc tế gay gắt hơn rất nhiều so
với cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước.
- Chính trị: Môi trường chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế đất
nước nói chung, đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng. Sự ổn định về
chính trị ở từng quốc gia cũng như mối quan hệ chính trị tốt với các quốc gia khác sẽ tạo
môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu.
Các quan điểm, chính sách của Chính phủ tác động mạnh mẽ đến hoạt động của doanh
nghiệp trong việc xác định phạm vi, lĩnh vực, mặt hàng đối với từng thị trường và các đối
tác khác nhau. Sự hậu thuẫn của Chính phủ thông qua mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại

là nhân tố không thể không tính đến trong chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu của
các doanh nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp muốn chiếm lĩnh được thị trường, nâng cao
năng lực cạnh tranh thì việc tìm hiểu về hệ thống chính trị cũng như tình hình chính trị tại
các thị trường mà doanh nghiệp đó hướng tới, là rất cần thiết. Sự can thiệp của Chính phủ
các nước sẽ diễn ra với những mức độ khác nhau đối với doanh nghiệp của các quốc gia,
cho nên để thành công trong kinh doanh tại nước ngoài, các doanh nghiệp phải tìm hiểu
xem chính phủ nước đó được thành lập và hoạt động theo nguyên tắc nào, chính sách
ngoại thương, chính sách bảo hộ ngành kinh tế, bảo vệ người tiêu dùng… sẽ ảnh hưởng
như thế nào đến chiến lược xuất khẩu tại thị trường đó?
- Luật pháp, văn hóa xã hội: Luật quốc tế và luật của từng quốc gia có ảnh hưởng
trực tiếp đến tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia
thương mại quốc tế. Mỗi quốc gia đều có hệ thống luật pháp riêng điều chỉnh cho các
hoạt động thương mại quốc tế, do vậy để tạo điều kiện và môi trường kinh doanh thuận
lợi, các nước thường tiến hành ký các hiệp định thương mại, hiệp ước. Để đưa hàng hóa
xuất khẩu thâm nhập vào các thị trường trên thế giới, đặc biệt là thị trường của các nước
phát triển, có sức mua lớn, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thông hiểu chế độ luật pháp ở
các quốc gia đó. Đối với hàng thủy sản xuất khẩu, việc tìm hiểu các quy định về chính

sách bảo hộ ngành sản xuất, các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, đặc biệt
là tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, về chính sách thuế đối với các chủng loại sản
phẩm cụ thể… là rất cần thiết đối với các doanh nghiệp xuất khẩu.
Đối với yếu tố văn hóa, xã hội: Các tập tục truyền thống, quan điểm sống, thói
quen, tỷ lệ dân số, tỷ lệ sinh đẻ… đều là các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thị trường và
do đó ảnh hưởng đến nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các doanh
nghiệp nắm bắt tốt các thị hiếu, thói quen, tập quán tiêu dùng thì họ sẽ có cơ hội để gia
tăng thị phần hàng hóa của họ. Các khu vực khác nhau có thị hiếu tiêu dùng và nhu cầu
khác nhau do vậy đòi hởi doanh nghiệp phải có sự am hiểu nhất định về văn hóa của
nước sở tại để từ đó có chiến lược kinh doanh phù hợp với từng hoàn cảnh của môi
trường mới
1.1.2.2. Các yếu tố thuộc về hàng hóa

- Giá cả hàng hóa là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của
hàng hóa. Doanh nghiệp muốn có sức cạnh tranh cao thì doanh nghiệp đó phải xây dựng
được cách thức tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả bằng cách hạ giá thành
sản phẩm, giảm giá bán nhằm thu hút được nhiều người tiêu dùng. Để có thể hạ giá thành
sản phẩm, doanh nghiệp phải tích cực tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào với giá thấp,
nhân công rẻ, đồng thời phải đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào
trong sản xuất, giảm thiểu các khoản chi phí khác. Xuất khẩu thủy sản là khâu cuối trong
chuỗi các công đoạn từ nuôi trồng, đánh bắt đến chế biến, xuất khẩu. Do vậy, cạnh tranh
về giá của sản phẩm thủy sản xuất khẩu phụ thuộc vào việc hạ thấp chi phí ở các công
đoạn trước đó. Trong hoạt động đánh bắt thủy sản thì phải đầu tư đổi mới các phương
tiện đánh bắt, các phương tiện bảo quản hiện đại nhằm giảm thiểu tỷ lệ thối hỏng sau
đánh bắt. Đối với hoạt động nuôi trồng, phải chú trọng đến đầu tư thâm canh có trọng
điểm, chọn giống nuôi tốt, có năng suất cao. Đối với khâu chế biến phải đầu tư các dây
chuyền chế biến hiện đại, nâng cao năng suất lao động nhằm gia tăng hiệu suất thu hồi,
nâng cao tỷ lệ hữu ích của sản phẩm. Đối với lưu thông hàng hóa phải có các phương án
bảo quản, vận chuyển hợp lý nhằm giảm thiểu chi phí.

- Chất lượng hàng hóa: Với cùng một loại hàng hóa, nhưng hàng hóa nào có chất
lượng cao hơn, có thể là giá đắt hơn cũng sẽ được người tiêu dùng ưu tiên mua. Vì vậy,
chất lượng hàng hóa là yếu tố quan trọng hàng đầu để các doanh nghiệp sử dụng để cạnh
tranh với những doanh nghiệp khác. Chất lượng hàng thủy sản phụ thuộc vào một số yếu
tố: điều kiện tự nhiên, điều kiện kỹ thuật, trình độ công nghệ sản xuất; nếu doanh nghiệp
áp dụng các quy trình sản xuất hiện đại để nuôi trồng hay chế biến thì sẽ có lợi thế hơn
nhiều so với các doanh nghiệp áp dụng quy trình sản xuất lạc hậu, sản phẩm làm ra sẽ tốt
hơn đáp ứng được nhiều hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Cơ cấu hàng thủy sản phải đa
dạng, phù hợp với tập quán phong tục, thị hiếu tâm lý người tiêu dùng của nước nhập
khẩu. Hàng thủy sản là hàng thực phẩm, có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu
dùng, do vậy vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm là vấn đề mà các doanh nghiệp phải quan
tâm hàng đầu trong việc nâng cao sức cạnh tranh về chất lượng của hàng hóa.
- Kiểu cách, mẫu mã của hàng hóa và thương hiệu sản phẩm: Sản phẩm với tư

cách là hàng hóa sẽ được xem xét trên các chỉ tiêu về mức độ thỏa mãn đối với nhu cầu
của người tiêu dùng về một số yêu cầu về hình thức bao bì, nhãn mác sản phẩm. Bao bì
mẫu mã đẹp cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết phù hợp với thói quen tiêu dùng và
văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc, phù hợp với mỗi lứa tuổi là yếu tố rất quan trọng
trong cạnh tranh bằng sản phẩm, đặc biệt là đối với các sản phẩm thực phẩm, nó ảnh
hưởng trực tiếp tới quyết định tiêu dùng của người mua. Việc xây dựng thương hiệu tốt
cũng giúp doanh nghiệp thu hút ngày càng nhiều khách hàng và thâm nhập thành công thị
trường các nước nhập khẩu. Một sản phẩm thủy sản xuất khẩu chỉ có thể đứng vững và
phát triển trên thị trường quốc tế khi nó có một thương hiệu mạnh, có nghĩa là hình ảnh
của nó đã được nhiều khách hàng kiểm nghiệm và tin tưởng. Có thương hiệu trên thị
trường doanh nghiệp sẽ dễ thu hút thêm khách hàng mới, mở rộng thêm thị trường, thu về
nhiều lợi nhuận.
- Hệ thống phân phối, dịch vụ bán hàng: hệ thống phân phối được thiết kế hợp lý,
đa dạng hóa các kênh phân phối tương ứng với các cơ cấu sản phẩm đa dạng, phân định
được kênh phân phối chủ lực có ý nghĩa quan trọng trong việc tối thiểu hóa chi phí dành cho
hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Một hệ thống phân phối hợp lý bao gồm mạng lưới các đại lý,
các cơ sở trung tâm bán hàng giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa với

các hình thức bán buôn và bán lẻ vừa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và phù hợp
với khả năng thanh toán, vừa phù hợp với tập quán, phong tục của các địa phương. Hoạt
động dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng tốt cũng là điều kiện thuận lợi giúp doanh
nghiệp cạnh tranh có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp.
Trước khi bán hàng, các doanh nghiệp cần có các biện pháp thâm nhập thị trường,
tìm hiểu và nghiên cứu thị trường để có định hướng đúng đắn trong việc phát triển các loại
sản phẩm. Đồng thời doanh nghiệp sử dụng các biện pháp như quảng cáo tiếp thị, trưng
bầy giới thiệu sản phẩm để thu hút khách hàng. Trong khi bán hàng, doanh nghiệp phải
tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng về phương tiện vận chuyển, phương thức thanh
toán nhanh gọn, thực hiện chính sách khuyến mại… Sau khi bán hàng, doanh nghiệp cần
có dịch vụ hậu mãi tốt, đồng thời chú trọng đến việc thu thập các thông tin, các nhận xét
của khách hàng đối với sản phẩm của mình, để có sự điều chỉnh kịp thời cả về đầu tư sản

xuất và chiến lược tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu.
1.2. cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thị trường hàng thủy sản ở Mỹ
1.2.1.1. Chính sách thương mại của Mỹ
Mỹ là trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới. Mỹ là quốc gia có tài nguyên phong phú,
không những không bị ảnh hưởng nặng nề bởi hai cuộc đại chiến thế giới, mà ngược lại
nước Mỹ làm giàu từ các cuộc chiến tranh đó.
Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế lâu dài đã tạo cho Mỹ một sức mạnh kinh
tế khổng lồ và thu nhập cao cho người dân. Năm 2002, GDP của Mỹ là 10.450 tỷ USD,
chiếm trên 21 % tổng thu nhập của toàn cầu. Giai đoạn 1994-1999 là thời kỳ nước Mỹ
đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp thấp. Song từ năm
2000 trở lại đây tốc độ tăng trưởng GDP thực tế của nước này không ổn định và thấp hơn
so với mức bình quân của thập kỷ 90. Các nhà sản xuất của Mỹ có năng lực cạnh tranh
lớn và tiềm lực kinh tế mạnh, nên họ đã tuyên truyền cho chính sách tự do hóa thương
mại và đầu tư, cũng vì thế Mỹ đã trở thành một thị trường lớn có sức hấp dẫn các nước và
các nhà đầu tư nước ngoài hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.

Người dân Mỹ có nguồn gốc từ nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới nên nhu
cầu rất đa dạng, phong phú. Những đặc điểm riêng về địa lý và lịch sử đã hình thành nên
một thị trường tiêu dùng khổng lồ và đa dạng nhất thế giới. Mỹ vốn có thị trường quốc
nội rất lớn và đây cũng là một thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn nhất thế giới. Do đó có
thể nói, thị trường Mỹ có sức ảnh hưởng lớn đến thị trường thế giới và cả nền kinh tế các
nước trên thế giới. Mỹ là một thị trường xuất nhập khẩu có dung lượng lớn, phong phú và đa
dạng. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Mỹ bao gồm máy móc, thiết bị, các mặt hàng công nghiệp,
thiết bị vận tải các loại, hóa chất, nông sản, các loại hàng hóa khác. Các mặt hàng tiêu dùng
chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu hàng nhập khẩu của nước Mỹ. Với sức mua lớn và
đa dạng về chủng loại hàng hóa, Mỹ là một thị trường lý tưởng cho tất cả các nước trên
thế giới. Chất lượng hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ cũng rất linh hoạt, với nhiều phẩm cấp
đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng.
Mỹ là thị trường rộng lớn và thu hút mạnh mẽ hàng hóa xuất khẩu của các nước

trên thế giới. Chính vì vậy, mức độ cạnh tranh trên thị trường này diễn ra hết sức quyết
liệt. Tuy được coi là thị trường mở nhưng Mỹ lại có nhiều hàng rào kỹ thuật để cản trở
doanh nghiệp của nước xuất khẩu nếu họ làm ảnh hưởng đến lợi ích của người sản xuất
nước Mỹ. Đồng thời, các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm để bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng ở Mỹ cũng rất chặt chẽ. Nhìn chung, chính sách thương mại của Mỹ thể
hiện tính chất hai mặt: một mặt, Mỹ muốn các nước khác mở rộng thị trường đối với
hàng hóa Mỹ, mặt khác, Mỹ lại có những chính sách hạn chế đối với một số nước và khu
vực xuất khẩu vào thị trường Mỹ do các mục đích kinh tế và phi kinh tế của Mỹ. Hơn thế,
chính sách thương mại của nước Mỹ với các đối tác là không giống nhau, mà phụ thuộc
nhiều vào mối quan hệ về mặt chính trị giữa Mỹ với các khu vực, các quốc gia trên thế
giới.
Mỹ có hệ thống pháp luật thuộc loại phức tạp nhất trên thế giới, bao gồm hệ
thống luật liên bang, hệ thống pháp luật của mỗi bang hay khu hành chính. Mỹ luôn sử
dụng pháp luật quốc tế như là một vũ khí sắc bén để duy trì và củng cố vai trò cường
quốc số một trên thế giới. Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa ngày càng mở
rộng như hiện nay thì chính sách của Mỹ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quyết định của các
tổ chức thế giới như WTO, IMF, WB. Các quan điểm của Mỹ về tự do hóa thương mại quốc

×