Tải bản đầy đủ (.pdf) (180 trang)

LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 180 trang )







LUẬN VĂN:

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh
vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH






PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở Việt Nam, vị trí và đặc điểm của các nguồn
lực đang được đánh giá và nhìn nhận lại, trong đó con người được coi là nguồn lực nội tại,
cơ bản, quyết định thành công của công cuộc phát triển KT - XH. Đại hội lần thứ IX của
Đảng đã khẳng định: “Đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết
định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Có thể thấy
rằng, quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam được thực hiện trên cơ sở bảo đảm sự kết hợp hài
hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội theo hướng phát triển bền vững trong đó
nhân tố con người là trung tâm. Trong tiến trình đó, việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đang là những yêu cầu
hết sức cấp bách, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột
phá.


Trong nền kinh tế hiện đại, nguồn nhân lực đã trở thành động lực tăng năng suất lao
động, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và toàn bộ
nền kinh tế, đây chính là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Bởi vì,
chỉ có nguồn nhân lực mới có khả năng tiếp thu và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật,
công nghệ mới, công nghệ cao, sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác (vốn, khoa học -
công nghệ, tài nguyên thiên nhiên) trở thành động lực trong quá trình CNH, HĐH và hội
nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN là một chiến lược quan trọng trong quá trình phát
triển nền kinh tế quốc dân.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế phát triển
theo chiều sâu dựa chủ yếu vào tri thức, chúng ta càng nhận thức rõ hơn về vai trò quyết
định của nguồn nhân lực trong phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Các
lý thuyết tăng trưởng kinh tế gần đây đã cho thấy rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng
nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất 3 trụ cột cơ bản: “áp dụng công nghệ mới, phát


triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”. Trong đó, nguồn
nhân lực là yếu tố quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong một nền
kinh tế toàn cầu, đầy biến động và cạnh tranh quyết liệt, ưu thế cạnh tranh sẽ nghiêng về
các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và
xã hội ổn định. Một số nước ở khu vực châu Á đang điều chỉnh chiến lược cạnh tranh
trong tương lai - khi phát triển nền kinh tế tri thức, đã xác định phát triển nguồn nhân lực
là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất.
Tầm quan trọng của nguồn nhân lực không chỉ dừng lại ở nhận thức lý thuyết, ở tư
duy của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, mà điều này được khẳng định
trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, Đảng ta đã khẳng
định: “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”, đồng thời Nhà nước
đã có nhiều chính sách phát huy mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực, đã góp phần duy
trì tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở mức cao và ổn định. Trong quá trình phát triển,
tạo ra lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực sẽ là nguồn nội lực, là yếu tố nội sinh và động

lực to lớn để phát triển đất nước, đảm bảo đi tắt đón đầu, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển. Trong điều kiện ngày nay, trí tuệ con người giữ vai trò quyết định
sức mạnh của mỗi quốc gia, nó là tài nguyên của mọi tài nguyên. Nguồn nhân lực nếu
được khai thác hiệu quả trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ là giải
pháp đột phá nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển KT - XH trong tương lai.
Công cuộc đổi mới ở nước ta đã làm thay đổi cơ bản KT - XH, các địa phương
thuộc miền Đông Nam bộ cũng nằm trong xu thế vận động phát triển đó. Miền Đông Nam
bộ gồm 6 tỉnh, thành: Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh
và thành phố Hồ Chí Minh, đây là vùng kinh tế phát triển năng động nhất của các tỉnh phía
Nam và cả nước. Vùng ĐNB nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam - đầu tàu trong
phát triển của cả nước; là vùng duy nhất hội đủ các điều kiện và lợi thế để phát triển công
nghiệp, dịch vụ, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập; đặc biệt phát triển công
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện tử, tin học, công nghiệp dầu khí và sản phẩm hóa
dầu; phát triển dịch vụ cao cấp, dịch vụ du lịch, dịch vụ viễn thông, tài chính, ngân hàng;


nghiên cứu, ứng dụng và triển khai khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ cao,… phát triển các ngành kinh tế hiện đại.
Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu, nhiều cơ
hội mở ra thì song song đó cũng phải đối mặt với thách thức, nguy cơ. Trong đó, nguồn
nhân lực để đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao sức mạnh
cạnh tranh cũng là thách thức lớn. Phát triển Vùng ĐNB đến 10, 20 năm nữa chắc chắn sẽ
có thay đổi lớn như dân số phát triển, hạ tầng kinh tế kỹ thuật mở rộng, hình thành và phát
triển các cụm kinh tế kỹ thuật và khoa học công nghệ… tạo ra nhiều cơ hội mới cho các
nhà đầu tư trong và ngoài nước. Do đó, Vùng ĐNB rất cần nguồn nhân lực chất lượng cao
để đáp ứng yêu cầu này.
Mặt khác, hiện nay nguồn nhân lực của Vùng ĐNB chưa được chuẩn bị tương xứng
với yêu cầu CNH, HĐH. Ngành giáo dục chưa chủ động gắn kết quy hoạch phát triển giữa
các địa phương trong vùng; chưa dự báo được yêu cầu nhân lực cho từng ngành kinh tế
trong chiến lược phát triển KT - XH của cả Vùng trong dài hạn.

Tình trạng này cần phải khắc phục nhanh, vì nếu không nó sẽ không phát huy được
tiềm năng to lớn và triển vọng tăng trưởng cao từ chất lượng nguồn nhân lực của Vùng.
Điều đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu KT - XH của Vùng ĐNB trong giai đoạn
tới. Các quyết sách cho những vấn đề còn tồn tại cần đặt trong một chỉnh thể chiến lược
dài hơi hơn là những giải pháp rời rạc, tình huống. Chính vì thế, nhóm nghiên cứu lựa
chọn đề tài “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH” để nghiên cứu lúc này có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và
thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định đến
khả năng thực hiện thành công quá trình CNH, HĐH và hội nhập của nước ta, đặc biệt là
đòi hỏi của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Các công trình nghiên cứu
trong nước tập trung theo các vấn đề sau đây:


3.1. Quan niệm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực và phát triển
nguồn nhân lực.
- “Con người và phát triển con người”, Hồ Sĩ Quý, NXB Giáo dục, Hà Nội 2007.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác, cuốn sách nghiên cứu khả kỹ về khoa học con
người, làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu nguồn nhân lực.
- “Quan điểm của Đảng ta về: Bồi dưỡng, đào tạo và tôn vinh các doanh nhân có
tài, có đức và thành đạt”, Vũ Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 12 (187) 12-2006. Bài viết
tập trung luận giải sự đúng đắn quan điểm của Đảng ta về doanh nhân, là lực lượng đảm
đương vai trò tiên phong trong phát triển kinh tế, tạo động lực và để xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
3.2. Yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập.
- “Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH dựa trên tri thức của nước ta hiện
nay”, Đặng Hữu, Tạp chí Cộng sản, số 4/2005. Công trình nghiên cứu khá kỹ về yêu cầu
của CNH, HĐH và sự phát triển kinh tế tri thức, do đó cần phải có sự đổi mới trong giáo

dục. Tác giả nêu ra 3 nhiệm vụ cơ bản của nền giáo dục nước ta là: Nâng cao mặt bằng dân
trí; Đào nguồn nhân lực chất lượng cao thích nghi quá trình đổi mới và phát triển nhanh,
đáp ứng được nhu cầu rút ngắn quá trình CNH, HĐH dựa vào tri thức; Phải chăm lo bồi
dưỡng và phát triển đội ngũ nhân tài.
- “Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH - kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn
Việt Nam”, Vũ Bá Thể, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội 2005. Cuốn sách phân tích vấn
đề trên trong 3 chương. Chương 1, hệ thống hóa một số vấn đề liên quan đến nguồn nhân
lực, phát triển nguồn nhân lực, vai trò,…. Chương 2, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ở
nước ta: ưu điểm, hạn chế, xu hướng phát triển,…. Chương 3, xuất phát từ quan điểm của
Đảng và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực Việt Nam, nhóm tác giả đề xuất một số giải
pháp phát huy nguồn nhân lực ở nước ta.


Các công trình nghiên cứu trên phân tích khá sâu những đặc điểm, yêu cầu của quá
trình CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên,
các công trình này chỉ dừng lại ở tính khái quát, lý luận.
3.3. Vấn đề giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
- “Phát triển nhân tài chấn hưng đất nước”, Nguyễn Đắc Hưng, NXB CTQG, Hà
Nội 2007. Cuốn sách tập trung giới thiệu những phẩm chất cần có của nhân tài, kinh
nghiệm đào tạo, sử dụng nhân tài của ông cha ta và một số quốc gia trên thế giới, những
nội dung cơ bản về phát triển nhân tài.
- “Mô hình năng lực trong giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực”,
Nguyễn Hữu Lam, Tạp chí Phát triển kinh tế số 3/2004. Tác giả phân tích các lý thuyết về
mô hình năng lực trong giáo dục, đào tạo phát triển nguồn nhân lực có giá trị tham khảo
phục vụ cho nghiên cứu đề tài.
- “Một số vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam”, Vũ Thành Hưng, Tạp chí
Kinh tế và Phát triển, (số 90) 12/2004. Nội dung công trình phân tích những thành tựu và
hạn chế vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của nước ta, từ đó đề xuất một số kiến nghị nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua đào tạo.
Vấn đề giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực được các công trình trên đi

sâu phân tích. Tuy nhiên, hầu hết chưa đưa ra mô hình giáo dục - đào tạo phù hợp với điều
kiện hội nhập của Việt Nam, đáp ứng sự phát triển các ngành kinh tế hiện đại.
3.4. Phát triển nguồn nhân lực trong các loại hình doanh nghiệp.
- “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh”, Trần Kim Dung, Tạp chí Phát triển kinh tế số 3/2004. Công trình phân
tích và chỉ ra những bất cập trong hoạt động đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong các
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh qua số liệu điều tra 120 cá nhân về hoạt
động đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và 558 cá nhân về quan điểm của nhân viên trong
các doanh nghiệp.
- “Phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nhà nước”, Lê Thị Ngân, Nguyễn
Huy Oánh, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 4/2004. Công trình nghiên cứu thực trạng nguồn


nhân lực trong các doanh nghiệp nhà nước và nguyên nhân, từ đó xác định những giải
pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp này.
- “Thực trạng lao động trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam”, Lê Thị Ngân, Tạp chí Lý luận chính trị số 12/2003. Tác giả phân tích những đặc
điểm của lao động trong khu vực FDI ở Việt Nam, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm
nâng cao chất lượng lao động góp phần thu hút FDI ở Việt Nam.
Các công trình nêu trên đề cập đến những nội dung phát triển nguồn nhân lực ở cấp
độ doanh nghiệp, chưa nghiên cứu đến sự phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện hội
cho một vùng kinh tế.
3.5. Vai trò của Nhà nước, thị trường lao động và chất lượng nguồn nhân lực
- “Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và giải pháp”. Nguyễn Thị Thơm,
NXB CTQG, Hà Nội 2006. Cuốn sách trình bày những vấn đề cơ bản về thị trường lao
động, kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. Nội dung cuốn sách cung cấp cho người
đọc bức tranh tổng thể về thị trường lao động nước ta hiện nay.
- “Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội”, Bùi Văn Nhơn, NXB Tư Pháp,
Hà Nội 2006. Cuốn sách cung cấp cơ sở lý thuyết những nội dung cơ bản trong quản lý
phát triển nguồn nhân lực như: phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực , thị trường

lao động, các chính sách,…
- “Thị trường lao động; Vấn đề lý thuyết và thực trạng hình thành, phát triển ở Việt
Nam”, Phạm Đức Chính, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 308 (1/2004). Tác giả phân tích
khả kỹ những nội dung liên quan đến thị trường lao động như: Khái niệm thị trường lao
động; Bản chất của thị trường lao động; Những đặc trưng hoạt động của thị trường lao
động; Ý nghĩa của thị trường lao động và cuối cùng tác giả phân tích thực trạng thị trường
lao động ở Việt Nam, rút ra một số đặc điểm chủ yếu của thị trường lao động.
Các công trình đề cập tương đối toàn diện vai trò của Nhà nước trong việc phát
triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, các công trình mới chỉ dừng lại
những vấn đề chung và chưa đề cập nhiều đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong điều kiện hội nhập.


3.6. Khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực
- “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam”, Nguyễn Hữu Dũng, Nxb
Lao động - Xã hội, 2003. Cuốn sách trình bày hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến phát triển, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân
lực, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực trong
quá trình phát triển kinh tế ở nước ta đến năm 2020.
- “Hiệu quả sử dụng lao động ở nước ta và giải pháp nâng cao”, Nguyễn Thị
Thơm, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2003. Công trình đánh giá hiệu quả sử dụng lao
động ở nước ta trên các nội dung: mức độ toàn dụng lao động thấp, việc bố trí và sử dụng
lao động còn bất hợp lý, năng suất lao động hay hiệu quả hoạt động thấp, từ đó đưa ra
những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động ở nước ta.
Nhìn chung các công trình trên chủ yếu tập trung vào nội dung định tính để đánh
giá hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, chỉ đề cập đến một số chỉ số cơ bản và đặt ra nhiều
nội dung cần tiếp tục nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Để đạt mục tiêu nghiên cứu đặt ra, Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu

như: phân tích thống kê, phân tích định lượng, phương pháp chuyên gia và phương pháp
phỏng vấn sâu.
a. Phân tích thống kê: Sử dụng các số liệu thống kê, so sánh kết hợp với phương pháp
định lượng để tìm ra các kết luận khoa học.
b. Phương pháp chuyên gia: Tổ chức hội thảo trong quá trình thực hiện nhằm tìm kiếm
sự thống nhất trong các phân tích, đánh giá cũng như đề xuất các giải pháp, kiến
nghị. Chuyên gia là các cán bộ chỉ đạo thực tiễn của tỉnh và một số nhà nghiên cứu.
3. Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu chung của đề tài là xây dựng những luận cứ khoa học và căn cứ thực tiễn
về việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh miền Đông Nam bộ trong thời kỳ
hội nhập (về khái niệm, nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực, các tiêu chí


đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, xu hướng phát triển của nguồn nhân lực), những vấn
đề đang đặt ra cần giải quyết. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất hệ thống các quan điểm, giải
pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh Vùng ĐNB trong thời kỳ hội nhập.
Nhiệm vụ cụ thể của đề tài:
- Hệ thống lý luận về nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Phân tích hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn miền Đông Nam bộ,
xác định những hạn chế và nguyên nhân.
- Xây dựng những giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh miền
Đông Nam bộ trong thời kỳ hội nhập.
4. Đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề chất lượng nguồn nhân lực của Vùng ĐNB từ năm 2000
trở lại đây. Về mặt lý luận, chất lượng nguồn nhân lực là tổng hòa của ba yếu tố: thể lực,
trí lực và phẩm chất của người lao động. Đề tài nghiên cứu chất lượng nguồn nhân lực trên
3 nội dung cơ bản:
- Giáo dục - đào tạo và dạy nghề;
- Y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng;

- Vấn đề nghèo đói và thu nhập.
Đề tài được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và nâng cao nguồn nhân lực trong quá trình
CNH, HĐH và hội nhập
Chương 2: Phân tích hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực Vùng ĐNB trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH và hội nhập
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực miền Đông
Nam bộ trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
1.1.1.1. Quan điểm Mácxit về nguồn lực con người
Những thành tựu trong nhận thức về con người mà loài người đạt được ở thời đại
ngày nay là kết quả của sự tích luỹ những giá trị tinh hoa của nhân loại qua hàng nghìn
năm lịch sử. Trong đó, những cống hiến của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin có
tính chất quyết định, tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại.
Ngược dòng lịch sử nghiên cứu về con người có thể nhận thấy: thời cổ đại, do hạn
chế về thế giới quan, về điều kiện lịch sử, trình độ sản xuất còn thấp kém, khoa học chưa
phát triển, nên quan niệm của các nhà triết học còn phiến diện, mang nặng tính chất thần
bí, siêu hình. Sang thời phong kiến, triết học là nô tỳ" của thần học, các quan niệm về con
người mất hết ý nghĩa tích cực của nó. Con người được hiểu như là sự sáng tạo của
Thượng đế, không có khả năng làm chủ cuộc sống của mình. Thời kỳ Phục Hưng và Khai
Sáng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và dần dần thắng thế ở châu Âu
đã mở ra một thời kỳ mới trong việc khám phá bản chất con người. Quan niệm về con
người thường gắn với vai trò của nó trong xã hội, hướng tới giải phóng con người khỏi thần

học, khỏi các điều kiện nô dịch áp bức trong xã hội. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chủ nghĩa
duy vật siêu hình, các quan niệm về con người chỉ phản ánh những khía cạnh hạn hẹp, thiếu
tính hệ thống.
Như vậy, nghiên cứu những quan niệm về con người trước khi chủ nghĩa Mác ra đời,
chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sau:
- Các nhà triết học trước Mác mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và giải thích con người từ
nhiều phương diện với nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng cuối cùng vẫn chưa nhận


thức đúng đắn vị trí, vai trò của con người trong sự phát triển của xã hội, chưa đề ra được
những phương hướng, biện pháp nhằm giải phóng hoàn toàn con người.
- Phần lớn các học thuyết triết học trước Mác, khi quan niệm về con người thường
chỉ xuất phát từ một phía: bản thể tinh thần (Chủ nghĩa duy tâm), hoặc bản thể vật chất
(chủ nghĩa duy vật). Họ không thấy được mối quan hệ biện chứng giữa những yếu tố tự
nhiên, sinh học và những yếu tố xã hội của con người.
- Khi xem xét con người trong mối quan hệ với hoàn cảnh, các nhà triết học trước
Mác không thấy tính năng động, sáng tạo của con người, coi con người như một thực thể
thụ động trước tác động của hoàn cảnh.
Triết học mácxit trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những di sản lý luận trước
đó và những thành tựu của khoa học tự nhiên, xuất phát từ con người hiện thực và hoạt
động thực tiễn để xem xét bản chất con người. Trong quan niệm của triết học Mácxít con
người là một thực thể trong sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con
người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và
phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Luận đề nổi tiếng về con người
được C. Mác viết trong Luận cương về Phoi-ơ-bắc: Bản chất con người không phải là một
cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội" 26, tr.11 . Với quan niệm đó, C. Mác chỉ ra
rằng bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải tự nhiên mà
là lịch sử. Con người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội,
nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người. Ở đây, cá nhân được hiểu

với tư cách là những cá nhân sống, là người sáng tạo các quan hệ xã hội; sự phong phú của
mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó. Hơn thế,
mỗi cá thể là sự tổng hợp không chỉ của các quan hệ hiện có, mà còn là lịch sử của các
quan hệ đó. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự nhiên, xã hội, biến
đổi chính bản thân mình và đã làm nên lịch sử của xã hội loài người. Vạch ra vai trò của
mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành bản chất của con người, quan hệ giữa cá nhân và xã
hội là một cống hiến quan trọng của triết học mácxit.


Kế thừa những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tri thức triết học phương Đông
và vốn văn hoá dân tộc, luôn chú ý đến con người. Theo Hồ Chí Minh chữ người, nghĩa
hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả
loài người" 21, tr.644. Với ý nghĩa đó, khái niệm con người mang trong nó bản chất xã
hội, là con người xã hội, phản ánh các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng trong đó con người
hoạt động và sinh sống. Hồ Chí Minh thường đặt mỗi cá nhân con người trong mối quan
hệ ba chiều: quan hệ với một cộng đồng xã hội nhất định trong đó mỗi con người là một
thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội nhất định trong đó con người được làm chủ hay
bị áp bức bóc lột; quan hệ với tự nhiên trong đó con người là một bộ phận không thể tách
rời. Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống nhất giữa thể lực,
tâm lực, trí lực và sự hoạt động. Đó là một hệ thống cấu trúc bao gồm: sức khoẻ, tri thức,
năng lực thực tiễn, đạo đức, đời sống tinh thần Người cho con người là tài sản quý nhất,
chăm lo, bồi dưỡng và phát triển con người, coi con người là mục tiêu, động lực của sự
phát triển xã hội, là nhân tố quyết định thành công của cách mạng.
Nhận thức đúng đắn và khơi dậy nguồn lực con người chính là sự phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, xem con người với tư cách là nguồn sáng tạo có ý thức, là chủ thể
của lịch sử.
1.1.1.2. Khái niệm nguồn nhân lực
Theo Từ điển Tiếng Việt: Nguồn là nơi phát sinh, nơi cung cấp. Nhân lực là sức của
con người bao gồm: sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức được vận dụng vào quá trình
lao động của mỗi cá nhân (trí lực), những ham muốn, hoài bão của bản thân người lao

động hướng tới một mục đích xác định (tâm lực). Nhân lực với ý nghĩa đầy đủ của nó bao
gồm ba yếu tố có sự liên hệ biện chứng với nhau, đó là thể lực, trí lực, tâm lực. Nguồn
nhân lực được hiểu là nơi phát sinh, nơi cung cấp sức lực của con người trên đầy đủ các
phương diện cho lao động sản xuất.
Nguồn lực con người" hay nguồn nhân lực" là khái niệm được hình thành trong quá
trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là động lực của sự phát


triển. Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước gần đây đề cập đến khái niệm
nguồn nhân lực với các góc độ khác nhau.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: “ Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến
thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát
triển KT - XH trong một cộng đồng”. Việc quản lý và sử dụng nguồn lực con người khó
khăn phức tạp hơn nhiều so với các nguồn lực khác bởi con người là một thực thể sinh vật
- xã hội, rất nhạy cảm với những tác động qua lại của mọi mối quan hệ tự nhiên, kinh tế,
xã hội diễn ra trong môi trường sống của họ.
Ngân hàng Thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ “vốn người” (thể lực, trí
lực, kỹ năng nghề nghiệp ) mà mỗi cá nhân sở hữu. Nguồn lực con người được coi như là
một nguồn vốn bên cạnh các nguồn vốn khác như tài chính, công nghệ, tài nguyên thiên
nhiên
Ở nước ta, một số nhà khoa học tham gia chương trình khoa học - công nghệ cấp nhà
nước mang mã số KX - 07 cho rằng nguồn lực con người được hiểu là dân số và chất
lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm
chất, thái độ và phong cách làm việc. GS. Phạm Minh Hạc cho rằng “Nguồn nhân lực là
tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động
được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào
đó” 16, tr.269. TS Nguyễn Thanh xác định “nguồn nhân lực đó là tổng thể sức dự trữ,
những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con người trong
việc cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội” 33, tr.70.
Nghiên cứu các khái niệm trên cho thấy nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là lực

lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh thần
của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có khả năng đem ra
sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
Khái niệm nguồn nhân lực" (Human Resoures) được hiểu như khái niệm nguồn
lực con người". Khi được sử dụng như một khái niệm công cụ để điều hành, thực thi chiến
lược phát triển KT - XH, nguồn nhân lực bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi lao động,


có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có tham gia lao động - hay
còn được gọi là nguồn lao động. Bộ phận của nguồn lao động gồm toàn bộ những người từ
độ tuổi lao động trở lên có khả năng và nhu cầu lao động được gọi là lực lượng lao động.
Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm khác nhau
về nguồn nhân lực nhưng những khái niệm này đều thống nhất nội dung cơ bản: nguồn
nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Theo chúng tôi, con người với tư
cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ bản và
nguồn lực vô tận của sự phát triển thì không thể chỉ được xem xét đơn thuần ở góc độ số
lượng hay chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng; không chỉ là bộ
phận dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với những tiềm năng, sức
mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con
người với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức - tinh
thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào
quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Khái niệm nguồn lực con người bao quát được những mặt, những khía cạnh, phương
diện cơ bản của nguồn lực con người, khắc phục được những hạn chế trong nhận thức về
mối quan hệ biện chứng giữa các mặt số lượng và chất lượng con người với tổng hoà các
tiêu chí về trí lực, thể lực và tâm lực, khẳng định nguồn lực con người vừa là khách thể,
vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và quan hệ xã hội. Nói đến nguồn nhân lực tức là
nói đến con người đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình phát triển KT - XH. Ở đây, cần
lưu ý đến một số vấn đề sau:

Thứ nhất, con người không tồn tại một cách biệt lập, mà liên kết chặt chẽ với nhau
thành lực lượng thống nhất về tư tưởng và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp của
chỉnh thể người trong hoạt động. Xét ở khía cạnh này, nguồn nhân lực là tổng hợp những
con người với những phẩm chất nhất định đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình phát triển
KT - XH. Năng lực sức mạnh này bắt nguồn trước hết từ những phẩm chất vốn có bên
trong của mỗi con người và nó được nhân lên gấp bội trong tổng thể những con người cụ


thể. Do đó, khi đề cập đến nguồn lực con người về phương diện xã hội, chúng ta không thể
không bàn đến số lượng và chất lượng của nó. Trong đó:
+ Số lượng nguồn nhân lực chính là lực lượng lao động và khả năng cung cấp lực
lượng lao động được xác định dựa trên quy mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính, sự phân bố
dân cư theo khu vực và lãnh thổ.
+ Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trạng thái nhất định của nguồn lực con người
với tư cách vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh
tế và các quan hệ xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực là khái niệm tổng hợp bao gồm
những nét đặc trưng về trạng thái trí lực, thể lực, phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần
của nguồn nhân lực.
Như vậy, về phương diện xã hội, nói đến nguồn nhân lực là nói tới hàng loạt các vấn
đề về số lượng dân cư, sự phát triển dân số, lực lượng lao động, vấn đề phân bố và sử dụng
lao động, vấn đề tổ chức quản lý vĩ mô đối với nguồn nhân lực
Thứ hai, nói tới nguồn lực con người phải nói tới phương diện cá thể - chủ thể của
nó. Bởi vì, con người đóng vai trò chủ động, là chủ thể sáng tạo và chi phối toàn bộ quá
trình phát triển KT - XH, hướng nó tới mục tiêu đã được chọn. Phương diện này được hiểu
như là những yếu tố tạo thành cơ sở hoạt động của cá nhân và cơ sở để phát triển một con
người với tư cách là một cá nhân. Đó là sự kết hợp giữa trí lực, thể lực và những phẩm
chất khác của nhân cách.
+ Trí lực là toàn bộ năng lực của trí tuệ, tinh thần, quyết định phần lớn khả năng lao
động sáng tạo của con người. Trí tuệ được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu của nguồn
lực con người bởi tất cả những gì thúc đẩy con người hành động tất nhiên phải thông qua

đầu óc của họ". Khai thác và phát huy tiềm năng trí tuệ trở thành yêu cầu quan trọng nhất
của việc phát huy nguồn lực con người. Trí lực quyết định phần lớn khả năng sáng tạo của
con người, là yếu tố ngày càng có vai trò quyết định trong sự phát triển nguồn nhân lực,
đặc biệt là trong thời đại khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại do chính bàn tay, khối
óc con người làm ra mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ trong
lịch sử phát triển của mình. Với ý nghĩa đó, nhà tương lai học Mỹ Alvin Toffler đã khẳng


định rằng: “Tri thức có tính chất lấy không bao giờ hết được” và xếp quyền lực trí tuệ ở vị
trí hàng đầu trong tất cả các quyền lực đã có trong lịch sử.
+ Thể lực đó là trạng thái sức khoẻ của con người biểu hiện ở sự phát triển sinh học,
không có bệnh tật, có sức làm việc trong một hình thái lao động- nghề nghiệp nào đó, có
sức khoẻ để tiếp tục học tập, làm việc lâu dài…, là điều kiện đảm bảo cho con người phát
triển, trưởng thành một cách bình thường, hoặc có thể đáp ứng được những đòi hỏi về sự
hao phí sức lực, thần kinh, cơ bắp trong lao động. Trí lực ngày càng đóng vai trò quyết
định trong sự phát triển nguồn nhân lực, song, sức mạnh trí tuệ của con người chỉ có thể
phát huy được lợi thế trên nền thể lực khoẻ mạnh. Chăm sóc sức khoẻ cho người dân là
một nhiệm vụ rất cơ bản để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo tiền đề phát huy có
hiệu quả tiềm năng con người.
+ Đạo đức cá nhân phản ánh những giá trị và những chuẩn mực đạo đức xã hội.
Những giá trị và chuẩn mực đó phản ánh bản chất của xã hội, lý tưởng đạo đức mà xã hội
vươn tới, được cá nhân lĩnh hội và thể hiện trong đời sống của mình, nhất là trong hoạt
động lao động, trong lối sống và nếp sống hàng ngày. Các giá trị chuẩn mực đó phải thể
hiện thành hiệu quả công việc, đóng góp vào sự phát triển xã hội, vào sự hoàn thiện nhân
cách cá nhân. Đạo đức gắn liền với năng lực tạo nên những giá trị cơ bản của nhân cách,
của chất lượng nguồn nhân lực từ phương diện cá thể đến phương diện xã hội. Ngày nay,
cái đem lại lợi thế cho nguồn nhân lực ngoài trí lực và thể lực, còn phải tính đến phẩm chất
đạo đức, nhân cách con người. Bởi vì, trí lực cũng như thể lực chỉ có thể tạo ra sức mạnh
thúc đẩy tiến bộ xã hội khi chủ nhân của nó là những con người có phẩm chất đạo đức,
nhân cách tốt. Trình độ phát triển nhân cách, đạo đức đem lại cho con người khả năng thực

hiện tốt các chức năng xã hội, nâng cao năng lực sáng tạo của họ trong hoạt động thực tiễn
xã hội. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực, ngoài việc quan tâm nâng cao mặt bằng và đỉnh
cao dân trí, tới việc bồi dưỡng và nâng cao sức khoẻ cho mỗi con người, cho cộng đồng xã
hội, chúng ta phải đặc biệt coi trọng việc xây dựng đạo đức, nhân cách, lý tưởng cho con
người.
Như vậy, cấu thành nguồn lực con người xét từ phương diện cá thể, đó là một tổng
hợp các năng lực và giá trị về trí lực, thể lực và những phẩm chất tinh thần. Vì vậy, muốn


phát huy nguồn nhân lực trước hết phải phát triển cá nhân con người, tức là phải đầu tư
chăm lo cho sự phát triển về trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, tinh thần của từng con người, từng
thế hệ.
Thứ ba, vai trò của nguồn lực con người so với các nguồn lực khác trong quá trình
phát triển KT - XH đã được Đảng ta xác định là nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết
định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp.
Dĩ nhiên, ngay cả khi xã hội đã phát triển cao với tiềm lực phong phú dồi dào về vốn vật
chất thì “vốn người” vẫn không hề mất đi vai trò quyết định của nó. Điều đó được thể hiện
ở những điểm sau:
+ Các nguồn lực khác (vốn, tài nguyên thiên nhiên ) tự nó tồn tại dưới dạng tiềm
năng, chúng chỉ trở thành động lực của sự phát triển khi kết hợp với nguồn lực con người,
trở thành khách thể chịu sự cải tạo, khai thác và sử dụng của con người.
+ Các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, chỉ có nguồn nhân lực
với cốt lõi là trí tuệ mới là nguồn lực có tiềm năng vô hạn, biểu hiện ở chỗ trí tuệ con
người không chỉ tự sản sinh về mặt sinh học, mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển
về chất trong con người nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý.
Kinh nghiệm của nhiều nước đã cho thấy thành tựu phát triển KT - XH phụ thuộc
chủ yếu vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nhiều quốc gia đã
đặt con người vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển của mình. Nhận thức đúng
vai trò quyết định của nguồn lực con người và đầu tư cho chiến lược con người, đặt lên
hàng đầu chất lượng nguồn lao động, coi giáo dục - đào tạo là chìa khoá của sự tăng

trưởng đã đem lại thành công cho các nước công nghiệp mới Đông Á. Hàn Quốc từ một
trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành một trong những quốc gia công nghiệp
mới hùng mạnh nhất về kinh tế của thế giới thứ ba, vượt xa An-giê-ri - quốc gia có cùng
điểm xuất phát về trình độ cách đây 40 năm. Một nước Nhật đạt được những bước tiến
vượt bậc cũng do biết đặt vấn đề con người vào trung tâm của sự phát triển bằng các triết
lý nhân sự mang tính dân tộc, biết sử dụng nguồn lực con người thông qua các thành tựu


khoa học công nghệ và đã nhanh chóng bứt lên trở thành cường quốc kinh tế thứ hai trên
thế giới.
Do vậy, không phải ngẫu nhiên các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng
định: lịch sử phát triển chân chính của xã hội là lịch sử phát triển con người, do con người
và vì con người. Tiến trình phát triển lịch sử được quyết định bởi trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất trong đó người lao động ngày càng trở thành yếu tố quan trọng hàng
đầu. Nhận thức sâu sắc về vai trò của con người trong chiến lược phát triển KT - XH, Đại
hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người
vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng nhiều lần khẳng định mục tiêu và động lực chính của sự phát
triển là vì con người, do con người. Vì vậy, chiến lược ổn định và phát triển KT - XH, xét
về thực chất là chiến lược con người. Nâng cao dân trí, bồi dưỡng, phát huy nguồn lực to
lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH, HĐH đất
nước" 11, tr.21. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục
xác định: “nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững ” 12, tr.112. Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực
được coi là một trong ba khâu đột phá để làm chuyển động toàn bộ tình hình KT - XH.
Từ vai trò của nguồn lực con người đối với sự phát triển KT - XH, vấn đề tất yếu đặt
ra là phải phát huy được nguồn lực con người.
“Phát huy” là làm cho cái hay, cái tốt toả tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm. Theo đó
phát huy nguồn nhân lực chính là nâng cao vai trò của nguồn lực con người trong sự phát
triển KT - XH, qua đó làm gia tăng giá trị của con người.

Để hiểu rõ hơn vấn đề này, cần phân biệt khái niệm nguồn lực con người" với nhân
tố con người". Trước hết, nguồn lực con người" và nhân tố con người" có cùng nghĩa
như nhau khi đặt trong quan hệ với các nhân tố khác, nguồn lực khác (nguồn lực vật chất)
ở chỗ chúng đều biểu hiện những đặc trưng, thuộc tính cơ bản của con người như: là nhân
tố hoạt động, sống, khả năng tái sinh, tiềm năng vô tận của trí tuệ, tinh thần con người. Do
đó, phát huy nhân tố con người có thể hiểu như là phát huy nguồn lực con người, khi con


người trở thành một điều kiện, một tiềm năng cần phát huy để tạo ra động lực phát triển
của một quá trình xã hội.
Điểm khác nhau giữa hai khái niệm này: nguồn lực con người" được coi là khái
niệm công cụ cơ bản để xây dựng chiến lược phát triển KT - XH, theo quan điểm hệ thống
phải đặt nó trong mối quan hệ với các nguồn lực khác. Nó biểu hiện khả năng và phẩm
chất của lực lượng lao động cả về mặt số lượng và chất lượng. Còn nhân tố con người" là
cái cốt lõi, đặc trưng xã hội, giữ vị trí trung tâm trong tiềm năng của nguồn lực con người,
phản ánh bản chất xã hội, mặt chất lượng của nguồn lực con người, nhấn mạnh tính chất
tích cực, tự giác, sáng tạo của nguồn lực con người trong quan hệ với thể lực, kinh nghiệm
thói quen của chủ thể. Thực chất của việc phát huy nhân tố con người là hướng mỗi cá
nhân, đề cao tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của cá nhân hoặc đặt con người vào đúng vị trí
của nó để con người có cơ hội bộc lộ mình cống hiến cho sự phát triển. Nhưng chúng ta
chỉ hiểu được khái niệm nhân tố con người khi đặt nó trong hoạt động thực tiễn mà hoạt
động bản thân là hoạt động lao động. Vì vậy, khi nhấn mạnh hệ thống các chỉ số về chất
lượng lao động thì khái niệm nguồn lực con người là sự cụ thể hoá của khái niệm nhân tố
con người. Tuy nhiên, phát huy nguồn lực con người" xét theo quan điểm đầu tư cho sự
phát triển KT - XH bao hàm nghĩa rộng hơn phát huy nhân tố con người".
Phát huy nguồn lực con người thể hiện ở ba mặt: phát triển nguồn nhân lực, sử dụng
nguồn nhân lực và nuôi dưỡng môi trường cho nguồn nhân lực. Điều đó liên quan đến
hàng loạt vấn đề từ việc nuôi dưỡng, giáo dục - đào tạo đến việc tổ chức khai thác, sử dụng
nguồn nhân lực; từ việc phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của mỗi cá nhân đến
việc tạo môi trường xã hội thuận lợi cho sự cống hiến và hưởng thụ của con người; từ việc

nâng cao năng lực và phẩm chất của người lao động với tư cách là chủ thể nhận thức và
hoạt động thực tiễn trong quá trình phát triển KT - XH đến khâu khai thác hợp lý, có hiệu
quả trí lực, thể lực, tâm lực của họ với tư cách là khách thể của sự khai thác; từ việc sử
dụng con người với tư cách là một nguồn lực, động lực cho sự phát triển đến việc chăm lo
cho con người với tư cách là mục tiêu của sự phát triển KT - XH Những vấn đề trên nếu
được thực hiện tốt sẽ phát huy được vai trò của nguồn lực con người trong quá trình phát
triển KT - XH.


Trong bối cảnh ngày nay, vấn đề CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế của các
quốc gia là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong xu thế toàn cầu hóa. Quá trình CNH,
HĐH đã được các nước phát triển thực hiện thành công và các nước đang phát triển đang
trong quá trình đẩy nhanh tiến trình này. Hiện nay, trên phạm vi toàn cầu, khoa học và
công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, làm thay đổi vượt bậc trên tất cả các
mặt của đời sống con người. Việt Nam khẳng định con đường phát triển đi lên chủ nghĩa
xã hội, từng bước hiện đại hóa nền kinh tế là một nhiệm vụ trung tâm của quá trình phát
triển đất nước.
Định hướng phát triển trong giai đoạn cách mạng mới - giai đoạn đẩy mạnh CNH,
HĐH, nâng cao năng lực cạnh tranh và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta là
xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Vấn đề nguồn nhân lực hiện đang là một vấn đề trung tâm cần giải quyết cho quá
trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định: “ Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước
trong thời kỳ CNH, HĐH ”. Nguồn lực con người là điểm cốt yếu nhất của nội lực, do đó
phải bằng mọi cách phát huy yếu tố con người và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực (Human Resources) là nguồn lực con người, yếu tố quan trọng, năng
động nhất của quá trình tăng trưởng kinh tế của mọi quốc gia. Nguồn nhân lực được xác
định trong một thời gian và không gian nhất định của một quốc gia, vùng, lãnh thổ, địa

phương. Nguồn nhân lực khác với các nguồn lực khác (vốn, khoa học - công nghệ và tài
nguyên thiên nhiên) ở chỗ nó có khả năng hoạt động sáng tạo, tác động vào thế giới tự
nhiên, biến đổi thế giới tự nhiên. Trong quá trình lao động làm nảy sinh các mối quan hệ
lao động và quan hệ xã hội, nguồn nhân lực của một quốc gia được hiểu hiện trên hai khía
cạnh sau:
- Nguồn nhân lực là yếu tố đầu vào, nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ
phận quan trọng nhất của dân số, có khả năng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xã


hội. Nguồn nhân lực có thể hiểu là tổng thể những tiềm năng của con người (trước hết và
cơ bản nhất là tiềm năng lao động) của một quốc gia, vùng, lãnh thổ và địa phương. Tiềm
năng đó bao hàm tổng hòa năng lực về thể lực, trí lực, nhân cách của con người (lao động)
của một quốc gia (vùng, lãnh thổ), đó chính là tiềm năng của người lao động về số lượng,
chất lượng và cơ cấu.
- Với tư cách là khả năng đảm đương lao động chính của xã hội thì nguồn nhân lực
bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động theo luật định. Theo
cách hiểu này thì khái niệm nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động.
Nguồn nhân lực được hiểu là tổng hòa trong thể thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã
hội của con người (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã hội của con người.
Theo quy định của Tổng cục Thống kê thì nguồn nhân lực - dùng trong thống kê thị
trường lao động gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm (lao động đang làm việc)
và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang ở trong các tình
trạng sau đây:
- Đang thất nghiệp;
- Đang đi học;
- Đang làm nội trợ trong gia đình mình;
- Không có nhu cầu làm việc;
- Những người thuộc tình trạng khác chưa tham gia lao động.
1.1.1.3. Phát triển nguồn nhân lực
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển nguồn nhân lực. Theo

UNESCO, phát triển nguồn nhân lực là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn
phù hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Các nhà kinh tế có quan niệm
phát triển nguồn nhân lực gần với quan niệm của UNESCO là phải gắn với sản xuất, và chỉ
nên giới hạn phát triển nguồn nhân lực trong phạm vi phát triển kỹ năng lao động và thích
ứng với yêu cầu về việc làm.


Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO), phát triển nguồn nhân lực bao hàm phạm vi
rộng hơn, không chỉ là kỹ năng lao động, vấn đề đào tạo nói chung mà còn đề cập đến phát
triển năng lực và sử dụng năng lực đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả,
cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ
bổ sung, nâng cao kiến thức trong quá trình sống và làm việc. Theo Liên hợp quốc, phát
triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm
thúc đẩy phát triển KT - XH và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Như vậy, theo chúng tôi, phát triển nguồn nhân lực phải được tiếp cận với các nội
dung vừa là yếu tố sản xuất của tăng trưởng kinh tế, vừa là mục tiêu của tăng trưởng. Phát
triển nguồn nhân lực chính là phát triển con người có năng lực hoạt động kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội và sử dụng năng lực đó một cách có hiệu quả. Tóm lại, phát triển nguồn
nhân lực là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày
càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển KT - XH. Quá trình đó bao gồm phát triển thể lực,
trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, chuyên môn; nền văn hóa truyền thống
lịch sử dân tộc, ý chí của con người trong lao động (quá trình nâng cao thể lực, trí lực và
nhân cách).
1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH
CNH, HĐH là con đường tất yếu mà mọi quốc gia phải trải qua để phát triển. Cốt lõi
của quá trình CNH, HĐH là nâng cao trình độ công nghệ của đất nước. Sự phát triển của
khoa học công nghệ là chính là nền tảng của CNH, HĐH. Đổi mới và phát triển khoa học
công nghệ là phương thức nhanh nhất để đạt được mục tiêu phát triển KT - XH. Nghị
quyết hội nghị lần thứ 7 BCH TƯ Đảng (khóa VII) đã xác định: CNH, HĐH là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh

tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên những
thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao. Sự đổi mới
và phát triển công nghệ sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ có trình độ kỹ thuật, công
nghệ cao, có giá trị cao sẽ tạo ra sự tăng trưởng và phát triển cho nền kinh tế, cho phép


nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho sự phát triển. Chủ thể của quá trình này
không ai khác chính là nguồn lực con người.
Karl Marx đã từng khẳng định: con người là yếu tố quan trọng nhất, là chủ thể của
mọi hoạt động xã hội, từ hoạt động sản xuất vật chất đến các hoạt động văn hóa, chính trị -
xã hội. Con người với tư duy khoa học sáng tạo của mình là những chủ thể không ngừng
cải tạo thiên nhiên, phát triển xã hội và trong quá trình đó, không ngừng cải biến chính bản
thân mình. Và như vậy, trong mọi thời đại, nguồn lực con người luôn là nguồn lực quan
trọng nhất đối với sự phát triển của xã hội.
Nước ta đang tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến
chuyển. Thế kỷ 21 được dự báo là thế kỷ của nền kinh tế tri thức với sự phát triển vượt bậc
về khoa học - công nghệ. Ngay trong những thập niên đầu của thế kỷ này, sự phát triển
mạnh mẽ về khoa học công nghệ, sự bùng nổ về thông tin và truyền thông đang tạo ra
những biến đổi to lớn về nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường
với qui mô và mức độ ảnh hưởng ngày càng sâu rộng. Nếu trước đây, sự phát triển của mỗi
quốc gia dân tộc chủ yếu nhờ vào tài nguyên thiên nhiên, nguồn tư bản, thị trường… thì
trong giai đoạn hiện nay, tri thức, khoa học - công nghệ lại trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp có thể tạo nên sự thịnh vượng cho mỗi quốc gia dân tộc. Phát triển nền kinh tế tri
thức sẽ tiếp tục là ưu tiên trong chính sách phát triển của nhiều nước, nhất là tại các nước
công nghiệp phát triển. Kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gắn với
tự do hóa thương mại sẽ được đẩy mạnh; đầu tư, lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, lao động
và vốn ngày càng mở rộng… Thời đại kinh tế tri thức toàn cầu hóa có thể mang lại cơ hội
cho những nước đi sau rút ngắn khoảng cách phát triển bằng cách tiếp thu công nghệ mới
để hiện đại hóa nền kinh tế. Khi đã tham gia vào mạng lưới toàn cầu hóa, các nước đang

phát triển, về nguyên tắc có thể tìm kiếm các nguồn lực cho sự phát triển của mình không
chỉ từ những thứ mà các quốc gia này đang có, mà còn từ những cái đang hiện hữu trong
toàn bộ nền kinh tế thế giới.
Trong bối cảnh phát triển như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Tranh thủ
cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn


quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức,
coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH”[13, tr.87].
Để thực hiện mục tiêu trên, cần tập trung huy động các nguồn lực khác nhau như
vốn, tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị, công nghệ, khai thác các nguồn tài nguyên… Tuy
nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là phải có nhân lực thực hiện, hay nói cách khác, phát triển
nguồn nhân lực có kỹ năng, có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến là yếu tố quan trọng
hàng đầu để thực hiện chiến lược “đi tắt, đón đầu” trong quá trình CNH, HĐH đất nước
hiện nay. Vai trò động lực của sự phát triển luôn thuộc về con người. Chính con người với
sức mạnh trí tuệ và phẩm chất của mình là yếu tố quyết định hiệu quả của việc khai thác
các nguồn lực khác và do đó, là yếu tố quyết định sự phát triển thịnh vượng của mỗi quốc
gia dân tộc. Nhất là trong thời đại kinh tế tri thức và toàn cầu hóa hiện nay, khi sự phát
triển của kinh tế thị trường ngày càng dựa trên sự phát triển của tri thức; sức cạnh tranh
xoay quanh tâm điểm là hàm lượng chất xám khoa học trong giá trị sản phẩm. Nếu đầu thế
kỷ 20, hàm lượng đó chưa vượt quá 20% thì hiện nay ở nhiều sản phẩm đã đạt tới 80-90%.
Cơ sở duy nhất để có hàm lượng khoa học cao trong giá trị sản phẩm chính là chất lượng
nguồn nhân lực.
Sự phát triển KT - XH phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu
nhất vẫn là phụ thuộc vào con người. Xuất phát từ những yêu cầu khách quan, việc sử
dụng hiệu quả các nguồn lực có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển và hội nhập. Phát
huy, khai thác, sử dụng đúng các nguồn lực sẽ nâng cao năng lực và tạo cơ hội cho mọi
người đều có thể phát huy hết tài năng, tham gia vào quá trình phát triển. Nguồn lực nói
chung là một khái niệm rộng nó bao gồm hệ thống các nhân tố vật chất và tinh thần mà các
nhân tố này có khả năng góp phần thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của một quốc gia. Các

lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại đã chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng
nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản là: áp dụng công nghệ mới, phát
triển cơ sở hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó nguồn nhân
lực chất lượng cao trở thành động lực quan trong cho quá trình tăng trưởng kinh tế bền
vững. Trong nền kinh tế toàn cầu, năng lực cạnh tranh quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào
nguồn nhân lực, đây là cơ sở cho việc xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức.


Dưới góc độ phát triển bền vững (tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và
bảo vệ môi trường) thì phát triển nguồn nhân lực vừa là động lực, vừa là mục tiêu, điều
này càng có ý nghĩa đối với định hướng phát triển của Việt Nam - con người làm trung tâm
của sự phát triển. Muốn vậy, nguồn nhân lực phải được phát triển và huy động tối đa vào
quá trình phát triển KT - XH, đảm bảo có đủ việc làm, tiến đến nâng cao năng suất trên cơ
sở giải phóng năng lực xã hội, sáng tạo của con người.
Nguồn nhân lực còn được xem xét trong mối quan hệ biện chứng của tổng cung và
tổng cầu của nền kinh tế. Nguồn nhân lực với tư cách là chủ thể sáng tạo ra mọi của cải vật
chất và tinh thần. Trong quá trình phát triển, cùng với các nguồn lực khác (vốn, khoa học -
công nghệ và tài nguyên thiên nhiên), nguồn nhân lực được xem như năng lực nội sinh, chi
phối quá trình phát triển của mỗi quốc gia, khai thác và sử dụng các nguồn lực khác, do đó
nó giữ vai trò quyết định năng lực sản xuất quốc gia - tức tổng cung của nền kinh tế. Mặt
khác, để tồn tại và phát triển, nguồn nhân lực với tư cách là người sử dụng và tiêu dùng
hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế là một bộ phận của tổng cầu. Giữa tổng cung và tổng
cầu luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đây là hai nội dung quyết định đến tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Nhu cầu được đáp ứng sẽ trở thành động lực to lớn cho quá trình phát
triển xã hội. Ngược lại, nhu cầu đó không được đáp ứng, định hướng đúng vào việc phát
triển một xã hội văn minh, dân chủ và công bằng, thì ý nghĩa phủ định của nó là rất lớn,
làm trì trệ, kiềm hãm sự phát triển KT - XH.
Tầm quan trọng của nguồn nhân lực không chỉ dừng lại ở nhận thức lý thuyết, ở tư
duy của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, mà điều này luôn luôn được
khẳng định trong cuộc sống sinh động. Nguồn nhân lực là yếu tố vật chất quan trọng nhất,

quyết định năng lực của lực lượng sản xuất xã hội, trực tiếp sử dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, công nghệ mới trong quá trình tăng trưởng kinh tế.
Thực tế cho thấy, mô hình tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới cũng
như thực tiễn quá trình đổi mới đất nước của Việt Nam hơn 20 năm qua khi chuyển đổi
nền kinh tế sang cơ chế thị trường, Nhà nước đã có nhiều chính sách huy động các nguồn
lực cả trong và ngoài nước, trong đó nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định tốc độ và chất
lượng tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Do vậy, việc phát

×