LUẬN VĂN:
Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) tới phỏt triển kinh tế - xó hội ở
tỉnh Bình Dương
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, FDI đã đóng góp một phần quan trọng vào việc phát
triển kinh tế - xã hội như: các dự án FDI góp phần tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân
thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia, là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho công
cuộc phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao trình
độ kỹ thuật và công nghệ, phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế Việt
Nam, hội nhập với nền kinh tế thế giới, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân
lực, nâng cao mức sống cho người lao động,
Tuy nhiên trong thời gian gần đây, báo chí và một số phương tiện thông tin đại
chúng ở nước ta đã nêu nhiều mặt trái của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một số
ý kiến cho rằng: nguồn vốn FDI trong những năm qua đã tập trung chủ yếu vào đầu tư
xây dựng, khách sạn, du lịch và những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, chưa
có tỷ lệ thích đáng cho các ngành công nghệ cao và nông nghiệp. FDI đưa vào Việt
Nam nhiều máy móc, thiết bị lạc hậu đã qua sử dụng. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã xảy ra một số tranh chấp lao động mà biểu hiện là tình trạng ngược đãi
công nhân, vi phạm nhân phẩm người lao động, cường độ làm việc quá căng thẳng đã
dẫn đến các cuộc đình công, bãi công. Cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài luôn ở vị trí thứ yếu. Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
Không thể phủ nhận thành tựu đã đạt của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam trong những năm qua, song nó đã tạo ra một số vấn đề không lành mạnh và cần
khắc phục. Nhận thức đúng mức về những vấn đề nảy sinh để có phương hướng chỉ đạo
tiếp là cực kỳ quan trọng nếu chúng ta muốn Việt Nam trở thành nơi thu hút ngày càng
nhiều hơn vốn FDI.
Trong tình hình đó, Bình Dương là một trong số tỉnh thành thu hút vốn đầu tư
FDI nhiều nhất cả nước cũng không tránh khỏi những tác động tích cực và hạn chế của
FDI đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Để có căn cứ xây dựng và điều chỉnh chính
sách thì việc nghiên cứu, đánh giá được những tác động của FDI đến phát triển kinh tế -
xã hội ở tỉnh Bình Dương trong giai đoạn vừa qua là một việc làm hết sức cần thiết. Vì
vậy, vấn đề: " Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phỏt triển kinh tế -
xó hội ở tỉnh Bỡnh Dương " được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn nhằm đóng
góp một phần nhỏ trong việc xây dựng quê hương Bình Dương trong thế kỷ 21.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề FDI, trên từng khía cạnh khác nhau đã có nhiều tác giả và các công trình
nghiên cứu. ở Việt Nam, đã có:
Luận án tiến sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh tế ở Việt
Nam" của Mai Văn Lộc (1994).
Luận văn thạc sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển kinh tế ở Đồng Nai -
phương hướng và giải pháp" của Đỗ Thị Ngân Giang (2000).
Luận văn thạc sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội: Thực trạng và giải
pháp", của Nguyễn Thanh Tịnh (2003).
Luận văn cử nhân chính trị: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh. Thực trạng và giải pháp" của Trương Đăng Hùng (2004).
Đề tài cấp bộ, cấp cơ sở: "Những giải pháp kinh tế chính trị nhằm thu hút có hiệu
quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam", Chủ nhiệm đề tài PTS.
Nguyễn Khắc Thân, cơ quan chủ trì: Khoa Kinh tế chính trị (5/1994 - 5/1995).
Báo cáo nghiên cứu của Dự án: "Nâng cao năng lực nghiên cứu chính sách để
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam thời kỳ 2001-2010" của
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) với tiêu đề: "Tác động của đầu
tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam".
Các công trình khoa học nghiên cứu về FDI ở trên đã nghiên cứu các vấn đề: thu
hút và sử dụng hiệu quả FDI ở Việt Nam và các địa phương, nhưng chưa có luận văn,
luận án thạc sĩ nào nghiên cứu đến tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở
tỉnh Bình Dương trên góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
* Mục tiêu luận văn:
Nghiên cứu tác động FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương và
trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và giải pháp để phát huy tác động tích cực và hạn
chế tác động tiêu cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương trong
quá trình hội nhập kinh tế.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của FDI đối với phát triển
kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Bình Dương nói riêng.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng tác động của FDI đến phát triển kinh tế
- xã hội ở tỉnh Bình Dương chỉ ra những tác động tích cực cần phát huy và tác động
không lành mạnh của FDI cần khắc phục và nên tránh. Nguyên nhân của những tác
động đó.
- Trình bày các phương hướng và giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn
chế những ảnh hưởng không lành mạnh của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh
Bình Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao hàm nhiều phương diện, luận văn này không
nghiên cứu FDI nói chung với tất cả các mặt của nó mà chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề
tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương vì đó là yếu tố quyết
định đến việc xây dựng, điều chỉnh chính sách thu hút FDI và tối đa hoá lợi ích mà FDI
mang lại trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Kế thừa kết quả nghiên cứu
của các công trình có liên quan đến đề tài.
- Sử dụng phương pháp biện chứng mác xít, kết hợp với các phương pháp: phân
tích, tổng hợp, hệ thống hoá.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Trên cơ sở những luận cứ khoa học được xác lập, đi sâu phân tích, đánh giá thực
trạng tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương, từ đó làm nổi
rõ sự cần thiết phải phát triển mạnh mẽ những tác động tích cực đến phát triển kinh tế -
xã hội và phòng tránh những tác động tiêu cực. Sao cho nền kinh tế của Bình Dương nói
riêng và Việt Nam nói chung tăng trưởng nhanh và bền vững.
Kiến giải có căn cứ lý luận và thực tiễn những phương hướng, giải pháp cơ bản
phát triển những tác động tích cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình
Dương.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan tham mưu
của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bình Dương và các cơ quan hữu trách, dùng làm tài liệu tham
khảo trong các trường học, cơ sở đào tạo có liên quan đến FDI trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.
Chương 1
cơ sở lý luận và thực tiễn
về vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội
1.1. FDI với phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Khái niệm FDI và phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
FDI (Foreign Direct Invertment) là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước
ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực
tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư. Đặc điểm của hình thức đầu
tư trực tiếp là: các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu hoặc tối đa tuỳ
thuộc theo quy định chung của Luật đầu tư từng nước. Ví dụ, Luật đầu tư của Việt Nam
quy định "số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của
dự án", hay Luật đầu tư của nước Nam Tư trước đây quy định "phần của bên đối tác nước
ngoài không dưới 5% tổng số vốn đầu tư" [51, tr.32-33]. Trong khi đó ở Hàn Quốc luật quy
định tối đa bên phía nước ngoài góp 40% vốn pháp định. Quyền điều hành doanh nghiệp
phụ thuộc độ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn pháp định. Nếu góp 100% vốn pháp định
thì nhà đầu tư toàn quyền quyết định sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài được thực hiện dưới hình thức: đóng góp vốn để xây dựng xí nghiệp
mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần xí nghiệp đang hoạt động, mua cổ phần để thôn tính
hoặc sáp nhập.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất hiện từ thời tiền tư bản. Các công ty của Anh,
Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những công ty đi đầu trong lĩnh vực này dưới
hình thức đầu tư vốn vào các nước châu á để khai thác đồn điền và cùng với ngành khai
thác đồn điền là những ngành khai thác khoáng sản nhằm cung cấp các nguyên liệu cho
các ngành công nghiệp ở chính quốc. Khi chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn mới thì
hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nước công nghiệp phát triển càng có quy mô to
lớn hơn. Trong thế kỷ 19, do quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên mạnh mẽ, các
nước công nghiệp phát triển lúc bấy giờ đã tích luỹ được những khoản tư bản khổng lồ,
đó là tiền đề quan trọng đầu tiên cho việc xuất khẩu tư bản. Theo nhận định của Lênin,
trong tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" thì việc
xuất khẩu tư bản đã trở thành đặc trưng cơ bản của sự phát triển mới nhất về kinh tế
trong thời kỳ "đế quốc chủ nghĩa". Tiền đề của việc xuất khẩu tư bản là: tư bản thừa
xuất hiện trong các nước tiên tiến. Nhưng thực chất vấn đề đó là một hiện tượng kinh tế
mang tính tất yếu khách quan, khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức
độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển
của sức sản xuất xã hội, đến độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia,
hình thành nên quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. Thông thường khi nền kinh tế ở
các nước công nghiệp đã phát triển, việc đầu tư ở trong nước không còn mang lại nhiều
lợi nhuận cho các nhà tư bản, vì lợi thế so sánh ở trong nước không như trước nữa. Để
tăng cường lợi nhuận, các nhà tư bản ở các nước tiên tiến đã thực hiện xuất khẩu tư bản.
Vì ở đó các chủ đầu tư nước ngoài khai thác những lợi thế của nước chủ nhà về: tài
nguyên, lao động, thị trường để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đối với các tập
đoàn kinh tế xuyên quốc gia thì việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp thực hiện bành
trướng, mở rộng thị phần và tối ưu hoá hạch toán doanh thu, chi phí lợi nhuận thông
qua hoạt động "chuyển giá". Giảm chi phí kinh doanh khi đặt trụ sở sản xuất, dịch vụ
gần vùng nguyên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ. Tránh được hàng rào bảo hộ mậu
dịch ngày càng tinh vi, vì xây dựng được cơ sở kinh doanh nằm "trong lòng" các nước
thực thi chính sách bảo hộ mậu dịch. Đầu tư trực tiếp cho phép các chủ đầu tư tham dự
trực tiếp kiểm soát và điều hành doanh nghiệp mà họ bỏ vốn theo hướng có lợi nhất cho
chủ đầu tư. Thông qua hoạt động trực tiếp đầu tư các nhà đầu tư nước ngoài tham dự
vào quá trình giám sát và đóng góp việc thực thi chính sách mở cửa kinh tế theo cam kết
thương mại và đầu tư song phương và đa phương của các chủ nhà.
Theo Lênin, thông qua xuất khẩu tư bản, các nước tư bản thực hiện việc bóc lột đối
với các nước lạc hậu và thường là thuộc địa của nó. Nhưng cũng chính Lênin đưa ra chính
sách "kinh tế mới" đã nói rằng: Những người cộng sản phải biết lợi dụng những thành tựu
kinh tế và khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản thông qua hình thức "chủ nghĩa tư bản
nhà nước". Theo quan điểm này nhiều nước đã "chấp nhận" phần nào sự bóc lột của chủ
nghĩa tư bản để phát triển kinh tế như: khai thác vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài. Nhiều
nước thiếu vốn trầm trọng nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp không quy định mức đóng
góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp vốn càng nhiều thì càng được hưởng
những chính sách ưu đãi về thuế của nước chủ nhà. FDI giúp tiếp thu công nghệ tiên tiến và
kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các chủ đầu tư nước ngoài. Nhờ đó FDI cho phép
nước chủ nhà có điều kiện khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về tài nguyên, vị trí,
mặt đất, mặt nước Sự cạnh tranh, ganh đua giữa các nhà đầu tư có vốn trong nước và
nước ngoài tạo động lực kích thích sự đổi mới và hoàn thiện trong các nhà doanh nghiệp và
đâu là nhân tố quan trọng đưa nền kinh tế phát triển với tốc độ cao. Các dự án FDI góp
phần giải quyết việc làm và nâng cao mức sống của người lao động. Với những ưu điểm
trên FDI giúp cho các nước tiếp nhận phát triển kinh tế nhanh hơn tự thân vận động hay đi
vay vốn để mua lại kỹ thuật của các nước công nghiệp phát triển.
Mặt khác, mức độ "bóc lột" của các nước tư bản còn tuỳ thuộc vào điều kiện
kinh tế chính trị của các nước tiếp nhận đầu tư tư bản. Nếu như trước đây hoạt động
xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc chỉ phải tuân theo pháp luật của chính họ, thì
ngày nay các nước nhận đầu tư đã là các quốc gia độc lập có chủ quyền, hoạt động đầu
tư nước ngoài phải tuân theo pháp luật, sự quản lý của Chính phủ sở tại và thông lệ
quốc tế, nếu các Chính phủ của nước chủ nhà không phạm phải những sai lầm của quản
lý vĩ mô thì có thể hạn chế được những thiệt hại của hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Bảng 1.1: Lợi thế của doanh nghiệp FDI so với doanh nghiệp nước
tiếp nhận đầu tư [58, tr.36]
Lợi thế Mô tả
Vốn
Có vốn lớn và chi phí vốn thấp hơn so với các doanh nghiệp
trong nước
Trình độ
quản lý
Có trình độ quản trị doanh nghiệp tốt hơn, có khả năng dự báo
và xác định rủi ro cũng như lợi nhuận tốt hơn
Công nghệ
Có công nghệ tiên tiến, có khả năng ứng dụng công nghệ vào
sản xuất, có khả năng phát minh ra công nghệ mới và áp dụng
trong sản xuất
Marketting
Có khả năng nghiên cứu thị trường, quảng cáo và phân phối sản
phẩm
Mua nguyên
vật liệu
Có những ưu đãi trong việc tìm kiếm và mua nguyên vật liệu
phục vụ cho quá trình sản xuất
Thoả thuận
với Chính phủ
Có khả năng đàm phán thoả thuận để được hưởng những ưu đãi
từ phía Chính phủ của nước tiếp nhận đầu tư
1.1.1.2. Phát triển kinh tế - xã hội
Phát triển là quá trình qua đó một xã hội người cùng nhau phấn đấu đạt tới chỗ thoả
mãn được các nhu cầu mà xã hội ấy coi là cơ bản và hiện đại. Theo nghĩa rộng, "xã hội" bao
gồm cả các khía cạnh như "chính trị" và "phát triển con người". Nếu như trước đây nói đến
thành quả của sự phát triển kinh tế, xã hội, người ta chỉ tập trung vào tốc độ tăng trưởng cao
của nền kinh tế mà bỏ qua những yếu tố khác, thì ngày nay quan niệm về phát triển kinh tế -
xã hội được đề cập ở trên đã có những thay đổi căn bản. Bên cạnh yếu tố phát triển kinh tế
nhanh và chất lượng, thì các vấn đề khác như phát triển xã hội và bảo vệ môi trường đã trở
thành những thành phần cơ bản của quá trình phát triển. Phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ
nhanh bền vững và chất lượng cao đang dần trở thành một vấn đề có tính cấp bách, vừa có
tính chiến lược đối với tất cả các quốc gia.
Công cuộc đổi mới của Việt Nam kể từ khi Đại hội VI của Đảng (12/1986) đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước đến nay đã trải qua gần 20 năm. Một trong những
nội dung đổi mới then chốt là chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm giải phóng và phát triển lực
lượng sản xuất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng xã
hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Kể từ sau Đại hội VI, công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước ngày càng đi vào chiều sâu, đồng thời quan niệm về con đường phát
triển của nước ta cũng từng bước được định hình ngày càng rõ nét. Đại hội VII của
Đảng (6/1991) lần đầu tiên đã đưa ra công thức: "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước" [14]. Công thức này về sau được Đại hội VIII của Đảng (6/1996) điều chỉnh
thành: "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN" [17]. Tiến lên một bước,
Đại hội IX của Đảng (4/2001) đã điều chỉnh thành: "Phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN" và xem đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ
quá độ lên CNXH. Trong mô hình này, chúng ta sử dụng cơ chế thị trường với tư cách
là thành quả của nền văn minh nhân loại làm phương tiện để năng động hoá và đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Đồng thời, chúng ta đề cao vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh" [18].
Mô hình kinh tế tổng quát được xác định tạo cơ sở rất quan trọng cho sự hình
thành những quan niệm về phát triển kinh tế - xã hội. Nếu liên hệ với ba trụ cột của phát
triển bền vững là "tăng trưởng kinh tế nhanh", "xã hội ổn định, tiến bộ" và "môi trường
trong sạch" thì có thể nhận thấy rằng những chủ trương được vạch ra trong các nghị
quyết quan trọng của Đảng đều hướng tới phát triển bền vững. Văn kiện Đại hội VI của
Đảng khẳng định phải gắn kết chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem "trình độ
phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục
tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế Trên cơ sở phát triển sản xuất,
tăng thêm thu nhập quốc dân, từng bước mở rộng quỹ tiêu dùng xã hội, làm cho nó giữ
vị trí ngày càng lớn trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá và các sự
nghiệp phúc lợi khác" [13, tr.86]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, được thông qua tại Đại hội VII của Đảng, chỉ rõ: "Phương hướng lớn nhất
của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng bình
đẳng về quyền lợi, về nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã
hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt
với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội" [14, tr.13].
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 1991 - 2000 được thông qua tại
Đại hội VII của Đảng nêu rõ: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường" [15, tr.9]. Nghị quyết Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (1/1994) nhấn mạnh thêm: "Tăng
trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát
triển" [16, tr.47]. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định những nội dung cốt lõi có
liên quan đến phát triển bền vững. Đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
10 năm 2001 - 2010, được thông qua tại Đại hội IX, Đảng ta đã đặt ra nhiệm vụ: "Phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải
thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo và môi trường thiên
nhiên giữ gìn đa dạng sinh học" [18, tr.162].
Theo những chủ trương nêu trên, các cơ quan chức năng và các chủ thể có liên quan
đã hoạch định và thực thi các thể chế, chính sách nhằm từng bước thực hiện mục tiêu phát
triển bền vững. Ngày 17 tháng 8 năm 2004, Chính phủ đã ban hành "Định hướng chiến
lược phát triển bền vững ở Việt Nam" (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là
một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở để các Bộ, các địa
phương, các tổ chức và cá nhân triển khai thực hiện. Cho đến nay, nhiều nội dung cơ bản
về phát triển bền vững đã đi vào đời sống và dần dần trở thành xu thế phát triển tất yếu của
đất nước. Điều này phần nào cho thấy quan niệm về phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền
vững và chất lượng cao ở nước ta từng bước trở nên sáng rõ hơn.
Công cuộc tổng kết thực tiễn của nước ta, phân tích kinh nghiệm trên thế giới và
nghiên cứu lý luận bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống luận điểm và đường lối phát triển đất
nước vừa có ý nghĩa cơ bản vừa có tính thời sự cấp bách. Cùng với những cố gắng của
Hội đồng lý luận Trung ương, gần đây một số nhà nghiên cứu đã có một số công trình
nghiên cứu về vấn đề này.
Bảng 1.2: Một số tiêu chí chủ yếu đánh giá tốc độ, tính chất bền vững
và chất lượng của sự phát triển kinh tế - xã hội [1, tr.76-77]
Tiêu chí ý nghĩa
* Phát triển
- Tốc độ tăng GDP (hay GNP)
Mức độ tăng về quy mô của nền kinh
tế.
- Cơ cấu ngành
Trình độ phát triển
- GDP bình quân đầu người
Phản ánh chất lượng của tăng trưởng
và phát triển.
- Năng suất lao động (GDP/LĐ)
Phản ánh chất lượng của tăng trưởng
và phát triển.
- Xuất, nhập khẩu/ GDP Độ mở cửa nền kinh tế
- Tỷ trọng GDP ngành phi nông
nghiệp trong nền kinh tế
Đánh giá mức độ công nghiệp hoá.
- Tỷ lệ ngành dịch vụ/ sản xuất Đánh giá độ hài hoà của sự phát triển.
- Tỷ lệ GDP ngành dịch vụ/ dân số Mức độ hưởng thụ các sản phẩm dịch vụ
của dân cư.
- Hệ số GINI Đo mức độ chênh lệch giữa các nhóm
dân cư theo thu nhập
- Tỷ lệ đầu tư cho chi phí sản xuất
trong tổng đầu tư.
Đánh giá mức độ đầu tư cho công nghiệp
hoá.
* An sinh xã hội
- HDI Chỉ số phát triển con người liên quan đến
ba mặt: thu nhập, kiến thức và tuổi thọ.
- HPI Chỉ số đánh giá mức độ nghèo đói
* Báo đảm môi trường
- Chất lượng môi trường:
- Tỷ lệ CO
2
, CO, SO
2
, chì trong không
khí.
- Hệ số mất đất, độ che phủ rừng.
Tình hình ô nhiễm không khí, nước, đất,
rừng và đa dạng sinh học.
- Đầu tư cho BVMT/ tổng đầu tư. Mức độ tái tạo, bảo vệ môi trường.
Những trình bày trên đây đã phần nào thể hiện sự tiến triển về quan niệm phát
triển kinh tế - xã hội tốc độ nhanh, bền vững và chất lượng cao ở Việt Nam trong thời
kỳ 20 năm đổi mới vừa qua.
1.1.2. Quan niệm của Đảng và Nhà nước về FDI trong phát triển kinh tế - xã
hội
Cho đến nay, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vai trò của đầu tư
nước ngoài nói chung, FDI nói riêng đã có nhiều thay đổi. Những thay đổi này xuất phát
từ thực tiễn của nền kinh tế và do thay đổi về bối cảnh kinh tế trong khu vực và thế giới.
Nếu như trước năm 2000, các doanh nghiệp FDI chưa được coi như một chủ thể độc lập
trong nền kinh tế thì từ Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) trở lại đây, khu vực FDI đã
được khẳng định là một trong các thành phần cùng tồn tại trong nền kinh tế.
Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) và Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), tuy không
tách riêng khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thành một "thành phần kinh tế"
trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam, song đã ghi nhận sự hợp tác liên
doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước ngoài, khẳng định khu vực đầu tư nước
ngoài: "có vai trò to lớn trong động viên về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý "
[17]. Với quan điểm như vậy, chính sách đối với khu vực có vốn FDI trong thời kỳ này
chủ yếu hướng vào việc khuyến khích các nhà đầu tư liên doanh với các doanh nghiệp
nhà nước của Việt Nam hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế, trừ những lĩnh vực có
tầm quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế quốc dân và an ninh quốc phòng.
Năm 2001, lần đầu tiên khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được công
nhận là một thành phần kinh tế với vai trò "hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm "
[18]. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (khoá IX), Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đề ra nhiệm vụ "phải tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài" [19].
Theo đó, chính sách thu hút FDI trong thời gian tới sẽ tập trung vào nâng cao
chất lượng FDI vào Việt Nam thông qua việc thu hút mạnh hơn nữa các tập đoàn xuyên
quốc gia đầu tư vào các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là các lĩnh
vực công nghệ cao, công nghệ nguồn. Thay đổi trong nhận thức và quan điểm của Đảng
và Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là cơ sở quan trọng để
Chính phủ sửa đổi và hoàn thiện các văn bản pháp luật về cơ chế chính sách thu hút vốn
FDI đối với hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong những năm gần đây.
Đảng và Nhà nước có những quan điểm về nâng cao hiệu quả và tăng thu hút vốn
FDI để phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới:
Một là, phải biến những yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh. Khi nói về việc
tranh thủ sự viện trợ quốc tế, Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: "Ta phải khéo dùng cái
vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta, nhân dân và cán bộ ta chớ
nên ỷ lại, mà phải tự lực tự cường" [43, tr.289]. Muốn vậy phải có các chủ trương chính
sách sao cho việc thu hút vốn nước ngoài góp phần hình thành một nền kinh tế phát
triển có hiệu quả.
Việc nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và vốn đầu tư nước ngoài phải góp phần
khơi dậy và phát huy nội lực. Trên cơ sở phát huy nội lực mà thực hiện nhất quán lâu
dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài.
Hai là, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi giữa các đối tác nước ngoài
và trong nước. Các nhà đầu tư đưa vốn vào nước ta tất nhiên phải thu nhiều lợi
nhuận hoặc tìm nguyên liệu quý hiếm. Để khuyến khích họ yên tâm và hăng hái kinh
doanh không những cần phải đảm bảo quyền lợi sở hữu hợp pháp của họ mà còn
phải có những ưu đãi để họ thu được lợi nhuận thoả đáng thậm chí lợi nhuận cao,
nhưng phải là lợi nhuận từ phát triển kinh doanh, nâng cao năng suất lao động và
cạnh tranh lành mạnh chứ không phải từ việc lợi dụng thế yếu của các đối tác trong
nước và kể cả sở hữu của luật pháp.
Về phía chúng ta, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng phải đưa lại
hiệu quả, thể hiện ở chỗ:
- Góp phần khai thác các nguồn lực trong nước để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
bền vững, tăng thu ngân sách nhà nước.
- Tăng việc làm, tăng trình độ lành nghề và tăng thu nhập của công nhân.
- Tiếp thu được những bí quyết về công nghệ, về kinh doanh, kinh nghiệm quản
lý để trong tương lai cán bộ và công nhân ta có thể tự vận hành những doanh nghiệp
mới.
- Tác động vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước.
Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội. Chỉ quan tâm đến tăng trưởng kinh tế, tạo ra việc làm, tăng thu nhập của
công nhân, tăng thu ngân sách Chưa hẳn đã có tiến bộ và công bằng xã hội. Cần nhận
thức rằng sự ra đời của các khu công nghiệp gắn với quá trình hình thành các đô thị, các
thị trấn. Việc quản lý đô thị khác với quản lý nông thôn, đòi hỏi cao hơn về kết cấu hạ
tầng, về bảo vệ môi trường, an ninh, về các loại dịch vụ, nhất là dịch vụ công cộng
Không chỉ là tổ chức và quản lý những khu dân cư mới mà quan trọng hơn phải có
chương trình xây dựng một đội ngũ công nhân mới mà đa số vừa xuất thân từ nông dân, từ
học sinh hay những người lao động tự do, làm cho họ không chỉ nâng cao về tay nghề mà
cả về ý thức chính trị, lập trường giai cấp công nhân, về lối sống nhân văn, hiện đại; phòng
ngừa và ngăn chặn các tệ nạn xã hội; xây dựng quan hệ chủ thợ lành mạnh, đảm bảo lợi ích
chính đáng của cả hai bên.
1.2. Mối quan hệ giữa FDI với phát triển kinh tế - xã hội
1.2.1. Những ảnh hưởng tích cực của FDI đến quá trình phát triển kinh tế -
xã hội ở Việt Nam
Đầu tư quốc tế được thực hiện ở Việt Nam dưới hai hình thức cơ bản: Đầu tư
trực tiếp nước ngoài và tín dụng quốc tế chủ yếu thực hiện qua thu hút vốn ODA. 18
năm qua kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời ở Việt Nam (12/1987 - 12/2005) hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có sự đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã
hội thể hiện qua các mặt:
Thứ nhất, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế:
Vốn FDI có bước chuyển tích cực, tổng mức vốn đăng ký đạt 20,9 tỷ
USD. Vượt trên 39% so với kế hoạch; tổng vốn thực hiện 14,3 tỷ USD, vượt
30% so với kế hoạch và tăng 13,6% so với 5 năm trước. Năm 2005, các
doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP, chiếm 31,2% tổng kim ngạch xuất
khẩu (chiếm khoảng 50% nếu tính cả dầu khí), đóng góp gần 10% tổng thu
ngân sách nhà nước (tính cả dầu khí thì trên 36%), tạo việc làm cho khoảng 1
triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp [20, tr.152-153].
Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy, xét
về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư
trong nước, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư cho phát triển. Đóng góp của FDI trong đầu
tư xã hội biến động lớn, một phần phản ánh diễn biến thất thường của nguồn vốn này,
một phần thể hiện những thay đổi về đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước. Giai
đoạn 1994-1995, tỷ trọng của FDI trong tổng đầu tư xã hội lên tới 30-31%, là mức cao
nhất cho đến nay. Tỷ lệ này đã giảm dần và năm 2004, FDI thực hiện ước còn chiếm
15,5% trong tổng đầu tư toàn xã hội (xem sơ đồ 1.1).
Tính đến ngày 20 tháng 3 năm 2004, Chính phủ Việt Nam đã cấp giấy phép
cho 5.400 dự án đầu tư nước ngoài. Trừ các dự án hết thời hạn hoạt động hoặc bị giải
thể trước thời hạn, hiện còn 4.376 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký là 41
tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư này, tạo ra lực phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế: Các
dự án đầu tư nước ngoài hiện chiếm 35% giá trị sản lượng công nghiệp của Việt
Nam, cụ thể: khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 100% các dự án khai thác dầu thô,
sản xuất lắp ráp ô tô; sản xuất máy giặt, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ; thiết bị văn
phòng máy tính. Các dự án đầu tư nước ngoài chiếm 60% sản lượng thép cán; 55%
sản xuất sợi các loại phục vụ cho ngành công nghiệp dệt may; 49% sản lượng sản
xuất da và giày dép; 76% dụng cụ y tế chính xác; 35% sản xuất máy móc thiết bị
điện; 28% tổng sản lượng xi măng; 29% về thực phẩm và đồ uống
Sơ đồ 1.1: FDI thực hiện so với tổng đầu tư toàn xã hội và đóng góp
của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP (giá hiện hành) [55]
1 7
2 3
2 6
3 1
3 0 . 4
2 6
2 8
2 0 . 8
2
2 . 6
1 6 . 3
1 7 . 51 7 . 61 8
1 7 . 3
1 5 . 5
1 3 . 8
1 3 . 3
1 2 . 2
1 0
9 . 1
6 . 36 . 4
6 . 1
1 4 . 5
1 5 . 2
7 . 4
0
5
1 0
1 5
2 0
2 5
3 0
3 5
1 9 9 1 1 9 9 2 1 9 9 3 1 9 9 4 1 9 9 5 1 9 9 6 1 9 9 7 1 9 9 8 1 9 9 9 2 0 0 0 2 0 0 1 2 0 0 2 2 0 0 3 2 0 0 4
% s o v í i t æn g ® Ç u t x · h é i % ®ã n g g ã p t r o n g G D P
Đầu tư nước ngoài là kênh vốn quan trọng góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng
kinh tế: Thời kỳ 1991 - 1995 vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư
xã hội; thời kỳ 1996 - 2000 số vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,8 lần so với giai đoạn
trước đó, chiếm 24% tổng vốn đầu tư xã hội. Riêng trong hai năm 2001, 2002 vốn
đầu tư nước ngoài chiếm 18,5% tổng vốn đầu tư xây dựng.
Thứ hai, các dự án đầu tư nước ngoài góp phần tăng thu ngân sách, góp phần cải
thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia: Với hàng ngàn dự án đang
hoạt động đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng GDP của Việt
Nam. Năm 1993 chiếm 3,3%; năm 1995 chiếm 6,3%; năm 1998 chiếm 10,1%. Từ
năm 2000 đến năm 2004 mỗi năm đều chiếm trên 13% của Việt Nam. Theo số liệu
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì giai đoạn 1996 - 2000 thu từ khu vực đầu tư nước
ngoài chiếm 6-7% nguồn thu ngân sách quốc (nếu kể cả ngành dầu khí thì chiếm gần
20% thu ngân sách).
Bảng 1.3: Đóng góp của các dự án FDI đối với phát triển kinh tế Việt Nam [51, tr.27]
FDI
89-
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
200
0
200
1
200
2
200
3
200
4
T
ỷ trọng
trong GDP
(%)
1,0
1,5
2,0
3,6
6,1
6,3
7,4
9,1
10,
0
11,
8
12,
7
13,
1
13,
9
14,
3
14,
5
Ngoài ra, với hoạt động xuất khẩu các dự án đầu tư FDI góp phần cải thiện cán
cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại của Việt Nam: không kể dầu khí thì kim
ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài thời kỳ 1991 - 1995 đạt trên 1,12 tỷ
USD; thời kỳ 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ USD; năm 2001 đạt 3,67 tỷ USD; năm 2002:
4,5 tỷ USD (xem bảng 1.4). Nhiều mặt hàng xuất khẩu quan trọng do các dự án FDI
thực hiện: xuất khẩu dầu thô 10%; giày dép 42%; hàng dệt may 25%; 84% hàng điện tử,
máy vi tính và linh kiện. Tỷ trọng trị giá hàng xuất khẩu so với doanh thu của các dự án
FDI tăng nhanh 30% ở thời kỳ 1991 - 1995 lên 48% thời kỳ 196-2000 và đạt 50% vào
năm 2002; trên 50% năm 2003 [51, tr.27].
Bảng 1.4: Tình hình xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài
(không kể dầu thô) [51, tr.28]
Đơn vị tính: triệu USD
FDI 91 92 93
94 95 96 97 98 99 2000
2001
2002
2003
2004
Xuất
khẩu
52 112
260
352
336
788
1.790
1.982
2.547
3.300
3.670
4.500
5.900
8.600
XK
so v
ới
doanh
thu
(%)
34,4
49,1
533
34,3
16,3
28,7
46,9
50,7
55,4
53,5
48,1
50 79 132
Thứ ba, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế Việt Nam theo hướng CNH, HĐH. ở những năm 1988-1995 đầu tư nước ngoài chủ
yếu thực hiện trong các ngành bất động sản: Xây dựng khách sạn, khu nghỉ mát, khu
chế xuất, văn phòng cho thuê thì thời kỳ 1996-2003 đầu tư trực tiếp nước ngoài thực
hiện nhiều hơn vào các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ: chiếm 53% vốn đăng ký
và 73% vốn thực hiện, các dự án đầu tư vào dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ kỹ
thuật tăng 1,4 lần ở thời kỳ này [24]. Hiện đầu tư nước ngoài chiếm gần 38% sản lượng
công nghiệp của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 20%. Đầu tư nước
ngoài có vai trò quan trọng trong việc hình thành các khu chế xuất và khu công nghiệp ở
Việt Nam.
Thứ tư, các dự án đầu tư nước ngoài đóng góp quan trọng trong nâng cao trình
độ kỹ thuật và công nghệ của Việt Nam. Thông qua các dự án đầu tư FDI nhiều công
nghệ mới, hiện đại đã đưa vào sử dụng ở Việt Nam trong các ngành tìm kiếm, thăm
dò và khai thác dầu khí, ngành bưu chính viễn thông, sản xuất vi mạch điện tử, sản
xuất máy tính, hoá chất, sản xuất ô tô, thiết kế phần mềm Những dự án này đóng
góp đáng kể để tăng khả năng cạnh tranh của công nghệ Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế (xem bảng 1.5).
Bảng 1.5: Mức độ hiện đại của máy móc thiết bị sử dụng trong các khu vực kinh tế
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh so với tiêu chuẩn quốc tế (năm 1999) [51,
tr.29]
Khu vực
Tỷ lệ những
thiết bị hiện
đại (modern)
Mức độ hiện
đại trung bình
(so với thiết bị
hiện đại nhất)
Khoảng cách
trung bình (so
với những thiết
bị hiện đại
(Moderate) nhất) (obsolete)
Công cộng 11,4 53,1 35,5
Các công ty Trung ương 10,6 60,6 28,8
Các công ty địa phương 11,9 48,6 39,5
Không phải công cộng 6,7 27 66
Công ty tư nhân 20 30 50
Kinh tế gia đình 3,6 22,8 73,6
Công ty đầu tư nước ngoài 44,4 55,6 0,0
Ngoài ra, sự sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại ở các dự án FDI, cũng tạo
ra sự kích thích các doanh nghiệp nội địa phải đầu tư đổi mới công nghệ để tạo
được những sản phẩm có khả năng cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài trên thị trường nội địa và xuất khẩu.
Các mô hình quản lý và các phương thức kinh doanh hiện đại của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới tư duy
quản lý kinh doanh và công nghệ để tăng khả năng cạnh tranh.
Thứ năm, các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập nhanh với
nền kinh tế thế giới. Cho đến hết năm 2003 đã có 74 quốc gia và lãnh thổ có dự án đầu
tư vào Việt Nam, trong đó có trên 80 công ty xuyên quốc gia nằm trong 500 công ty
xuyên quốc gia hàng đầu thế giới, chính những dự án này có tác động không nhỏ tới
thay đổi cơ chế chính sách quản lý kinh tế Việt Nam theo hướng hội nhập quốc tế chúng
tác động đến xoá bỏ sự bao vây, cấm vận quốc tế đối với Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam gia
nhập ASEAN, ký kết trên 100 hiệp định song phương và đa phương trong đó có hiệp
định thương mại Việt - Mỹ.
Ngoài ra trên 50% trị giá sản phẩm của các dự án đầu tư nước ngoài được xuất
khẩu ra thị trường thế giới góp phần nâng cao thị phần sản phẩm và uy tín của Việt Nam
trên thị trường quốc tế.
Thứ sáu, đầu tư nước ngoài góp phần giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn
nhân lực và nâng cao mức sống cho người lao động. Số lao động làm trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng (xem bảng 1.6). Một số lượng đáng
kể các nhà quản lý kinh doanh và người lao động được đào tạo trong và ngoài nước góp
phần làm cho chất lượng lao động tăng lên, đây là nhân tố quan trọng góp phần làm cho
môi trường đầu tư của Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh.
Ngoài ra, các dự án FDI thông qua lương mang lại thu nhập cho người lao động,
góp phần cải thiện đời sống. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2003:
lương bình quân của công nhân trong các dự án đầu tư nước ngoài là 76-80 USD/tháng;
của kỹ sư: 220-250 USD/tháng, của cán bộ quản lý khoảng 490-510 USD/tháng. Tổng
thu nhập của người lao động của các dự án FDI hàng năm trên 500 triệu USD, đây là
nhân tố góp phần tăng sức mua cho thị trường xã hội.
Bảng 1.6: Số lượng việc làm cho khu vực FDI tạo ra [51, tr.30]
ĐVT: 1000 người
FDI
91-
95
96 97 98 99 2000
2001
2002
2003
2004
Giải quy
ết việc
làm
200 220 250 279 296 349 450 590
665 739
Tóm lại, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, cho nên Chính phủ cần quan tâm đến hoàn
thiện môi trường đầu tư để tăng tính hấp dẫn trong thu hút vốn đầu tư FDI. Đạt được
những kết quả tích cực trong thu hút và sử dụng vốn FDI. Xuất phát từ những nguyên
nhân chủ yếu sau:
Nước ta duy trì ổn định chính trị, an ninh được đảm bảo, được đánh giá là địa
bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, chủ động hội nhập,
tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Ngoài ra, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng
cao, dung lượng thị trường trong nước lớn (khoảng 80 triệu dân) cũng thu hút sự quan
tâm của các nhà đầu tư quốc tế. Môi trường đầu tư từng bước được cải thiện. Hệ thống
luật pháp, chính sách về đầu tư nước ngoài dần được hoàn thiện đã tạo khuôn khổ pháp
lý rõ ràng và thông thoáng cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài như: công tác điều
hành của Chính phủ các Bộ, ngành và chính quyền địa phương đã tích cực, chủ động
trong việc thực hiện lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản
xuất, tiếp tục thực hiện cải cách hành chính và tháo gỡ các khó khăn cho việc triển khai
dự án, công tác vận động xúc tiến đầu tư cũng được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp.
Đặc biệt nhiều chuyến thăm, làm việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở nhiều
quốc gia đã gắn với việc quảng bá hình ảnh Việt Nam và vận động xúc tiến đầu tư -
thương mại. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả tích cực đã đạt được, hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam những năm qua bộc lộ những mặt hạn chế cần
khắc phục.
1.2.2. Những hạn chế của FDI trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
Qua 18 năm (1987 - 2005) thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, nước ta đã thu
được những thành tựu quan trọng trong thu hút FDI phục vụ công cuộc xây dựng, đổi
mới đất nước. FDI đã góp phần xứng đáng vào việc tạo nên những thành tựu to lớn về
kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian qua. Mặc dù vậy, trong lĩnh vực này vẫn
còn không ít vấn đề đặt ra. Những hạn chế, cản trở đang làm kém sự hấp dẫn và hiệu
quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, đó là:
1.2.2.1. Về phía Việt Nam
Thứ nhất, môi trường đầu tư của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đó là về các lĩnh
vực như: luật pháp, cơ chế chính sách, cơ sở hạ tầng, buôn lậu, hàng giả, hàng nhái, hệ
thống công nghiệp hỗ trợ
Về pháp luật, cơ chế chính sách, mặc dù trong những năm qua luật đầu tư nước
ngoài của Việt Nam đã được sửa đổi nhiều theo hướng ngày thông thoáng, thuận lợi cho
đầu tư nước ngoài nhưng không ít nhà đầu tư vẫn còn băn khoăn, than phiền về tình
trạng thiếu tính hệ thống, ổn định, minh bạch và khả thi của luật pháp. Bộ máy hành
chính - tổ chức quản lý của ta còn rườm rà, nhiều khi chồng chéo nhau. Trong khi đó, sự
hợp tác giữa các bộ, ngành, địa phương còn kém hiệu quả, thủ tục đầu tư, đặc biệt là thủ
tục triển khai dự án vẫn còn phức tạp. Nhiều chuyên gia về đầu tư nước ngoài vẫn chưa
hài lòng về môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Theo điều tra của tổ chức xúc
tiến thương mại Nhật Bản năm 2003 thì 42% doanh nghiệp Nhật Bản được hỏi đều trả
lời rằng, khó khăn nhất của họ tại Việt Nam là thủ tục hành chính, trong khi đó con số
này ở Thái Lan là 12%, Inđônêxia là 22% [25].
Cơ sở hạ tầng (đường sá, cầu cống ) còn yếu kém, ô nhiễm môi trường (do bụi,
khói xe, nước thải, rác công nghiệp ). Tình trạng tắc đường giao thông; nhà ở cho công
nhân còn thiếu thốn và trở thành vấn đề bức xúc hiện nay, nhất là ở Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh, Bình Dương - những nơi thu hút nhiều dự án đầu tư mà công nhân phần
lớn từ tỉnh ngoài về làm việc, không có nhà ở đang gây trở ngại trong việc thu hút và
triển khai các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Hệ thống công nghiệp hỗ trợ của ta còn yếu, làm cho chi phí kinh doanh cao.
Đây là một trong những nguyên nhân làm kém sức hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài
vào nước ta. Nạn buôn lậu, hàng hoá, hàng nhái ở nước ta còn phổ biến trong khi chúng
ta chưa có những biện pháp ngăn chặn hiệu quả. Hàng lậu, hàng giả, hàng nhái với giá
rẻ tràn ngập thị trường không những có hại đến sức khoẻ nhân dân, đến tâm lý nhà sản
xuất và người tiêu dùng, đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội mà còn làm
nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài khi họ có ý định đầu tư vào sản xuất một sản phẩm
nào đó. Hơn nữa, cho đến nay, Việt Nam chưa tham gia vào WTO nên không được
hưởng những quy chế ưu đãi của tổ chức này về đầu tư và thương mại sẽ góp phần làm
giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam.
Thứ hai, về nguồn nhân lực. Có thể nói hiện nay nước ta đang thiếu một đội ngũ
lao động có trình độ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đầu tư nước ngoài cũng như để
cạnh tranh với các nước trong khu vực. Điều đó đã hạn chế việc tiếp thu kỹ thuật và
công nghệ hiện đại. Đây là yếu tố bảo đảm sự bền vững lâu dài trong việc thu hút đầu tư
nước ngoài nói riêng và sự nghiệp CNH, HĐH của nước ta nói chung. Thêm vào đó,
trình độ của một bộ phận cán bộ ta tham gia quản lý liên doanh còn nhiều yếu kém,
chưa có nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực này, lại mắc tệ tham ô, hối lộ đã phần nào làm
nản lòng các nhà đầu tư cũng như góp phần làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước
ngoài.
Thứ ba, thiếu một quy hoạch dài hạn về tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Thiếu quy
hoạch sẽ khó tránh khỏi đầu tư dàn trải, trùng lắp và để lại những hậu quả khó khắc
phục về sau. Hiện nay, có thể nói, có một phong trào là các tỉnh, địa phương đang "trải
thảm đỏ" kêu gọi đầu tư nước ngoài. Để thu hút đầu tư nước ngoài, một số địa phương
đã vượt quá thẩm quyền của mình, ưu đãi quá mức nhà đầu tư, làm tổn hại tới quyền lợi
của địa phương và đất nước, làm rối môi trường đầu tư chung của cả nước đưa đến tình
trạng chồng chéo nhau, dàn trải trong việc tiếp nhận các dự án và các địa phương không
bổ sung được cho nhau.
Thứ tư, cuộc cạnh tranh gay gắt giữa Việt Nam với các nước trong việc thu hút
đầu tư nước ngoài. Hiện nay, nhiều nước nhất là những nước gần nước ta như: Trung
Quốc, các nước thành viên ASEAN khác đang là đối thủ cạnh tranh với Việt Nam trong
việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong cuộc cạnh tranh gay gắt này, Trung Quốc,
nhiều nước thành viên ASEAN một mặt có những thế mạnh tương tự như nước ta (lao
động dồi dào với giá nhân công rẻ, tài nguyên phong phú ), mặt khác, có ưu thế hơn
hẳn ta (về cơ sở hạ tầng, công nghiệp hỗ trợ, kinh nghiệm trong việc quảng bá, kêu gọi
đầu tư).
Thứ năm, tình trạng mất đất nông nghiệp diễn ra nhanh chóng cùng với quá trình
đẩy mạnh xây dựng các dự án đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng. Để thu
hút đầu tư, nhiều vùng đất nông nghiệp trồng lúa tốt, thuận tiện giao thông được phép
san lấp để xây dựng các nhà máy, xí nghiệp. Hậu quả của điều này là đất nông nghiệp bị
giảm nghiêm trọng, nhất là những vùng đất màu mỡ, có nguy cơ đe doạ đến an ninh
lương thực của đất nước và một bộ phận lớn nông dân bị mất việc làm, phát sinh nhiều
hiện tượng tiêu cực xã hội.
Thứ sáu, việc quảng bá, giới thiệu về môi trường, tiềm năng đầu tư của Việt Nam
với nước ngoài. Đây là một công việc rất cần thiết để các doanh nghiệp nước ngoài hiểu
về tiềm năng, môi trường đầu tư của nước ta từ đó có thể thu hút đầu tư từ họ nhưng vấn
đề này trong thời gian qua chưa được chúng ta chú ý đúng mức làm giảm đi phần nào
sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ông Oliver Schnakenberg
- Tham tán Đại sứ quán Đức tại Việt Nam nói: Với sự thiếu hụt này, Việt Nam đã đánh
mất cơ hội tự giới thiệu mình với các nhà đầu tư.
1.2.2.2. Về phía các nhà đầu tư vào Việt Nam
Thứ nhất, hiệu quả của hoạt động đầu tư chưa cao. Thể hiện trước hết của điều
này là vẫn còn khá phổ biến hiện tượng rút giấy phép, huỷ bỏ hợp đồng đầu tư, kinh
doanh thua lỗ. Tình trạng rút giấy phép còn khá phổ biến. Trong ba năm 1988-1990, số
dự án FDI bị rút giấy phép bình quân 2 dự án/ năm; giai đoạn 1991-1995, con số này
tăng lên bình quân 47 dự án/ năm; giai đoạn 1996-2000 là 80 dự án/năm; giai đoạn
2001-2002 tăng lên đến 95 dự án/ năm. Đi liền với sự tăng lên của số dự án bị rút giấy
phép, số vốn đầu tư bị rút xuống cũng tăng lên qua từng giai đoạn. Tổng số vốn bị rút
giấy phép trong giai đoạn 1988 - 2002 là 10 tỷ USD. Năm 2003, tại thành phố Hồ Chí
Minh, có khoảng 80% số dự án đăng ký bị giải thể hoặc rút giấy phép, con số này ở Hà
Nội là khoảng 30%. Nguyên nhân chính của tình hình này có thể do môi trường đầu tư
của Việt Nam còn những hạn chế như đã nêu ở trên.
Về kinh doanh thua lỗ: Từ năm 1988 đến năm 2003, có 888 dự án bị giải thể
trước thời hạn, trong đó, hầu hết là các dự án kinh doanh thua lỗ. Còn nữa, tính đến
hết năm 2002, trong số 2.250 dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã kết thúc giai
đoạn xây dựng cơ bản đang đi vào sản xuất kinh doanh thì có 536 dự án có lãi
(chiếm 29%) với tổng số lãi khoảng 8.500 triệu USD, còn lại là dự án thua lỗ (1.714
dự án, chiếm 76% dự án) với tổng số tiền lỗ là 6.426 triệu USD. Thiết nghĩ đây là
một câu hỏi đặt ra và phải có câu trả lời cùng biện pháp khắc phục đối với các nhà
quản lý, nghiên cứu Việt Nam [25].
Thứ hai, vấn đề chuyển giao công nghệ thông qua dự án đầu tư thông qua các dự
án đầu tư chuyển giao công nghệ nước ta có thể hiện đại hoá nền công nghệ - kỹ thuật
nước mình. Tuy nhiên, trong những năm qua, vẫn còn những hiện tượng nhập, chuyển
giao vào nước ta những công nghệ đã mất tính cạnh tranh không những gây ô nhiễm
môi trường, nguy cơ biến nước ta thành "bãi rác thải công nghiệp".
Thứ ba, về vấn đề chuyển mục đích đầu tư, trong thời gian qua, có hiện tượng
nước ngoài trong công ty liên doanh đã cố tình hoạt động thua lỗ làm cho phía Việt
Nam do đóng góp ít vốn, không theo được buộc phải để cho công ty liên doanh biến
thành công ty có 100% vốn nước ngoài vào Việt Nam mà chúng ta phải có những biện
pháp để hạn chế tình trạng này nếu không lần lượt sẽ có nhiều công ty liên doanh biến
thành công ty có 100% vốn nước ngoài.
Thứ tư, vẫn thường xảy ra những xung đột giữa chủ và thợ trong một số xí
nghiệp, công ty có vốn đầu tư nước ngoài, như công ty của Hàn Quốc, Đài Loan
Nguyên nhân của tình hình này có thể do hai bên chưa hiểu về phong tục tập quán, ngôn
ngữ của nhau hoặc do một số chủ đầu tư chưa giải quyết tốt chế độ cho người lao
động Việt Nam [25].
1.2.2.3. Về an ninh kinh tế
Đứng trên góc độ an ninh kinh tế, chúng ta thấy xuất hiện những vấn đề cần được
quan tâm khi tiếp nhận FDI vào Việt Nam.
Thứ nhất, về công nghệ thiết bị và giá thành. Mặc dù công nghệ nhập không còn
là bí quyết nhưng nhiều chủ đầu tư nước ngoài khi đàm phán vẫn ép buộc bên Việt Nam
phải chấp nhận hợp đồng chuyển giao công nghệ và đi kèm theo đó là phí chuyển giao
công nghệ (chiếm 2-5% doanh thu dự án trong thời gian 5-7 năm), có dự án bên nước
ngoài đòi hưởng tới 8% tiền bán sản phẩm trong thời hạn 20 - 30 năm. Khoảng 10% dự
án đầu tư (qua kiểm tra) có công nghệ lạc hậu hoặc quá lạc hậu. Nguy hiểm hơn là có
dự án sản xuất thuốc trừ sâu cực kỳ độc hại, nhiều nước đã có luật cấm sản xuất ta lại
nhập về và triển khai ở nhiều địa phương như công nghệ tạo bột ABS từ Alkysbenzen là
chất dễ gây bệnh ung thư, ở nước ta đã có quy định cấm từ lâu song họ vẫn nhập vào.
Điểm quan trọng là do khâu giám định thiết bị và công nghệ nhập khẩu của ta
còn yếu kém nên đã để xảy ra tình trạng đối tác nước ngoài nâng giá thiết bị, nhập vào
thiết bị cũ do các nước phát triển thải loại. Kết quả giám định thí điểm 14 dự án liên
doanh do công ty giám định quốc tế SGS (Thuỵ Sĩ) cho biết: có tới 8 liên doanh, chủ
đầu tư đã báo cáo giá thiết bị nhập khẩu cao hơn 10-20% so với giá giám định. Điều này
gây ra nhiều thiệt hại cho nhà nước Việt Nam cũng như cho đối tác Việt Nam tham gia
liên doanh [57].
Thứ hai, về tình trạng lừa đảo và trốn lậu thuế. Theo thống kê trong 3 năm 1993-
1995 đã có 66 vụ tội phạm kinh tế trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài làm thiệt hại 8.616
triệu USD và 11,636 tỷ VNĐ trong đó tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công ty
liên doanh. xảy ra phổ biến và nghiêm trọng nhất (chiếm 86% số vụ và 75% số tài sản
thiệt hại).
Loại tội phạm thứ hai thường xảy ra ở các công ty liên doanh là kinh doanh trái
phép và trốn lậu thuế. Trong số 61 vụ được phát hiện cho thấy các chủ đầu tư nước
ngoài trốn thuế 93,9 tỷ đồng. Về buôn lậu hàng hoá, phát hiện 38 vụ trị giá 8,9 triệu