Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

LUẬN VĂN: Vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.78 KB, 108 trang )












LUẬN VĂN:

Vai trò của pháp luật trong quản lý
nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ
rừng ở Việt Nam hiện nay





















mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, sự phát triển của khoa học và kỹ thuật đang diễn ra nhanh chóng, đời
sống kinh tế của con người đã và đang được cải thiện đáng kể nhưng chúng ta đang phải
đối mặt với những thách thức của sự phát triển. Đó là nguy cơ suy giảm từng ngày, từng
giờ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái các yêu tố căn bản của môi trường
sống.
Tài nguyên rừng - một trong những nguồn tài nguyên có khả năng tự tái tạo và có
tính quyết định trong việc duy trì cân bằng sinh thái toàn cầu, đang đứng trước nguy cơ bị
suy thoái nghiêm trọng cả về lượng và chất. Mỗi năm có khoảng 17 triệu ha rừng bị tàn
phá và biến mất trên bề mặt trái đất. Tại Đông Nam á, độ che phủ của rừng chỉ còn dưới
20% vào năm 1982 và con số này đang giảm theo tỷ lệ 0,6% mỗi năm. Các nhà khoa học
đã cảnh báo, mất rừng không chỉ đơn thuần là sự suy giảm một nguồn tài nguyên mà nó
còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng như quá trình sa mạc hoá; các thiên tai như lũ lụt,
lở đất, hạn hán; và các tác hại về môi trường sinh thái như phá hoại sinh cảnh, tuyệt chủng
các loài sinh vật, ô mhiễm nguồn nước… [30, tr. 437].
Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát triển cũng đang đứng trước những nguy
cơ khủng hoảng về môi trường sinh thái và tài nguyên thiên nhiên. Cho đến nay, bên cạnh
việc đem lại lợi ích kinh tế, chúng ta không thể phủ nhận được vai trò cực kỳ quan trọng
của rừng nước ta trong việc giữ đất, giữ nước, điều hoà không khí và bảo vệ môi trường
sinh thái. Trước những biến đổi về môi trường trong thời gian qua, chúng ta càng hiểu
được tầm quan trọng của rừng. Quản lý rừng bền vững đã được nhận thức như một chiến
lược vì mục tiêu tồn tại lâu dài của con người và thiên nhiên.
Tuy nhiên xuất phát từ những khó khăn về đất đai, tư liệu sản xuất, tập quán canh
tác và cả nhận thức, hàng năm, hàng nghìn ha rừng vẫn bị chặt phá, các sản phẩm từ rừng

vẫn bị khai thác một cách bất hợp pháp. Đáng nghiêm trọng là những vụ phá rừng tập thể
nhằm chuyển đổi mục đích kinh doanh vì mục tiêu trước mắt, rồi những vụ buôn bán các

sản vật từ rừng diễn ra với quy mô lớn, bất chấp pháp luật về quản lý và bảo vệ rừng. Do
nhu cầu phát triển kinh tế, nhiều diện tích rừng đã bị phá cho việc phát triển cơ sở hạ tầng
như đường sá, trang trại hoặc đất nông nghiệp, các đô thị và khu công nghiệp, Hơn nữa,
do cơ chế chính sách và quan trọng hơn là do hệ thống pháp luật về quản lý rừng chưa
đồng bộ, chưa theo kịp với tốc độ phát triển của xã hội và chưa đáp ứng được yêu cầu về
quản lý bảo vệ rừng (QLBVR),… đã dẫn đến những hoạt động phá hoại rừng ở nhiều nơi
mà không thể kiểm soát. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống
quản lý hành chính lâm nghiệp, đội ngũ cán bộ công chức hành chính lâm nghiệp chưa đáp
ứng được yêu cầu đòi hỏi về QLBVR trong giai đoạn hiện nay làm cho hệ thống pháp luật
về QLBVR không phát huy được hiệu lực.
Với thực tế trên, việc đánh giá thực trạng vai trò pháp luật trong quản lý nhà nước
(QLNN) đối với lĩnh vực bảo vệ rừng ở nước ta là hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng
to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, tác giả đã tiến hành thực hiện đề tài: “Vai
trũ của phỏp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay” nhằm
đóng góp một phần trong việc nâng cao hơn nữa vai trò của pháp luật trong quản lý và bảo
vệ rừng ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Việt Nam đang bước vào sự chuyển đổi từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường, cùng với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội… Vì vậy, vấn đề cơ chế quản lý và
vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước ngày càng được đề cao, với mục đích xây
dựng, hướng tới xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, và vì dân. Chính vì vậy, đã công trình nghiên cứu về vai trò của pháp luật trong
quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực của đời sống xã hội và đã đề cập được phần nào
những vấn đề lý luận và thực tiễn trong một số lĩnh vực nhất định. Căn cứ vào vấn đề
nghiên cứu, tác giả chia những công trình nghiên cứu khoa học ra làm 2 nhóm sau:
Nhóm 1: Nghiên cứu về vai trò của pháp luật trong một số lĩnh vực của đời sống xã
hội và QLNN bằng pháp luật trong nền kinh tế thị trường


Những công trình khoa học này chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề lý
luận, thực trạng của pháp luật, của QLNN bằng pháp luật trong một số lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong thời kỳ đổi mới của Việt Nam hiện nay, như: Luận án tiến sĩ “Vai trò
của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay” của Vũ Anh
Tuấn, năm 2001; “Pháp luật của nhà nước trong cơ chế thị trường ở Việt nam hiện nay”
của PGS.TS. Trần Ngọc Đường (1992); luận văn thạc sĩ luật học “Vai trò của pháp luật tố
tụng hành chính ở Việt nam hiện nay” của Quách Trung Thành, năm 2005; luận án tiến sĩ
luật học “Tăng cường QLNN bằng pháp luật đối với đất đai ở Việt Nam hiện nay” của
Nguyễn Cảnh Quý, năm 2003.
Một số công trình nghiên cứu đã hệ thống hoá được cơ sở lý luận về pháp luật, bản
chất của pháp luật, hoàn thiện pháp luật, về vấn đề pháp chế trong điều kiện xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời đề xuất được các
quan điểm và giải pháp xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong công cuộc xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dự án VIE/94/003 “Tăng cường năng lực pháp luật Việt Nam” do Chương trình
Phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP) tài trợ về kỹ thuật và tài chính, Bộ Tư pháp là chủ
dự án, thời gian thực hiện từ 1994 đến 1998. Dự án tập trung nghiên cứu khung pháp luật
kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện hành, đề xuất kiến nghị và biện pháp
bảo đảm khung pháp luật kinh tế tại “Báo cáo kiến nghị về xây dựng và hoàn thiện khung
pháp luật kinh tế Việt Nam”.
Đề tài KX 03.13 về “Luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện và xây dựng hệ thống
pháp luật và quản lý kinh tế bằng pháp luật” do Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp chủ trì, năm 1994. Đề tài đi sâu nghiên cứu vấn đề cơ bản để nhằm xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật kinh tế và quản lý kinh tế bằng pháp luật, đề xuất quan điểm xây
dựng pháp luật kinh tế của Việt nam.
Nhóm 2: Những nghiên cứu về pháp luật và QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực
bảo vệ rừng

Báo cáo tư vấn “Xem xét năng lực thừa hành pháp luật và xác định nhu cầu đào tạo

của chủ thể quản lý khu rừng đặc dụng” của PGS.TS. Lê Hồng Hạnh (2003). Báo cáo này
đã đưa ra các kết quả điều tra về trình độ pháp lý của cán bộ nhà nước quản lý các khu
rừng đặc dụng, đề xuất các biện pháp đào tạo nâng cao năng lực thừa hành pháp luật của
chủ thể quản lý các khu rừng đặc dụng.
Dự án hợp tác quốc tế do chính phủ Cộng hoà liên bang Đức tài trợ cho Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn (NN&PTNT) về “Cải cách hành chính Lâm nghiệp” đang
được thực hiện tại Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2006. Mục đích nghiên cứu của dự án
này là hoàn thiện hệ thống các cơ quan QLNN về Lâm nghiệp.
Luận văn thạc sĩ luật học “Một số vấn đề cơ bản về pháp luật bảo vệ rừng ở Việt
Nam hiện nay” của Nguyễn Thanh Huyền, năm 2004. Tác giả này nghiên cứu một số vấn
đề cơ bản của pháp luật bảo vệ rừng, đề xuất các giải pháp đổi mới, hoàn thiện pháp luật
bảo vệ rừng.
Luận văn thạc sĩ luật học “Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ
rừng ở việt nam hiện nay” của Hà Công Tuấn, 2002. Tác giả nhấn mạnh trong các công cụ
quản lý nhà nước nói chung và quản lý bảo vệ rừng nói riêng thì công cụ pháp luật pháp
luật đóng một vai trò rất quan trọng.
Luận văn thạc sĩ luật học “Tổ chức và hoạt động của ngành Kiểm lâm ở nước ta hiện
nay” của Nguyễn Văn Vân, năm 2001. Đề tài này tác giả tập trung nghiên cứu cơ cấu tổ
chức và hoạt động của ngành Kiểm lâm theo Luật Bảo vệ và phát triển rừng (BV&PTR)
năm 1991 và Nghị định 39/CP ngày 18 tháng 05 năm 1994 về hệ thống tổ chức và hoạt
động, nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm lâm, cho thấy được vai trò nòng cốt của lực lượng
Kiểm lâm trong việc bảo vệ rừng, đề xuất đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Kiểm lâm
hiện nay.
Luận văn thạc sĩ luật học “Quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan,
Kiểm lâm trong tố tụng hình sự” của Nguyễn Đình Long, năm 2000; “Pháp luật bảo vệ
môi trường rừng ở Việt nam thực trang và phương hướng hoàn thiện” của Nguyễn Hải Âu,

năm 2001. Ngoài ra còn nhiều bài viết trên các tạp chí, báo và các tham luận trong hội thảo
của nhiều tác giả đề cập đến vấn đề này ở các góc độ tiếp cận khác nhau.
Tuy nhiên, những công trình nói trên chỉ nghiên cứu ở các khía cạnh hay chỉ đề cập

tới những vấn đề có liên quan tới vai trò của pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo
vệ rừng, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống cả mặt lý
luận và thực tiễn vai trò của pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng ở nước ta
hiện nay. Có thể nói, đây là lần đầu tiên vai trò của pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực
bảo vệ rừng được tiếp cận dưới góc độ lý luận nhà nước và pháp quyền một cách toàn
diện, có hệ thống cả phương diện lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về vai trò
của pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng, từ đó đề xuất được một số
phương hưóng và giải pháp cơ bản về vai trò của pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực
bảo vệ rừng.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hoá được cơ sở lý luận về pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ
rừng.
- Đánh giá được tình hình thực thi pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ
rừng ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất được một số phương hướng và giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao vai
trò của pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò
của pháp luật trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ rừng trên cơ sở phân tích,
đánh giá nội dung cơ bản của pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng ở Việt
Nam (các quy định về cơ cấu tổ chức của các cơ quan QLBVR; hoạt động của các cơ quan

trong QLBVR; các quy định về xã hội hoá công tác bảo vệ rừng; các quy định về thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ rừng). Trên cơ sở phân tích thực trạng vai trò của
pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng, từ đó rút ra những kết luận làm cơ sở
cho việc đề ra những phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò pháp luật trong QLNN
đối với lĩnh vực bảo vệ rừng.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cở sở lý luận của luận văn:
Luận văn này được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về lý luận nhà nước và pháp
luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể: Lịch sử cụ thể; phân tích tổng hợp;
nghiên cứu hệ thống kết hợp phỏng vấn.
6. Những đóng góp mới về khoa học mới của luận văn
- Luận văn luận giải và bổ sung về mặt lý luận các khái niệm, đặc điểm, nội dung và
một số yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ
rừng.
- Đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng,
chỉ ra những kết quả đã đạt được, những hạn chế của pháp luật trong QLNN đối với lĩnh
vực bảo vệ rừng trong thời gian qua.
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của pháp luật
trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng.
7. ý nghĩa của luận văn
Luận văn sẽ đóng góp một số vấn đề lý luận về vai trò của pháp luật trong QLNN đối
với lĩnh vực bảo vệ rừng có thể giúp cho các nhà hoạch định chính sách, nhà lập pháp và
những người làm công tác nghiên cứu có thêm một phần thông tin lý luận về vai trò của
pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng, từ đó đóng góp vào việc xây dựng, tổ

chức thực hiện và bảo vệ pháp luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu
tham khảo cho sinh viên các trường chuyên luật hoặc không chuyên luật, cho học viên
đang học tập trong hệ thống các trường chính trị, cho những người quan tâm nghiên cứu về
pháp Luật BV&PTR và vai trò của pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3
chương, 10 tiết.


Chương 1
Cơ sở lý luận về vai trò của pháp luật
trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ rừng

1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật trong quản lý nhà nước đối
với lĩnh vực bảo vệ rừng
1.1.1. Rừng và quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ rừng
1.1.1.1. Rừng và các khái niệm liên quan đến rừng
Theo quy định khoản 1 Điều 3 Luật BV&PTR năm 1991 (sửa đổi bổ sung năm
2004) được định nghĩa như sau:
Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật
rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật
đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng
trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng [11, tr.
63].
Như vậy, theo khái niệm trên, rừng bao gồm các yếu tố: Thực vật rừng tự nhiên
hoặc do con người trồng mới hoặc khoanh nuôi tái sinh trên đất trồng rừng, trong đó cây
gỗ, tre nứa hoặc thực vật đặc trưng là những thực vật chính chiếm ưu thế; động vật rừng
sống hoang dã trong rừng; vi sinh vật rừng; quần xã thực vật rừng phải có một diện tích đủ
lớn để tạo ra hoàn cảnh rừng đặc trưng và những yếu tố tự nhiên, môi trường do rừng tạo
ra khác với hoàn cảnh bên ngoài, độ khép tán của quần xã thực vật phải lớn hơn 0,1.
Đất lâm nghiệp bao gồm: đất có rừng tự nhiên, đất có rừng trồng và đất chưa có
rừng được quy hoạch để gây trồng rừng; trong phạm vi QLNN về đất lâm nghiệp, thì đất
lâm nghiệp chỉ giới hạn ở lớp đất mặt với độ sâu nhất định phù hợp với canh tác lâm
nghiệp, không bao gồm những tài nguyên, khoáng sản và những vật thể nằm sâu trong
lòng đất.

Đến nay, chưa có một khái niệm đầy đủ nào về bảo vệ rừng, theo quan điểm của
chúng tôi bảo vệ rừng là tổng thể các hoạt động nhằm bảo toàn, phát triển hệ sinh thái

rừng hiện có, bao gồm thực vật, động vật rừng, đất lâm nghiệp và các yếu tố tự nhiên
khác; phòng, chống những tác động gây thiệt hại đến đa dạng sinh học của rừng, bảo vệ
nguồn nước, bảo vệ môi trường sinh thái.
Như vậy, bảo vệ rừng bao gồm những hoạt động sau:
- Tổ chức phòng ngừa và ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm hại đến rừng như: phá
rừng, đốt rừng, lấn chiếm rừng, đất lâm nghiệp; khai thác, mua bán, vận chuyển lâm sản;
xuất nhập khẩu thực vật rừng, động vật rừng; săn bắn động vật rừng, chăn thả gia súc vào
rừng trái quy định của pháp luật.
- Thực hiện các biện pháp phòng cháy, chữa cháy; phòng, trừ sâu bệnh hại.
- Thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật trong
lĩnh vực bảo vệ rừng.
Theo khái niệm trên bảo vệ rừng bao gồm cả phát triển rừng. Theo quy định của
khoản 3 Điều 3 Luật BV&PTR thì:
Phát triển rừng là việc trồng rừng mới, trồng lại rừng sau khi khai thác, khoanh nuôi
xúc tiến tái sinh phục hồi rừng, cải tạo rừng nghèo và việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật
lâm sinh khác để tăng diện tích rừng, nâng cao giá trị đa dạng sinh học, khả năng cung cấp
lâm sản, khả năng phòng hộ và giá trị của rừng [11, tr. 63].
Vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX thế giới đã quan tâm đến "phát triển bền vững".
Khái niệm "phát triển bền vững" hay "khả năng bền vững" được đưa ra trong "chiến lược
bảo tồn thế giới" nhằm đáp lại nhận thức và những mối lo ngại ngày càng tăng về sự suy
kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và sự xuống cấp môi trường toàn cầu. Quan điểm
chung của sự phát triển bền vững là bảo đảm sao cho việc đáp ứng nhu cầu của thế hệ hôm
nay không làm tổn hại đến việc đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ mai sau.

"Phát triển bền vững" có mối quan hệ chặt chẽ và trực tiếp với việc "quản lý rừng
bền vững". Một định nghĩa về quản lý rừng bền vững được tổ chức quốc tế về gỗ nhiệt đới
(ITTO) đưa ra như sau:
Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý đất rừng cố định để đạt được
một hoặc nhiều mục tiêu được xác định rõ ràng của công tác quản lý trong vấn
đề sản xuất liên tục các lâm phẩm và dịch vụ rừng mà không làm giảm đi đáng

kể những giá vốn có và khả năng sản xuất sau này của rừng và không gây ra
những ảnh hưởng tiêu cực thái quá đến môi trường vật chất xã hội [40, tr. 7].
Theo định nghĩa này thì quản lý rừng bền vững bao gồm việc bảo vệ, phát triển,
khai thác và sử dụng sản phẩm của rừng một cách hợp lý, khai thác sử dụng để đáp ứng
các nhu cầu hiện tại nhưng không làm cạn kiệt nguồn tài nguyên cho tương lai. Bảo vệ
rừng là để cho rừng tiếp tục phát triển, ngược lại phát triển rừng cũng là cách để bảo vệ tài
nguyên rừng. Do vậy, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau không tách rời, quản lý
rừng bền vững là một mục tiêu nằm trong chiến lược "phát triển bền vững" toàn cầu.
Nhưng trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu khía cạnh bảo vệ
rừng và vai trò của pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng.
1.1.1.2. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ rừng
Trước khi nghiên cứu pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng, đòi hỏi
phải làm rõ khái niệm "quản lý" và "QLNN". Quản lý là một hiện tượng xã hội, xuất hiện
từ lâu trong lịch sử loài người, được các nhà tư tưởng, các nhà triết học và các nhà khoa
học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau tìm hiểu, nghiên cứu. Có người cho quản lý là các hoạt
động thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc qua nỗ lực của người khác. Có tác
giả cho quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả hoạt động của các cộng sự khác cùng
chung một tổ chức. Cũng có tác giả lại cho rằng quản lý là hoạt động thiết yếu bảo đảm
phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm [29, tr. 99].
Tác giả thống nhất với quan điểm đã được nhiều người công nhận do các nhà khoa
học về điều khiển học đưa ra: Quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá
trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay

quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã
định trước [32, tr. 19].
Đây có thể coi là một khái niệm chung về quản lý, vì khái niệm này thích hợp với
tất cả các trường hợp từ sự vận động của một cơ thể sống, một vật cơ giới, một thiết bị tự
động hóa đến hoạt động của một tổ chức xã hội, một đơn vị kinh tế hay cơ quan nhà nước.
Trong hoạt động quản lý thì chủ thể quản lý là con người hay tổ chức con người.
Chủ thể quản lý phải là đại diện có uy tín, có quyền hạn và trách nhiệm liên kết, phối hợp

những hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân hướng tới mục tiêu chung nhằm đạt được kết
quả nhấn định trong quản lý. Còn khách thể trong quản lý là trật tự - trật tự này được quy
định bởi nhiều loại quy phạm khác nhau như: quy phạm đạo đức, quy phạm chính trị, quy
phạm tôn giáo, quy phạm pháp luật.
Vậy khái quát lại: Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý
nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường.
QLNN là một dạng của quản lý xã hội, đây là một quá trình phức tạp, đa dạng nên
trong nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn, QLNN được hiểu theo hai cấp độ: QLNN
theo nghĩa rộng là đề cập đến chức năng của cả bộ máy nhà nước (từ hoạt động lập hiến,
lập pháp, hoạt động hành pháp đến hoạt động tư pháp); còn tiếp cận theo nghĩa hẹp chỉ là
hoạt động chấp hành, điều hành của cơ quan QLNN. Hoạt động này chủ yếu giao cho hệ
thống cơ quan hành chính thực hiện. Đó là các chủ thể quản lý.
QLNN không phải là sự quản lý đối với nhà nước, mà là sự quản lý có tính chất nhà
nước, của nhà nước đối với xã hội. QLNN được thực hiện bởi quyền lực nhà nước. Quyền
lực đó được ghi nhận, củng cố bằng pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế
nhà nước. Theo nghĩa hẹp, QLNN có những đặc trưng cơ bản sau: QLNN mang tính chất
quyền lực nhà nước, có tính tổ chức cao và mang tính mệnh lệnh của nhà nước; QLNN
mang tính tổ chức và điều chỉnh chủ yếu; QLNN mang tính tổ chức và kế hoạch; QLNN
mang tính liên tục.
QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng là một lĩnh vực trong QLNN nên nó có những
đặc trưng chung vốn có, ngoài ra nó có chủ thể, đối tượng quản lý riêng, có thể khái quát

như sau: QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng là quá trình các chủ thể QLNN xây dựng chính
sách, ban hành pháp luật và sử dụng công cụ pháp luật trong hoạt động QLNN nhằm đạt
được yêu cầu, mục đích bảo vệ rừng nhà nước đã đặt ra.
QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng có những đặc điểm sau:
Một là, rừng - đối tượng quản lý nhà nước đặc thù.
Rừng là nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo và có tính quyết định trong việc bảo
vệ môi trường sinh thái toàn cầu. Rừng bao gồm các yếu tố thực vật, động vật, vi sinh vật,
đất rừng, các yếu tố này có quan hệ liên kết cùng tạo nên hoàn cảnh rừng đặc trưng.

Rừng Việt Nam gắn bó chặt chẽ với đời sống của hàng triệu người dân sống trong
rừng và gần rừng. Diện tích rừng Quốc gia được chia thành 3 loại theo chức năng và công
dụng của các yếu tố để quản lý gồm: Rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất. Vì
vậy, quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ rừng phải áp dụng những cơ chế, chính sách,
các quy định pháp luật khác nhau phù hợp với mục đích chủ yếu đối với từng loại rừng.
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ rừng phải tiến hành đồng bộ các công cụ quản lý,
phát huy sức mạnh của cộng đồng để đạt được mục tiêu và chương trình hành động bảo vệ
rừng [60, tr.19].
Hai là, đặc trưng về chủ thể chịu sự quản lý.
Chủ thể chịu sự quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ rừng là các tổ chức, cá nhân
có liên quan đến hoạt động bảo vệ rừng. Các chủ thể chịu sự quản lý rất đa dạng, thuộc
nhiều thành phần kinh tế và mỗi loại hình chủ thể có địa vị pháp lý khác nhau. Trong đó,
các chủ rừng là chủ thể chịu sự quản lý chủ yếu bao gồm: các cộng đồng dân cư, hộ gia
đình, các nhân, các lâm trường, công ty lâm nghiệp, Ban quản lý các khu rừng đặc dụng,
rừng phòng hộ trong nước, các tổ chức, cá nhân nước ngoài được nhà nước giao, cho thuê
rừng là chủ thể chịu sự quản lý của nhà nước trực tiếp và chủ yếu nhất.
Mỗi loại chủ thể nói trên có những đặc trưng riêng nên quản lý nhà nước trong lĩnh
vực bảo vệ rừng: Một mặt Nhà nước phải chú trọng nghiên cứu, áp dụng các biện pháp
quản lý phù hợp với những đối tượng chủ thể cụ thể. Trong quá trình tổ chức, xây dựng và
thực hiện và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng phải tôn trọng và phát huy

giá trị tích cực của các phong tục tạp quán, luật tục, hương ước truyền thống. Mặt khác,
phải coi trọng và tăng cường biện pháp giáo dục, thuyết phục và giải thích pháp luật, chế
độ, chính sách của Đảng, Nhà nước. Đồng thời, kết hợp bảo vệ rừng với phát triển kinh tế
– văn hoá nông thôn miền núi [60, tr.20].
Ba là, khách thể của quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ rừng là trật tự quản lý
nhà nước về bảo vệ rừng. Trật tự này được quy định trước hết và chủ yếu trong các quy
định của pháp luật về BV&PTR nhằm đạt được mục đích quản lý bảo vệ rừng của nhà
nước.
Bốn là, nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ rừng.

Quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ rừng là hoạt động đa dạng và phức tạp. Để
điều khiển, chỉ đạo các hành vi xã hội trong lĩnh vực này phải đặt trong mối quan hệ biện
chứng với cac lĩnh vực khác nhằm huy động sức mạnh vật chất của cộng đồng để đạt được
mục đích bảo vệ rừng của nhà nước trong quản lý nhà nước trong thời kỳ nhất định, quản
lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ rừng có những nội dung cụ thể sau:
- Ban hành, tổ chức thực hiện chế độ, chính sách, pháp luật về bảo vệ rừng;
- Tổ chức điều tra, xác định ranh giới các loại rừng trên bản đồ và trên thực địa;
- Thống kê, kiểm kê rừng theo định kỳ, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng;
- Giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng, tổ chức
đăng ký sở hữu, quyền sử dụng rừng;
- Tổ chức, quản lý các hoạt động bảo vệ hệ sinh thái rừng, bảo vệ thực vật rừng,
động vật rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng, phòng trừ sinh vật hại rừng và kinh doanh,
vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, quá cảnh thực vật
rừng, động vật rừng;
- Nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ bảo vệ rừngtiên tiến, đào tạo nguồn
nhân lực cho bảo vệ rừng; hỗ trợ và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ rừng;
- Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng;

- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và kiểm soát
buôn bán quốc tế các loài động thực vật rừng;
- Bảo đảm các điều kiện vật chất và các cân đối khác cho hoạt động quản lý nhà
nước trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật trong quản lý nhà nước đối
với lĩnh vực bảo vệ rừng
1.1.2.1. Khái niệm
Theo học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật, pháp luật là một hiện tượng
lịch sử vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính xã hội, chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển
trong xã hội có giai cấp, do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, là công cụ để thực
hiện quyền lực nhà nước, nhằm duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị.
Cũng giống như bất kỳ một kiểu pháp luật nào trong lịch sử, pháp luật XHCN cũng

có chức năng tổ chức, điều chỉnh nhằm thiết lập, duy trì trật tự xã hội và chức năng bảo vệ
các quan hệ xã hội, giải quyết các tranh chấp và xung đột xã hội, xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật.
Pháp luật bảo vệ rừng là một bộ phận của hệ thống pháp luật, nó bao gồm toàn bộ
những hoạt động của cơ quan QLBVR, người đại diện cho cơ quan QLBVR, những đối
tượng tham gia vào quan hệ bảo vệ rừng: Bộ NN&PTNT, Sở NN&PTNT, Cục Kiểm lâm,
Hạt Kiểm lâm, Hạt Phúc kiểm lâm sản, những người tham gia QLBVR. Giữa các đối
tượng này có rất nhiều mối quan hệ, như quan hệ giữa cơ quan QLBVR cấp trên và cấp
dưới, giữa cán bộ kiểm lâm với người tham gia bảo vệ rừng, giữa người đại diện của cơ
quan QLBVR với những người có hành vi vi phạm pháp luật. Theo Điều 2 của Nghị định
số 23/2006/NĐ - CP quy định như sau:
Nghị định này áp dụng đối với cơ quan nhà nước, tổ chức; cộng đồng dân cư thôn,
làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, hoặc đơn vị tương đương (sau đây gọi tắt là cộng đồng dân
cư thôn) hộ gia đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức,
cá nhân nước ngoài có liên quan đến việc bảo vệ rừng tại Việt Nam [19, tr. 1].

Do vậy, đòi hỏi pháp luật phải quy định địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và mối quan hệ giữa các chủ thể trong công tác bảo vệ rừng.
Để thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ rừng đòi hỏi nhà nước phải ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật nhằm xác định cụ thể những vấn đề: cơ cấu tổ chức và hoạt
động trong lĩnh vực bảo vệ rừng; công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
trong bảo vệ rừng
Từ những phân tích trên có thể đi tới khái niệm pháp luật bảo vệ rừng như sau:
Pháp luật bảo vệ rừng là tổng thể các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các cơ quan QLNN,
các tổ chức, cá nhân và những người có liên quan trong quá trình thực hiện công tác bảo vệ
rừng và bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
1.1.2.2. Đặc điểm
Pháp luật bảo vệ rừng là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam nên nó
mang những đặc trưng chung của pháp luật XHCN. Trước hết, pháp luật bảo vệ rừng có

tính quy phạm, nó chứa đựng những quy tắc xử sự của con người, là khuôn mẫu được mọi
người làm theo, là tiêu chuẩn để đánh giá tính hợp pháp hay không hợp pháp trong công
tác bảo vệ rừng; các quy tắc xử sự trong bảo vệ rừng do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đặt ra, thừa nhận hoặc phê chuẩn nên có tính bắt buộc chung thể hiện ý chí của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động, thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản
Việt Nam, là công cụ quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ rừng; các quy
phạm pháp luật trong bảo vệ rừng do cơ quan QLNN ban hành có tính thống nhất nội tại
cao và có mối quan hệ chặt chẽ với các quy phạm xã hội khác.
Là một bộ phận trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật bảo vệ rừng cũng có
đặc trưng riêng được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, pháp luật trong QLNN về lĩnh vực bảo vệ rừng do các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành, trong đó chủ yếu là các cơ quan QLNN về bảo vệ rừng ban
hành.

Pháp luật bảo vệ rừng là một bộ phận của hệ thống pháp luật nói chung nên các quy
phạm pháp luật này ban hành để điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quản lý
nhà nước về lĩnh vực bảo vệ rừng. Các quy phạm pháp luật này do các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành như Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội: Luật bảo vệ và phát
triển rừng, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường, Luật hình sự do Quốc hội ban hành;
Nhưng các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực bảo vệ rừng khác chủ yếu do các cơ
quan quản lý nhà nước ban hành như Chính phủ, UBND các cấp, Bộ NN$PTNT để điều
chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến lĩnh vực này.
Thứ hai, pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
- Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng
lực chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính, mang quyền và nghĩa vụ nhất định
với một bên có nhiệm vụ phục tùng theo quy định của pháp luật hành chính.
Từ khái niệm đó, chúng ta có thể hiểu chủ thể của quan hệ pháp luật trong lĩnh vực
bảo vệ rừng là các cơ quan, tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao quyền nhân danh nhà
nước tham gia vào quan hệ QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng với các tổ chức, cá nhân

tham gia quan hệ bảo vệ rừng và những đối tượng vi phạm pháp luật QLBVR. Chủ thể
quan hệ pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng cụ thể là: Một bên là các cơ
quan quản lý hành chính nhà nước thẩm quyền chung các cấp và các cơ quan QLNN có
thẩm quyền chung môn các cấp; cá nhân được Nhà nước trao quyền quản lý về bảo vệ
rừng theo quy định của pháp luật, một bên là những đối tượng tham gia bảo vệ rừng hoặc
những người có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ rừng. Theo quy định hiện hành của pháp
luật nước ta hiện nay, các chủ thể này là: Chính phủ, UBND các cấp, Bộ NN&PTNT, các
bộ ngành có liên quan; hệ thống cơ quan quản lý chuyên ngành tại địa phương, hệ thống
cơ quan kiểm lâm; công chức của cơ quan này được giao nhiệm vụ thi hành công vụ trong
QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng và các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, buôn làng, bản,
ấp… tham gia bảo vệ rừng và những người có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ rừng.

- Khách thể của quan hệ pháp luật hành chính là các lợi ích trực tiếp thúc đẩy các cơ
quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật hành chính. Chúng có thể là lợi
ích của Nhà nước hay quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, các
lợi ích đó chỉ được bảo đảm nếu chúng phù hợp với các trật tự quản lý hành chính nhà
nước.
Khách thể quan hệ pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng là trật tự
QLNN về bảo vệ rừng. Trật tự này được quy định trước hết và chủ yếu trong các quy định
của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, ngoài ra nằm rải rác trong một số văn bản pháp
luật khác như Luật bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ tài nguyên, Luật Đất đai nhằm đạt
được mục đích QLBVR của Nhà nước.
- Pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng quy định địa vị pháp lý của
các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật bảo vệ rừng.
Thứ ba, pháp luật bảo vệ rừng là công cụ quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh
vực bảo vệ rừng.
Trong thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước biểu hiện sức
mạnh QLNN bằng khả năng can thiệp trực tiếp của Nhà nước thông qua công cụ kế hoạch
tập trung mà bỏ quên các công cụ quản lý khác, còn trong thời kỳ đổi mới nhà nước mở
rộng quyền tự do kinh doanh cho các doanh nghiệp.

Trong đó, mất rừng gây nên diễn thể suy thoái các kiểu thảm thực vật rừng, các loài
chim thú rừng mất nơi cư trú, số lượng quần thể suy giảm nghiêm trọng, các loài cây có
giá trị dưới tán rừng cũng mất theo, ảnh hưởng sâu sắc tới các điều kiện sinh thái và cảnh
quan của nhiều vùng rộng lớn, đặc biệt là tại các cửa sông, ven biển, các hệ sinh thái rừng
ngập mặn
Mất rừng, các vùng canh tác ven biển sẽ thường xuyên phải gánh chịu nạn cát bay;
thủy triều sẽ làm xói lở các vùng đất ven biển; mưa và gió sẽ làm xói mòn đất mặt
Những năm gần đây những trận lũ lịch sử diễn ra ở các vùng Tây Bắc, vùng ven biển miền
Trung và bão lớn ở Nam Bộ gây tác hại lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân các địa
phương này là những minh chứng của lịch sử về hậu quả tai hại của sự mất rừng.

Mất rừng còn kéo theo những mất mát vô giá mà hiện nay không thấy hết được. Đó
là các hệ sinh thái tối ưu và các nguồn gen mà thiên nhiên đã hoàn thành qua hàng chục
triệu năm phát triển và tiến hóa.
Với vai trò và tác dụng to lớn của rừng đối với môi trường sống nói chung và sự tồn
vong của loài người nói riêng cho thấy việc bảo vệ rừng cần thiết hơn bao giờ hết. Đòi hỏi
Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các công cụ kế hoạch, chính sách, pháp luật và các công
cụ quản lý khác. Trong hệ thống các công cụ và biện pháp nhà nước sử dụng để quản lý
hành chính nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ rừng thì pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất và
không thể thiếu được ở bất kỳ quốc gia nào.
1.1.2.3. Nội dung
Pháp luật bảo vệ rừng điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ rừng,
nhằm tạo ra cơ chế pháp lý để mở rộng dân chủ, bảo đảm cho cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà
nước cùng tham gia vào công tác bảo vệ rừng; đồng thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của họ đối với tài nguyên rừng. Chính vì mục đích đó pháp luật bảo vệ rừng có những
nội dung cơ bản sau:
Một là, pháp luật bảo vệ rừng quy định một hệ thống chính sách trong quản lý đối
với lĩnh vực bảo vệ rừng, biểu hiện cụ thể như sau:
- Nhà nước có chính sách đầu tư cho việc bảo vệ rừng gắn liền, đồng bộ với các
chính sách kinh tế - xã hội khác, ưu tiên đầu tư xây dựng cơ bản cơ sở hạ tầng, phát triển

nguồn nhân lực, định canh, định cư ổ định và cải thiện đời sống nhân dân miền núi.
- Nhà nước đầu tư cho các hoạt động bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng
giống Quốc gia; bảo vệ các loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm; nghiên
cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và nguồn đào tạo nhân
lực cho việc bảo vệ rừng; xây dựng hệ thống quản lý rừng hiện đại, thống kê rừng, kiểm kê
rừng và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng; xây dựng lực lượng phòng cháy rừng chuyên
ngành; đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang thiết bị phương tiện phục vụ chũa cháy
rừng, phòng trừ sinh vật gây hại rừng.
- Nhà nước có chính sách hỗ trợ việc bảo vệ rừng sản xuất là rừng tự nhiên nghèo.

Muốn bảo đảm chính sách trên, đòi hỏi phải có một hành lang pháp lý vững chắc
để thiết lập lâm phận quốc gia ổn định, thông qua: Đẩy mạnh rà soát, xây dựng và hoàn
thiện các văn bản quy phạm về quản lý, bảo vệ phát triển và sử dụng rừng; luật tục và
phong tục, tập quán của các địa phương và các dân tộc ít người cần được xem xét, kết hợp
với pháp luật nhà nước để xây dựng các quy ước bảo vệ rừng.
Hai là, pháp luật bảo vệ rừng quy định chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ của các cơ
quan QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan QLNN trong lĩnh
vực bảo vệ rừng được quy định trong Luật BV&PTR từ Điều 38 đến Điều 39, từ Điều 79 đến
Điều 81 và được phân tích ở mục 1.2 của chương 1.
Ba là, pháp luật bảo vệ rừng quy định quyền và nghĩa vụ của chủ rừng.
Các quyền và nghĩa vụ của chủ rừng được Luật BV&PTR quy định từ Điều 59 đến
Điều 78 và còn nằm rải rác ở một số văn bản pháp luật khác, nhưng nó dược biểu hiện cụ
thể nhưng sau:
Quyền chung của chủ rừng:
- Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu
rừng sản xuất là rừng trồng.
- Được sử dụng rừng ổn định, lâu dài phù hợp với thời hạn giao rừng, cho thuê
rừng và thời hạn gioa đất, cho thuê đất.
- Được sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp kết hợp với quy chế quản lý

rừng, trừ rừng đặc dụng.
- Được hưởng thành quản lao động, kết quản đầu tư trên diện tích được giao, cho
thuê; bán thành quả lao động, kết quả đầu tư cho người khác.
- Được kết hợp nghiên cứu khoa học, kinh doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch
sinh thái - môi trường theo dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Được bồi thường thành quả lao động, kết quả đầu tư để bảo vệ rừng theo quy định
của Luật BV&PTR và các quy định khác của pháp luật có liên quan khi nhà nước có quyết
định thu hồi rừng.

- Được hướng dẫn về kỹ thuật, hỗ trợ về vốn theo chính sách của nhà nước để bảo
vệ rừng và được hưởng lợi ích do các công trình công cộng bảo vệ, cải tạo rừng mang lại.
- Được Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp đối vói rừng được giao, cho
thuê.
Nghĩa vụ chung của chủ rừng:
- Bảo toàn vốn rừng và phát triển rừng bền vững; sử dụng rừng đúng mục đích,
đúng ranh giới đã quy định trong quyết định giao, cho thuê rừng và theo quy chế quản lý
rừng.
- Tổ chức bảo vệ rừng theo quy hoạch, kế hoạch, dự án, phương án đã được phê
duyệt.
- Định kỳ báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về diễn biến tài nguyên rừng và
các hoạt động liên quan đến khu rừng cảu các cơ quan có trách nhiệm thống kê, kiểm kê
theo dõi diễn biến tài nguyên rừng.
- Giao lại rừng khi nhà nước có quyết định thu hồi rừng hoặc khi hết thời hạn sử
dụng rừng.
- Thực hiện nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện quy định của Luật BV&PTR và các quy định khác của pháp luật; không làm
tổn hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.
Bốn là, pháp luật bảo vệ rừng quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
pháp luật về bảo vệ rừng (được trình bày ở mục 1.2 ở chương 1 và mục 2.4 ở chương 2).
1.2. Vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ rừng

Thực tiễn sản xuất và đời sống đòi hỏi phải có các chuẩn mực trong mọi hành vi
ứng xử, giao tiếp cho mọi thành viên trong xã hội tuân theo. Những văn bản quy định
những quy tắc xử sự chung đó được gọi là văn bản pháp luật, được nhà nước tạo mọi điều
kiện bảo đảm việc thực hiện. Các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ rừng cũng chính
là những quy tắc xử sự chung nằm trong khuôn khổ của hệ thống văn bản pháp luật của
một quốc gia. Là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật bảo vệ rừng

có các vai trò của pháp luật nói chung, và cũng có những vai trò riêng, đó là pháp luật
trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng là cơ sở pháp lý cho việc quy định cơ cấu tổ
chức của các cơ quan quản lý nhà nuớc đối với lĩnh vức bảo vệ rừng; là cơ sở pháp lý cho
việc quy định cơ cấu hoạt động của cơ quan QLNN về bảo vệ rừng; là cơ sở pháp lý cho
việc thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng; là cơ
sở pháp lý cho xã hội hóa công tác bảo vệ rừng.
Một là, pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng là cơ sở pháp lý quy định
cơ cấu tổ chức của các cơ quan QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Để tồn tại và phát triển con người buộc phải liên kết với nhau thành những cộng
đồng có tổ chức. Có thể nói, cộng đồng là môi trường tồn tại của mỗi cá nhân trong xã hội.
Tính cộng đồng của đời sống loài ngươì xuất hiện nhu cầu phải phối hợp, quy tụ hoạt động
của những cá nhân riêng rẽ theo những hướng nhất định, để đạt được mục đích nào đó,
nghĩa là nhu cầu điều chỉnh những mối liên hệ giữa con người với con người. C. Mác đã
nhấn mạnh: “Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô
tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều những hoạt động cá nhân
và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất
khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó” [45, tr. 480]. Vì vậy, tổ chức
quản lý là yếu tố cần thiết tất yếu của đời sống cộng đồng xã hội. Khi xã hội phát triển tính
chất xã hội hoá các hoạt động xã hội ngày càng cao thì yếu tố tổ chức quản lý càng cần
được đề cao và nâng lên thành luật trên từng lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Lĩnh vực QLBVR cũng không nằm ngoài quy luật đó, pháp luật trong QLBVR có
một vai trò quan trọng trong việc quy định cơ cấu tổ chức của cơ quan QLNN đối với lĩnh
vực bảo về rừng. Hệ thống cơ quan QLBVR nằm trong hệ thống cơ quan QLNN nói chung

và được tổ chức thống nhất từ trung ương tới địa phương; với hệ thống cơ quan QLNN có
thẩm quyền chung và cơ quan QLNN có thẩm quyền chuyên môn.
Hệ thống cơ quan QLNN có thẩm quyền chung trong lĩnh vực bảo vệ rừng bao gồm
Chính phủ và UBND các cấp. Chính phủ là cơ quan đứng đầu của hệ thống cơ quan hành
pháp, thống nhất quản lý thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc

phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước. Chính phủ có toàn quyền giải quyết, quyết định
những vấn đề liên quan tới hoạt động QLNN trên phạm vi toàn quốc trong quyền hạn của
mình, trong đó có lĩnh vực bảo vệ rừng; UBND là cơ quan có thẩm quyền chung, thông
qua hoạt động chấp hành - điều hành của mình thực hiện chức năng QLNN trên lĩnh vực
kinh tế, văn hoá, xã hội, hành chính - chính trị trong phạm vi địa phương, là cơ quan giúp
việc chính phủ trong việc QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng.
Hệ thống cơ quan quản lý chuyên ngành trong lĩnh vực bảo vệ rừng bao gồm: Bộ
NN&PTNT, sở NN&PTNT, cục kiểm lâm.
Bộ NN&PTNT là cơ quan chỉ đạo chuyên ngành trong lĩnh vực bảo vệ rừng, là cơ
quan chịu trách nhiệm trước chính phủ trong hoạt động QLBVR, đứng đầu là Bộ trưởng
Bộ NN&PTNT. ở địa phương có các Sở NN&PTNT, có các giám đốc và phó giám đốc sở
là người giúp việc cho Bộ trưởng Bộ NN&PTNT trong lĩnh vực bảo vệ rừng; bên cạnh đó
có một hệ thống chuyên trách phụ trách việc QLBVR, đó là lực lượng kiểm lâm, được coi
là lực lượng nòng cốt giúp Bộ trưởng Bộ NN&PTNT quản lý và bảo vệ rừng, cơ cấu tổ
chức được thể hiện như sau:
ở Trung ương: Cục Kiểm lâm trực thuộc Bộ NN&PTNT.
ở cấp tỉnh nơi có rừng: Chi cục Kiểm lâm trực thuộc UBND tỉnh.
ở cấp huyện: Hạt Kiểm lâm trực thuộc Chi cục Kiểm lâm.
ở các đầu mối giao thông quan trọng: Hạt Phúc Kiểm lâm sản trực thuộc Chi cục
Kiểm lâm.
Như vậy, pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng có một vai trò quan
trọng trong việc quy định cơ cấu tổ chức của ngành Kiểm lâm, lực lượng này được tổ chức
thành hệ thống, đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT và sự chỉ
đạo, kiểm tra của UBND các cấp. Cơ quan Kiểm lâm là một hình thức cơ quan nhà nước

đặc thù, vừa có tính chất của cơ quan hành chính nhà nước vừa có những hoạt động tư
pháp.
Từ khi hệ thống Kiểm lâm được thành lập đến nay, quy định của pháp luật đã có
nhiều điều chỉnh về cơ cấu tổ chức đối với hệ thống này. Từ năm 1973 đến năm 1979, hệ

thống Kiểm lâm được tổ chức theo hệ thống ngành dọc thống nhất: Cục Kiểm lâm Trung
ương, Chi cục Kiểm lâm các Tỉnh, Hạt kiểm lâm cấp huyện đặt dưới sự lãnh đạo thống
nhất của Bộ Lâm nghiệp và chịu sự điều hành, giám sát của cơ quan quản lý hành chính
nhà nước (Uỷ ban hành chính các cấp). Từ năm 1980 đến năm 1994 ở Địa phương hệ
thống Kiểm lâm chuyển giao từ trực thuộc UBND sang trực thuộc cơ quan QLNN chuyên
ngành (Sở, Ty, Ban Lâm nghiệp các cấp). Từ năm 1994 đến 2005, tiếp tục sự điều chỉnh: ở
Trung ương, Cục Kiểm lâm trực thuộc Bộ NN&PTNT; ở cấp Tỉnh Chi cục Kiểm lâm trực
thuộc UBND cấp tỉnh; ở cấp Huyện Hạt Kiểm lâm trực thuộc Chi cục kiểm lâm; ở đầu mối
giao thông vận chuyển lâm sản lớn có Hạt Kiểm lâm trực thuộc Chi cục Kiểm lâm. Ngoài ra,
ở các khu rừng đặc dụng và khu rừng phòng hộ có diện tích lớn cũng có Hạt Kiểm lâm trực
thuộc Giám đốc vườn quốc gia hoặc Trưởng Ban quản lý khu rừng đặc dụng.
Luật BV&PTR ra đời đã hơn 20 năm qua, công tác tổ chức bảo vệ rừng đã đạt
được những thành tựu đáng kể, khắc phục được một số tồn tại, yếu kém. Nhưng cơ cấu tổ
chức của cơ quan QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng trong những năm qua chưa thống
nhất và không ổn định, đặc biệt là lực lượng kiểm lâm nên hiệu lực quản lý bị hạn chế,
việc tách ra nhập vào, thậm chí có nơi bị giải thể làm cho khả năng hành động và hiệu quả
QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng bị giảm sút, coi nhẹ. Tài nguyên rừng vẫn tiếp tục giảm
sút về diện tích và chất lượng, tình hình thiên tai, lũ lụt đã gây hậu quả không nhỏ ảnh
hưởng đến đời sống nhân dân, đây thực sự là mối quan tâm của toàn xã hội. Chính vì vậy
pháp luật trong qủan lý nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ rừng có một vai trò quan trọng
tạo hành lang pháp lý cho việc quy định cơ cấu tổ chức của các cơ quan QLNN trong lĩnh
vực bảo vệ rừng để đảm bảo sự phân công, phối hợp việc thực hiện quyền lực nhà nước
trong QLBVR, tạo địa vị pháp lý độc lập cho các cơ quan quản lý tiến hành hoạt động bảo
vệ rừng khách quan, hiệu quả.
Hai là, pháp luật trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng là cơ sở pháp lý quy

định hoạt động của cơ quan QLNN trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận của bộ máy nhà nước do Nhà nước
thành lập để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước thông qua hoạt động chấp

hành, điều hành. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước do
Hiến pháp, luật, pháp lệnh và nhiều văn bản dưới luật quy định. Mặt khác, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước do vị trí, tính chất của nó trong hệ
thống các cơ quan quyết định. Quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà nước là phương
tiện pháp lý cần thiết mà nhà nước quy định để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Tóm lại, cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước,
trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước một cách trực tiếp hay gián tiếp, trong phạm vi
thẩm quyền của mình thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành và tham gia vào các
chức năng quản lý nhân danh quyền lực nhà nước [32, tr.179].
Cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống thống nhất từ Trung ương đến địa
phương.
Theo sự phân tích và trên cơ sở pháp luật quy định, tác giả trình bày khái quát về hệ
thống hoạt động của cơ quan QLNN (cơ quan hành chính) trong lĩnh vực bảo vệ rừng theo
cấp độ quản lý từ Trung ương đến địa phương ở Việt Nam hiện nay.
Cơ quan QLNN có thẩm quyền chung bao gồm Chính phủ và UBND các cấp.
Theo Điều 109 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: "Chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [32, tr.182].
Chính phủ là cơ quan đứng đầu hệ thống cơ quan hành pháp, thống nhất quản lý
việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại của Nhà nước; đảm bảo hiệu lực của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương,
đảm bảo việc thực thi Hiến pháp và pháp luật; đảm bảo việc phát huy quyền làm chủ của nhân
dân và ổn định, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Như vậy, Chính phủ có
toàn quyền giải quyết, quyết định các vấn đề liên quan tới hoạt động QLNN trên phạm vi toàn
quốc trong phạm vi quyền hạn của mình. Quyền hạn và nghĩa vụ của Chính phủ được quy
định trong Điều 115 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001).

Trong QLNN đối với lĩnh vực bảo vệ rừng, Chính phủ thống nhất QLNN trong
phạm vi toàn quốc thông qua các hoạt động chủ yếu sau:

×