Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty vận tải Đa phương thức trong lĩnh vực vận tải hàng dự án pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (866.85 KB, 94 trang )













LUẬN VĂN:

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
của Công ty vận tải Đa phương thức
trong lĩnh vực vận tải hàng dự án























MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, ngành vận
tải cũng đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực vận tải
hàng dự án, vận tải hàng siêu trường siêu trọng. Để ngành vận tải đáp ứng yêu cầu của
phát triển kinh tế và hội nhập, ngoài yếu tố cơ sở hạ tầng thì năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp vận tải có ý nghĩa quan trọng. Là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp trong thị trường vận tải nội địa và Quốc tế. Thời gian qua các doanh
nghiệp vận tải Việt Nam đã chú ý bước đầu đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình. Tuy nhiên, so với các doanh nghiệp vận tải thế giới thì doanh nghiệp vận tải Việt
Nam vẫn còn non yếu về năng lực và kinh nghiệm cạnh tranh. Việc nghiên cứu các yếu tố
ảnh hưởng đến doanh nghiệp để đề ra các biện pháp nhằm nâng cao vị thế của doanh
nghiệp trên thương trường là đòi hỏi có tính cấp thiết hiện nay.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập thì cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày
càng quyết liệt, không chỉ có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước mà còn có
sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài ngay
tại thị trường trong nước, đặc biệt là đối với ngành Vận tải hàng dự án, một ngành mà
hiện nay được xem như chưa có được năng lực cạnh tranh cao với các doanh nghiệp
nước ngoài trong lĩnh vực vận tải nội địa. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải
không ngừng đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để đáp ứng yêu cầu của
thị trường.

Công ty Vận tải Đa phương thức là doanh nghiệp vận tải hoạt động trong nhiều lĩnh
vực, trong đó vận tải hàng dự án là ngành chủ lực, đặc biệt là vận tải hàng siêu trường siêu
trọng. Trong những năm qua, là một trong những đơn vị dẫn đầu của Bộ Giao thông vận
tải, đã có những đóng góp lớn trong lĩnh vực vận chuyển hàng siêu trường siêu trọng, thiết
bị toàn bộ các dự án lớn, trọng điểm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Tuy nhiên, trước xu thế cạnh tranh ngày càng quyết liệt trong thị trường vận tải,
Công ty Vận tải Đa phương thức vẫn còn một số bất cập mà nếu không nhanh chóng khắc
phục thì thị trường có thể bị thu hẹp khi Việt Nam mở cửa trong lĩnh vực này. Là người
trực tiếp tham gia quản lý trong lĩnh vực này, tôi chọn đề tài “Giải pháp nâng cao năng

lực cạnh tranh của Công ty vận tải Đa phương thức trong lĩnh vực vận tải hàng dự án”
được chọn làm luận văn thạc sỹ - chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Nâng cao năng lực cạnh tranh là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp vì nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có
nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu đã được công bố như:
- Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty Bưu chính viễn
thông trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh - thực trạng và giải pháp - Luận văn Thạc sỹ
của Trương Hoài Trang, Hà Nội, 2005.
- Một số giải pháp nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng
Công thương Việt Nam - luận văn thạc sỹ của Phan Lê Mai Linh, Đà Nẵng, 2003.
- Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng Nhà nước ở Việt
Nam - luận án Tiến sỹ khoa học kinh tế của Nguyễn Tiến Triển
- Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong hội
nhập kinh tế quốc tế - Tiến sỹ Nguyễn Vĩnh Thanh, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương (CIEM) và cơ quan phát triển Liên hợp quốc (UNDP) - Nxb Giao thông vận tải, Hà
Nội.
- Chiến lược cạnh tranh theo lý thuyết Michael E. Porter - TS Dương Ngọc Dũng -
Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

- Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế - TS Vũ Trọng Lâm- Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Cạnh tranh kinh tế - PGS TS Trần văn Tùng - Nxb Thế giới.
Với cùng một mục tiêu là nâng cao năng lực cạnh tranh, nhưng mỗi doanh nghiệp
sẽ có một chiến lược riêng của đơn vị mình. Và trong các nghiên cứu trên, vấn đề cạnh
tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh đã được đề cập cho một số ngành nghề và quốc gia
nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao năng lực canh tranh của các đơn vị vận tải đặc biệt là trong lĩnh vực vận tải hàng
dự án. Tôi đã chú trọng kế thừa và chọn lọc những ý tưởng liên quan đến đề tài để phân
tích tình hình thực tiễn và tìm một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty

vận tải đa phương thức trong lĩnh vực vận tải hàng dự án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của đề tài là làm rõ cơ sở lý luận, phân tích thực trạng, đề xuất giải pháp
khả thi để nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty vận tải Đa phương thức trong lĩnh
vực vận tải hàng dự án trên thị trường vận tải Việt Nam và thị trường nước ngoài như Lào
và Campuchia.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề sau:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty vận tải Đa phương thức
trong lĩnh vực vận tải hàng dự án.
- Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Vận tải Đa phương thức
trong lĩnh vực vận tải hàng dự án.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vận tải trong nền kinh
tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu: Vận tải là đa dạng, đa mặt hàng, nhưng luận văn chỉ tập trung
vào lĩnh vực vận tải vật tư thiết bị hàng dự án tại Công ty Vận tải Đa phương thức.
Thời gian nghiên cứu khảo sát thực trạng từ năm 2000 - 2006 và đề xuất giải pháp
đến 2010

5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở tổng hợp, phân tích thị trường vận tải nội địa và một số nước láng giềng,
nghiên cứu các tài liệu về chiến lược cạnh tranh, vận tải Đa phương thức, quản trị doanh
nghiệp, marketing để ứng dụng xây dựng chiến lược phù hợp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của Công ty.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá có bổ sung những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp vận tải nói riêng.
- Phân tích các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của Công ty
Vận tải Đa phương thức.
- Đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty Vận tải Đa phương thức trên thị trường

vận tải hàng dự án tại Việt Nam.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công
ty Vận tải Đa phương thức trên lĩnh vực vận tải hàng dự án.
- Một số kiến nghị với Nhà Nước và Bộ Giao Thông Vận Tải
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn gồm 3
chương, 9 tiết.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP VẬN TẢI HÀNG DỰ ÁN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1. NHẬN THỨC VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Quan niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
* Quan niệm về cạnh tranh
Theo tiến trình của lịch sử các học thuyết kinh tế, các học giả cũng đã đưa ra rất

nhiều quan niệm về cạnh tranh.
Trong tác phẩm “Quốc phú luận” của Adam Smith, tác giả đã cho rằng cạnh tranh
có thể phối hợp kinh tế một cách nhịp nhàng, có lợi cho xã hội. Theo Smith, “nếu tự do
cạnh tranh, các cá nhân chèn ép nhau, thì cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm
công việc của mình một cách chính xác”, “cạnh tranh và thi đua thường tạo ra sự cố gắng
lớn nhất. Ngược lại, chỉ có mục đích lớn lao nhưng lại không có động cơ thúc đẩy thực
hiện mục đích ấy thì rất ít có khả năng tạo ra được bất kỳ sự cố gắng lớn nào” [23, tr.6].
Adam Smith lấy chủ nghĩa cá nhân làm cơ sở để sáng lập ra hệ thống lý luận kinh tế học
theo chủ nghĩa tự do. Ông cho rằng con người chạy theo lợi ích cá nhân, nhưng lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội lại thống nhất với nhau. Smith chủ trương tự do cạnh tranh, ông cho
rằng thông qua cạnh tranh mà các hoạt động kinh tế có thể phối hợp một cách nhịp nhàng
và thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Tự do cạnh tranh thúc đẩy con người nổ lực hơn, sáng
tạo, tăng năng suất lao động, làm cho quá trình của cải của quốc gia tăng lên, cạnh tranh
chủ yếu diễn ra thông qua thị trường và gía cả, do đó cạnh tranh có quan hệ chặt chẽ với
thị trường và tự do cạnh tranh có thể tự điều tiết các quan hệ cung - cầu, sản lượng, phân
công lao động, tạo sự cân bằng cung cầu xã hội mà không cần sự can thiệp của Nhà nước.
Cùng suy nghĩ với Adam Smith, Mill cho rằng cạnh tranh là cần thiết để thúc
đẩy sự phát triển của xã hội. Mill đề cao tự do cá nhân, nhưng lại cho rằng xã hội có
quyền sử dụng vũ lực để ngăn ngừa cá nhân gây ra hậu quả xấu.
Theo Charles Robert Darwin, nhà sinh vật học người Anh mô tả cạnh tranh trong
giới sinh vật là quá trình sinh vật không ngừng thích ứng với môi trường bên ngoài để tồn

tại. Không có cạnh tranh thì không có tiến hoá của toàn bộ các loài, trong đó có cả loài
người. Vận dụng nguyên lý của Darwin vào nền kinh tế thị trường cho thấy rằng công ty
nào hoặc sản phẩm nào thích hợp với quá trình phát triển thì mới tồn tại được, kẻ yếu bị
xua đuổi. Quan điểm cạnh tranh của ông là chuyển từ cạnh tranh đối kháng sang cạnh
tranh hợp tác. Quan điểm này phù hợp với xu thế kinh tế hiện nay: nhiều Công ty kết
hợp với nhau thành các tập đoàn đa quốc gia, cùng thiết lập quy tắc cạnh tranh mới, xây
dựng tiêu chuẩn kỹ thuật và hợp tác để cùng tồn tại và phát triển.
Trong lý luận cạnh tranh của mình, trọng điểm nghiên cứu của Các Mác những

cuộc cạnh tranh này diễn ra dưới ba góc độ: cạnh tranh giá thành thông qua nâng cao năng
suất lao động giữa các nhà tư bản nhằm thu được giá trị thặng dư siêu ngạch; cạnh tranh
chất lượng thông qua nâng cao giá trị sử dụng hàng hoá, hoàn thiện chất lượng hàng hoá để
thực hiện được giá trị hàng hoá; cạnh tranh giữa các ngành thông qua việc gia tăng tính lưu
động của tư bản nhằm chia nhau giá trị thặng dư. Ba góc độ cạnh tranh cơ bản này diễn ra
xoay quanh sự quyết định giá trị, sự thực hiện giá trị và sự phân phối giá trị thặng dư, chúng
tạo nên nội dung cơ bản trong lý luận cạnh tranh của Các Mác.
Đến nửa cuối thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học thuộc trường phái cổ điển mới xây
dựng lý luận cạnh tranh trên cơ sở tổng kết sự phát triển lý luận kinh tế ở nửa đầu thế kỷ
ấy nhằm vạch ra nguyên lý cơ bản về sự vận động của chế độ tư bản chủ nghĩa để chỉ đạo
cạnh tranh, kết quả là họ đã cho ra đời tư tưởng về thể chế kinh tế cạnh tranh hoàn hảo, lấy
thị trường tự do hoặc chế độ trao đổi làm cốt lõi. Cạnh tranh hoàn hảo là một trong những
giả thiết cơ bản của lý luận kinh tế này. Trong kinh tế học cổ điển mới, thị trường được giả
định là thị trường không có độc quyền, tự động giữ được cân đối, những người tham gia
thị trường cũng được giả định là có đầy đủ thông tin như nhau. Trong nền kinh tế cạnh
tranh hoàn hảo, người sản xuất phải bố trí sản xuất theo thị hiếu của người tiêu dùng, còn
người tiêu dùng phải chọn lựa hàng hoá và dịch vụ bằng hình thức tiền tệ.
Ngược với tư tưởng xem cạnh tranh là một quá trình tĩnh của các nhà kinh tế học
thuộc trường phái cổ điển mới của thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học của trường phái Áo cho
rằng: “Một chỉ tiêu quan trọng về sự ra đời của lý luận cạnh tranh hiện đại là vứt bỏ việc
lấy cạnh tranh hoàn hảo làm giáo điều của mô hình cạnh tranh hiện thực và lý tưởng, cạnh
tranh được xem xét ở góc độ là một quá trình động, phát triển chứ không phải là quá trình
tĩnh. Tương ứng với điều này, đối tượng nghiên cứu trọng điểm cũng không còn là giá cả

được quyết định như thế nào trên tiền đề đã định sẵn và phải thích ứng với kết cấu hiện có
như thế nào để thực hiện được sự cân đối kinh tế, mà là hình thức kết hợp các yếu tố cạnh
tranh trong quá trình cạnh tranh thực tế thực hiện được tiến bộ và sáng tạo kỹ thuật. Như
vậy thì lý luận cạnh tranh mới là môn lý luận độc lập với lý luận giá cả” [28].
Quan điểm của David Ricardo cũng đề cao tự do cạnh tranh, đặc biệt là tư tưởng về
lợi thế so sánh. Mỗi quốc gia, mỗi ngành có những lợi thế về tài nguyên khác nhau, công

nghệ khác nhau do đó có thể sản xuất và bán những sản phẩm mà mình có lợi thế hơn và
thông qua ngoại thương nhập những mặt hàng mà mình kém ưu thế hơn. Adam Smith và
David Ricardo chỉ rõ gía trị và giá trị sử dụng của hàng hoá và chính hai yếu tố này quyết
định năng lực cạnh tranh của hàng hoá.
Như vậy, cạnh tranh là một công cụ mạnh mẽ và là một yêu cầu tất yếu cho sự phát
triển kinh tế của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia.
Cạnh tranh giúp khai thác một cách hiệu quả nguồn lực thiên nhiên và tạo ra các
phương tiện mới để thoả mãn nhu cầu cá nhân ở mức giá thấp hơn và chất lượng cao hơn,
từ đó, nâng cao được đời sống vật chất và tinh thần của con người. Nhờ cạnh tranh đã thúc
đẩy đổi mới công nghệ và gia tăng năng suất, tạo ra những thành tựu mới trên nhiều lĩnh
vực.
* Phân loại cạnh tranh
Dựa trên những góc độ khác nhau mà có thể phân cạnh tranh thành nhiều loại:
- Dưới góc độ các chủ thể kinh tế tham gia thị trường, có cạnh tranh giữa những
người sản xuất với nhau, giữa người mua và người bán, người sản xuất và người tiêu dùng
và giữa những người mua với nhau.
- Dưới góc độ quy mô cạnh tranh có cạnh tranh của sản phẩm, cạnh tranh của doanh
nghiệp và cạnh tranh của quốc gia.
- Theo tính chất của phương thức cạnh tranh có: cạnh tranh hợp pháp hay cạnh
tranh lành mạnh và cạnh tranh không hợp pháp hay cạnh tranh không lành mạnh.
- Theo hình thái của cạnh tranh có: cạnh tranh hoàn hảo hay thuần túy và cạnh tranh
không hòan hảo.
- Theo công đoạn của sản xuất - kinh doanh có: cạnh tranh trước khi bán hàng,
trong quá trình bán hàng và sau khi bán hàng.
- Theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể trong cạnh tranh có cạnh tranh nội bộ ngành

và cạnh tranh giữa các ngành.
- Theo phạm vi lãnh thổ có cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế.
* Quan niệm về năng lực cạnh tranh
Trong cạnh tranh sẽ có người có khả năng cạnh tranh mạnh, người có khả năng

cạnh tranh yếu hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản phẩm có khả năng cạnh
tranh yếu, khả năng cạnh tranh này gọi là năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh.
+ Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó (về các chỉ tiêu) so với
sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường.
Như vậy việc xác định năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường là xác định
mức độ tin cậy của người tiêu dùng đối với sản phẩm về giá cả, đổi mới công nghệ, dịch
vụ sau bán hàng… so với sản phẩm cùng loại mà đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị
trường, chứ không quan tâm đến việc nó có ưu điểm hơn các sản phẩm xuất khẩu tại chỗ
hay không. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm chính là năng lực nắm giữ và nâng cao thị
phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và cung ứng nào đó đem ra để tiêu thụ so với
sản phẩm cùng loại của các chủ thể sản xuất, cung ứng khác đem đến tiêu thụ ở cùng một
khu vực thị trường và thời gian nhất định.
Như vậy năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng của nó, giá cả,
tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện
mua bán,…
+ Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi
thế cạnh tranh , có khả năng tạo ra được năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh
tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Đánh giá năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua: thị phần, doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi
nhuận, thu nhập bình quân, phương pháp quản lý, bảo vệ môi trường, uy tín của doanh
nghiệp đối với xã hội, tài sản của doanh nghiệp…các yếu tố này tạo nên lợi thế cạnh tranh
của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có khả năng triển khai các hoạt động với hiệu suất
cao hơn các đối thủ cạnh tranh, tạo ra giá trị khác biệt hay chi phí thấp hoặc cả hai yếu tố
trên. Như vậy đối với doanh nghiệp thì lợi thế cạnh tranh là xuất phát điểm, là điều kiện
cần, khả năng cạnh tranh mạnh là điều kiện đủ để doanh nghiệp có vị thế cạnh tranh mạnh
trên thương trường. Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh thì nhất thiết phải có lợi thế
cạnh tranh nhưng ngược lại thì chưa chắc đúng. Nếu doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh

nhưng không có khả năng tận dụng tốt lợi thế đó để cung cấp các sản phẩm đem lại nhiều
giá trị hơn cho khách hàng, không phát triển các lợi thế mới để duy trì ưu thế của mình so

với đối thủ thì doanh nghiệp đó không thể được coi là có sức cạnh tranh mạnh và lợi thế
sớm muộn cũng sẽ mất đi.
+ Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh Quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp
có sức cạnh tranh, ngược lại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có sức cạnh tranh, môi
trường kinh doanh của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách vĩ mô phải rõ ràng, nền
kinh tế phải ổn định, bộ máy Nhà nước phải trong sạch, có tính chuyên nghiệp. Đồng thời
tính nhạy bén, năng động trong quản lý của doanh nghiệp là nhân tố quan trọng góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế,
sức cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh Quốc gia. Nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm vừa là bộ phận cấu thành, vừa là một
trong những mục tiêu của nâng cao năng lực cạnh tranh của Quốc gia.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
* Trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp
- Phương pháp quản lý: Trình độ tổ chức và quản lý là yếu tố quan trọng nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Hiện nay có nhiều phương pháp quản lý tốt mà
nhiều doanh nghiệp đã áp dụng vào quản trị thành công tại đơn vị mình đó là phương pháp
quản lý theo tình huống, quản lý theo tiếp cận quá trình và tiếp cận hệ thống, quản lý theo
phương pháp của quản lý chất lượng. Mỗi phương pháp sẽ có một hiệu quả riêng của nó.
Quản lý theo tình huống là phương pháp quản lý linh hoạt. Nhận thức được tầm quan trọng
của công tác quản lý điều hành sản xuất nên hiện nay nhiều doanh nghiệp đã phấn đấu
nhận các chứng chỉ tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9001-2000, ISO 14000… Phương pháp
quản lý theo tiếp cận quá trình và tiếp cận hệ thống là phương pháp mới. Trước đây quản
lý thường chú trọng tới mục tiêu, có nghĩa là quy định những chỉ tiêu định lượng và phấn
đấu để đạt những chỉ tiêu đó. Điều này đúng nhưng chưa đủ vì doanh nghiệp đã không chú
ý đến môi trường và điều kiện tạo ra kết quả đó mà chính đây mới là cái gốc của việc tạo
ra kết quả. Phương pháp quản lý theo chất lượng là hoạt động bao trùm mọi phòng ban, chi
nhánh của doanh nghiệp.
- Hệ thống tổ chức gọn nhẹ là hệ thống tổ chức ít cấp, linh hoạt, dễ thay đổi khi môi

trường kinh doanh thay đổi, quyền lực đuợc phân chia để mệnh lệnh truyền đạt được

nhanh chóng, góp phần tạo năng suất cao, hoạt động của doanh nghiệp được trôi chảy,
không bị chồng chéo, ách tắc trong sản xuất, tạo sự tin tưởng cho khách hàng. Doanh
nghiệp có tính cạnh tranh cao là doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, không cứng nhắc
mà phải linh động thay đổi tùy thuộc vào môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp
trong từng thời kỳ hoạt động của doanh nghiệp.
- Văn hoá doanh nghiệp tốt là mọi hoạt động sản xuất kinh doanh phải theo pháp
luật, có lương tâm và đạo đức trong kinh doanh, kinh doanh giỏi và tích cực tham gia các
hoạt động xã hội. Văn hóa doanh nghiệp ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp vì nó tác động đến cách thức các cá nhân, nhóm, bộ phận tương tác với nhau và khả
năng sáng tạo của họ. Nếu doanh nghiệp xây dựng được văn hóa doanh nghiệp tức là tạo
cho doanh nghiệp có đặc trưng bản sắc riêng và tạo được hình ảnh đẹp trong mắt khách
hàng và xã hội, làm cho hình ảnh doanh nghiệp in sâu vào tâm trí người lao động, ngày
càng yêu mến doanh nghiệp của mình hơn, sẽ khuyến khích được tính sáng tạo, kích thích
tinh thần học tập, thi đua trong đội ngũ nhân viên qua đó nâng cao được khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp. Ngược lại không xây dựng được văn hóa doanh nghiệp thì sẽ
không kích thích được tinh thần tự hào vì mình là thành viên của doanh nghiệp do đó sẽ
không kích thích , khai thác hết được khả năng làm việc, cống hiến hết sức mình của đội
ngũ nhân viên, làm thui chột tinh thần tự chủ của nhân viên, làm mất đi khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp.
- Quản lý có hiệu quả: Hiệu quả quản lý biểu hiện ở năng suất, chất lượng cao, lợi
nhuận tăng, phát triển bền vững, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, xã hội. Năng
lực quản lý của doanh nghiệp là yếu tố tác động đến tính cạnh tranh của doanh nghiệp vì
nếu doanh nghiệp tổ chức thực hiện tốt các dịch vụ của mình nhưng khả năng quản lý kém
thì hiệu quả kinh doanh không cao dẫn đến doanh nghiệp phát triển không mạnh làm mất
dần khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình. Môi trường kinh doanh hiện nay không
kể trong nước hay ngoài nước luôn luôn thay đổi, tác động trực tiếp tới kết quả hoạt động
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải nắm bắt tình huống kịp thời, có biện pháp dự báo để
thay đổi chính sách, biện pháp cho thích ứng với sự thay đổi của môi trường.
* Ban Lãnh đạo
Ban lãnh đạo của một doanh nghiệp có vai trò quan trọng vì họ là người nắm toàn


bộ nguồn lực của tổ chức, vạch ra đường lối, chiến lược, chính sách, kế hoạch hoạt động,
hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá mọi hoạt động của các bộ phận của doanh nghiệp
để đưa hoạt động của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Năng lực lãnh đạo doanh nghiệp góp
phần vô cùng quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Thể hiện
cả trong công tác đối nội và đối ngoại. Người lãnh đạo biết nhìn xa trông rộng, có óc quan
sát, phân tích, phán đoán tình hình để lãnh đạo, nắm bắt cơ hội và giải quyết đối ngoại tốt
sẽ giúp Công ty làm ăn phát đạt, lãnh đạo đưa công ty ngày càng phát triển và nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực của lãnh đạo doanh nghiệp rất quan trọng
vì nếu lẫnh đạo tốt là biết rõ điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp, biết hoàn cảnh,
nguyện vọng của nhân viên để khuyến khích, động viên kịp thời nhằm khuyến khích tinh
thần tận tụy, khả năng cống hiến của nhân viên. Lãnh đạo doanh nghiệp phải đoàn kết có
quyết tâm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp để từ đó nhân viên cấp dưới
cũng cố gắng phát huy tài năng, đóng góp các sáng kiến phát triển doanh nghiệp.
* Nguồn lực của doanh nghiệp
- Nguồn vốn - năng lực tài chính: vốn là một nguồn lực của doanh nghiệp cần phải
có trước tiên vì không có vốn thì không thành lập được doanh nghiệp và không thể hoạt
động được. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao là doanh nghiệp có nguồn vốn
dồi dào, luôn đảm bảo huy động được vốn trong những điều kiện cần thiết, có nguồn vốn
huy động hợp lý, có kế hoạch sử dụng đồng vốn có hiệu quả để phát triển lợi nhuận.
Doanh nghiệp có năng lực tài chính mạnh là điều kiện cần thiết để nâng cao khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp mình, tuy nhiên các doanh nghiệp có nguồn vốn nhỏ nhưng biết
cách sử dụng hiệu quả và nhắm vào các đối tượng khách hàng đặc thù là loại đối tượng mà
các doanh nghiệp lớn không quan tâm hoặc có quan tâm nhưng nếu họ chọn loại khách
hàng này để phục vụ thì không hiệu quả thì các doanh nghiệp đó cũng có tính cạnh tranh
cao và sẽ càng ngày càng nâng cao được vị thế của doanh nghiệp mình.
- Nhân lực là nguồn lực rất quan trọng. Trình độ nguồn nhân lực của doanh nghiệp
thể hiện ở trình độ quản lý, trình độ lành nghề của đội ngũ công nhân viên, trình độ tư
tưởng của các thành viên trong doanh nghiệp. Trình độ nhân lực cao sẽ tạo ra sản phẩm
của doanh nghiệp có chất lượng, tạo ra giá trị lớn, tạo ra uy tín và danh tiếng cho doanh

nghiệp. Và từ đó có thể phát triển thị trường, mở rộng quy mô sản xuất.
- Trình độ công nghệ: năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở dây chuyền trang

thiết bị phương tiện vận tải mà còn thể hiện ở trình độ, chuyên môn sử dụng của người lao
động trong doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có trang thiết bị, phương tiện hiện đại nhưng
không có đội ngũ cán bộ công nhân lành nghề sử dụng thì cũng không phát huy được tính
hiện đại mà dây chuyền hiện đại mang lại do đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
cũng kém. Công nghệ hiện đại kết hợp với đội ngũ cán bộ công nhân lành nghề là điều
kiện tuyệt vời để doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh của đơn vị mình, đẩy nhanh
được tiến độ sản xuất, tính an toàn cao tạo được niềm tin cho khách hàng.
- Hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng: Hoạt động này góp phần
thúc đẩy sản xuất, cải tiến năng suất lao động. Chính người lao động trong doanh nghiệp
sẽ nắm rõ các ưu nhược điểm trong quy trình sản xuất của doanh nghiệp mình nên sẽ đề
xuất được các sáng kiến cải tiến phù hợp với tình hình của doanh nghiệp nhất và như vậy
sẽ nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị, góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Hiệu quả kinh doanh là trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu xác
định. Nó là phạm trù phản ánh chiến lược của các hoạt động kinh doanh. Nếu doanh
nghiệp có hiệu quả kinh doanh cao thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội.
Muốn vậy doanh nghiệp phải tạo ra dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Doanh
nghiệp kinh doanh hiệu quả thì nội bộ doanh nghiệp ổn định, mọi thành viên an tâm làm
việc, toàn tâm, toàn ý vì lợi ích của doanh nghiệp, trong đó có lợi ích của chính bản thân
họ.
- Thị phần là yếu tố phản ánh chính năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, thị
phần càng lớn thì doanh nghiệp càng có năng lực cạnh tranh và ngược lại. Nếu chỉ xem
xét thị phần của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định thì cũng chưa có thể kết luận
được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp một cách chính xác. Cần phải xem xét khả
năng duy trì và mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Trong một thời kỳ cụ thể thì thị
phần của doanh nghiệp thể hiện vị thế của doanh nghiệp hơn là thể hiện khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp đó. Nghiên cứu sự biến đổi thị phần của doanh nghiệp trong các

thời kỳ khác nhau sẽ hiểu rõ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp: doanh nghiệp cần xác định phạm vi
kinh doanh của doanh nghiệp mình để có chiến lược kinh doanh tối ưu. Theo Derek Abell
(1980) thì phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp được mô tả theo mô hình sau:

Khách
hàng là ai?
Nhu cầu
cần thỏa
mãn là gì?
doanh nghiệp
thỏa mãn nhu
cầu bằng
cách nào?










Sơ đồ 1.1: Phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp
Theo mô hình này thì phạm vi kinh doanh là sự kết hợp của 3 khía cạnh: xác định
khách hàng là ai? Nhu cầu cần thoả mãn là gì? doanh nghiệp cần thoả mãn nhu cầu bằng
cách nào? Nếu xác định đúng các khía cạnh sẽ tìm ra được phạm vi kinh doanh tốt giúp
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh tốt là chiến lược
khác biệt, biết phát huy các sở trường của doanh nghiệp mình và cạnh tranh đánh bại các

đối thủ khác. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm chiến lược lựa chọn, phát
triển thị trường mục tiêu; chiến lược giữ vững và phát triển thị trường hiện tại; chiến lược
thâm nhập thị trường mới; chiến lược giá cả…
- Nhận thức của người lao động trong doanh nghiệp: Mọi người trong doanh nghiệp
cần nhận thức rõ mình làm cho Công ty tức là mình làm cho mình và xây dựng Công ty
ngày càng phát triển thì đời sống của người lao động trong Công ty ngày càng tăng lên,
qua đó làm cho xã hội ngày càng phát triển hơn. Từ nền tảng nhận thức như vậy làm cho
mọi người trong Công ty sẽ luôn luôn phấn đấu, nghiên cứu có nhiều sáng kiến, ý thức lao
động tốt, năng suất sản xuất tăng, uy tín doanh nghiệp tăng cao. Người lao động cũng cần
phải nắm rõ các quy định, quy chế của Công ty cũng như nắm rõ các quy định của pháp
luật để không có những hành vi gây tổn hại đến hình ảnh Doanh Nghiệp. Người lao động
cũng cần phải nhận thức được nguy cơ bị đào thải do quy luật cạnh tranh để không ngừng
vươn lên, học hỏi. Nếu người lao động không ý thức được vấn đề này, không có ý thức tốt
Phạm vi kinh
doanh của doanh
nghiệp

trong công việc sẽ gây tổn hại đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Công tác giáo dục, đào tạo trong doanh nghiệp là một khâu quan trọng và luôn
đồng hành với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nhất là khâu giáo dục tư tưởng
đạo đức. Công tác đào tạo bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ là khâu then chốt vì thời đại
ngày nay là thời đại cạnh tranh tri thức, doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên có chuyên môn
cao, có trình độ tay nghề tốt kết hợp với một số nhân tố khác chắc chắn sẽ tạo ra một
doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao.
- Thương hiệu doanh nghiệp là một vấn đề mà hiện nay đã được các doanh nghiệp
Việt Nam quan tâm. Khi doanh nghiệp có thương hiệu sẽ tạo được niềm tin của khách
hàng và thu hút được nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp mình. Thương
hiệu mang trong nó một giá trị hiện tại và tiềm năng. Thương hiệu là tài sản vô hình của
doanh nghiệp. Nhờ thương hiệu của doanh nghiệp mà giá dịch vụ của doanh nghiệp được
khách hàng đánh giá cao hơn, sử dụng nhiều hơn và thậm chí giá dịch vụ sẽ cao hơn.

- Hoạt động tiếp thị, quảng bá doanh nghiệp, khả năng nắm bắt thu thập thông tin
góp phần quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc
nắm bắt nhanh thông tin về các dự án được đầu tư, chủ đầu tư, đối thủ cạnh tranh, xử lý
kịp thời các thông tin và đề xuất phương hướng tiếp thị hiệu quả giúp doanh nghiệp
tiếp cận nhanh, thu hút được sự tin cậy cảm tình của khách hàng và họ sẽ sử dụng dịch
vụ của doanh nghiệp mình.
1.1.3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
Việt Nam
Hiện nay toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã thực sự trở thành vấn đề thời
sự đối với mỗi Quốc gia, mỗi tổ chức, doanh nghiệp và có tác động không nhỏ tới từng cá
nhân trong xã hội. Để bắt nhịp với tiến trình hội nhập này, nền kinh tế quốc dân trong đó
có các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp phải đối mặt với các thách thức ngày càng
khốc liệt của thị trường. Các nền kinh tế ngày càng phát triển hùng mạnh, biên giới quốc
gia trở nên chật hẹp buộc các Công ty phải vượt qua biên giới quốc gia để thâm nhập vào
mạng kinh tế toàn cầu. Quá trình các nền kinh tế thâm nhập vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau
gọi là quá trình toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa ở đây là toàn cầu hóa kinh tế, thực chất là tòan
cầu hóa sản xuất và tòan cầu hóa thị trường, trong đó thị trường đóng vài trò chủ đạo và

đang phát triển ngày càng sâu, rộng. Xu hướng toàn cầu hóa và nền kinh tế các nước chủ
yếu là nền kinh tế thị trường thúc đẩy sự cạnh tranh không chỉ trong phạm vi quốc gia mà
lan tỏa ra thế giới, gọi là cạnh tranh Quốc tế. Và ngược lại cạnh tranh Quốc tế cũng xâm
nhập vào từng quốc gia rồi biến các thị trường Quốc gia đó thành một bộ phận của thị
trường thế giới
Việt Nam hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế cũng đã hơn 10 năm: năm 1995
gia nhập ASEAN, năm 1996 tham gia vào AFTA, năm 1998 là thành viên chính thức của
APEC, năm 1992 Việt Nam đã nối lại quan hệ với IMF, WB, ADB và đặc biệt đầu năm
2007 đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Như vậy chúng ta đã từng
bước hội nhập trên cả 3 phương diện: đơn phương, song phương và đa phương. Việt Nam
đã từng bước tham gia vào thể chế kinh tế Khu vực và Thế giới, đã tạo cho doanh nghiệp
nhiều thuận lợi để phát triển thị trường, tiếp thu phát triển công nghệ mới, hiện đại, tiếp

cận được nhiều phương thức quản lý công nghiệp, hiện đại. Bên cạnh những thuận lợi
chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn, mà khó khăn lớn nhất là cạnh tranh trong điều kiện
không cân sức. Tuy có nhiều thách thức và mất mát, ta không có con đường nào khác là
phải hội nhập vào kinh tế toàn cầu. Các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có doanh nghiệp
vận tải hàng dự án cần phải khẩn trương tạo thế và lực cho mình để tận dụng những thuận
lợi, hạn chế những khó khăn để đứng vững và vươn lên trong cuộc cạnh tranh gay gắt hiện
nay.
1.2. NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VẬN TẢI HÀNG DỰ ÁN
1.2.1. Quan niệm về hàng dự án và đặc điểm của doanh nghiệp vận tải hàng dự
án
* Quan niệm về hàng dự án
Hàng dự án là vật tư thiết bị toàn bộ được đầu tư phục vụ cho một dự án bất kỳ. Vật
tư thiết bị toàn bộ gồm hàng thông thường và hàng siêu trường siêu trọng (khi xếp lên
phương tiện có kích thước dài>20m hoặc rộng >2,5m hoặc cao tính từ mặt đất >4,2m hoặc
nặng trên 32 tấn).
(Quyết định số 2112/2003/QĐ-BGTVT ngày 21 tháng 7 năm 2003 về việc bổ sung,
sửa đổi một số điều của quy định vận chuyển hàng siêu trường siêu trọng bằng đường bộ)

Thường sử dụng phương thức vận tải đa phương thức để thực hiện vận tải hàng dự
án.
* Quan niệm về vận tải đa phương thức
Vận tải đa phương thức (Multimodal Transport) là loại hình vận tải mà tên quốc tế
còn gọi là vận tải liên hợp quốc tế (Combined transport) là phương pháp vận tải hàng hóa
bằng ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau trở lên, trên cơ sở một hợp đồng vận tải đa
phương thức từ một điểm ở một nước này tới một điểm chỉ định ở một nước khác để giao
hàng [16].
Có nhiều mô hình vận tải đa phương thức:
- Mô hình vận tải đường biển - vận tải đường hàng không
- Mô hình vận tải đường ôtô - vận tải đường hàng không

- Mô hình vận tải đường sắt - vận tải đường ôtô
- Mô hình vận tải đường sắt - đường ôtô - đường sông - đường biển
- Mô hình cầu lục địa: hàng hóa hai đầu được vận chuyển bằng đường biển.
Vận tải đa phương thức ra đời mang lại hiệu quả to lớn cho các bên tham gia quá
trình vận tải (người chủ, người giao nhận, người vận tải…) nói riêng và hiệu quả kinh tế
cho xã hội nói chung.
Hiệu quả vận tải đa phương thức là tổng hợp của những ưu điểm, lợi ích của việc
chuyên chở hàng hóa bằng container, của nghiệp vụ gom hàng và phương pháp vận
chuyển đi suốt.
Vận tải đa phương thức tạo ra một đầu mối duy nhất trong việc vận chuyển từ cửa
đến cửa. Người gửi hàng chỉ cần liên hệ với một người duy nhất là người kinh doanh vận
tải đa phương thức để ký hợp đồng chuyên chở. Mọi việc liên quan đến chuyên chở hàng
hóa bằng nhiều phương pháp vận tải khác nhau, kể cả việc khiếu nại đòi bồi thường mất
mát, hư hỏng của hàng hóa từ người chuyên chở thực tế đều do người kinh doanh vận tải
đa phương thức lo liệu.
Vận tải đa phương thức sẽ tăng nhanh thời gian giao hàng do có sự kết hợp nhịp
nhàng của các phương thức vận tải, giảm được chi phí vận tải nhờ sự kết hợp của hai hay
nhiều phương thức vận tải.
Vận tải đa phương thức sẽ đơn giản hóa chứng từ thủ tục vì vận tải đa phương thức
sử dụng một chứng từ duy nhất là chứng từ vận tải đa phương thức hoặc vận đơn đa

phương thức. Các thủ tục hải quan và quá cảnh cũng được đơn giản hóa trên cơ sở các hiệp
định, công ước quốc tế đa phương hoặc song phương được ký kết.
Hiện nay, hình thức vận tải đa phương thức tại Việt Nam chưa phát triển mạnh, hầu
hết mới chỉ đang dừng ở hình thức sử dụng nhiều phương thức vận tải khác nhau để vận
chuyển hàng hóa từ cảng nhập khẩu đến vị trí trả hàng.
Dịch vụ vận tải đa phương thức đang trở thành ngành dịch vụ vận tải phổ biến trên
thế giới nhưng còn khá mới mẻ trên thị trường Việt Nam. Theo thông lệ quốc tế, đây là
hình thức vận tải hàng hoá cần có sự tham gia của ít nhất hai loại hình thức vận tải khác
nhau và hàng hoá được vận chuyển từ lãnh thổ của nước này sang nước khác. Để cung ứng

tốt dịch vụ vận tải đa phương thức, ngoài yêu cầu về cơ sở hạ tầng và phương tiện vận tải
có chất lượng cao, một yêu cầu khác quan trọng hơn nhiều là khả năng liên kết các Hãng
vận tải khác nhau và quản lý một dây chuyền cung ứng trên nhiều phương thức đó. Do đặc
điểm này vận tải đa phương thức thường phát huy ở các quốc gia có trình độ phát triển,
đặc biệt là phát triển về công nghệ thông tin để có thể khớp các khâu trong hành trình vận
tải một cách có hiệu quả và tiết kiệm chi phí nhất. Người kinh doanh vận tải đa phương
thức phụ trách một chu trình khép kín bao gồm tất cả các khâu cung cấp dịch vụ để đạt
mục tiêu cao nhất của mọi hình thức vận tải là giao hàng đúng thời hạn và đảm bảo chất
lượng hàng hoá. Trên thực tế thì ít có hãng vận tải có khả năng tự cung cấp dịch vụ vận tải
đồng thời bằng đường biển, đường không, đường sắt, đường thuỷ, đường bộ do vậy
người kinh doanh vận tải đa phương thức chỉ cần cung cấp một kết cấu hạ tầng và đảm
nhận vai trò điều phối hoạt động của các phương tiện và hình thức vận tải khác nhau.
Người kinh doanh vận tải da phương thức có thể tự thực hiện hoặc có thể thuê các bên
thực hiện mỗi khâu trong cả dây chuyền nhưng chịu trách nhiệm trong suốt quá trình kể từ
khi nhận hàng, trên đường vận chuyển cho đến khi giao hàng. Thành công của chu trình
vận tải đa phương thức chủ yếu là do nguồn nhân lực điều phối hoạt động này.
* Đặc điểm doanh nghiệp vận tải hàng dự án
Trong nền kinh tế thị trường, quá trình từ sản xuất đến lưu thông hàng hóa, dịch vụ
đã hình thành nên các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Doanh nghiệp vận tải được coi là
một loại doanh nghiệp cung ứng dịch vụ. Đặc trưng cơ bản của loại hình doanh nghiệp vận
tải khác với các doanh nghiệp sản xuất là dịch vụ này không trực tiếp tham gia sản xuất,
không trực tiếp đối lưu hàng hóa mà chỉ thực hiện các dịch vụ hỗ trợ cho sản xuất của các

doanh nghiệp được kịp thời, góp phần giảm chi phí sản xuất của các doanh nghiệp trực tiếp
sản xuất.
doanh nghiệp vận tải hàng dự án cũng là loại hình dịch vụ, có tính chất quy mô hơn
các doanh nghiệp vận tải khác. Do đó doanh nghiệp khi tham gia thực hiện dịch vụ này
thường phải biết kết hợp nhiều phương thức vận tải để thực hiện bốc xếp vận chuyển hàng
hoá từ nơi nhận hàng đến địa điểm trả hàng. Về mặt tổng thể thì doanh nghiệp hoạt động
dịch vụ vận tải hàng dự án phải có mô hình quản lý chặt chẽ hơn, khoa học hơn hoạt động

dịch vụ vận tải hàng thông thường. Đối với các hoạt động dịch vụ thì giá cả là một trong
những yếu tố quyết định sự lựa chọn của khách hàng nhưng đối với hàng dự án thì giá cả
dịch vụ vận tải không quan trọng bằng tiến độ vận chuyển và tính chất an toàn hàng hoá
khi vận chuyển. Do đó các doanh nghiệp hoạt động vận tải hàng dự án phải có tính chuyên
môn hóa cao, khả năng điều phối hoạt động của các phương thức vận chuyển phải tốt.
Đối với các doanh nghiệp thương mại thì mối quan hệ giữa người bán hàng (nhà
sản xuất) và người mua (người tiêu dùng) là đơn giản nhưng đối với doanh nghiệp vận tải
hàng dự án thì mối quan hệ trong hoạt động vận tải hàng dự án chỉ có doanh nghiệp vận tải
hàng dự án và chủ hàng thuê dịch vụ vận tải hàng dự án, cụ thể đơn vị thuê dịch vụ của
doanh nghiệp vận tải hàng dự án có thể là chủ đầu tư dự án, cũng có thể là Nhà cung ứng
vật tư thiết bị cho chủ đầu tư dự án, cũng có thể là nhà giao nhận vận tải quốc tế…
Trong xu thế hội nhập và phát triển đặc biệt trong giai đoạn gia nhập WTO thì hoạt
động của doanh nghiệp vận tải hàng dự án cần phải chuyên nghiệp hơn, dịch vụ vận tải
mang tính chất hiện đại khoa học hơn tức là thực hiện dịch vụ từ kho đến kho. Quy trình
thực hiện vận tải hàng dự án bao gồm từ khâu tiếp nhận hàng hóa từ kho người bán/cảng
đến, sử dụng nhiều phương thức để thực hiện bốc xếp vận chuyển hàng hoá từ nơi nhận
hàng đến địa điểm trả hàng, dỡ hàng trên phương tiện xuống vị trí lưu hàng/ lắp đặt, thực
hiện làm thủ tục hải quan tại cảng đến, mua bảo hiểm bốc xếp vận chuyển nội địa và một
số dịch vụ hỗ trợ khác. Hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ vận tải hàng dự án tại Việt
Nam phụ thuộc nhiều vào tình hình phát triển kinh tế của đất nước là chủ yếu và chỉ chịu
tác động gián tiếp của nền kinh tế thế giới. Điều này khác với các doanh nghiệp hoạt động
trong các ngành khác là chịu tác động trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu trong đó có nền
kinh tế của Việt Nam. Hiện nay tại Việt Nam chưa có doanh nghiệp nào thực sự là doanh
nghiệp vận tải đa phương thức theo định nghĩa của Nghị định 125/2003/NĐ-CP ngày 29

tháng 10 năm 2003. Chỉ có một ít doanh nghiệp đã đảm nhận được một vài dự án nhỏ
theo phương thức vận tải đa phương thức nên chưa có tính cạnh tranh cao. Hình thức
vận tải đa phương thức hiện nay ở Việt Nam chỉ là hình thức vận tải liên hợp như quy
định trong điều 87 của Luật Hàng Hải.
Hoạt động của các doanh nghiệp vận tải hàng dự án Việt Nam hiện nay có thể được

khái quát như sau:
- Nắm bắt được các kế hoạch đầu tư xây dựng các dự án trên toàn quốc.
- Tiếp thị thu thập thông tin, phương thức mua bán của các dự án đầu tư, phân tích
dự đoán được Nhà thầu trúng thầu cung cấp thiết bị để xây dựng chiến lược tiếp thị, bám
sát chủ hàng nhằm tiếp thị hiệu quả.
- Xây dựng kế hoạch đầu tư hợp lý để thực hiện tốt các dự án đã tiếp thị được. Phân
tích tình hình thực tế để có những chiến lược kinh doanh tốt hơn
- Xây dựng hệ thống quản trị doanh nghiệp tốt: quản trị nhân sự, quản trị vốn, quản
trị chi phí… để thực hiện tốt các dự án nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
- Liên doanh liên kết với các đối tác để thực hiện tốt dịch vụ của mình đáp ứng nhu
cầu khách hàng.
- Triển khai các công tác phụ trợ như: được sự ủy quyền của chủ hàng làm các
thủ tục Hải quan, thuê dịch vụ kiểm tra chất lượng hàng hóa (nếu có), mua bảo hiểm
hàng hóa, gia cố cầu đường, kiểm định cầu…, bốc xếp vận chuyển hàng từ cảng đến
(đối với thiết bị nhập khẩu)/nhà máy sản xuất qua các phương thức vận tải đến chân
công trình và dỡ hạ hàng bàn giao cho chủ hàng.
1.2.2. Các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vận tải
hàng dự án
1.2.2.1. Các yếu tố xuất phát từ bản thân của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp được đánh giá là thành công khi nắm rõ các yếu tố tác động đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình và xác định rõ được tầm ảnh hưởng của nó đối
với doanh nghiệp để có các biện pháp khai thác mặt tích cực, hạn chế các ảnh hưởng tiêu
cực nhằm xây dựng hình ảnh doanh nghiệp ngày càng tốt hơn.
Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như đã phân tích ở
trên (trình độ tổ chức quản lý, ban lãnh đạo, nguồn lực của doanh nghiệp) cũng chính

là các yếu tố nội tại tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vận tải dự án.
1.2.2.2. Các yếu tố tác động đến tình hình cạnh tranh của một ngành
Các yếu tố này có mức độ ảnh hưởng đến từng doanh nghiệp trong ngành rất khác
nhau, do đó khi xem xét các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của một doanh

nghiệp ngoài các yếu tố xuất phát từ bản thân doanh nghiệp, ta cũng cần nghiên cứu mức
độ ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến tình hình cạnh tranh của ngành đến doanh
nghiệp.
Các Công ty cùng ngành vận tải hàng dự án là những Công ty cùng kinh doanh dịch
vụ vận tải hàng dự án và các dịch vụ phụ trợ phục vụ cho vận tải hàng dự án.
Sự cạnh tranh ở một ngành nghề có tác động đến mức lợi nhuận trên lượng vốn đầu
tư. Nếu lợi nhuận tương đối thì sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư lựa chọn ngành nghề này
nhưng nếu lợi nhuận giảm dần thì các nhà đầu tư sẽ lựa chọn đầu tư vào những ngành nghề
khác. Có năm yếu tố cạnh tranh (sơ đồ 1.2) đó là: Những Công ty mới có khả năng gia
nhập thị trường vận tải hàng dự án, mối đe dọa từ những Công ty mới gia nhập, sức mạnh
mặc cả của người sử dụng dịch vụ, sức mạnh mặc cả của các nhà cung ứng dịch vụ cho
doanh nghiệp, sự cạnh tranh giữa các Công ty cùng ngành nghề với nhau, mối đe doạ của
dịch vụ thay thế. Tất cả năm yếu tố trên cùng nhau quyết định mức độ căng thẳng của cạnh
tranh và khả năng kiếm lợi nhuận của một ngành nghề, và yếu tố nào có sức tác động
mạnh nhất sẽ nắm quyền kiểm soát và đóng vai trò then chốt của quan điểm xây dựng
chiến lược.
Mối đe doạ xâm nhập vào ngành Vận tải hàng dự án tuỳ thuộc vào những rào cản
xâm nhập hiện có, cùng với những phản ứng của các Công ty đang cạnh tranh nhau trong
ngành mà các Công ty có ý định xâm nhập vào ngành này có thể tiên lượng được. Nếu
những rào cản xâm nhập cao và các Công ty mới vào gặp phải sự trả đũa quyết liệt của các
Công ty đang kinh doanh trong ngành thì mối đe doạ xâm nhập sẽ thấp. Các Công ty muốn
đa dạng hoá ngành nghề của mình đã mua lại các Công ty đang kinh doanh trong ngành
được xem là các Công ty mới thành lập xâm nhập vào ngành nghề mặc dù không có Công
ty nào hoàn toàn mới được thành lập. Những Công ty đang hoạt động trong ngành có danh
tiếng, nhờ vào việc quảng cáo, chăm sóc khách hàng sẽ có một lượng khách hàng trung
thành hoặc những Công ty đầu tiên bước vào ngành nghề này sẽ tạo ra rào cản xâm nhập

vào thị trường bằng cách buộc các Công ty nào muốn xâm nhập phải chi tiêu thật “đậm”
để giật được lượng khách hàng đang trung thành với các Công ty hiện đang hoạt động
trong ngành nghề ấy. Các doanh nghiệp mới gia nhập vào ngành kinh doanh vận tải hàng

dự án phải đầu tư một lượng tài chính lớn mua trang thiết bị, phương tiện để thực hiện dịch
vụ vận tải. Vì ngành vận tải hàng dự án đòi hỏi kỹ thuật cao hơn nhiều ngành vận tải hàng
thông thường khác do đó các ngành mới gia nhập phải đầu tư tìm nguồn nhân lực có kỹ
thuật cao, chi phí đào tạo lớn mới đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh.

















Sơ đồ 1.2: Các yếu tố tác động đến tình hình cạnh tranh trong một ngành nghề
Sự cạnh tranh đối đầu giữa các Công ty đang tham gia hoạt động trong ngành: Ở
bất cứ ngành nghề nào cũng vậy, các Công ty luôn đối đầu, cạnh tranh nhau để giành
lấy thị trường. Họ dùng nhiều chiến thuật để đạt mục tiêu của mình như: cạnh tranh giá
cả, tăng cường quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, gia tăng công tác chăm sóc thăm dò ý
kiến khách hàng. Những động thái cạnh tranh của một Công ty sẽ tạo những tác động
có thể quan sát được ở các đối thủ cạnh tranh khác và sẽ làm dấy lên sự a dua tạo nên
NHỮNG CÔNG TY
CÓ KHẢ NĂNG GIA

NHẬP THỊ TRƯỜNG
NHỮNG CÔNG TY
CÙNG MỘT NGÀNH
NGHỀ CẠNH
TRANH VỚI NHAU




Cạnh tranh, đối đầu
giữa các công ty đang
hoạt động
NHÀ
CUNG
ỨNG
NGƯỜI
MUA
SẢN PHẨM HOẶC
DỊCH VỤ THAY
THẾ
Mối đe dọa từ những
công ty mới gia nhập
Sức mạnh
mặc cả lượng
của người
mua
Sức mạnh
mặc cả của
nhà cung ứng
Mối đe dọa của sản

phẩm hoặc dịch vụ
thay thế

thói quen lệ thuộc lẫn nhau. Khi một ngành nghề đã đạt mức tập trung hoặc do một
hoặc hai Công ty thống trị, thì kẻ thống lĩnh có thể áp đặt một lối chơi hoặc đóng vai trò
điều phối trong ngành nghề ấy qua những phương tiện như lãnh đạo giá cả. Các Công ty cạnh
tranh bằng giá thường không ổn định và rất có thể làm cho cả ngành phải chịu thiệt xét về mức
độ lợi nhuận. Công ty nào cắt giảm giá cả sẽ nhanh chóng bị những Công ty khác phản ứng lại
bằng cách giảm giá cả hơn và khi ấy toàn ngành sẽ bị giảm lợi nhuận trừ phi sự co giản giá cả
trong ngành nghề ấy về phía cầu đạt đến một mức độ đủ cao. Những Công ty nhỏ cũng góp
phần làm cho thị trường ngành hỗn loạn khó dự đoán vì họ sẵn sàng thoả mãn một lượng lợi
nhuận bé chỉ đủ duy trì hoạt động độc lập của Công ty trong khi những khoản lợi nhuận như
thế không thể chấp nhận được hoặc có vẻ bất hợp lý đối với những Công ty lớn. Một số Công
ty có quyết tâm cao là bằng mọi cách phải đạt được những mục tiêu Công ty đặt ra sẽ làm mất
ổn định thị trường bởi họ đang quyết tâm bành trướng, mở rộng thị trường và să ẵn sàng hy
sinh lợi nhuận.
Mối đe doạ của các dịch vụ thay thế: Đối với ngành vận tải hàng dự án thường có
thể sử dụng nhiều phương án để thực hiện dịch vụ vận tải, bốc xếp như: vận tải bằng
đường biển, đường bộ, đường sắt, đường sông, hàng không. Đối với một số trường hợp
phải lựa chọn một loại hình dịch vụ nào đó thì sẽ không có ảnh hưởng gì nhưng trong
trường hợp có nhiều lựa chọn để thực hiện thì các Công ty sẽ tìm cách lựa chọn các dịch
vụ thay thế mà vẫn an toàn đúng tiến độ.
Sức mạnh mặc cả của người sử dụng dịch vụ vận tải hàng dự án: Những loại hàng hoá
thiết bị không quá siêu trường, siêu trọng, không cần kỹ thuật cao để thực hiện nên thị trường
sẽ có nhiều nhà cung ứng dịch vụ vận tải tạo cho người sử dụng có nhiều lựa chọn và có thể
ép giá người cung cấp dịch vụ vận tải và ngược lại. Lợi nhuận của người sử dụng dịch vụ thấp
đẩy người sử dụng dịch vụ phải trả giá thấp và ngược lại. Tầm quan trọng của những vật tư
thiết bị cần chuyên chở hoặc là tiến độ yêu cầu gấp thì người sử dụng dịch vụ cũng không kì
kèo giá cả với nhà cung ứng dịch vụ vận tải nếu họ đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng
dịch vụ. Ngưòi sử dụng dịch vụ có đầy đủ thông tin về mức cầu của thị trường, giá cả thị

trường và thâm chí chi phí của nhà cung ứng dịch vụ vận tải thì người sử dụng dịch vụ cũng
có thể mặc cả nhiều hơn.
Sức mạnh mặc cả của các nhà cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp vận tải hàng dự án:
Nhà cung ứng có thể tăng hay giảm giá cho các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hàng dự án

những dịch vụ do mình cung cấp. Khi nhà cung ứng cung cấp dịch vụ cho một số ngành nghề
mà những ngành nghề này không chiếm tỷ trọng lớn trong doanh số của nhà cung ứng dịch vụ
thì họ thường gây áp lực nhiều hơn đối với ngành nghề ấy. Và ngược lại nếu ngành nghề này
có đóng góp lớn trong doanh thu của nhà cung ứng dịch vụ thì họ sẽ tạo mọi thuận lợi cho
doanh nghiệp dịch vụ vận tải khi sử dụng dịch vụ của họ.
1.2.2.3. Các nhân tố của môi trường kinh doanh và cạnh tranh ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vận tải hàng dự án
* Các nhân tố trong nước
- Một thể chế chính trị ổn định và pháp luật rõ ràng, ổn định chính trị sẽ là cơ sở
đảm bảo sự thuận lợi, bảo đảm tính bình đẳng cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh.
Nhân tố này có tác động rất lớn đến tình hình kinh tế xã hội của đất nước, tác động mạnh
đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các doanh nghiệp không kịp thời
thích ứng với thể chế và pháp luật để vạch ra các phương hướng kinh doanh phù hợp thì sẽ
giảm ngay khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Các nhân tố kinh tế (tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, lãi suất ) rất ảnh hưởng
đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Môi trường đầu tư và số lượng dự án được đầu tư cũng có nhiều tác động đến hoạt
động của các doanh nghiệp, nó là mục tiêu để các doanh nghiệp hoạt động vận tải hàng dự
án cố gắng cải thiện, nâng cao năng lực cạnh tranh của danh nghiệp mình, thu hút khách
hàng giành lấy dự án.
* Các nhân tố Quốc tế
- Mối quan hệ giữa các Chính phủ: khi mối quan hệ giữa các chính phủ không thân
thiện thậm chí là thù địch sẽ huỷ hoại mối quan hệ kinh doanh giữa doanh nghiệp của hai
nước. nếu mối quan hệ song phương được cải thiện sẽ kích thích sự giao thương thương
mại giữa hai quốc gia làm cho các doanh nghiệp thuận lợi trong giao dịch, chuyển giao

công nghệ.
- Hệ thống luật pháp quốc tế, những hiệp định và thoả thuận được nhiều quốc gia
tuân thủ, hiệp hội ngành nghề tuân thủ sẽ có ảnh hưởng đến sự hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Mặc dù không ảnh hưởng trực tiếp tới từng doanh nghiệp riêng lẽ nhưng sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến những hiệp hội, những ngành nghề của các quốc gia.

- Xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu hoá tạo cho quá trình lưu thông
hàng hoá được thuận lợi, nhanh chóng sẽ giảm thiểu được các trở ngại như thuế, thủ tục
xuất nhập khẩu. Các thành tựu khoa học được ứng dụng rộng rãi, chuyển giao công nghệ
thuận lợi làm cho các doanh nghiệp có thể tiếp thu được các thành tựu khoa học tiên tiến
đồng thời các doanh nghiệp phải hoạt động dựa trên những đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật ngày
càng cao hơn. Chính những điều này đã tạo nên môi trường cạnh tranh gay gắt hơn buộc
các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới thì mới có thể đứng vững và phát triển trong
cơ chế cạnh tranh này.
- Đối thủ cạnh tranh quốc tế: đây là vấn đề lớn mà các doanh nghiệp vận tải Việt Nam
đang phải chuẩn bị về mọi mặt củng cố lại doanh nghiệp để có thể bơi ra biển lớn cạnh tranh với
các doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động tại Việt Nam chứ chưa nói đến việc thâm nhập thị
trường nước ngoài. Các tập đoàn nước ngoài luôn có ưu thế hơn các doanh nghiệp vận tải Việt
Nam về vốn, công nghệ, kỹ thuật và kinh nghiệm tổ chức sản xuất nên các doanh nghiệp vận tải
Việt Nam thường là khó cạnh tranh do đó cần có những chiến lược kinh doanh hoàn hảo để
cạnh tranh với cuộc chiến không cân sức này.
1.3. LỢI THẾ CẠNH TRANH, PHƯƠNG PHÁP VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VẬN TẢI HÀNG DỰ ÁN
1.3.1. Nguồn gốc lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp
Có hai cách tiếp cận nguồn gốc lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp:
1.3.1.1. Cách tiếp cận dựa trên chuỗi giá trị
Dựa trên quan điểm của Michael Porter về lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp thì
chuỗi giá trị của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ vận tải hàng dự án được mô phỏng như
sơ đồ 1.2.


Hệ thống tổ chức quản lý của doanh nghiệp
Nguồn lực của doanh nghiệp
Phát triển nghiên cứu khoa học, ứng dụng vào hoạt
động sản xuất của doanh nghiệp
Mua sắm phương tiện thiết bị
Biên
lợi
nhuận
Các
hoạt
động
hỗ trợ
A

D

E

H

G

×