Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

LUẬN VĂN: Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.49 KB, 90 trang )














LUẬN VĂN:

Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố tại phiên toà xét
xử án hình sự ở tỉnh An Giang
























MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,
về lĩnh vực tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Đảng chủ trương phải thực hiện đồng bộ
ba cuộc cải cách: cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, cải cách hành chính. Đây là những
vấn đề rất quan trọng đã và đang được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, của
các ngành, các cấp.
Tuy vẫn còn những ý kiến khác nhau từ nghiên cứu lý luận và thực tiển, nhưng nhìn
chung đã xác định rằng để đảm bảo cho công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính
thành công thì vấn đề trọng yếu của quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền và cũng là
nhân tố không thể thiếu, đó là cải cách tư pháp.
“Về một số trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” của Nghị quyết 08–
NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã chỉ rõ “… nâng cao chất lượng công tố của
Kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác…” và nghị quyết 49–NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định “Nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp…” là những định hướng và yêu cầu thúc đẩy việc nghiên cứu nhiều hơn nữa vấn đề
tranh tụng trong hoạt động tố tụng, về chất lượng tranh tụng của Viện Kiểm sát thực hành

quyền công tố, mở rộng yếu tố tranh tụng … và vì vậy, tranh tụng được xác định là một
trong những nội dung quan trọng về cải cách tư pháp.
Từ những vấn đề trên, về mặt lý luận, thực tiển và từ yêu cầu thực hiện nghị quyết
của Đảng về cải cách tư pháp, năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà là một
trong những nội dung cần được quan tâm nghiên cứu nhiều thêm. Do vậy, để góp phần, tác
giả luận văn chọn đề tài “Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công
tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang” làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật tại
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.




2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong tố tụng hình sự, tranh tụng giữa các chủ thể có liên quan trong quá trình xử lý
tội phạm qua những vụ án hình sự là vấn đề không phải mới trong khoa học pháp lý và
được ghi nhận thành nguyên tắc của tố tụng hình sự và áp dụng phổ biến hầu hết các nước
trên thế giới. Ở nước ta, tranh tụng chưa được quy định là một trong những nguyên tắc cơ
bản của Bộ luận Tố tụng hình sự hiện hành, chỉ được thể hiện tại một số điều của Bộ luật.
Vì vậy, vấn đề áp dụng nguyên tắc tranh tụng, đảm bảo tranh tụng dân chủ giữa các
chủ thể mà trong đó có vai trò của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố thể hiện năng lực
tranh tụng tại phiên tòa xét xử án hình sự cũng đang thu hút sự chú ý của các nhà khoa học
pháp lý nghiên cứu. Có những công trình và đề tài khoa học về lĩnh vực này, trong đó đáng
chú ý như:
─ Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Đức Mai về “Vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình
sự” – năm 1996. Nội dung luận văn làm rõ tính khoa học và sự cần thiết trong hoạt động
tranh tụng, đáp ứng yêu cầu trong quan hệ tố tụng tại phiên tòa xét xử hình sự.
─ Luận văn Thạc sỹ luật học của Nguyễn Tiến Long về “Thực hiện pháp luật đảm
bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay” – năm 2005.
Qua nội dung của luận văn đã làm rõ thêm các khái niệm tranh tụng; vai trò, đặc điểm của
tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự từ đó đề xuất các giải pháp đảm

bảo tranh tụng trong xét xử hình sự sơ thẩm ở nước ta hiện nay.
─ Luận văn Thạc sỹ luật học của Hoàng Anh Phương “Năng lực tranh tụng của
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự ở Việt Nam
hiện nay” – năm 2007. Nội dung của luận văn đã phân tích và đánh giá một cách hệ thống
cơ sở lý luận năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên; các tiêu chí đánh giá và thực trạng về
năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm hình sự ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực tranh
tụng của Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay;
─ Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện khoa học Kiểm sát – Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ
năm 1945 đến nay” – năm 1999, đã tập hợp những nghiên cứu so sánh những vấn đề lịch


sử và thực tiễn của chế định quyền công tố trong tư pháp hình sự trên thế giới, cũng như
việc phân tích khoa học các đặc điểm chủ yếu của mỗi chức năng của quyền công tố trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam và đưa ra khái niệm khoa học về quyền công tố nhằm góp
phần xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
─ Đề tài khoa học cấp Bộ của Trường đào tạo các chức danh Tư pháp – Bộ Tư pháp
“Tranh tụng tại phiên tòa – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” – năm 2003. Nội dung của
đề tài làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa; đánh giá thực trạng
thực hiện tranh tụng và đề ra giải pháp nhằm mở rộng tranh tụng tại phiên tòa nhằm định
hướng cho việc xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo chức danh tư pháp ở nước
ta.
─ Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” – năm 2004. Nội dung chỉ ra
một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống tranh tụng qua phương pháp so sánh với hệ thống
tố tụng hình sự thẩm vấn và những quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự cần sữa đổi bổ
sung để đáp ứng yêu cầu khi áp dụng tố tụng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự.
─ “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” của Tiến sỹ Dương Thanh Biểu, Nxb Tư

pháp, năm 2007. Đề cập những vấn đề lý luận, vận dụng kiến thức pháp luật, về các trình
tự, nội dung liên quan việc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm và qua các ví dụ minh họa đã
nêu được những tồn tại, thiếu sót của Kiểm sát viên trong tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm
hình sự.
─ “Kỹ năng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự liên quan
đến phụ nữ” – Nxb CAND, năm 2007 của nhóm nghiên cứu Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao với nội dung dẫn chứng từ công ước CEDAW và Luật Bình đẳng giới của Việt Nam,
tuyển chọn một số bản luận tội, bản đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ
thẩm hình sự liên quan đến phụ nữ đã góp phần khắc phục những khuyết điểm, tồn tại của
hoạt động thực hành quyền công tố, trong đó có hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại
phiên tòa hình sự nói chung và tại phiên tòa sơ thẩm hình sự có liên quan đến phụ nữ nói
riêng.
─ Bài đăng tải trong Tạp chí Kiểm sát số 12 năm 2005 của Lê Hữu Thể: “Vai trò
của Kiểm sát viên trong hoạt động tranh dụng tại phiên tòa”, có nội dung chỉ ra cách để


Kiểm sát viên thực hiện tốt hơn trong hoạt động tranh tụng và các giải pháp thực hiện vai
trò chủ động, tích cực qua tranh tụng.
─ Bài đăng trong Tạp chí Kiểm sát số 8 năm 2006 của Phạm Hồng Hải về: “Thực
trạng tranh tụng trong phiên tòa hình sự của Kiểm sát viên dưới góc độ luật sư”, có nội
dung nêu ra những mặt được, chưa được qua thực hiện tranh tụng của Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố và những yêu cầu khắc phục để nâng cao chất lượng tranh tụng.
Tuy vẫn còn nhiều bài viết khác được đăng tải trên các tạp chí nghiên cứu lập pháp,
tạp chí Luật học, Thông tin khoa học pháp lý, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Tòa án nhân dân,
Nhưng nhìn chung, nội dung các đề tài phần nhiều xoay quanh nghiên cứu hoạt động
tranh tụng ở giai đoạn tố tụng sơ thẩm hình sự, còn mảng tranh tụng tại phiên tòa phúc
thẩm hình sự ít được đề cập và năng lực Kiểm sát viên cần được nghiên cứu nhiều thêm ở
cả giai đoạn tố tụng này của Bộ Luật tố tụng hình sự.
3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến năng lực tranh tụng của
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và những yếu tố đảm bảo năng lực tranh tụng của
Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm và thực tế thực hiện ở địa
phương.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ thực tiễn thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang,
luận văn nghiên cứu vấn đề về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và phúc thẩm ở địa phương. Luận văn không nghiên
cứu vấn đề tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao.
Về thời gian nghiên cứu, luận văn chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề có liên
quan đến đề tài trong khoảng thời gian từ năm 1998 đến năm 2007.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Qua thực tiển, với mong muốn nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiển liên quan đến đề tài của luận văn, luận chứng và đề xuất những giải pháp


để năng lực thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử án hình sự
thực hiện việc tranh tụng được tốt hơn, nhằm đảm bảo phiên tòa hình sự thể hiện đầy đủ
tính dân chủ, bình đẳng, khách quan, công khai và qua đó, Hội đồng xét xử ra quyết định,
bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật ; góp phần hoàn thiện các quy định về tranh
tụng của Bộ luật tố tụng hình sự, thực hiện cải cách tư pháp, lấy “xét xử là hoạt động trung
tâm” theo tinh thần của Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ chính trị (Khóa IX).
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích nên trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
─ Làm rõ sở lý luận về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công
tố tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm.
─ Đánh giá thực trạng về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm ở tỉnh An Giang.

─ Đề xuất quan điểm, giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật đảm bảo năng lực
tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự ở
tỉnh An Giang.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, nhất là các quan điểm, chủ
trương của Đảng về cải cách tư pháp. Luận văn có dựa trên cơ sở lý luận của Khoa học luật tố
tụng hình sự, những nghiên cứu có liên quan đến áp dụng pháp luật theo hệ tố tụng tranh
tụng, hệ tố tụng thẩm vấn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
duy vật lịch sử như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiển, phương pháp lịch sử cụ
thể, phương pháp phân tích tổng hợp. Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp của các
bộ môn khoa học khác như phương pháp so sánh, thống kê kết hợp với khảo sát thực tế.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
─ Phân tích và góp phần làm rõ thêm các khái niệm có liên quan đến đề tài như:
khái nhiệm quyền công tố, thực hành quyền công tố, năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên


thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự ; các yếu tố cấu thành năng lực tranh tụng
của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự.
─ Đề xuất các giải pháp để nâng chất lượng năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên
thực hành quyền công tốt tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm, đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn, trong chừng mực, góp phần làm cơ sở tham khảo
cho việc nghiên cứu, phục vụ yêu cầu thực tiễn về các tiêu chí đánh giá năng lực tranh
tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm,
phúc thẩm theo phân cấp trong tố tụng hình sự.

Luận văn cũng có thể sử dụng nghiên cứu, tham khảo “đổi mới việc tổ chức phiên tòa
xét xử, xác định rõ vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng ” theo yêu cầu cải cách tư pháp của Nghị quyết 49 Bộ chính trị (Khóa
IX).
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được
trình bày thành 3 chương, 7 tiết.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC TRANH TỤNG CỦA
KIỂM SÁT VIÊN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ

1.1. KHÁI NIỆM NĂNG LỰC TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TẠI PHIÊN TOÀ XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ
Để làm rõ khái niệm năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố
tại phiên toà xét xử án hình sự, trước hết cần làm rõ một số khái niệm khác có liên quan
đến vấn đề này.
Trước hết là, Khái niệm quyền công tố
Hiện nay, trong khoa học pháp lý ở nước ta tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về
quyền công tố.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Công tố là quyền chỉ thuộc Nhà nước, không một cá
nhân, một tổ chức nào được thực hiện nếu không được Nhà nước cho phép. Từ đó đưa ra
quan điểm về quyền công tố:
Là một quyền năng của Nhà nước, quyền công tố được thực hiện trong tất cả các quá
trình giải quyết các vi phạm pháp luật bao gồm tố tụng hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng
kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hình sự [8, tr.87].
Quan điểm này đã coi quyền công tố là một quyền năng của Nhà nước và được giao
cho cá nhân, tổ chức thực hiện việc cáo buộc đối tượng có hành vi sai trái, vi phạm pháp

luật. Đối tượng bị cáo buộc là con người cụ thể hoặc một tổ chức, một cơ quan tùy theo vi
phạm đối với quan hệ pháp luật nào. Trong tố tụng hình sự, cả ba cơ quan tiến hành tố
tụng là Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án đều có quyền công tố.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyền công tố có trong hai cơ quan tiến hành tố tụng
đó là cơ quan điều tra và cơ quan truy tố là Viện Kiểm sát và được Nhà nước giao quyền
khởi tố, điều tra, truy tố người phạm tội:
Quyền công tố là quyền của Nhà nước được giao cho các cơ quan nhất định khởi tố,
điều tra và truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và thực hiện việc buộc tội
trước phiên tòa [35, tr.240].


Quan điểm này giải thích quyền công tố thuộc phạm vi tố tụng hình sự, nhưng chỉ có
hai cơ quan được Nhà nước giao quyền theo tố tụng, thu hẹp hơn so với quan điểm thứ
nhất.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Không có quyền công tố chung chung mà có tính cụ thể,
quyền này xuất hiện một khi một tội phạm cụ thể đã được thực hiện bởi người phạm tội.
Thực chất của quyền công tố là quyền của Nhà nước, ủy quyền hoặc phân công cho một cơ
quan trong bộ máy Nhà nước thực hiện chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Từ đó đưa ra khái niệm: Quyền công tố là quyền của một cơ quan Nhà
nước được Nhà nước ủy quyền thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội nhằm đưa người đó ra xét xử trước Tòa án và đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó [7,
tr.52].
Quan điểm này cũng xác định quyền công tố là quyền năng của Nhà nước ủy quyền
hoặc phân công cho một cơ quan trong bộ máy Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ
trong lĩnh vực tố tụng hình sự là buộc tội đối với người phạm tội hình sự.
Như vậy, giữa các quan điểm có khác nhau về việc xác định lĩnh vực phát sinh quyền
công tố; phạm vi; chủ thể thực hiện quyền năng công tố của Nhà nước.
Quan điểm thứ tư cho rằng: Khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam kế thừa luật tố
tụng hình sự các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô (cũ). Mô hình tổ chức, hoạt
động của Viện Kiểm sát nhân dân cũng được xây dựng theo mô hình tương tự. Do vậy,

theo luật định giao cho Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố ngay trong giai đoạn xét
xử. Từ đó, thống nhất khái niệm:
Quyền công tố là quyền đưa vụ án ra tòa để xét xử và quyền công tố có thể thực hiện
từ khi kết thúc điều tra đến khi có bản luận tội của Viện Kiểm sát trước phiên tòa [19,
tr.21].
So với các quan điểm nên trên, quan điểm này xác định quyền công tố chỉ phát sinh
sau khi cơ quan điều tra đã hoàn tất, có kết luận điều tra và chấm dứt khi Kiểm sát viên
thực hành công tố công bố việc luận tội tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. Nói cách khác, đây
là quan điểm thu hẹp khái niệm quyền công tố, đồng nhất quyền công tố với thực hành
quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự.


Nhìn chung, các quan điểm đã nêu trên đều dựa vào các quy định pháp luật làm cơ sở
và từ thực tiển ở nước ta để nghiên cứu. Do cách tiếp cận khác nhau nên vẫn còn có những
quan điểm chưa thống nhất về quyền công tố. Tuy vậy, vẫn có được nhận thức chung là nó
thuộc lĩnh vực hình sự tố tụng để nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội và quyền này được luật quy định giao cho một cơ quan thực hiện nằm trong hệ thống tổ
chức bộ máy của Nhà nước. Mặt khác, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và định hướng cải cách tư pháp đến năm 2020 mà Đảng và Nhà nước đang
quan tâm, các quan điểm nghiên cứu mang tính khoa học cũng đã gợi mở, kích thích việc
tìm tòi nhận thức về tính xác thực của quyền công tố. Để góp phần cho công việc nghiên
cứu này, tôi cho rằng: Quyền công tố là quyền riêng biệt của một trong những cơ quan nhà
nước trong hệ thống cơ quan tư pháp, được Nhà nước giao quyền truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm một hay nhiều tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự
và bảo vệ việc buộc tội của người đó tại phiên tòa xét xử án hình sự.
* Từ khái niệm này, có thể xác định được:
─ Quyền công tố là quyền đặc thù được Nhà nước giao cho một trong những cơ
quan hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nằm trong bộ máy nhà nước, ở nước ta hiện nay đó
là Viện Kiểm sát nhân dân. Và quyền này được thực hiện trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
─ Buộc tội đối với người phạm tội tại phiên tòa xét xử án hình sự là nội dung của

quyền công tố qua từng vụ án cụ thể. Để thực hiện việc đó là cả một quá trình xác định
những căn cứ đối với những hành vi được xem là tội phạm được quy định trong Bộ luật
hình sự và đã được khởi tố, điều tra, cho đến lập cáo trạng chuyển hồ sơ sang tòa án để
truy tố, xét xử cho đến khi hiệu lực của bản án được xác định.
Như vậy, trong giai đoạn khởi tố điều tra, truy tố, xét xử thì quyền công tố luôn được
thể hiện.
Khái niệm thực hành quyền công tố.
Với khái niệm quyền công tố nêu ở phần trên thì thực hành quyền công tố là thể hiện
nội dung hoạt động của quyền công tố.
Trước những năm 1980 của thế kỷ trước, thực hành quyền công tố được hiểu như là
một nhiệm vụ của công tố viên (còn gọi là Kiểm sát viên) giữ quyền công tố tại các phiên
tòa hình sự của giai đoạm xét xử sơ thẩm; ở giai đoạn xét xử phúc thẩm thì xem Kiểm sát


viên chỉ tham gia phiên tòa khi bản án ở cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực thi hành do có
kháng cáo hoặc kháng nghị. Quyền công tố sẽ bị cắt xén nếu chỉ dừng lại việc thực hành
quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm án hình sự. Kiểm sát viên thực hành quyền công
tố là thực hiện quyền năng theo luật định. Đây cũng là việc thực hiện một chức năng cơ
bản của Viện Kiểm sát thông qua các hoạt động ở các giai đoạn khác nhau được ghi nhận
trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) năm 2003
và Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân.
Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân quy định .
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự Viện
Kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Đọc cáo trạng, quyết định của Viện Kiểm sát nhân dân liên quan đến
việc giải quyết vụ án tại phiên tòa;
2. Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu
quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, tranh luận với
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm,
phúc thẩm;

3. Phát biểu quan điểm của Viện Kiểm sát về việc giải quyết vụ án tại
phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm [26, Đ.17].
Thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự có cả
trong giai đoạn tố tụng điều tra và tố tụng xét xử, qua đó mới đảm bảo được việc xác định
sự thật của vụ án, thực hiện quyền truy cứu trách nhiệm hình sự và công khai bảo vệ sự
buộc tội tại phiên tòa đối với người đã thực hiện tội phạm; Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng
Hiến pháp, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, cũng ghi nhận Viện Kiểm sát nhân dân
còn một chức năng song hành với chức năng thực hành quyền công tố đó là Kiểm sát các
hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Do vậy, cần phân biệt qua đối tượng của hai chức năng luật định này, vì đối
tượng của chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp là việc sử dụng để yêu cầu xử lý các vi
phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng; còn đối
tượng của chức năng thực hành quyền công tố là các quyết định liên quan đến cáo buộc
người phạm tội. Từ đó có thể hiểu: Thực hành quyền công tố là việc Viện Kiểm sát nhân


dân thực hiện quyền năng và các biện pháp pháp lý theo quy định của pháp luật để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và đưa người phạm tội ra phiên tòa xét xử
để bảo vệ việc quy buộc tội trạng đã được xác định đối với người đó.
Khái niệm về tranh tụng tại phiên tòa xét xử án hình sự
Một trong những nội dung cơ bản để xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta là cải
cách tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp.
Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý
kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định
đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định [2,
tr.4].

Nếu tiếp cận theo cách thức tiến hành tố tụng thì tranh tụng là một kiểu tố tụng được
áp dụng phổ biến ở hệ thống pháp luật Anh và Mỹ theo sự phân định của các chức năng
buộc tội, bào chữa và xét xử mà ở đó, công tố viên là phía buộc tội luôn đối lập với phía
thực hiện quyền bào chữa. Một kiểu tố tụng nữa là kiểu tố tụng “thẩm vấn” cũng được áp
dụng từ lâu và phổ biến ở nhiều nước theo hệ thống của Châu Âu lục địa, tại phiên tòa
Thẩm phán xét xử vẫn là người xét hỏi chính, phía công tố viên và phía bào chữa chỉ thẩm
vấn bổ sung để làm rõ thêm những vấn đề chưa rõ tại phiên xử công khai và ở chừng mực
về quan điểm thể hiện qua đối đáp, tranh luận thì nội dung đối lập có thể hiện nhưng
không nhiều:
Qua nghiên cứu cho thấy, kiểu tố tụng tranh tụng hay kiểu tố tụng thẩm vấn đều có
những mặt được và chưa được. Ngay trong các nước có truyền thống áp dụng cũng rút ra
những vấn đề có tính khoa học để khắc phục những nhược điểm và áp dụng đan xen nhằm
phục vụ yêu cầu đấu tranh chống tội phạm “như Italia vốn theo truyền thống tố tụng tranh
tụng nhưng đã lâm vào tình trạng bất lực trước tình hình xã hội đen maphia phạm tội, nay
đã chuyển sang kiểu tố tụng thẩm vấn kết hợp với các yếu tố tranh tụng để bảo đảm yêu


cầu xử lý tội phạm được nhanh chóng, kịp thời và bảo vệ các quyền cá nhân có hiệu quả”
[1, tr.17].
Như vậy, tranh tụng trong tố tụng hình sự nói chung và tranh tụng tại phiên tòa hình
sự nói riêng không phải là vấn đề mới trong khoa học pháp lý thế giới, nhiều nội dung liên
quan đến tranh tụng như khái niệm, bản chất của tranh tụng; phạm vi và nội dung tranh
tụng vẫn được tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
Ở nước ta, trước khi có Nghị quyết 08 ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị thì vấn đề
tranh tụng ít được bóc tách, đề cập trong khoa học pháp lý mặc dù thực tế nó đang tồn tại
trong quá trình tố tụng hình sự và tại các phiên tòa xét xử án hình sự. Trong thời gian gần
đây, từ những góc độ và phạm vi tiếp cận khác nhau nhằm góp phần thúc đẩy tiến trình cải
cách tư pháp đã được các nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu và đề cập nhiều hơn,
nhưng cũng có những vấn đề đang còn quan điểm chưa thống nhất.
Bàn về cải cách pháp luật ở nước ta hiện nay:

Có quan điểm cho rằng: “Nhà nước pháp quyền chỉ có thể xây dựng thành công khi
có một tổ chức tư pháp xứng đáng và luôn hướng tới đó” [4,tr.504] và qua sử dụng phương
pháp so sánh, tác giả cho rằng tố tụng hình sự Việt Nam không có các đặc trưng quan
trọng của tố tụng tranh tụng theo như hệ thống pháp luật Anh và Mỹ, cũng không theo hệ
thống tố tụng thẩm vấn như nhiều nước ở Châu Âu lục địa, mà đặc trưng quan trọng của tố
tụng hình sự hiện hành “ Là hệ tố tụng riêng biệt có thể gọi là “tố tụng buộc tội”” [4,
tr.588].
Quan điểm này có nhiều điểm mới với lập luận, đề xuất khá chặt qua cơ sở lý luận và
rất cần được quan tâm nghiên cứu trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta. Đặc biệt là
về cải cách hoạt động xét xử nên hướng tới các nguyên tắc tranh tụng đã được định hướng
qua các Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ chính trị đã nêu ở phần trên.
Có quan điểm khi nghiên cứu đổi mới pháp luật tố tụng hình sự để nâng cao tính
tranh tụng trong quá trình xét xử đã xuất phát từ thuật ngữ “tranh tụng” được hiểu là tranh
luận trong tố tụng và cho rằng: “Nâng cao tính tranh tụng trong quá trình xét xử án hình
sự có nghĩa là nâng cao hơn nữa hoạt động tranh luận” [5, tr.122].
Từ đó đặt ra yêu cầu chỉ cần chủ toạ phiên tòa tăng thời gian để luật sư và bị cáo
được trình bày hết các ý kiến của mình tại phiên tòa, không được ngắt lời hay hạn chế thời


gian phát biểu của họ bảo đảm sự tranh luận dân chủ giữa Kiểm sát viên và những người
than gia tố tụng khác là đủ.
Đây là quan điểm đồng nhất tranh tụng với tranh luận trong tố tụng hình sự
Nhưng có quan điểm cho rằng: “Không nên hiểu tranh tụng đơn thuần là việc tranh
luận một cách đầy đủ tại phiên tòa, mà cần phải hiểu bản chất của tranh tụng là một
phương thức xác định sự thật khách quan của vụ án. Trong đó, điểm mấu chốt là tổ chức tư
pháp” [4, tr.592].
Thực trạng phiên tòa ở địa phương nơi này, nơi khác còn có việc Hội đồng xét xử
ngắt lời hay hạn chế thời gian phát biểu của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên
đã nắm chắc những chứng cứ được xây dựng qua hồ sơ và được công bố quy kết công khai
tại phiên xử nên ít tham gia xét hỏi và tranh luận sau lý đoán của người bào chữa Nhưng

không phải là tất cả các phiên tòa đều như vậy. Mặc khác, từ thực tiễn cho thấy, việc xem
như là hạn chế đó còn tùy thuộc vào trình độ lập luận có căn cứ hay không của phía người
tham gia tố tụng tại phiên tòa để tránh kéo dài thời gian không cần thiết và cũng không thể
cho rằng do vậy mà hạn chế dân chủ, thiếu khách quan trong các bản án, quyết định của
Hội đồng xét xử
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành ghi nhận sau khi kết thức việc xét hỏi tại phiên tòa,
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo
toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận tội danh nhẹ hơn và tiếp đó, thực
hiện việc tranh luận, đối đáp qua ý kiến phát biểu bào chữa của bị cáo hoặc luật sư và
những người tham gia tố tụng khác với một bên là Kiểm sát viên giữ quyền công tố. Người
tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác, chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết
thúc tranh luận sau khi thấy rằng những người tham gia tranh luận không còn trình bày ý
kiến gì thêm. Như vậy “tranh luận tại phiên tòa là giai đoạn trong trình tự tố tụng hình sự,
được tiến hành sau phần xét hỏi tại phiên tòa” [22, tr.533] và kết thúc trước khi Hội đồng
xét xử nghị án và tuyên án. Do đó, tranh luận chỉ là một phần của phiên tòa hình sự nên
được xem như một thủ tục để bên buộc tội và bên bào chữa đánh giá kết quả xét hỏi, phân
định qua chứng cứ của vụ án để cân nhắc đề xuất Hội đồng xét xử về các vấn đề có liên
quan đến vụ án để giải quyết nên không thể đồng nhất tranh luận và tranh tụng là một.


Sẽ hợp lý khi xác định sự cần thiết vận dụng các nguyên tắc tranh tụng và xem đó là
phương thức, còn tranh luận chỉ là nội dung là đỉnh điểm của việc tranh tụng để nhằm làm
rõ sự thật khách quan của vụ án, áp dụng đúng pháp luật để giải quyết vụ án. Mặt khác,
cần xem “tranh tụng là nguyên tắc quan trọng, nguyên tắc đặc trưng của hoạt động tư pháp
và là đặc trung nổi bật nhất của tư pháp hình sự” [23, tr.6] để tiếp nhận những mặt ưu điểm
của nó, lượt bớt các nhược điểm nhằm phục vụ cho yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta.
Tuy còn khác nhau về quan điểm nghiên cứu, nhưng có sự thống nhất về mục đích
của tranh tụng tại phiên tòa là nhằm đảm bảo tính khách quan, công bằng và dân chủ giữa
các chủ thể là Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và những người tham gia tố tụng;
phía buộc tội và phía bào chữa có quyền lập luận, nêu ra những chứng cứ, căn cứ pháp luật

và tranh luận, phản bác để bảo vệ tính có căn cứ từ quan điểm của mình. Hội đồng xét xử
điều hành theo trình tự tố tụng tại phiên tòa và có trách nhiệm tạo điều kiện để các bên
thực hiện quyền và nghĩa vụ thực hiện tranh tụng, đồng thời lắng nghe, xem xét, cân nhắc
và ra các phán quyết.
Từ đó tôi đồng tình với quan điểm cho rằng :
Các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên
buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập,
đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của phía đối lập. Tranh tụng
tại Tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên Tòa xét xử bởi hai
bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý
kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với
vai trò trung gian trọng tài [24, tr.808].
Tranh tụng tại phiên tòa xét xử án hình sự có một số đặc điểm sau đây :
Một là : Sự bình đẵng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố với bị cáo, Luật sư
và những người tham gia tố tụng khác. Bình đẵng ở đây là bình đẵng trên cơ sở quyền và
nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng. Nói cách khác, sự bình đẵng giữa các bên
tranh tụng không hẵn là sự bình đẵng thực tế về địa vị pháp lý cũng như không có nghĩa là
các bên có quyền và nghĩa vụ như nhau do bên bào chữa và bên buộc tội thực hiện các
chức năng khác nhau trong tố tụng hình sự, nhất là tại phiên toà. Do đó, quyền bình đẵng
giữa bên bào chữa và bên buộc tội được hiểu là bình đẵng về phương diện tố tụng khi cả


hai đề có tư cách tố tụng là người tham gia phiên toà, đều được pháp luật quy định cho các
quyền ngang nhau để thực hiện hiệu quả các chức năng của mình.
Hai là : Sừ bình đẵng giữa Hội đồng xét xử với người tham gia tố tụng như bị cáo,
người bị hại, Luật sư, người bào chữa và các tổ chức cá nhân tham gia tố tụng khác. Tức là
Hội đồng xét xử phải tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng trình bày đầy đủ ý
kiến của mình, không những thế Hội đồng xét xử phải chú ý lắng nghe và tôn trọng lẽ phải
của bên công tố qua lời luận tội và những căn cứ buột tội và cả ý kiến phản biện của bị
cáo, người bị hại, Luật sư …

Ba là : Nâng cao vai trò, vị trí của Luật sư trong hoạt động tranh tụng tại phiên toà.
Bởi vì, quyền bào chữa là quyền luật định, các cơ quan và người tiến hành tố tụng phải
triệt để tôn trọng quyền này và đây cũng là nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành. Do vậy, quyền của Luật sư trong giai đoạn xét xử được đưa ra chứng cứ và yêu cầu;
tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên toà. Là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo
trong quá trình tranh tụng, Luật sư có trách nhiệm tìm ra bằng chứng gỡ tội hoặc các tình
tiết giảm nhẹ cho bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử … để bị cáo không bị buộc
tội và xét xử oan, sai; trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử xem xét những quan điểm nào được
coi là đúng đắn hợp lý để ra phán quyết một cách khách quan.
Bốn là : Sự tranh luận giữa bên buộc với bên bào chữa là Luật sư không bị hạn chế
thời gian và có sự tranh luận trực tiếp. Hội đồng xét xử phải có phương pháp điều hành
hợp lý và tạo điều kiện cho việc tranh luận đó tại phiên toà, tránh việc thiên vị đối với bất
cứ bên nào. Cần xác định rằng vấn đề cơ bản của nguyên tắc tranh tụng là phải tạo ra cơ
chế để các bên Nhà nước và bị cáo cũng như Luật sư của họ tranh luận, đưa ra chứng cứ
buộc tội hay gỡ tội. Do đó, tranh luận tại phiên toà là phần việc rất quan trọng, người bào
chữa, bên bị buộc tội và bên buộc tội có quyền tranh luận dân chủ, công khai và bình đẵng
theo quy định của Luật tố tụng hình sự hiện hành. Tranh luận đòi hỏi Kiểm sát viên, Luật
sư bào chữa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác phải đối đáp về từng vấn
đề một cách rành mạch, rõ ràng, tránh việc tranh luận chung chung, không đi vào trọng
tâm nội dung chủ yếu của vụ án và Kiểm sát viên phải trả lời trực tiếp, không được né
tránh nhằm đảm bảo tính minh bạch trong tranh luận.


Năm là : Phán quyết của Hội đồng xét xử cũng phải căn cứ vào kết luận điều tra qua
hồ sơ vụ án, căn cứ vào cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát và quan trọng hơn nữa là căn
cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà dù cho kết quả này có thể khác với toàn bộ hoặc
một số tình tiết cụ thể trong kết luận điều tra, trong bản cáo trạng truy tố. Bởi vì, hoạt động
xét xử được coi là khâu quan trọng nhất trong toàn bộ quá trình tố tụng và hoạt động đặc
trưng cho toàn bộ hoạt động của Toà án. Trong quá trình xét xử tại phiên toà hình sự được
tổ chức và thực hiện theo một trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, phần tranh luận tại phiên toà

thường thu hút sự chú ý đặc biệt của công chúng và quan tâm nhiều đến vấn đề các cơ
quan và người tiến hành tố tụng thực hiện pháp luật như thế nào để đảm bảo tính công
minh của bản án trong quá trình tranh tụng và sẽ bị nghị ngờ, chê trách nếu bản ản quyết
định của Toà án cấp sơ thẩm bị cấp phúc thẩm cải, sửa và nhất là bị huỹ quá nhiều : Điều
đó cũng chứng tỏ tranh tụng tại phiên toà của cấp có án bị huỹ là chưa thực hiện tốt. Trên
cơ sở tranh tụng, Hội đồng xét xử xem xét những quan điểm nào được coi là đúng đắn,
hợp lý để ra phán quyết một cách khách quan dù có khác biệt gì với kết luận điều tra, cáo
trạng quy buộc tội trạng của Viện Kiểm sát.
Từ những đặc điểm vừa nêu cho thấy cần bổ sung nguyên tắc tranh tụng
vào Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (sửa đổi, bổ sung) nhằm nâng chất lượng thực hiện
một số điều trong chương 2: Về đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa; tôn trọng và bảo vệ
quyền cơ bản của công dân; bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật;
không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có
hiệu lực pháp luật; trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng.
Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội; bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo Đặc biệt là quyền bình đẵng trước tòa án của phía buộc tội và
phía bào chữa được thực hiện tại phiên tòa theo yêu cầu tranh tụng giữa các chủ thể
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện
hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng
trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật; nêu ra yêu cầu và tranh luận dân
chủ trước tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các
quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án [17, Đ.19].


Như vậy, sự thật về vụ án sẽ được xác định một cách khách quan thông qua sự tranh
luận tại phiên tòa xét xử. Thẩm phán chủ tọa và Hội đồng xét xử đóng vai trò điều khiển
để phía buộc tội, phía bào chữa đối đáp và chứng minh bảo vệ quan điểm; việc chứng
minh bị cáo có phạm tội hay không thuộc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, kết
quả tranh tụng là bản án, quyết định của Hội đồng xét xử.

Khái niệm năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên
tòa xét xử án hình sự.
Nghiên cứu chất lượng, hiệu quả đạt được của tổ chức, cơ quan qua thực hiện chức
năng, nhiệm vụ được giao thì vấn đề cơ bản là phải xem xét vai trò, năng lực của các cá
nhân là thành viên trong tổ chức, cơ quan đó. “Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo
cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” [35,
tr.661] của những cá nhân cụ thể thông qua các mối quan hệ xã hội mà cá nhân đó tiếp
nhận, thực hiện nhiệm vụ trong môi trường lĩnh vực công việc được xác định. Trong lĩnh
vực tố tụng hình sự, tại phiên tòa xét xử án hình sự đó là những chủ thể thể hiện khả năng
cụ thể của mình, thực hiện quyền và trách nhiệm trong khuôn khổ do pháp luật quy định.
Tranh tụng tại phiên tòa, nếu xét về bản chất là một cuộc điều tra công khai với đầy
đủ sự tham gia của phía buộc tội, phía bào chữa và Hội đồng xét xử. Năng lực tranh tụng
của Kiểm sát viên được thể hiện từ thời điểm mở phiên tòa và kết thúc sau khi Hội đồng
xét xử công khai phán quyết. Do vậy, nó không chỉ thể hiện riêng biệt ở một giai đoạn cụ
thể nào qua điều hành của Hội đồng xét xử mà là trong suốt quá trình xét xử vụ án tại
phiên tòa hình sự như: giai đoạn bắt đầu từ lúc khai mạc và kết thúc trước khi Kiểm sát
viên công bố cáo trạng; giai đoạn cáo trạng được công bố đến trước khi Kiểm sát viên trình
bày quan điểm vụ án; giai đoạn Kiểm sát viên trình bày quan điểm của Viện Kiểm sát (như
luận tội hoặc kết luận) và kết thức trước khi Hội đồng xét xử nghị án, đặc biệt là giai đoạn
tranh luận của phía buộc tội và phía bào chữa, xem “Đây là giai đoạn trung tâm, là đỉnh
điểm của quá trình tranh tụng giữa các bên và được thực hiện ở phần tranh luận tại phiên
tòa” [11, tr.54]; giai đoạn sau khi bị cáo nói lời sau cùng và kết thúc trước khi Hội đồng
xét xử công bố phán quyết của vụ án (xem như trùng với thời gian nghị án của Hội đồng
xét xử), còn gọi là giai đoạn thực hiện chức năng xét xử của tòa án; giai đoạn tuyên án
công khai của Hội đồng xét xử tại phiên tòa, đây là giai đoạn công bố kết quả của quá trình


tranh tụng. Là các giai đoạn khác nhau của quá trình tranh tụng nhưng giữa chúng có mối
liên hệ chặc chẽ theo trình tự luật định và nội dung của quá trình này chính là hoạt động
của các chủ thể thực hiện chức năng quy định của luật tố tụng hình sự để đánh giá, kiểm

tra chứng cứ tại phiên tòa và từ đó các bên tham gia tranh tụng đề nghị Hội đồng xét xử
cân nhắc, quyết định từ những lập luận, tranh luận trực tiếp. Như vậy, các giai đoạn có mối
liên hệ biện chứng không tách rời nhau.
Để thực hiện được tính dân chủ, bình đẵng giữa các chủ thể trong quá trình tranh
tụng thì đầu tiên Hội đồng xét xử phải kiểm tra sự có mặt hoặc vắng mặt của các chủ thể
được triệu tập tham gia vào quá trình chứng minh tại phiên tòa, thông suốt quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể, xem xét yêu cầu và đề nghị của các bên. Có thể phân chia chủ thể trong
quá trình này thành hai phía, đó là phía buộc tội và phía bào chữa; các chủ thể thuộc bên
buộc tội như Kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người đại diện và người bảo
vệ quyền lợi người bị hại, nguyên đơn dân sự mà trong đó Kiểm sát viên có vai trò và vị
trí đặc thù qua thực hiện chức năng thực hành quyền công tố tại phiên tòa theo qui định
của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. Từ trách nhiệm pháp
lý này, năng lực Kiểm sát viên được thể hiện qua trình bày những luận cứ buộc tội trạng
của bị cáo đồng thời lắng nghe và chọn lựa để tranh luận, phản bác đối với những quan
điểm, lập luận từ phía bào chữa là luật sư, người bào chữa khác hoặc của bị cáo. Với yêu
cầu của tranh tụng phải khách quan, có căn cứ giúp cho Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc
tính hợp pháp, tính khách quan của các chứng cứ được đánh giá qua hoạt động điều tra
công khai tại phiên tòa (còn gọi là xét hỏi, thẩm vấn) thì các chủ thể phía buộc tội, phía
bào chữa và thành viên Hội đồng xét xử thực hiện quyền và trách nhiệm đó một cách độc
lập theo nhận thức của từng phía chủ thể đối với việc đang nghiên cứu, xử lý. Đó cũng là
sự tiếp nối rất quan trọng phục vụ cho phần tranh luận.
Thông qua tranh luận trực tiếp bằng lời, năng lực tranh luận tại phiên tòa
của các chủ thể (cả phía buộc tội và phía bào chữa) được thể hiện từ kiến thức tổng hợp, kỹ
năng nghề nghiệp, trình độ nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, biểu lộ văn hóa ứng xử chủ
yếu ở Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và luật sư. Tuy không phải là chủ thể tham
gia tranh tụng, nhưng Hội đồng xét xử qua vai trò điều hành của chủ tọa phiên tòa cũng
cần hội tụ các yêu cầu nêu trên để thực hiện chức năng xét xử mà trong đó, có trách nhiệm


thẩm vấn với mục đích là làm sáng tỏ tất cả các tình tiết của vụ án cả buộc tội, gỡ tội, các

tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đồng thời điều hành hợp lý để tạo
điều kiện cho phía buộc tội và phía bào chữa thực hiện đầy đủ quyền tranh luận, ghi nhận,
cân nhắc các ý kiến, các yêu cầu, đề nghị của các bên và “các thành viên Hội đồng xét xử
không được biểu lộ chính kiến của mình về bất kỳ vấn đề gì thuộc nội dung vụ án cũng
như chứng cứ đang xem xét tại phiên tòa” [9, tr.64].
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự cũng là chủ tiến hành tố
tụng được giao trách nhiệm thực hiện trong quá trình xét xử vụ án cụ thể. Năng lực tranh
tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố được thể hiện một cách tập trung ở giai
đoạn tranh tụng với các chủ thể khác (chủ thể của phía tham gia tố tụng). Như vậy, có thể
hiểu năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố là sự tổng hợp về kỹ
năng nghề nghiệp, kiến thức pháp lý, kiến thức xã hội, khả năng biện luận, khả năng ứng
xử, khả năng đối đáp trực tiếp của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử án hình sự để nhằm
bảo vệ quy buộc tội trạng của người phạm tội.
1.2. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH NĂNG LỰC CỦA KIỂM SÁT VIÊN THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ
Khi nghiên cứu về một sự vật, hiện tượng thì về mặt nhận thức, yêu cầu phải tìm hiểu
xem cái gì, bộ phận nào cấu tạo nên nó. Tìm hiểu về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên
cũng vậy, tức là nghiên cứu về những yếu tố cơ
bản cấu tạo nên năng lực chủ thể đó hoạt động trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Kiểm sát viên của Viện Kiểm sát nhân dân là chức danh tư pháp. Người được bổ
nhiệm làm Kiểm sát viên phải có đủ tiêu chuẩn và tuân theo quy trình do pháp luật quy
định. Quyền năng pháp lý của Kiểm sát viên thông qua sự phân công của Viện trưởng chủ
yếu ở lĩnh vực thực hành quyền công tố (và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tư pháp), đây cũng là chức năng được ghi nhận trong Hiến pháp, Luật tổ chức Viện
Kiểm sát nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự, Pháp lệnh Kiểm sát viên hiện hành.
Tại phiên tòa hình sự, là chủ thể tranh tụng, năng lực Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố được thể hiện một cách tổng hợp các mặt kiến thức, kỹ năng, thái độ ứng xử và ý
thức chấp hành pháp luật và được cấu thành từ những yếu tố về tiêu chuẩn, khả năng
hoàn thành nhiệm vụ và các yếu tố về điều kiện khác, như:đào tạo, cơ sở vật chất



1.2.1. Yếu tố tiêu chuẩn
Trước hết, yếu tố tiêu chuẩn được ghi nhận trong pháp luật
Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có trình
độ cử nhân luật, đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát, có tinh thần kiên quyết bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của
pháp lệnh này, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể
được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên [25, tr.35, Đ2].
Tuyển chọn, bổ nhiệm một người vào vị trí công việc là cả một quá trình sàng lọc và
được cân nhắc theo những tiêu chí nhất định. Bên cạnh những yêu cầu tiêu chuẩn cụ thể dễ
chứng minh thì yếu tố khó đánh giá nhất là phẩm chất, đạo đức. Nếu tài năng thường bộc
lộ dễ nhận biết thì phẩm chất, đạo đức lại tiềm ẩn bên trong khó có thể một sớm, một chiều
mà đánh giá công nhận ngay được. Là con người thì các quan hệ xã hội với xung quanh
trong công việc, trong đời thường chịu tác động nhiều chiều, nếu không vững vàng sẽ dễ bị
tha hóa dần dần về phẩm chất, đạo đức. Do vậy, mỗi cá nhân chủ động, tự rèn luyện giữ
gìn là chính.
Bổ nhiệm Kiểm sát viên là việc nhà nước trao quyền cho chủ thể thực hiện một số
quyền năng nhất định trong cơ quan Viện Kiểm sát nhân dân. Thực hành quyền công tố
của Kiểm sát viên là đấu tranh với hành vi phạm tội của những chủ thể khác trong xã hội
đã gây ra sự bất lợi cho cộng đồng nói chung phải được xử lý nghiêm minh. Tính chất
phức tạp của tội phạm, hoàn cảnh kinh tế, đời sống của cán bộ, công chức nói chung luôn
là sự thách thức đối với việc giữ gìn phẩm chất đạo đức của Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố đang thực hiện nhiệm vụ vì lợi ích chung của xã hội, tránh bị cám dỗ vật chất và phải
vững vàng trong thực hiện pháp luật, nghiêm minh trong xử lý.
Không phải lúc nào cũng đúng với việc “cần phải biết đặt người thích đáng ở vị trí
thích đáng” [12, tr.629]. Thực tế cho thấy không phải tất cả Kiểm sát viên được bổ nhiệm
đều giữ gìn được phẩn chất đạo đức mặc dù trong công tác quản lý ngành luôn có những
biện pháp kiểm tra, đánh giá, nhận xét qua công tác cán bộ, công tác nghiệp vụ. Còn nơi
này, nơi khác tuy cá biệt, vẫn có Kiểm sát viên phải bị xử lý kỷ luật hoặc bị xử lý hình sự

do bị mua chuộc vật chất, tha hóa trong cuộc sống do không giữ vững đạo đức nghề


nghiệp, lơi lỏng, bị cám dỗ từ những quan hệ xã hội thiếu lành mạnh trong đời thường mà
trong đó, có người đã công tác nhiều năm trong ngành được bố trí giữ cấp chức ở địa
phương, đơn vị. Tuyển chọn để được làm Kiểm sát viên phải sàng lọc, cân nhắc. Thực hiện
chức năng, nhiệm vụ trong thực tiễn cũng là quá trình tiếp tục sàng lọc thông qua những
yêu cầu cụ thể như: phải gương mẫu chấp hành pháp luật, có lối sống lành mạnh và tôn
trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng và đặc biệt là luôn tự soi rọi lại mình để giữ được
“Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn” theo lời dạy của Bác Hồ đối
với cán bộ ngành kiểm sát.
Như vậy, cần xác định phẩm chất đạo đức là một trong những thành tố của tiêu chuẩn
rất quan trọng trước tiên khi xem xét về năng lực thực hành quyền công tố.
Thứ hai, cùng với yếu tố tiêu chuẩn được luật quy định thì năng lực Kiểm sát viên
được cấu thành một cách tổng hợp từ kỹ năng nghề nghiệp; kiến thức pháp lý, kiến thức xã
hội; khả năng ứng xử, biện luận, đối đáp trực tiếp khi thực hành quyền công tố tại phiên
tòa xét xử án hình sự.
Trong hoạt động thực tiễn qua những môi trường và hoàn cảnh cụ thể, mỗi cá nhân
thể hiện được ít hay nhiều tính thạo việc, tính chuyên sâu từ công việc đang làm. Việc thể
hiện đó phản ánh sự phân định giữa việc làm ổn định, lâu dài với việc làm có tính thời vụ;
giữa tính chất lao động cần phải có đầu tư cho tư duy từ chất xám nhiều hơn so với lao
động cơ bắp đơn thuần.
Năng lực Kiểm sát viên được thể hiện trong quá trình lao động đặc thù. Do hoàn
cảnh lịch sử, cũng có giai đoạn tuyển chọn công tố viên từ các tổ chức khác để làm nhiệm
vụ công tố tại phiên tòa hình sự. Nhưng khi ngành kiểm sát được thành lập theo Hiến pháp
năm 1959 thì cùng với việc học tập kinh nghiệm của những người trước; việc tuyển dụng,
bổ nhiệm được chú trọng thêm đối với những người đã qua đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
pháp luật, nghiệp vụ kiểm sát và dần dần xem đây là một trong những tiêu chuẩn phải có.
Ngành kiểm sát cũng có trường đào tạo riêng cho cán bộ, công chức của ngành.
Như vậy, kiến thức pháp lý và chuyên môn được đào tạo, cùng với quá trình công tác

giúp cho Kiểm sát viên thể hiện tính chuyên sâu trong tác nghiệp theo chức năng, nhiệm
vụ.


Nhưng trong lĩnh vực đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm thì kiến thức qua
trường lớp chỉ là điều kiện ban đầu. Do tính phức tạp của diễn biến tình hình tội phạm đòi
hỏi năng lực Kiểm sát viên thực hành quyền công tố phải luôn nâng cao trình độ và muốn
vậy, phải luôn học hỏi trong quá trình công tác đối với kiến thức, kinh nghiệm và tính
chuyên sâu của những người công tác lâu năm trong ngành để đảm bảo “Riêng về cán bộ,
ai lãnh đạo trong ngành hoạt động nào thì phải biết chuyên môn về ngành ấy” [13, tr.47].
Mặt khác, kiến thức xã hội và khả năng phán đoán, dự báo qua nghiên cứu diễn biến tình
hình kinh tế xã hội cũng góp phần quan trọng cho việc thể hiện năng lực của Kiểm sát viên.
Bởi vì nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm hầu hết đều bắt nguồn từ ý thức chấp hành
pháp luật trong xã hội, từ việc hệ thống pháp luật có được hoàn thiện hay chưa hoặc còn có
những sơ hở gì trong việc quản lý, điều hành ở từng địa phương, đơn vị hay tính đặc thù của
vùng, miền
Do vậy, từ việc đấu tranh với từng loại tội phạm, đưa người phạm tội ra xét xử tại
phiên tòa hình sự thì việc phát hiện sơ hở để kiến nghị phòng ngừa chung là yêu cầu rất
quan trọng và qua đó cũng thể hiện vai trò, năng lực của Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố.
Thực hiện quyền năng chủ thể tranh tụng tại phiên tòa của phía buộc tội, với kiến
thức tổng hợp thì năng lực Kiểm sát viên còn được thể hiện bởi khả năng ứng xử, biện
luận, đối đáp trực tiếp với các chủ thể tham gia tố tụng khác mà chủ yếu là luật sư hoặc
người bào chữa.
Tranh luận là giai đoạn tập trung nhất của tranh tụng ở phiên xử. Để bảo vệ việc quy buộc
tội trạng và “ bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội” [26, Đ.16] thì cùng với việc trình bày một cách tổng hợp
qua bản luận tội, Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến mà
phía bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác trình bày phản bác hoặc
đề nghị do chưa đồng tình.

Đối đáp, tranh luận luôn có hai mặt chủ quan và khách quan. Với kiến thức và thái độ
ứng xử khi phát sinh tranh luận, Kiểm sát viên phải thể hiện cho được tính khách quan,
đúng đắn của các vấn đề đã kết luận trước đó. Đồng thời, lắng nghe ý kiến, lập luận phản
bác để lập lý, luận chứng nhằm làm cho những người tham dự tại phiên xử thấy rõ được


hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nghẹ đã được xem xét
qua đề xuất mức hình phạt tương ứng với tính chất nguy hiểm cho xã hội mà người phạm
tội đã gây ra; rút ra những nguyên nhân nào trực tiếp hoặc gián tiếp trở thành điều kiện
phát sinh tội phạm và từ đó, nâng được tính thuyết phục với công luận, giúp cho Hội
đồng xét xử cân nhắc khi quyết định qua bản án.
Những năm qua, nguyên tắc tranh tụng luôn được chú trọng thực hiện trong tiến trình
cải cách tư pháp. Tranh luận cũng biểu hiện rõ về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử theo trình tự tố tụng hình sự tại các phiên
tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Nhưng cũng cần thấy rằng, để thực hiện được việc này còn có
sự tác động qua từng phiên tòa xét xử mà ở đó “tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ
thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án” [17, Đ.19],
cụ thể là việc điều hành của chủ tọa phiên tòa trong Hội đồng xét xử.
Thực hiện và vận dụng các nguyên tắc của tố tụng tranh tụng đan xen trong tố tụng
thẩm vấn thì việc điều hành phiên tòa cần bảo đảm cho các chủ thể thực hiện đúng và đầy
đủ quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định. Chủ tọa phiên tòa phải giữ đứng mực về thái
độ điều hành để đạt yêu cầu khách quan làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án theo chức năng
xét xử, trên cơ sở đó xác định chính xác, toàn diện sự thật của vụ án nhằm đưa ra những
phán quyết đúng và có tính thuyết phục cao.
Thực tế cho thấy, vẫn còn dư luận chê trách rằng qua theo dõi thẩm vấn trực tiếp,
công khai tại phiên tòa là đoán được sự bất lợi nhiều hay ít đối với bị cáo hoặc còn tình
trạng chủ tọa phiên tòa cắt thời gian tranh luận của chủ thể tham gia tố tụng và như vậy,
chưa đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng do bị hạn chế từ việc điều hành của Hội
đồng xét xử.
1.2.2. Khả năng hoàn thành nhiệm vụ

Để bảo vệ được cáo trạng truy tố người phạm tội là cả quá trình nối tiếp khả năng
thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ qua các vụ việc cụ thể
như: phối hợp, hướng dẫn điều tra vụ án, nghiên cứu hồ sơ, xây dựng cáo trạng, dự thảo
bản luận tội, chuẩn bị các dự kiến tranh luận Đó là kết quả tổng hợp về kiến thức pháp
luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác, kỹ năng nghề nghiệp và tại


phiên tòa, với khả năng phân tích tổng hợp, ứng xử, đối đáp trực tiếp các vấn đề được đặt
ra từ việc tranh luận.
Qua xét xử vụ án, năng lực tranh tụng được thể hiện trong suốt quá trình đó cho đến
khi Hội đồng xét xử công bố việc phán quyết.
Dựa vào kết quả phán quyết từ các quyết định, bản án có thể xem xét khả năng hoàn
thành nhiệm vụ của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố. Nêu như vậy, không có nghĩa
chỉ xem xét ở từng vụ việc mà là cả một quá trình thực hiện nhiệm vụ được phân công theo
số vụ án đã được xét xử cùng với việc đánh giá, nhận xét hàng năm từ công tác quản lý cán
bộ của ngành và sự quan tâm của công luận mà trong đó, đáng chú ý là sự nhận xét của các
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong mối quan hệ theo quy định của pháp luật.
Để có thể đạt khả năng hoàn thành nhiệm vụ, cùng với những mặt chủ quan tự thân
vận động ở từng con người như đã nêu thì Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực
này cần có điều kiện khác để hỗ trợ, góp sức. Đó là sự phân công phù hợp với sở trường,
thế mạnh từng người, những phương tiện cần có để phục vụ cho công việc, sự động viên
kịp thời của tổ chức hoặc thường xuyên rút kinh nghiệm, bổ túc kiến thức từ thực tiễn qua
công việc. Mặt khác, cũng cần có trao đổi với thẩm phán chủ tọa phiên tòa nhằm lắng nghe
những mặt được, chưa được khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa
Thực hiện nhiệm vụ tranh tụng tại phiên tòa, cùng với việc đảm bảo về mặt pháp
lý các điều kiện cần thiết khác, thì chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên còn chịu sự
tác động của các chủ thể khác qua trình độ năng lực của họ, chủ yếu là luật sư và sự
điều hành của Hội đồng xét xử. Mối quan hệ giữa các chủ thể cần đặt trong hoàn cảnh
cụ thể (là phiên tòa xét xử án hình sự) trên cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ do luật
quy định. Do vậy, khi nhận xét năng lực tranh tụng của từng chủ thể cần đặt trong mối

quan hệ tương tác đó để xem xét khả năng hoàn thành nhiệm vụ trên thực tế có đạt hay
chưa đạt.
Là chủ thể tranh tụng, năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công
tố tại phiên tòa hình sự qua kỹ năng, kiến thức, thái độ thực hiện chức năng luật định và
cũng được đánh giá chủ yếu qua nhiệm vụ bảo vệ việc buộc tội đối với bị cáo. Đây cũng là
đặc trưng riêng, khác biệt với các chủ thể khác trong tố tụng tại phiên tòa.

×