Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phổ Yên ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.31 KB, 61 trang )













BÁO CÁO TỐT NGHIỆP



Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phổ Yên


2

MỤC LỤC
1.1.1 Ngân hàng thương mại và vai trò của nó trong nền kinh tế 5
1.1.2 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế 10
Nghiệp vụ huy động vốn 10
Nghiệp vụ sử dụng vốn : 11
Nghiệp vụ trung gian 11
1.221 Tiền gửi của khách hàng 13
1.2.2.2 Vốn đi vay 18
1.2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới việc huy động vốn của các Ngân hàng thương mại . 22


Hai là : Chính sách lãi suất 23
Bốn là : Chất lượng hoạt động tín dụng 25
Bẩy là : Công tác tuyên truyền 27
Hoạt động mảketing ngân hàng 28
CHƯƠNG II 29
Biểu số 1 34
Biểu số 2:Kết cấu các nguồn vốn huy động 35
Biểu 3 : Cơ cấu các khoản tiền gửi 36
Biểu số 4: Lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm 38
Biểu số 5: Cơ cấu nguồn tiền gửi tiết kiệm 39
Hai là : Hoạt động của thị trường vốn 47
CHƯƠNG III 49






















3

lời mở đầu

Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối
với sự ổn định và phát triển kinh tế của một đất nước. Nền kinh tế của một
nước chỉ phát triển với tốc độ cao và ổn định khi có chính sách tài chính,
tiền tệ đúng đắn và hệ thống ngân hàng hoạt động đủ mạnh, có hiệu quả
cao. Có khả năng thu hút, tập trung các nguồn vốn và phân bổ có hiệu quả
các nguồn vốn vào các ngành sản xuất.
ở nước ta từ khi thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa của nền
kinh tế, chuyển nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
bao cấp sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của
nhà nước theo định hướng XHCN. Hệ thống ngân hàng ngày càng đóng
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Ngân
hàng chính là nơi tích tụ, tập trung vốn, khơi dậy và động viên các nguồn
lực cho phát triển kinh tế .Nó đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng
vốn, cho hoạt động của các ngành trong nền kinh tế quốc dân, góp phần
quan trọng vào thành tựu tăng trưởng của nền kinh tế hơn 10 năm qua, đặc
biệt từ năm 1991-1995, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi lạm phát. Trong
chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010, mục tiêu quan trọng mà đảng
và nhà nước ta đặt ra là sự nghiệp công hoá và hiện đại hoá đất nước. Đây
là mục tiêu quan trọng của đất nước ta trong trong quá trình vươn lên thoát
khỏi sự tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Mặt khác góp phần phần ổn định kinh tế xã hội, giữ vững an ninh chính trị
của đất nước . Trong những năm gần đây ngân hàng đã thực hiện đổi mới
sâu sắc cả hệ thống tổ chức và hoạt động. Sự đổi mới này đã tạo nên một



4
sắc thái mới trong hoạt động kinh doanh tiền tệ ở nước ta, góp phần đổi
mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường.
Hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn nói chung và
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phổ Yên nói riêng
thông qua hoạt động của mình đã không ngừng mở rộng quan hệ tín dụng
với các thành phần kinh tế. Tuy nhiên trong hoạt động kinh doanh các
Ngân hàng thương mại còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình huy động
vốn, mà Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phổ Yên
không phải là trường hợp ngoại lệ.
Làm thế nào để huy động được vốn đáp ứng cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tại địa phương, đây
đang là một vấn đề được ngân hàng quan tâm.
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn huyện Phổ Yên em đã chọn đề tài " Giải pháp tăng cường huy
động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phổ
Yên". Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được trình bày theo 3 chương sau :
Chương I : Huy động vốn của ngân hàng thương m
ại trong nền
kinh tế
Chương II : Thực trạng huy động vốn của Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phổ Yên
Chương III : Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phổ Yên




5


chương I
huy động vốn của ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế

1.1.1 Ngân hàng thương mại và vai trò của nó trong nền kinh tế
Sự ra đời của Ngân hàng là sản phẩm cao cấp của nền sản xuất hàng
hoá .Vào đầu thế kỷ thứ XVIII sản xuất hàng hoá phát triển, quan hệ mua
bán, trao đổi sản phẩm hàng hoá giữa các vùng, cá nước ngày càng lớn .
Các thương nhân khi đi mua hàng hoá, bán hàng thường mang theo một
lượng hàng hoá rất lớn . Do vậy thường mất rất nhiều công sức để bảo
quản lượng tiền vàng . Trong khi đó tại thời gian này vàng được dùng phổ
biến trong đời sống hàng ngày ( như đúc tiền, đồ trang sức ) hoạt động
của các nhà thợ vàng rất phát triển và họ có nhiều kho cất trữ rất tốt đảm
bảo an toàn .
Để giảm bớt chi phí bảo quản lượng tiền vàng và đảm bảo về mặt an
toàn tài sản của mình, cacs thương nhân đã bắt đầu tìm kiếm và gửi lượng
tiền vàng vào các nhà thợ vàng, để chứng nhận cho việc ký gửi này, các
nhà thợ vàng phát hành giấy biên nhận . Lúc đầu số lượng người gửi tiền
vàng tại các nhà thợ vàng còn ít, các nhà buôn khi cần tiền mang biên lai
đến các hiệu vàng rút lượng tiền vàng ra và thanh toán với nhau bằng chính
những đồng tiền vàng . một thời gian sau nhà buôn gửi tiền vàng vào các
nhà thợ vàng ngày càng nhièu, các thương nhân khi thanh toán tiền mua
bán hàng hoá với nhau đã dùng biên lai gửi tiền để thanh toán thay cho
việc trả tiền vàng. Các biên lai được lưu chuyển từ thương nhân này sang


6

thương nhân khác để thanh toán nợ .Việc làm này tiết kiệm cho nhữnh
người phải trả nợ họ không đến các nhà thợ vàng trình biên lai rút ra số
tiền càn thiết gửi cho chủ nợ. Các nhà chủ nợ này ngay sau đó lập tức gửi
vào chỗ các thợ vàng. Chính vì vậyviẹc trao đổi biên lai đơn giản hơn
nhiều. Để giúp cho việc này những người làm vàngphát hành loại biên lai ở
dạng tiện lợi, làm cho người sở hữu có thể dùng làm chi trả và chuyể
quyền sở hữu của biên lai sang chủ mới
Khi ngày càng có nhiều thương gia đến gửi và rút tiền vàng ra, các
nhà thợ vàng phát hiện ra rằng ở một thời điểm bất kỳ các bien lai dùmg để
rút vàng ra chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số tiền vay họ giữ, và trong kho
của họ bao giờ cũng tồn một lượng tiền vàng lớn. Các nhà thợ vàng dùng
lượng tiền đó cho vay đói với các nhà sản xuất thương nhân thiếu vốn cho
sản xuất và buôn bán để kiếm lãi đồng thời các dịch vụ khác cũng được
phát triển theo như tài khoản ký gửi, triết khấu hối phiếu trước hạn thanh
toán, mua bán vàng nén và ngân hàng ra đời.
Thời kỳ đầu của hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế chỉ có duy
nhất một loại ngân hàng đó là ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương
mại thực hiện các chức năng của nó như nhân tiền gửi của khách hàng,
đầu tư, cho vay, làm dịch vụ thanh toán và phát hành các kỳ phiếu ngân
hàng . Khi lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển, các kỳ phiếu của ngân
hàng thương mại phát hành nó không đáp ứng được nhu cầu trao đổi lưu
thông hàng hoá, và những kỳ phiếu đó nó chỉ được sử dụng lưu hành trong
phạm vi nhất định nào đó, khả năng thanh toán của các kỳ phiếu có hạn .
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 tại các nước đều có xu hướng
quốc hữu hoá các ngân hàng phát hành, các ngân hàng phát hành thuộc


7
quyền sở hữu nhà nước, các ngân hàng này không chỉ phát hành kỳ phiếu,
giấy bạc ngân hàng mà còn thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh

vực tTền tệ - Tín dụng -Ngân hàng - Đó là các ngân hàng trung ương ra đời
. Còn các ngân hàng khác chỉ thực hiện nhận tiền gửi, cho vay đầu tư, dịch
vụ thanh toán mà không được phát hành giấy bạc ngân hàng, đó là các
ngân hàng thương mại . Ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng
trong nền kinh tế thị trường, đó là:.
Một là : Ngân hàng là cầu nối gữa tiét kiệm với tiêu dùng và đầu tư.
Là một trung gian tài chính các ngân hàng thương mại đã tập trung
huy động các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để đầu tư vốn cho các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và nhân dân vay. Đòng thời trong nền
kinh tế thị trường những người có tiền mà chưa có cơ hội đầu tư sản xuất
thì ai cũng muốn đồng vốn của mình phải sinh lời nên họ sẵn sàng cho vay
để lấy lãi. Còn các nhà doanh nghiệp cũng vì mục đích sinh lời của đồng
vốn mà họ rất cần tiền để mua nguyên vật liệu phục vụ vcho quá trình sản
xuất lưu thông hàng hoá, hay đầu tư để mở rộng qui mô sản xuất mà chưa
đủ vốn. Ngân hnàg (vì mục đích lợi nhuận) đã thu hút những khoản tiền
tạm thời nhàn rỗi của các nhà sản xuất, lưu thông hàng hoá dịch vụ và các
tầng lớp dân cư khác, đem cho các donh nghiệp và các tầng lớp dân cư cần
vốn vay . Như vậy với các chức năng, vai trò của mình ngân hàng đã
chuyển đồng vốn từ những người vì các lí do mà không dùng vốn để sinh
lời một cách trực tiếp sang những người cần vốn để sinh lời . Ngân hàng
đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất hàng hoá, và làm cho đồng
tiền luôn luôn vận động, hoạt động ngân hàng góp phần làm tăng thu nhập
cho tất cả những khách hàng của mình và thúc đẩy nền kinh tế hoạt động
có hiệu quả hơn .


8
Ngân hàng đã sử dụng chính sách lãi suất để khích lệ sự tiết kiệm
trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư .
Các nhà sản xuất kinh doanh muốn thu được nhiều lợi nhuận thì phải thực

hiện tiết kiệm tối đa các chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm thì từ đó
mới trả được lãi vay ngân hàng. Trong mối quan hệ giữa tiết kiệm . đầu tư
và tiêu dùng hiện tại thì yếu tố kiềm chế hay kích thích chính là lãi suất .
Do vậy các Ngân hàng phải nghiên cứu tình hình kinh tế xã hội thị trường
để đưa ra các chính sách lãi suất hợp lý để làm sao giữa người đầu tư
trực tiếp và người đầu tư gián tiếp đều thu được lợi nhuận hợp lý .
Hai là : Hoạt động ngân hàng góp phần giảm chi phí lưu thông, nâng
cao hiệu quả đồng vốn .
Trong nền kinh tế thị trường hoạt đọng trao đổi mua bán hàng hoá diễn
ra thường xuyên hết sức sôi động trong phạm vi rộng lớn, vì vậy nhu cầu
thanh toán giữa các thành viên trong nền kinh tế rất lớn . Ngân hàng với
chức năng trung tâm thanh toán đã đưa ra những phương tiện công cụ
thanh toán rất tiện lợi và ngày càng đổi mới như uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm
thu, séc thanh toán bù trừ, thẻ điện tử đã làm giảm lượng tiền mặt đến
mức tôi thiểu trong lưu thông, như Các Mác đã viết : " Tiền đã được thay
thế một phần rất lớn, một mặt bằng nghiệp vụ tín dụng, mặt khác bằng tiền
tín dụng "
Tín dụng ngân hàng đã làm giảm lượng tiền nhàn rỗi đến mức tối thiểu
cần thiết và hiệu quả đồng vốn vay ngày càng được nâng cao . Để đảm bảo
cho quá trình tái sản xuất được liên tục thì ngoài lượng vốn tiền tệ đang
hoạt động, các ngân hàng còn phải có một lượng vốn tiền tệ dự trữ vói một
số lượng tiền nhất định theo qui định của ngân hàng nhà nước ( Tuỳ theo


9
tình hình kinh tế, xã hội, chính sách kinh tế xã hội của từng thời kỳ mà tỷ
lệ vốn tiền tệ dự trữ cao hay thấp. ).
Tỷ số giữa vốn tiền tệ đang hoạt động với vốn tiền tệ dự trữ phải bằng
tỷ số giữa thời gian lưu thông và thòi gian sản xuất . Vốn tiền tệ nhàn rỗi
của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư phải được sử dụng vào hoạt

động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác, thông qua con
đường tín dụng ngân hàng . Nhờ có hoạt động của tín dụng ngân hàng mà
vốn tiền tệ được sử dụng một cách tiết kiệm và có hiêụ quả . Mặt khác các
doanh nghiệp tuy đã có khả biến đại bộ phận vốn tiền tệ của mình thành
vốn sản xuất thì sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn .
Ba là : hoạt động ngân hàng có tác dụng điều tiết sự dịch chuyển của
vốn đầu tư, dẫn đến bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận, thúc đẩy nền kinh tế
hàng hoá phát triển mạnh mẽ .
Trong quan hệ tín dụng vì mục đích lợi nhuận tối đa và đảm bảo sự
an toàn của đồng vốn, nên ngân hàng đã hạn chế cho vay đối với nghành
có tỷ suất lợi nhuận thấp kém, vì vậy gây nên một sự chuyển hướng, dịch
chuyển của vốn đầu tư sang nghững nghành kinh tế mới, có tỷ suất lợi
nhuận cao . Hệ thống tín dụng ngân hàng ngày càng phát triển và
hoạt động theo hướng đó làm cho việc dị chuyển vốn một cách dễ dàng,
tập trung duy trì lợi nhuận bình quân từ tất cả các nghành . đồng thời với
sự tác động của ngan hàng vốn đựơc dịch chuyển từ vùng thừa vốn sang
vùng thiếu vốn đảm bảo cho sụ khác biệt thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn
định .
Bốn là : Hoạt động ngân hàng góp phần chống lạm phát, một trong
những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm phát qua con


10
đường tín dụng ; Ngân hàng với chức năng làm nhiệm của mình đã sử
dụng các công cụ, chính sách sử dụng tiền tệ, ngăn chặn lượng tiền thừa
vào lưu thông, góp phần chống lạm phát . Ngân hàng vói tư cách là trung
tâm tiền tệ - tín dụng thanh toán, thông qua các nghiệp vụ của mình kiểm
soát các hoạt động của nền kinh tế, đưa các hoạt động của nền kinh tế vào
quĩ đạo chung . Ngân hàng xác định được hướng đầu tu vốn và đề ra các
biện pháp sủ lí những tác động xấu ảnh hưởng đến nền kinh tế, làm cho

quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục, góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ,
ổn định sức mua của đồng tiền kiềm chế lạm phát .
1.1.2 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại trong nền kinh
tế.
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là nghiệp vụ huy
động vốn và thực hiện các dịch vụ ngân hàng .
Nghiệp vụ huy động vốn
Đây là nghiệp vụ quan trọng của ngân hàng thương mại . Với chức
năng và nghiệp vụ của mình các ngân hàng thương mại đã tập trung huy
động các nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư
vào ngân hàng góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, bảo vệ giá trị của đồng
tiền, kiềm chế lạm phát .
Mặt khác trên cơ sở nguồn vốn huy động được, ngân hàng tiến hành
cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, cho các mục tiêu phát
triển kinh tế của địa phương và cả nước . Nghiệp vụ huy động vốn của
ngân hàng ngày càng mở rộng, tạo uy tín của ngân hàng ngày càng cao, các
ngân hàng chủ động trong hoạt động kinh doanh, mở rộng quan hệ tín dụng
với các thành phần kinh tế và các tổ chức dân cư, mang lại lợi nhuận cho


11
ngân hàng . Do đó các ngân hàng thương mại phỉ căn cứ vào chiến lược,
mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, của địa phương . Từ đó đưa ra các
loại hình huy động vốn phù hợp nhất là các nguồn vốn trung, dài hạn
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước .
Nghiệp vụ sử dụng vốn :
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp
vụ sử dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả cao, nâng cao vai trò uy tín của
ngân hàng, tăng cương sự cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường . Do

vậy các ngân hàng phải thường xuyên bám vào các mục tiêu phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước, đưa ra các hình thức đầu tư đúng đắn, có hiệu qủ,
phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, nhu cầu sử dụng vốn của xã hội,
thực hiện cho vay theo các dự án đầu tư, các chương trình phục hồi sản
xuất .
Ngân hàng thực hiện đầu tư cho vay có hiệu quả, góp phần vào mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho
người lao động, góp phần vào mục tiêu xoá đói, giảm nghèo, chuyển dịch
cơ cấu của nền kinh tế, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của các
ngành các vùng kinh tế .
Nghiệp vụ sử dụng vốn có hiệu quả, gops phần mở rộng quan hệ tín dụng
với các thành phần kinh tế, thu hút được nhiều khách hàng đến quan hệ
giao dịch với ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng nghiệp vụ huy
động vốn.
Nghiệp vụ trung gian


12
Thực chất nghiệp vụ trung gian là ngân hàng cung ứng các dịch vụ
phục vụ khách hàng xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ các ngân hàng
thương mại thực hiện các lệnh chi trả, các dịch vụ do các chủ tài khoản yêu
cầu, trên cơ sở đó ngân hàng thu phí dịch vụ . Ngày nay do nhu cầu phát
triển của nền kinh tế đòi hỏi hoạt động dịch vụ ngân hàng ngày càng mở
rộng về số lượng và chất lượng . Các ngân hàng đầu tư các trang thiết bị,
cơ sở vật chất áp dụng các công nghệ tiên tiến vào hoạt động ngân hàng,
thực hiện tốt khâu thanh toán không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm chi, uỷ
nhiệm thu, thanh toán séc, thanh toán bù trừ, thực hiện chuyển tiền nhanh
qua mạng máy vi tính, thực hiện thanh toán qua thẻ tín dụng .
Thực hiện tốt khâu dịch vụ góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng,
xu hướng nguồn thu về dịch vụ ngày càng tăng và chiếm một tỷ lệ lớn

trong tổng thu về kinh doanh của ngân hàng . Đồng thời góp phần phần
làm tăng chu chuyển của nguồn vốn, tiết kiệm vốn trong quá trình thanh
toán, làm giảm khối lượng lưu thông bằng tiền mặt, tiết kiệm được các chi
phí in ấn, kiểm đếm tiền
Ngân hàng thực hiện tốt khâu dịch vụ, thanh toán, thu hút được
nhiều khách hàng đến giao dịch với ngân hàng . Từ đó tạo điều kiện thuận
lợi cho công tác huy động vốn và cho vay của ngân hàng .
Các nghiệp vụ hoạt động của ngân hàng thương maị có mối quan hệ
mật thiết hữu cơ, làm tiền đề, điều kiện cho nhau, các ngân hàng thương
mại phải thực hiện tốt, đồng bộ tất cả các nghiệp vụ hoạt động, thực sự
đóng vai trò quan trọng và trở thành công cụ không thể thiếu trong nền sản
xuất hàng hoá nói riêng và trong nền kimh tế thị trường nói chung
1.2 Huy động vốn của ngân hàngthương mại trong nền kimh tế


13
1.22 Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế
Nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ chủ yéu của ngân hàng thương mại.
Việc đưa ra các hình thức huy động phù hợp, linh hoạt là điều rất cần thiết
của các ngân hàng thương mại. Có như vậy mới khai thác được các nguồn
vốn tuì các thành phần kinh tế các doanh nghiệp và cá nhân. Các hìmh thức
huy đoọng vốn có ảnh hưởng đêns khối lượng vốn thu hút vào ngân hàng.
Vì vậy sử dụng linh hoạt và kết hợp các hình thức huy động vốn sẽ thu hút
được nhiều khách hàng gửi tiền vào ngân hàng.
Nguồn vốn huy động vào ngân hàng thuơng mại bao gồm các nguồn vốn
chủ yếu
-Nhận tiền gửi của khách hàng
-Vốn đi vay
1.221 Tiền gửi của khách hàng

Tiền gửi của khách hàng đó là tiền gửi của các tổ chức kinh tế,
doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước và các định chê tài chính trung gian
cùng cá nhân trong nước và ngoài nước có quan hệ tiền gửi với ngân hàng.
Tiền gửi của khách hàng được chia làm hai bộ phận: Tiền gửi của doanh
nghiệp, tổ chức kimh tế và tiền gưỉi tiết kiệm của dân cư .
Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổv chức kinh tế :
_ Tiền gửi không kỳ hạn :


14
Đây là khoản tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào và ngân
hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng, thực chất đó là khoản tiền
gửi dùng để đảm bảo trong thanh toán .
Tiền gửi đảm bảo thanh toán được ký thác vào ngân hàng để thực hiện các
khoản chi trả về mua hàng hoá dịch vụ và thực hiện các khoản chi trả khác
phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh một cách thuận tiện và tiết
kiệm . Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi chờ thanh toán mà không phải
tiền để dành . Bởi vậy đối với khách hàng đây là một tài sản mà họ ký thác
uỷ nhiệm cho ngân hàng bảo quản và thực hiện các nghiệp vụ liên quan
theo yêu cầu của khách hàng . Do vậy khách hàng gửi tiền không mất
quyền sở hữu, cũng như quyền sử dụng số tiền đó . Họ có quyền lấy ra
hoặc chuyển nhượng cho bất kỳ ai . Khách hàng được sử dụng số tiền của
mình bằng các phương tiện thanh toán dùng để chi trả như séc uỷ nhiệm
chi . thư chuyển tiền
Đối với ngân hàng đây là một khoản nợ mà ngân hàng có nghĩa vụ
thực hiện lệnh thanh toán chi trả cho người thụ hưởng loại tiền gửi suất
này thường thấp hơn lãi suất trả cho tiền gửi có lãi khác. Nhưng khi khách
hàng mở và sử dụng các loại tài khoản này thì được ngân hàng cung ứng
các loại dịch vụ miễn phí hoặc thu với tỉ lệ rất thấp, lượng tiền vốn ở tài
khoản thanh toán thường chiếm 1/3 tiền gửi ngân hàng .

Như vậy các tài khoản này đã đem lại cho khách hàng sự an toàn
trong việc bảo quản vốn và trong quá trình thanh toán trả tiền hàng hoá
dịch vụ, ngoài ra khách hàng còn được hưởng một khoản tiền lãi nhỏ và
một số dịch vụ miễn phí . Còn dối với ngân hàng phải bỏ ra một số chi phí
cho bộ máy kế toán theo dõi và ghi chép các nghiệp vụ phát sinh, chi phí


15
phát hành séc và một số dịch vụ kèm theo . Chi phí này khá lớn nhưng nó
được bù đắp lại bởi vì trên thực tế do số lượng tiền gửi vào và số lượng
tiền rút ra là không cùng một lúc và các chủ tài khoản thường không sử
dụng hết số tiền của mình trên tài khoản . Do đó luôn tồn lại một khoản
tiền trên tài khoản trong một thời gian dài số dư ấy được ngân hàng dùng
để đầu tư cho vay đối với các doanh nghiệp cá nhân thiếu vốn sản xuất
kinh doanh để thu lợi nhuận . Do đó đối với tài khoản tiền gửi thanh toán
số dư trên tài khoản giao dịch không những bù đắp đưọc chi phí mà còn có
thể mang lại lợi nhuận cho ngân hàng .
Ngày nay do điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều công nghệ
mới được ứng dụng vào hoạt động ngân hàng . Do đó có nhiều doanh
nghiệp cá nhân mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng . Vì vậy lượng tiền
gửi này ngày càng tăng và đó là những nguồn vốn dùng để cho vay hết
sức quan trọng của ngân hàng, đồng thời lợi nhuận thu về ngày càng tăng .
_ Tiền gửi có kỳ hạn :
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp, chưa
sử dụng đến trong một thời gian nhất định, mà khoản thời gian này được
xác định trước. Do đó các doanh nghiệp thường gửi vào ngân hàng dưới
hình thức tiền gửi có kỳ hạn . phần lớn các nguồn tiền gửi nãyuất phát từ
nguồn tích luỹ của các doanh nghiệp mà có . Về nguyên tắc khách hàng chỉ
được rút tiền ra khi đến hạn và được hưởng số tiền lãi trên số tiền gửi đó .
Nhưng hiện nay để thu hút vốn nhằm khuyến khích khách hàng gửi vào

ngân hàng, các ngân hàng thương mại cho phép khách hàng rút tiền ra
trước thời hạn . Trong trường hợp này khách hàng không được hưởng lãi
hoặc chỉ được hưởng lãi theo lãi suất của loại tiền gửi không kỳ hạn .


16
Do tính chất của loại nguồn vốn này tương đối ổn định, ngân hàng có
thể sử dụng được phần lớn số dư loại nguồn vốn này để cho vay trung dài
hạn . Nếu nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy
động sẽ tạo điều kiện thuận lợi, chủ động của ngân hàng trong quá trình
kinh doanh, các ngân hàng thương mại thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn
khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng . Hiện nay tại
các ngân hàng thưong mại có các loại tiền gửi có kỳ hạn, 1 tháng, 3 tháng,
9 tháng, 1năm, 2 năm . Với mỗi một kỳ hạn khác nhau thì ngân hàng áp
dụng một loại lãi suất khác nhau . Thông thường thì thời hạn càng dài lãi
suất càng cao . ( Hiênj nay các ngân hàng thương mại thường khuyến khích
khách hàng gửi tiền với thời hạn dài, vì loại tiền gửi này tương đối ổn định,
ngân hàng sẽ chủ động trong kinh doanh . Nhưng về phía khách hàng khi
gửi tiền với kỳ hạn dài họ sẽ lo âu về sự ổn định của đồng tiền, chỉ số lạm
phát năm của nền kinh tế và khả năng tài chính của ngân hàng . Vì vậy để
thu hút được nhiều nguồn vốn dài hạn thì tốc độ phát triển nền kinh tế phải
ổn định, giá trị đồng tiền được đảm bảo, lạm phát vừa phải : một con số
một năm và tình hình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng có hiệu
quả)
- Tiền gửi tiết kiệm :
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi
vào ngân hàng, nhằm hưởng lãi suất theo qui định . Tiền gửi tiết kiệm là bộ
phận thu nhập bằng tiền của các cá nhân chưa sử dụng được gửi và các tổ
chức tín dụng . Nó là một dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ, trong tiêu
dùng cá nhân . Khi gửi tiền người gửi được giao một sổ tiết kiệm coi như

giấy chứng nhận tiền gửi vào ngân hàng . Đến thời hạn khách hàng rút tiền


17
ra được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền lãi trên tổng số tiền gửi
tiết kiệm .
Có hai loại tiền gửi tiết kiệm, đó là :
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn :
Loại tiền gửi này người gửi tiền có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ
số tiền gửi bất kỳ lúc nào . Nhưng khác với loại tiền gửi thanh toán, người
gửi tiền không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người
khác, lãi suất tiền gửi tiết kiệm thường cao hơn và phần lớn những người
gửi tiền tiết kiệm là do chưa xác điịnh được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong
tương lai, nhưng lại muốn hưởng một mức lãi trong thời gian khoản tiền
nhàn rỗi .
-Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn :
Khi cá nhân gửi tiền vào ngân hàng loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
trên cơ sở thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi, lãi
suất theo quy định, và khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn . Nhưng
trong thực tế ở nước ta hiện nay để khuyến khích người gửi tiền các ngân
hàng thương mại vẫn cho khách hàng rút ra trước hạn và được hưởng lãi
suất thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn ( thông thường lãi suất tiền gửi
tiết kiệm không kỳ hạn )
Do nguồn vốn huy động từ loại tiền gửi này mang tính ổn định, cho
nên các ngân hàng thương mại thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau
như loại 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng nhằm thu hút ngày càng
nhiều nguồn vốn, và lãi suất của các loại kỳ hạn là khác nhau . Thông


18

thường kỳ hạn ngày càng dài thì lãi suất huy động ngày cànglớn hơn lãi
suất tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi thanh toán .
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư có số lượng
lớn thứ hai trong số các loại tiền gửi vào ngân hàng, và nó phụ thuộc rất
lớn vào thu nhập bình quân theo đầu người, tỷ lê. tiết kiệm trên tổng thu
nhập của dân cư, đặc tính tâm lý của nhân dân và chất lượng phục vụ của
các ngân hàng thương mại, đồng tiền ổn định và nền kinh tế tăng trưởng ổn
định vững chắc .

1.2.2.2 Vốn đi vay
- Vốn vay thông qua nghiệp vụ phát hành bằng kỳ phiếu, trái phiếu
Vốn phát hành của ngân hàng đay là hình thức huy động vốn thông
qua phát hành kỳ phiếu, trái phiéu Đó là công cụ nợ của ngân hàng 1
Đặc điểm của loại vốn này là lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm .
Mục đích huy động dùng để đầu tư cho các dự án lớn . Đây là khoản tiền
vay chứ không phải đơn giản là các khảon tiền gửi . Nguồn vốn này được
huy động với nhiều kỳ hạn khác nhau như ngắn hạn trung hạn, dài hạn .
Thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao . Hiện nay ở Việt nam các Ngân
hàng thương maị thường huy động nguồn vốn này dưới hình thức phát
hành kỳ phiếu có mục đích và trái phiếu trung và dài hạn .
+ Phát hành kỳ phiếu có mục đích :
Khi các Ngân hàng thương mại có nguồn tài chính dồi dào để tài trợ
cho các dự án quy mô lớn, nhằm phát triển kinh tế địa phương, chuyển


19
dịch cơ cấu kinh tế, hoặc liên doanh liên kết, với các tổ chức kinh tế, mà
các nguồn vốn tự có không đáp ứng được, Ngân hàng thương mại trình
Ngân hàng nhà nước xin phép phát hành kỳ phiếu để tạo nguồn vốn tín
dụng tương đối lâu dài đầu tư cho các hoạt động này .

Như vậy kỳ phiếu là một chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có kỳ
hạn, người sở hữu có thể chuyển nhượng cho người khác qua chứng nhận
của ngân hàng, vì trên sổ kỳ phiếu có ghi tên người thụ hưởng . Kỳ phiếu
ngân hàng được phát hành nhằm huy động vốn trong dân cư, một cách linh
hoạt có tác dụng thu hút các nguồn tiền mặt nhàn rỗi vào ngân hàng, góp
phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị của đồng tiền, tạo nguồn vốn trung
dài hạn để đàu tư cho các dự án phát triển kinh tế .
+ Phát hành trái phiếu :
Trái phiếu ngân hàng thực chất là giấy nhận nợ có kỳ hạn của Ngân
hàng đối với những
người mua trái phiếu (nhà đầu tư).Trái phiếu ngân hàng được các ngân
hàng thương mại hay các tổ chức tín dung.phát hành nhằm huy động vốn
cho chính bản thân ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng có liên quan . Thơì
hạn của trái phiếu thường lớn hơn một năm . Lãi suất của trái phiếu thường
lớn hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu . Các Ngân hàng thương mại
phát hành trái phiếu trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn thông qua các dự án
đầu tư của các doanh nghiệp mà ngân hàng cam kết cho vay .
Huy động vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ của các
Ngân hàng thương mại như kỳ phiếu, trái phiếu là một hình thức mới trong
công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại ở các nước đang phát


20
triển . Vốn huy động từ hình thức này dùng để đầu tư cho các dự án trung
và dài hạn
ở nước ta hình thức này được ngân hàng sử dụng từ năm 1992 .
Nhưng cho đến nay khối lượng huy động vốn của ngân hàng thương mại
qua hình thức này vẫn còn thấp so với các hình thức huy động vốn truyền
thống khác . Để phát huy được thế mạnh của công cụ huy động vốn này
đòi hỏi phải có thị trường vốn hoàn chỉnh ( thị trưòng chứng khoán ). ở

nước ta thị trường này mới được thành lập và đi vào hoạt động
- Vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác, và Ngân hàng trung ương.
Khi các Ngân hàng thương mại có sự mất cân đối giữa nguùon vốn
huy động và sủ dụng vốn xẩy ra hiện tượng thiếu vốn đột xuất .
Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình, các tổ chức tín dụng vay
vốn của nhau thông qua thị trường liên ngân hàng, thị trường này giúp cho
các Ngân hàng thương mại bổ sung nguồn vốn cho nhau, nhằn giải quyết
tình trạng thiếu hụt vốn trong thanh toán . Hoạt động của thị trường này
nhằm tận dụng đến mức cao nhất các khả năng sẵn có một cách triệt để của
các tổ chức tín dụng, trước khi có nhu cầu vay vốn của Ngân hàng trung
ương .
Việc thực hiện quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng thương mại phải
được tiến hành theo nguyên tắc đi vay và cho vay phải được thoả thuận
bằng hợp đồng tín dụng, vốn vay phải được thế chấp, cầm cố (các chứng từ
có giá), hay Ngân hàng thưong mại đi vay có thể có thể xin Ngân hàng
nhà nước bảo lãnh để vay vốn các ngân hàng khác . Các ngân hàng đi vay
phải chấp hành đầy đủ các qui chế về dự trữ bắt buộc và an toàn vốn, phải


21
có tài khoản tiền gửi thanh toán hoạt động thường xuyên tại Ngân hàng nhà
nước .
Khi các Ngân hàng thương mại đã hết khả năng vay mượn lẫn nhau
mà vẫn thiếu vốn hoặc mất khả năng thanh toán, các Ngân hàng thương
mại thực hiện vay vốn tại Ngân hàng trung ương để tạo thêm nguồn vốn để
tạo thêm nguồn vốn bổ xung cho hoạt động kinh doanh của mình .Việc
ngân hàng trung ương cho các Ngân hàng thương mại vay đã tăng khả
năng thanh toán cho các ngaan hàng thương mại . Nguồn vốn của ngân
hàng trung ương là nguồn vốn cuối cùng, làm cho khả năng thanh toán của
các Ngân hàng thưong mại được bình thường . Nếu như thiếu nguồn vốn

này thì sẽ xuất hiện các cuộc khủng hoảng tài chính khi các Ngân hàng
thuương mại mất khả năng thanh toán .
Các nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác, từ ngân hàng trung
ương dùng để đảm bảo khả năng thanh tóan trong những trường hợp cần
thiết . Cho nên thời hạn cho vay thường ngắn, lãi suất thường cao hơn các
hình thức huy động vốn khác của Ngân hàng thương mại .
Ngoài các nguồn vốn huy động trên, các Ngân hàng thương mại cũng
có thể khai thác nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, đây là những
nguồn vốn lớn, có thời hạn tương đối dài từ 5 đến 50 năm và với mức lãi
suất ưu đãi . Khi các ngân hàng thương mại nhận các nguồn vốn này
thường có các điều kiện kèm theo rất chặt chẽ, và việc cấp phát phải đúng
với các nộ dung trương trình của các dự án tài trợ .
ở nước ta khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, Đảng và nhà
nước ta đã sáng suốt lựa chọn các đưòng lối ngoại giao đúng đắn, trên tinh
thần mở cửa nền kinh tế, làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, thu hút


22
các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt nam . Các nguồn vốn này
có đóng góp rất quan trọng vào công cuộc đổi mớicông nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, đòi hỏi Ngân hàng nhà nước và Ngân hàng thương mại
phải tăng cường mở rộng các mối quan hệ hợp tác quốc tế, từ đó tranh thủ
và tiếp nhận các nguồn vốn này .
Trên đây là các hình thức huy động chủ yếu của ngân hàng thương
mại, tuy nhiên chất lượng, hiệu quả của hoạt động huy động vốn chịu ảnh
hưởng tác đông rất nhiều yếu tố, từ các yếu tố mang tính chất vĩ mô, đến
các yếu tố mang tính chất vi mô của nền kinh tế, cũng như các yếu tố liên
qun tới chính các ngân hàng thương mại
1.2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới việc huy động vốn của các
Ngân hàng thương mại .

Nền kinh tế nước ta đang chuyển dịch theo cơ chế thị trường có sự
quản lý vĩ mô của nhà nước, nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước đang là vấn đề bức xúc hiện nay . Nó có tính chiến
lược quyết định trong công cuộc đổi mới của nền kinh tế . Để thực hện sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần khối lượng
vốn rất lớn, trong đó vốn trong nước có vai trò hết sức quan trọng. Để thực
hiện mục tiêu này hệ thống ngân hàng thương mại có vai trò hết sức quan
trọng nhằm khai thác các nguồn vón nhàn rỗi trong nền kinh tế và dân cư,
phục vụ cho mục tiêu sản xuất, đầu tư phát triển kinh tế . Trong quá trình
huy động vốn của các ngân hàng thưong mại có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng
tới qui mô các nguồn vốn . Cụ thể công tác huy động vốn của các ngân
hàng thương mại chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố sau :
Một là sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội .
Một xã hội, một nền kinh tế được đánh giá là ổn định khi nền kinh tế
phát triển voí tốc đọ ổn định lâu dài và duy trì đều qua các năm, tỷ lệ lạm


23
phát ở mức cho phép, có thể chế chính trị ổn định, quốc gia bền vững và
đảm bảo an toàn xã hội . Nền kinh tế xã hội ổn định, việc sản xuất kinh
doanh của các thành phần kinh tế ngày càng phát triển và có hiệu quả, tích
luỹ ngày càng cao, người dân có việc làm và thu nhập ổn định, đời sống
của nhân dân ngày càng cao . Do đó lượng tiền gửi vào ngân hàng ngày
càng tăng .
Khi tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của một đất nước mất ổn
định, tỷ lệ lạm phát cao, sản xuất mất cân đối, tỷ lệ thất nghiệp cao, thu
nhập thực tế của ngưòi lao đọng ngày càng giảm, xu hướng người lao
động thường gửi vàng hoặc ngoại tệ mạnh, hay hàng hoá thay cho việc gửi
tiền vào các ngân hàng, cho nên ảnh hưởng tới nguồn vốn huy động của
các ngân hàng thương mại .

Vấn đề đặt ra là phải có chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước, để
làm sao tạo ra sự cân bằng giữa các cân đối lớn trong nền kinh tế, đảm bảo
quan hệ cung -cầu trên thị trường, phải hoạch định và đưa ra các chính
sách tạo đà cho nền kinh tế phát triển ổn định và lâu dài
hoạt động của các ngân hàng thương mại trên các địa bàn phải bám
sát vào các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế của từng địa phương,
từng vùng nghiên cứu thăm dò thị trường . Từ đó đưa ra các giải pháp, các
sản phẩm phù hợp để thu hút được nhiều khách hàng .
Hai là : Chính sách lãi suất
chính sách lãi suất có ảnh hưởng quan trọng tới công tác huy động
vốn của ngân hàng . Do đó chúng ta phải hoạch định chính sách lãi suất
phù hợp với tín hiệu thị trường, tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất
dương, trrên cơ sở đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, ngân hàng và
người sử dụng vốn . Đồng thời Ngân hàng trung ương cần có chính sách lãi
suất như lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn. Thông qua các chính sách


24
lãi suất này, sẽ tác động đến diễn biến lãi suất trên thị trường tiền tệ trong
từng giai đoạn, nhằm mục tiêu ổn định tiền tệ, tác động đến thị trường huy
động vốn của các ngân hàng thương mại, tạo điều kiện cho các ngân hàng
thương mại huy động các nguồn vốn thuận tiện và có hiệu quả .
Như vậy lãi suất huy động vốn là yếu tố ảnh hưởng quan trọng tới
quy mô nguồn vốn của ngân hàng . Người dâ thường quan tâm đến lãi suất
tiền gửi tiết kiệm để so sánh với tỷ lệ trượt giá của đồng tiền và khả năng
sinh lời của các hình thức đầu tư khác . Từ đó người dân mới quyết định có
nên gửi tiền vào ngân hàng hay không, gửi bao nhiêu và với hình thức nào
.
Khi các ngân hàng thương mại đưa ra các mức lãi suất huy động phù
hợp với yêu cầu của thị trường, đảm bảo quền lợi cho người gửi tiền, thì nó

là đòn bẩy mạnh mẽ thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi vào ngân hàng .Ngược
lại với một mức lãi suất quá thấp, người có tiền sẽ chọn các hình thức đầu
tư khác, đem lại lợi nhuận cao hơn là gửi tiền vào ngân hàng .
Do đó các ngân hàng thương mại phải duy trì một mức lãi suất nhạy
cảm, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, để thu hút các khoản tiền nhàn
rỗi vào ngân hàng .
Ba là : Các hình thức huy động vốn và chất lượng các dịch vụ do
ngân hàng cung ứng, và hệ thống màng lưới
Hình thức huy động vốn của ngân hàng đưa ra càng phong phú, đa
dạng linh hoạt và thuận tiện thì khả năng thu hút vốn trong nền kinh tế
càng lớn, xuất phát từ sự khác nhau về nhu cầu và tâm lý trong dân cư .
Chính sự đa dạng háo các hình thức huy động vốn của Ngân hàng đã giúp
cho mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp tìm được cho mình mộy hình thức
đầu tư hợp lý nhất.


25
Khi các ngân hàng thương mại đưa ra các hình thức huy động vốn
ngày càng đa dạng và hợp lý, cùng với việc mở rộng hệ thống màng lưới
hoạt động, và nâng cao chất lượng hoạt động các dịch vụ ngân hàng, từ đó
thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng, tạo điều kiện thuận
lợi cho ngân hàng trong việc huy động vốn .Ngược lại khi các hình thức
huy động vốn của ngân hàng chưa đa dạng, phong phú, chất lượng hoạt
động dịch vụ chưa cao, hệ thống màng lưới còn ít, chưa thuận lợi cho
khách hàng trong việc giao dịch với ngân hàng, thì nó sẽ ảnh hưởng không
tốt tới huy động vốn của ngân hàng .
Hiện nay với sự đổi mới sâu sắc của ngành ngân hàng, các ngân hàng
thương mại không ngừng đổi mới về khoa học, công nghệ, về phong cách
giao dịch, mở rộng các hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng, phát triển
thêm mạng lưới hoạt động từ chi nhánh cấp 3, cấp 4, các ngân hàng lưu

động, và các ngân hàng hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp, nông
nghiệp, kinh doanh dịch vụ Từ đó sẽ khai thác được các nguồn lực nhàn
rỗi và có điều kiện phát triển kinh tế ở các vùng sâu, vùng xa, hình thành
thị trường ở các vùng sâu, vùng xa, góp phần phát triển nền sản xuất hàng
hoá, ổn định đời sống, tăng tích luỹ xã hội . Từ đó nguồn vốn của ngân
hàng ngày càng tăng cường và phát triển ổn định.
Bốn là : Chất lượng hoạt động tín dụng
hoạt động tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc huy
động tiền gửi vào hệ thống ngaan hàng, nghệp vụ huy động vốn làm nhiệm
vụ khơi tăng các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, thì nghiệp vụ sử
dụng vốn thực hiện sử dụng các nguồn vốn đó vào sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ để đem lại khả năng sinh lời, thu lợi nhuận về cho ngân hàng
.Do vậy nếu nghiệp vụ sử dụng vốn khônghiệu quả tất yếu dẫn đến việc
huy động vốn bị thu hẹp lại . Khi sử dụng vốn kém hiệu quả, làm thất thoát

×