Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: “Tăng cường huy động vốn tại NHTMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Nam Thăng Long” potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 82 trang )







Báo cáo tốt nghiệp

“Tăng cường huy động vốn tại NHTMCP Công Thương Việt Nam – Chi
nhánh Nam Thăng Long”


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
1.1. Tổng quan về NHTM. 9
1.1.1. Khái quát về NHTM 9
1.1.1.1. Khái niệm về NHTM. 9
1.1.1.2. Các chức năng của của ngân hàng. 10
1.1.1.3. Các hoạt động chủ yếu của NHTM. 12
1.1.2. Nguồn vốn của NHTM 17
1.1.2.1.Vốn chủ sở hữu: 17
1.1.2.2. Nguồn vốn huy động. 18
1.1.2.3. Nguồn đi vay. 19
1.1.3. Các hình thức huy động vốn. 21
1.1.3.1. Huy động vốn thông qua tiền gửi thanh toán. 21
1.1.3.2. Huy động vốn thông qua tiền gửi có kì hạn. 21
1.1.3.3. Huy động thông qua tiền gửi tiết kiệm. 22
1.1.4. Sự cần thiết của việc huy động vốn. 22
1.2. Tăng cường huy động vốn tại NHTM 24
1.2.1. Quan niệm về tăng cường huy động vốn. 24
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh tăng cường huy động vốn. 25


1.2.2.1. Quy mô, cơ cấu nguồn huy động và tốc độ tăng trưởng. 25
1.2.2.2. Nguồn vốn có chi phí hợp lý. 26
1.2.2.3. Cơ cấu nguồn vốn phù hợp với cơ cấu sử dụng vốn. 27
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn. 29
1.3.1. Những nhân tố khách quan. 29
1.3.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội. 29
1.3.1.2. Môi trường pháp lý và các chính sách kinh tế vĩ mô. 29
1.3.2. Những nhân tố chủ quan. 30
1.3.2.1. Chính sách lãi suất. 30
1.3.2.2. Các hình thức huy động vốn do ngân hàng cung cấp. 31
1.3.2.3. Công nghệ ngân hàng. 31


1.3.2.4. Marketing ngân hàng. 32
1.3.2.5. Công tác tổ chức và trình độ nhân lực. 32
1.3.2.6. Mạng lưới chi nhánh. 33
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại NHTMCPCTVN–CN Nam Thăng Long.
34
2.1. Tổng quan về NHTMCPCTVN – CN Nam Thăng Long 34
2.1.1. Chức năng và nhiệm vụ của chi nhánh. 35
2.1.2. Sơ lược về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 37
2.1.2.1. Các hoạt động dịch vụ: 37
2.1.2.2. Các hoạt động kinh doanh cơ bản của NHTMCPCTVN – CN Nam
Thăng Long. 38
2.1.2.3. Nhận xét chung. 41
2.2. Thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHTMCPCTVN – CN Nam Thăng
Long 41
2.2.1. Các hình thức huy động vốn của NHTMCPCTVN – CN Nam Thăng Long .41
2.2.1.1. Huy động vốn thông qua tiền gửi thanh toán. 42
2.2.1.2. Huy động vốn thông qua tiền gửi có kỳ hạn. 43

2.2.1.3. Huy động vốn thông qua tiền gửi tiết kiệm. 43
2.2.1.4. Huy động vốn thông qua phát hành các giấy tờ có giá. 43
2.2.2. Kết quả hoạt động huy động vốn giai đoạn 2007 - 2009. 43
2.2.2.1. Thực trạng hoạt động vốn theo quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng trưởng. .
44
2.2.2.2. Chi phí huy động vốn của NHTMCPCTVN – CN Nam Thăng Long. 53
2.2.2.3. Cơ cấu nguồn vốn huy động so với việc sử dụng vốn 58
2.3. Đánh giá hoạt động huy động vốn tại NHTMCPCTVN–CN Nam Thăng Long
61
2.3.1. Những kết quả đã đạt được. 61
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân. 63
2.3.2.1. Những mặt hạn chế trong hoạt động huy động vốn. 63
2.3.2.2. Nguyên nhân. 64


Chương 3: Một số biện pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại
NHTMCPCTVN – CN Nam Thăng Long. 68
3.1. Định hướng phát triển hoạt động huy động vốn tại chi nhánh. 68
3.1.1. Định hướng kinh doanh của chi nhánh năm 2010. 68
3.1.2. Định hướng tăng cường vốn cho NHTMCPCTVN – CN Nam Thăng Long.
69
3.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh. 70
3.2.1. Xây dựng chính sách lãi suất hợp lý 71
3.2.2. Đa dạng hóa các hình thức dịch vụ huy động vốn. 72
2.2.3. Hoàn thiện công nghệ ngân hàng. 73
3.2.4. Nâng cao chất lượng marketing ngân hàng. 74
3.2.5. Thường xuyên đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ
ngân hàng. 75
3.2.6. Mở rộng mạng lưới chi nhánh. 76
3.3. Một số kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại CN NTL. 76

3.3.1. Đối với các cơ quan quản lý Nhà Nước và Chính phủ. 76
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. 78
3.3.3 Kiến nghị đối với NHTMCPCTVN. 79
KẾT LUẬN 81




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

NHTM : Ngân hàng thương mại.
NHNN : Ngân hàng nhà nước.
NHTMCPCTVN : Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam.
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần.
NHCT : Ngân hàng công thương.
CN : Chi nhánh.





DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ.

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Lượng huy động vốn qua các năm từ 2007-2009 39
Bảng 2.2: Dư nợ cho vay nền kinh tế từ năm 2007-2009 40
Bảng 2.3: Thực trạng huy động vốn trong 3 năm (2007 – 2009) 44
Bảng 2.4: Tốc độ tăng trưởng vốn của NHTMCPCTVN CN Nam Thăng Long 46
Bảng 2.5: Lãi suất huy động vốn theo VNĐ và ngoại tệ cuối các năm. 54
Bảng 2.6: Biểu lãi suất huy động vốn VNĐ. 55

Bảng 2.7: Biểu lãi suất tiết kiệm bậc thang theo số dư tiền gửi (VND) 56
Bảng 2.8: Biểu lãi suất tiết kiệm bậc thang theo số dư tiền gửi (USD) 57
Bảng 2.9: Kết quả tài chính giai đoạn 2007 – 2009. 57
Bảng 2.9: Tình hình huy động và cho vay từ 2007 – 2009. 59

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 : Tình hình huy động vốn qua các năm 45
Biểu đồ 2.2 : Tốc độ tăng trưởng huy động vốn qua các năm. 46
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo nội tệ, ngoại tệ 2007-2009 47
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo đối tượng huy động 2007-2009. 49
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo kì hạn huy động 2007-2009. 51

DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức bộ máy NHT 34
Sơ đồ 2: Sơ đồ tổ chức bộ máy NHTMCPCTVN Chi nhánh Nam Thăng Long. 36





LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập phát triển và cạnh tranh toàn cầu hiện nay, đi đôi với
sự phát triển cũng đồng nghĩa với việc loại bỏ những cá thể yếu, không có khả năng
cạnh tranh đứng vững trên thị trường. Vậy để trở thành một cá thể mạnh, có khả
năng phát triển bền vững trên thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn cố gắng nỗ
lực xây dựng một doanh nghiệp với quy mô và trình độ quản lý tốt đạt hiệu quả
kinh doanh. Ngân hàng cũng là một nghành không nằm ngoài quy luật đó đặc biệt là
các NHTM với việc kinh doanh mang tính đặc thù là kinh doanh tiền tệ. Như vậy để
phát triển và kinh doanh tốt đòi hỏi ngân hàng luôn phải đảm bảo khối lượng tiền tệ
cho việc kinh doanh được thuận lợi.

Trong thời kì hiện nay, khi cơn khủng hoảng tài chính (xuất phát từ Mỹ và
ảnh hưởng tới toàn cầu) vừa đi qua đã để lại cho nền kinh tế những tác động xấu
ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Không chỉ các doanh nghiệp sản xuất hay kinh
doanh mà ngay cả các NHTM mạch máu của nền kinh tế cũng bị tác động ảnh
hưởng lớn. Do đó việc kinh doanh của các NHTM cũng gặp không ít khó khăn khi
khối lượng tín dụng thì lớn mà nguồn vốn ngân hàng có thể huy động chưa thực sự
đáp ứng được nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn duy trì phổ biến thói quen dùng tiền mặt cho
thấy được Việt Nam vẫn còn là tiềm năng cho sự phát triển của các ngân hàng, tuy
nhiên các ngân hàng luôn luôn lâm vào tình trạng thiếu vốn kinh doanh có thể thấy
được tầm quan trọng của vấn đề vốn. Đặc biệt NHTMCP Công Thương Việt Nam
cũng là một đơn vị luôn luôn muốn tăng cường nguồn vốn huy động để đảm bảo
cho hoạt động kinh doanh cũng như hoàn thành mục tiêu kế hoạch thu hút vốn được
giao. Chính vì lý do đó mà em đã chọn đề tài: “Tăng cường huy động vốn tại
NHTMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Nam Thăng Long” cho chuyên
đề thực tập cuối khóa của mình nhằm tìm hiểu sâu sắc hơn về vấn đề huy động vốn
cũng như tăng cường huy động vốn của các NHTM nói riêng và NHTMCPCTVN –


CN Nam Thăng Long đồng thời đóng góp một phần nhỏ về cái nhìn trực quan về
công tác huy động vốn cho chi nhánh.
Kết cấu đề tài gồm 3 phần:
Chương 1: Lý luận cơ bản về công tác huy động vốn của NHTM
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại NHTMCPCTVN–CN Nam
Thăng Long.
Chương 3: Một số biện pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn
tại NHTMCPCTVN – CN Nam Thăng Long.


Chương 1: Lý luận cơ bản về công tác huy động vốn của NHTM


1.1 Tổng quan về NHTM.
1.1.1. Khái quát về NHTM
1.1.1.1. Khái niệm về NHTM.
Có thể nói ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế. Nó như một lẽ tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của một
xã hội. Ngân hàng được hình thành và phát triển cùng với sự tiến bộ xã hội nói
chung và sự phát triển của nền kinh tế nói riêng. Ngân hàng đầu tiên được thành lập
năm 1782 với những hoạt động sơ khai, nhưng cùng với sự phát triển của xã hội đến
nay ngân hàng đã trở thành một hệ thống tài chính lớn và được coi như huyết mạch
của nền kinh tế. Có thể có rất nhiều những quan niệm khác nhau về ngân hàng
nhưng có thế hiểu ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một dịch vụ tài chính
đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế.
Có rất nhiều cách tổ chức và quản lý hệ thống ngân hàng, tùy thuộc vào trình
độ quản lý cũng như sự tiến bộ của từng xã hội. Ở Việt Nam thì hệ thống ngân hàng
được chia làm hai cấp. Bao gồm cấp 1 là Ngân hàng nhà nước và cấp 2 là các ngân
hàng thương mại. Ngân hàng nhà nước đóng vai trò như là ngân hàng của các ngân
hàng thương mại. Còn hệ thống các NHTM bao gồm các NHTM Quốc doanh,
NHTM cổ phần, ngân hàng tư nhân, với chức năng chính là trung gian tài chính và
thực hiện các dịch vụ ngân hàng. Có thể hiểu khái quát về ngân hàng thương mại
thông qua một số khái niệm về ngân hàng thương mại sau:
Tại Mỹ : Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp
các dịch vụ tài chính và hoạt động trong nghành công nghiệp dịch vụ tài chính.


Tại Pháp: ngân hàng thương mại là những doanh nghiệp hay cơ sở nào thường
xuyên nhận của công chúng dưới hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính
họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.

Ở Việt Nam hiện nay theo luật tổ chức tín dụng 12/12/1997 thì : “Ngân hàng
thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”. (Trong đó : tổ chức tín dụng là loại
hình doanh nghiệp được thành lập theo luật này và các quy định khác của pháp luật
liên quan để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận
tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán).
Như vậy thì ngân hàng thương mại theo quan niệm trên chỉ ra một cách rất chung
chung về ngân hàng thương mại nhưng chúng ta có thể hiểu rằng ngân hàng thương
mại là một tổ chức tín dụng nhưng nó được thực hiện thêm các nghiệp vụ mà một tổ
chức tín dụng không được thực hiện.
1.1.1.2. Các chức năng của của ngân hàng.
Trung gian tài chính.
Ngân hàng hoạt động chủ yếu là chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư, do đó đòi
hỏi phải có sự tiếp xúc với các tổ chức hay cá nhân trong nền kinh tế, những cá
nhân, tổ chức kinh tế có thể thừa vốn, họ không biết kinh doanh hay đầu tư vào đâu
và cả những cá nhân hay tổ chức kinh tế họ đang có nhu cầu đầu tư hay kinh doanh
vào đâu đó nhưng lại không có vốn. Vậy làm sao để cả các chủ thể thiếu vốn và các
chủ thể thừa vốn gặp nhau. Đây là một vấn đề lớn bởi chủ thể thừa vốn và thiếu vốn
có thể gặp nhau nhưng họ lại không thể đáp ứng tuyệt đối nhu cầu của nhau bởi tính
quy mô, không gian và thời gian, tính an toàn và tính sinh lời hợp lý,….Vì vậy ngân
hàng ra đời đóng vai trò là trung gian đáp ứng được nhu cầu cho các bên, bên chủ
thể thừa vốn thì có thể đáp ứng nhu cầu về mức sinh lời do cách quản lý khoa học
của ngân hàng sẽ làm giảm chi phí phát sinh nghiệp vụ, cũng như cam kết về tính an
toàn của số vốn mà chủ thể đã bỏ ra để đảm bảo yêu cầu, trong khi đó thì các chủ
thể thiếu vốn có thể tìm thấy nguồn vốn của mình đảm bảo về tính quy mô, tính sinh


lời của nguồn vốn. Do quản lý mang tính khoa học và chuyên môn hóa mà những trung
gian tài chính đã đáp ứng được nhu cầu cho chủ thể thừa vốn và chủ thể thiếu vốn về
mặt sinh lời của đồng vốn đã kích thích tiết kiệm và đầu tư, trung gian tài chính đã tập

hợp được vốn giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp.
Với vai trò là trung gian tài chính ngoài ra ngân hàng còn khỏa lấp được lỗ
hổng do sự không hoàn hảo của thị trường tài chính gây ra, khi các ngân hàng đứng
ra bảo lãnh cho các công ty cổ phần phát hành chứng khoán. Làm nhiệm vụ đưa
chứng khoán ra công chúng đầu tư với những thông tin cần thiết, tạo được sự tin
tưởng cho nhà đầu tư.
Ngoài ra ngân hàng còn là một tổ chức kinh doanh rủi ro, trong khi ngân hàng
nhận tiền gửi của khách hàng với một sự đảm bảo an toàn về số vốn mà họ có thể
nhận được trong tương lai nhưng ngân hàng lại đem cho vay với rủi ro khá cao để
nhận lại được tiền lãi trong tương lai và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, bằng
những nghiệp vụ chuyên môn hóa và được đào tạo bài bản, ngân hàng tìm kiếm
khách hàng phù hợp với mình sao cho đáp ứng được các điều kiện về rủi ro có thể
thu hồi vốn. Điều đó cũng chính là yếu tố làm cho ngân hàng ngày càng hoàn thiện
hơn và phát triển ngày càng rộng rãi hơn với chức năng thẩm định thông tin .
Tạo phương tiện thanh toán.
Nhờ đặc trưng đi vay và cho vay của ngân hàng mà ngân hàng đã tạo ra
phương tiện thanh toán.Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng như
hiện nay khách hàng hiểu rằng nếu họ có số dư trên tài khoản thanh toán thì họ có
thể chi trả để có được món hàng hóa hoặc dịch vụ theo yêu cầu. Do đó hiện nay
dịch vụ thanh toán qua ngân hàng với rất nhiều ưu điểm đang ngày càng phát triển
và trở nên phổ biến hơn. Theo quan điểm hiện đại thì đại lượng tiền tệ bao gồm
nhiều bộ phận. Thứ nhất đó là lượng tiền giấy, tiền xu trong lưu thông, thứ hai là số
dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng, và thứ ba là số dư tiền gửi trên
tài khoản tiết kiệm hoặc tài khoản tiền gửi có kì hạn của khách hàng,… Trong khi
đó nhu cầu thanh toán của khách hàng khá lớn do đó khách hàng cần phải đi vay


ngân hàng. Khi ngân hàng cho vay thì số dư trên tài khoản thanh toán của khách
hàng tăng lên. Do đó mà bằng việc cho vay hay nói cách khác là tạo tín dụng mà
ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán.

Thậm chí toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho
vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng dùng tiền vay để chi trả cho một khách hàng
khác thuộc một ngân hàng khác, từ đó tạo ra các khoản cho vay khác, cứ như thế
nên toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra lượng tiền gửi gấp bội thông qua hoạt
động cho vay. Do đó cần phải có sự điều tiết để kiểm soát tình trạng này, và chính
phủ các quốc gia đã sử dụng công cụ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ thanh toán tiền
mặt qua ngân hàng để khống chế và kiểm soát.
Trung gian thanh toán.
Ngân hàng thực hiện chức năng thanh toán hộ cho khách hàng. Ở hầu hết các
quốc gia hiện nay ngân hàng là một trung gian thanh toán phổ biến nhất, thay mặt
khách hàng của mình ngân hàng thực hiện thanh toán cho các hàng hóa và dịch vụ
theo yêu cầu của khách hàng. Để thuận tiện cho việc thanh toán ngân hàng đã
đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán phù hợp thuận tiện, phạm vi
thanh toán ngày càng phát triển tại các ngân hàng, không chỉ là trong cùng hệ
thống ngân hàng, mà còn trong cả nước với các ngân hàng trong nước và các
ngân hàng quốc tế.
1.1.1.3. Các hoạt động chủ yếu của NHTM.
Theo thời gian cùng với sự phát triển của xã hội, cùng với đòi hỏi khách quan
các hoạt động của ngân hàng ngày càng phong phú và đa dạng hơn.
Hoạt động huy động vốn.
Nhận tiền gửi:
Do nguồn vốn tự có của ngân hàng rất ít thường vào khoảng tầm 10% lượng
vốn kinh doanh do đó việc huy động vốn (huy động tiền gửi) là rất quan trọng. Và


một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của
khách hàng, ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng với cam kết là sẽ trả đủ cả gốc
và lãi cho khách hàng đúng thời gian giao ước. Trong môi trường cạnh tranh để tìm
và giành được các khoản tiền gửi các ngân hàng đã phải trả lãi cho các khoản tiền

gửi như là một phần thưởng cho khách hàng về việc đã sẵn sàng hy sinh nhu cầu
tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng tạm thời sử dụng số tiền đó để kinh
doanh. Số tiền đó ngân hàng sẽ đem cho vay lại để nhận được khoản lãi cao hơn,
phần chênh lệch về lãi là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng.
Phát hành các giấy tờ có giá.
Đây chính là việc các NHTM phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu
ngân hàng, trái phiếu ngân hàng,… gọi chung là các giấy tờ có giá để huy động vốn.
Thực chất của các giấy tờ có giá là các giấy nhận nợ mà ngân hàng trao cho những
người cho ngân hàng vay tiền để xác định quyền đòi nợ của khách hàng đối với
ngân hàng ở một mức lãi suất và ngày trả nhất định. Đặc điểm của nguồn huy động
này là tính ổn định cao, gần như tuyệt đối bởi khách hàng không thể tự ý trả lại giấy
tờ cho ngân hàng mà tuyệt đối thực hiện cam kết đến hạn trả. Trong hình thức này,
ngân hàng chủ động đứng ra thu gom vốn trong nền kinh tế bằng việc phát hành các
giấy tờ có giá. Việc huy động vốn chỉ được thực hiện sau khi đã tiến hành lên cân
đối toàn bộ hệ thống ngân hàng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Khi khả năng
nguồn vốn của toàn hệ thống không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng vốn của toàn hệ
thống, nếu được NHNN chấp nhận thì các NHTM mới được phép phát hành giấy tờ
có giá để huy động vốn
Hoạt động sử dụng vốn.
Cho vay:
Hoạt động cho vay là hình thức các ngân hàng cho khách hàng mượn tạm một
số tiền và khách hàng cam kết sẽ trả gốc và lãi cho ngân hàng theo thỏa thuận của
hai bên, khoản lãi nhận được sẽ được trang trải cho các khoản chi phí phải bỏ ra để


có được khoản tiền mà ngân hàng đưa cho khách hàng vay. Hoạt động cho vay là
hoạt động chính của các ngân hàng thương mại.
Tài trợ cho dự án:
Ngoài việc cho vay thì các ngân hàng còn sử dụng tài sản của mình bằng cách
trực tiếp đầu tư vào các dự án như tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển nghành công

nghệ cao. Thậm chí hiện nay còn có nhiều ngân hàng đầu tư vào lĩnh vực bất động sản.
Tài trợ hoạt động của chính phủ:
Việc có thể huy động và cho vay với khối lượng vốn lớn của ngân hàng đã
khiến chính phủ phải quan tâm chú ý do nhu cầu chi tiêu lớn và cấp bách trong khi
thu không đủ bù chi. Các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân
hàng, hiện nay thì hầu hết ở các quốc gia thì chính phủ giành quyền cấp phép hoạt
động và kiểm soát các ngân hàng do đó để thành lập hoạt động kinh doanh thì các
ngân hàng phải cam kết là sẽ thực hiện một số chính sách của chính phủ như mua
một tỷ lệ trái phiếu nhất định cho chính phủ thường là một tỷ lệ nhất định trên tổng
lượng tiền gửi nhất định mà ngân hàng huy động được.
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (cho thuê tài chính):
Nhằm để đảm bảo được các khoản tín dụng hợp lý các ngân hàng đã phát triển
hoạt động cho thuê thiết bị trung và dài hạn, vừa giúp cho ngân hàng có thể thu lời,
vừa đảm bảo đáp ững nhu cầu doanh nghiệp và đảm bảo được tính hợp lý của tín
dụng. Bởi vậy khách hàng thuê của ngân hàng nhưng với điều kiện là phải trả 70%
đến 100% giá trị của tài sản đó, và khi kết thúc hợp đồng doanh nghiệp có thể mua
lại máy móc thiết bị đó từ phía ngân hàng nếu có điều kiện và thường là với mức
giá ưu đãi hơn.
Hoạt động khác.
Mua bán ngoại tệ:
Đây là hoạt động ngân hàng mua ngoại tệ bằng ngoại tệ khác nhằm ăn chênh
lệch giá. Đây là một trong những nghiệp vụ đầu tiên ngân hàng được thực hiện.


Hoạt động này ngày càng được mở rộng và hiện đại hơn bới các công cụ mới (công
cụ phái sinh).
Bảo quản tài sản hộ:
Là việc các ngân hàng thực hiện lưu trữ và bảo vệ các vật có giá trị như vàng,
giấy tờ có giá,… và các tài sản khác cho khách hàng trong két để đảm bảo an toàn,
bí mật, thuận tiện. trong đó khách hàng phải trả các khoản phí cho ngân hàng để

đảm bảo cho dịch vụ. Từ đó cũng phát sinh nhiều những nghiệp vụ như mua bán hộ
cho khách các giấy tờ có giá, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ cho khách,…
Cung cấp các tài khoản giao dich và thực hiện thanh toán.
Không chỉ có các tài khoản tiền gửi, mà ngân hàng còn mở các tài khoản thanh
toán cho khách hàng thực hiện thanh toán hộ các hàng hóa dịch vụ theo yêu cầu của
khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền
mặt, có nghĩa là khách hàng không cần phải đến ngân hàng rút tiền ra để mang đi
chi trả cho đối tác mà khách hàng chỉ cần đến ngân hàng viết giấy thông báo cho
ngân hàng là sẽ thanh toán số tiền cho đối tác này hoặc khách hàng có thể viết giấy
cho đối tác của họ để họ mang giấy tới ngân hàng nhận tiền. Các tiện ích của không
dùng tiền mặt đã và đang là ưu thế và là xu hướng của các quốc gia đang phát triển
mà có thói quen dùng tiền mặt được. Đặc biệt khi ngân hàng mở rộng mạng lưới chi
nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân hàng càng được mở rộng, càng tạo được nhiều
tiện ích hơn, điều này đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân
hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin mà hiện nay có rất
nhiều hình thức thanh toán tiện ích và thích hợp với mọi đối tượng khách hàng.
Quản lý ngân quỹ:
Nhờ tính chuyên môn hóa trong quản lý ngân quỹ mà ngân hàng còn mở thêm
dịch vụ quản lý ngân quỹ cho các khách hàng có mối liên hệ với ngân hàng, do nhu
cầu thanh toán lớn tại các doanh nghiệp mà các doanh nghiệp thường có tài khoản
thanh toán tại ngân hàng và gửi tiền mặt vào đó, trong thời gian chưa thanh toán tài
khoản của doanh nghiệp còn thặng dư quỹ tiền mặt ngân hàng sẽ thực hiện kinh


doanh các chứng khoán, giấy tờ có giá ngắn hạn sinh lời cho khách hàng cho đến
khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Bảo lãnh:
Là việc ngân hàng dùng uy tín của mình để đảm bảo cho khách hàng thực hiện
được yêu cầu của mình như bảo lãnh mua chịu hàng hóa, trang thiết bị, phát hành
chứng khoán, vay vốn,… và khách hàng được bảo lãnh phải trả cho ngân hàng một

khoản phí gọi là phí bảo lãnh. Trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh ngày
càng phát triển và được chú trọng hơn bởi phí bảo lãnh khá lớn và nhu cầu bảo lãnh
cũng ngày càng tăng lên, đây là một nguồn thu lớn cho ngân hàng.
Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn:
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính nên các ngân hàng có rất nhiều những
chuyên gia về quản lý tài chính, do đó phát sinh nhiều doanh nghiệp muốn nhờ ngân
hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác còn phát
triển sang cả ủy thác vay hộ, ủy thác cho vay, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư,…
Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán:
Các ngân hàng luôn nỗ lực hết mình cung cấp đầy đủ các dịch vụ để thỏa mãn
mọi nhu cầu của khách hàng, đó chính là lý do khiến các ngân hàng bắt đầu bán các
dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu,
trái phiếu và các chứng khoán khác, trong nhiều trường hợp các ngân hàng tổ
chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp
dịch vụ môi giới.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm:
Từ nhiều năm nay các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, dịch vụ
bảo hiểm chính là việc đảm bảo hoàn trả trong trường hợp khách hàng xảy ra rủi ro
mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh liên kết với các công ty bảo hiểm
để đảm bảo thực hiện nghiệp vụ này một cách chuyên nghiệp.



Cung cấp các dịch vụ đại lý:
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc
văn phòng ở khắp nơi, nhiều ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các
ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân
hàng đầu mối cho trong đồng tài trợ,…
1.1.2. Nguồn vốn của NHTM.
1.1.2.1. Vốn chủ sở hữu:

Nguồn vốn hình thành ban đầu:
Phải tùy vào tính chất của từng ngân hàng mà nguồn vốn ban đầu được hình
thành khác nhau, với ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước thì vốn hình thành ban đầu
là do ngân sách nhà nước cấp, còn nếu là ngân hàng cổ phần thì vốn ban đầu là do
các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiêu, nếu là ngân hàng liên
doanh là do các bên liên doanh tự đóng góp, nếu là ngân hàng tư nhân thì vốn thuộc
sở hữu tư nhân bỏ ra.
Nguồn bổ sung trong quá trình hoạt động.
Trong quá trình hoạt động của mình ngân hàng có thể gia tăng nguồn vốn theo
nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể:
Nguồn từ lợi nhuận: Đây thường là nguồn bổ sung chủ yếu của ngân hàng
bởi lợi nhuận ròng của ngân hàng thường khá lớn, và chủ ngân hàng có xu hướng
gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư và
tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng.
Những ngân hàng được thành lập lâu năm, thu nhập ròng lớn thì nguồn vốn tích lũy
từ lợi nhuận sẽ cao hơn nguồn vốn của chủ hình thành ban đầu.
Nguồn bổ sung khác: bao gồm phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp
thêm,… để mở rộng quy mô hoạt động hoặc để đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp
ứng yêu cầu do NHNN yêu cầu. Tuy nguồn vốn này là không thường xuyên nhưng
nó giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu vào lúc cần thiết.


Các quỹ
Ngân hàng có nhiều quỹ khác nhau và mỗi quỹ lại có mục đích sử dụng khác
nhau. Quỹ dự phòng tổn thất là quỹ được trích lập hàng năm và được tích lũy lại
nhằm bù đắp tổn thất xảy ra. Quỹ bảo tồn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới
tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và
chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hàng cổ phiếu mới,… Tùy
theo quy định của từng quốc gia mà các ngân hàng hình thành các quỹ khác nhau.
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần

Một số khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại ( như trái phiếu
chuyển đổi) được ngân hàng quy định có thể chuyển đổi thành vốn cổ phần. Đây là
khoản nợ lưỡng tính do đó mà các ngân hàng nhiều quốc gia xếp chúng vào vốn chủ
sở hữu loại 2 với tỷ lệ 50 % để tính chỉ số an toàn vốn của chủ.
1.1.2.2. Nguồn vốn huy động.
Đây là nguồn huy động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một
ngân hàng bắt đầu đi vào hoạt động, việc đầu tiên là phải mở các tài khoản tiền gửi
để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng. Bằng cách đó mà ngân hàng huy động
được tiền gửi của các cá nhân và các tổ chức. Đây cũng là nguồn tiền chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng , để huy động được nguồn vốn này lớn các
ngân hàng cạnh tranh nhau bằng nhiều hình thức khác nhau với các sản phẩm tiền
gửi khác nhau.
Tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Đây là khoản tiền mà các cá nhân hoặc doanh nghiệp gửi vào ngân hàng nhờ
ngân hàng thanh toán hộ, trong phạm vi số dư cho phép và các điều kiện thỏa đáng
thì các yêu cầu của khách hàng luôn được ngân hàng thực hiện, và các khoản thu
của doanh nghiệp và các cá nhân đều có thể được nhập vào đầy đủ trong tài khoản
thanh toán của khách hàng theo yêu cầu. Loại tiền gửi tiết kiệm này có lãi suất
thấp, gần như là bằng không tuy nhiên khách hàng lại được hưởng những dịch vụ
thanh toán với khoản phí rất thấp và chất lượng phục vụ cao. Do lượng tiền thanh


toán nhiều và thời gian có thể chưa phải thanh toán ngay do đó nguồn huy động này
cũng đang là một nguồn quan trọng và các ngân hàng cũng đưa luôn đưa ra các hình
thức khuyến mại để huy dộng lượng tiền này.
Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội.
Nhiều doanh nghiệp có những khoản thu mà chưa cần thanh toán ngay trong
khi đó lãi suất tiền gửi thanh toán ngay lại quá thấp nên các doanh nghiệp thường
lựa chọn hình thức gửi tiền có kì hạn để hưởng mức lãi suất cao hơn, tuy nhiên đồng
nghĩa với mức lãi suất cao thì số tiền đó cũng không được sử dụng trong thời gian

cam kết của khách hàng với ngân hàng, nếu như khách hàng muốn sử dụng thì phải
đến ngân hàng yêu cầu sử dụng khoản tiền đó và chịu mức lãi suất không kì hạn.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư:
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập mà họ tạm thời chưa dùng đến
và họ rất muốn có được sự an toàn vầ đảm bảo khả năng sinh lời, do đó họ mang
đến ngân hàng và gửi. Đó là một nguồn vốn không nhỏ trong dân cư, và các ngân
hàng luôn muốn khuyến khích dân chúng không dùng tiền mặt nên các ngân hàng
đã mở ra các tài khoản không chỉ là các tài khoản tiền gửi thông thường mà còn bao
gồm các tài khoản tiền gửi ngoại tệ, tài khoản vàng,…. Và ngân hàng có thể mở cho
khách hàng các tài khoản (sổ tiết kiệm) với các thời hạn khác nhau. Những sổ tiết
kiệm này khách hàng không thể thanh toán hàng hóa được, tuy nhiên thì sổ tiết
kiệm này được phép thế chấp và vay vốn cho ngân hàng.
1.1.2.3. Nguồn đi vay.
Tiền gửi luôn là một nguồn quan trọng của ngân hàng, tuy nhiên nó không
phải lúc nào cũng đáp ứng nhu cầu những khi ngân hàng cần vốn cấp bách. Khi đó
ngân hàng phải tìm đến một giải pháp đó là đi vay đặc biệt là để đảm bảo nhu cầu
thanh toán.
Vay Ngân hàng nhà nước.
Ở Việt Nam thì các ngân hàng thương mại để đáp ứng nhu cầu chi trả thanh
toán cho khách hàng thì ngân hàng cần phỉ đi vay, đầu tiên là ngân hàng sẽ đi vay
NHNN hay còn gọi là ngân hàng trung ương và ngân hàng trung ương sẽ cho ngân


hàng thương mại vay theo hình thức tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương
phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành
tài sản của họ. Khi cần NHTM mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại
NHNN. Nghiệp vụ này sẽ làm cho thương phiếu của NHTM giảm đi đồng thời dự
trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi trong NHNN) tăng lên. NHNN điều hành vay mượn này
một cách rất chặt chẽ, các NHTM phải đảm bảo thực hiện một số điều kiện đảm bảo
và kiểm soát nhất định. Thông thường thì NHNN chỉ tái chiết khấu cho những

thương phiếu đảm bảo chất lượng (có khả năng trả nợ cao, thời gian đáo hạn ngắn
và khả năng trả nợ cao) và đảm bảo phù hợp với mục tiêu của ngân hàng trong từng
thời kì. Trong điều kiện NHTM chưa có thương phiếu thì NHNN sẽ cho các
NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng theo quy định.
Vay các tổ chức tín dụng khác.
Khi các NHTM không đủ thỏa mãn để vay tiền của NHNN nữa thì họ có thể
vay tiền của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Trong khi đó
có một số ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về
các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng
khác vay để tìm kiếm mức lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng đang có lượng
dự trữ bị thiếu hụt có nhu cầu vay để đảm bảo thanh toán. Do đó nguồn vay mượn
từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ cấp bách và trong nhiều trường
hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ NHNN. Việc vay mượn trong
thị trường liên ngân hàng rất đơn giản, chỉ cần ngân hàng có yêu cầu vay mượn gọi
điện hoặc liên lạc trực tiếp cho ngân hàng cho vay. Và khoản vay không cần đảm bảo
hoặc cũng có thể được đảm bảo bởi các chứng khoán kho bạc. Nghiệp vụ này sẽ làm
cho dự trữ của ngân hàng đi vay tăng lên và dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi.
Vay trên thị trường vốn.
Cũng như các doanh nghiệp, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát
hành các giấy tờ nợ như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu trên thị trường vốn. Nhiều
khi khoản tiền gửi trung và dài hạn không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và


dài hạn. Do vậy các khoản đi vay bằng việc phát hành các giấy từ có giá này là một
khoản đáp ứng nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Thông thường đây là những khoản
tiền vay không có đảm bảo do đó ngân hàng nào lớn có uy tín và lãi suất càng cao
thì sẽ càng vay được nhiều hơn các ngân hàng khác. Còn những ngân hàng nhỏ
không có khả năng vay vốn được trên thị trường này thì phải vay thông qua các
ngân hàng đại lý hoặc thông qua các sự bảo lãnh của các ngân hàng lớn. Để vay
được nguồn vốn này một cách có hiệu quả thì các ngân hàng này cũng cần phải

nghiên cứu kỹ về nghiệp vụ, số lượng phát hành, mệnh giá và mức lãi suất như thế
nào cho phù hợp, rồi khả năng chuyển đổi của các công cụ nợ. Đòi hỏi sự chuyên
nghiệp và chuyên sâu trong thị trường này.
1.1.3. Các hình thức huy động vốn.
1.1.3.1. Huy động vốn thông qua tiền gửi thanh toán.
Như đã được xem xét ở trên về hình thức huy động vốn thông qua tiền gửi
thanh toán của khách hàng. Đây là một nguồn chiếm khối lượng lớn do việc giao
dịch liên tục của nền kinh tế. Các chủ tài khoản họ mở tài khoản thanh toán nhưng
không phải tiền trong tài khoản phải chuyển đi ngay mà thường để trong tài khoản
một thời gian ngắn không xác định do đó những khoản tiền gửi thanh toán cũng sẽ
giúp cho ngân hàng có được một nguồn lớn giải quyết được cho vay ngắn hạn và
đảm bảo được tính thanh khoản và đặc biệt chi phí huy động của khoản tiền này có
chi phí thấp.
1.1.3.2. Huy động vốn thông qua tiền gửi có kì hạn.
Nguồn này có thời gian ổn định hơn tuy nhiên chi phí huy động của nguồn
vốn này là rất cao do đó đòi hỏi cần phải sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả. Tiền
gửi huy động có kì hạn thường xuất phát từ nguồn tiền gửi của dân chúng và một
phần từ các tổ chức kinh tế, nó cũng là nguồn vốn chủ yếu mà ngân hàng muốn huy
động bởi tính đảm bảo về mặt thời gian. Và cũng là nguồn chính đảm bảo cho khả
năng hoạt động của ngân hàng như cho vay trung và dài hạn.



1.1.3.3. Huy động thông qua tiền gửi tiết kiệm.
Cũng như tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm cũng đóng một vai trò vô
cùng quan trọng cho ngân hàng, tuy tiền gửi tiết kiệm thường có thời gian gửi tiền
lâu dài và ổn định hơn tiền gửi thanh toán nhưng khách hàng cũng có thể rút ra bất
cứ khi nào muốn khi khách hàng có nhu cầu. Do đó nguồn tiền gửi tiết kiệm cũng
có thể mang lại rủi ro cho ngân hàng.
1.1.3.4. Huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá.

Hình thức huy động vốn thông qua phát hành các giấy tờ có giá sẽ giúp cho
ngân hàng có được nguồn vốn lớn, là một hình thức huy động có nhiều ưu điểm
nhưng cũng rất khó khăn. Bởi nguồn này sẽ gần như không có biết động về mặt thời
gian, tuy nhiên rất khó khăn trong việc huy động do phải là những ngân hàng có tên
tuổi mới có ưu thế phát hành và chi phí cho nguồn huy động này cũng không nhỏ.
1.1.4. Sự cần thiết của việc huy động vốn.
Vốn là điều kiện để thành lập, tổ chức hoạt động kinh doanh: với bất kì một
loại hình kinh doanh nào vốn luôn là điều kiện tiên quyết để duy trì hoạt động kinh
doanh. Vốn phản ánh năng lực cũng như quyết định khả năng phát triển của doanh
nghiệp
Với ngân hàng, vốn không chỉ mang tầm quan trọng như với các doanh
nghiệp bình thường mà nó còn là cơ sở, là nền tảng để hình thành tổ chức mọi hoạt
động kinh doanh. Với đặc trưng là kinh doanh hàng hóa trên thị trường tài chính
tiền tệ thì vốn không đơn thuần là kinh doanh mà nó còn là đối tượng kinh doanh
trực tiếp của NHTM, trực tiếp tác động đến quy mô hoạt động của ngân hàng. Ngân
hàng có vốn lớn sẽ có thế mạnh trong kinh doanh, ngân hàng có ít vốn thì sẽ gặp
khó khăn trong khi tiến hành kinh doanh. Muốn hoạt động kinh doanh của ngân
hàng ngày càng phát triển thì NHTM cần liên tục bổ sung, tăng trưởng vốn, thu hút
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư và các thành phần kinh tế.


Vốn đảm bảo khả năng thanh toán và uy tín của ngân hàng: Hoạt động kinh
doanh của ngân hàng liên quan đến toàn bộ nền kinh tế. Khả năng thanh toán đóng
vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán cao
đồng nghĩa với uy tín cao và ngược lại. Vốn tạo niềm tin cho dân chúng về khả
năng thanh toán của ngân hàng, do đó ngân hàng cần có lượng vốn đủ mạnh để đáp
ứng nhu cầu khách hàng. Nếu như lượng vốn của ngân hàng không đủ mạnh để đáp
ứng nhu cầu khách hàng ngay lập tức sẽ dẫn tới việc rút tiền ồ ạt của khách hàng có
thể gây hậu quả nghiêm trọng dẫn tới phá sản.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng để có uy tín là yếu tố quan trọng,

quyết định đến sự sống còn của ngân hàng, uy tín của ngân hàng trong kinh doanh
được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng hay khả
năng tín dụng nói chung.
Đảm bảo khả năng cạnh tranh: Vốn đầu tư của ngân hàng sẽ quyết định quy
mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng. Vốn quyết định đến
việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng, thông thường so với những ngân
hàng lớn thì những ngân hàng nhỏ thường có những khoản mục đầu tư kém đa
dạng, khối lượng và phạm vi tín dụng nhỏ. Trong khi các ngân hàng lớn có nhiều
vốn đầu tư cho vay được cả trong và ngoài nước thì những ngân hàng nhỏ thiếu vốn
nên quy mô cho vay nhỏ hẹp, thêm vào đó khả năng huy động vốn hạn hẹp không
phản ứng nhạy bén với những biến động về lãi suất gây ảnh hưởng đến khả năng
thu hút vốn từ các thành phần kinh tế và dân cư. Do đó những ngân hàng nhỏ
thường bỏ lỡ những cơ hội đầu tư vào những dự án lớn có thời gian dài hạn.
Ngoài ra vốn lớn còn giúp cho ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh
doanh đa dạng trên thị trường, mở rộng lĩnh vực kinh doanh: kinh doanh chứng
khoán, cho thuê tài chính,… chứ không chỉ dừng lại ở những hoạt động dịch vụ
ngân hàng truyền thống. Và chính hình thức kinh doanh đa dạng này góp phần phân
tán giảm thiểu rủi ro và tăng sức cạnh tranh cho NHTM trên thị trường.


Vậy chúng ta có thể thấy được vốn là rất quan trọng đối với NHTM, chính vì
thế hoạt động huy động vốn là hoạt động rất cần thiết đối với ngân hàng và luôn
luôn được ưu tiên hàng đầu. Hoạt động huy động vốn có hiệu quả sẽ giúp ngân
hàng mở rộng được quy mô, đa dạng hóa sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, nâng cao
uy tín trên thị trường.
1.2. Tăng cường huy động vốn tại NHTM.
1.2.1. Quan niệm về tăng cường huy động vốn.
Công tác huy động vốn của ngân hàng luôn là yếu tố quan trọng và thiết yếu
của ngân hàng như chúng ta đã được biết. Tuy nhiên với vai trò quan trọng như thế
thì bất kì một ngân hàng nào cũng muốn đẩy mạnh công tác huy động vốn bởi

không chỉ quan trọng mà trong thời gian hiện nay nhu cầu tín dụng của nền kinh tế
luôn lớn hơn khả năng cung ứng từ phía các ngân hàng thương mại do đó để các
hoạt động huy động vốn bất cứ một ngân hàng nào cũng cần đẩy mạnh công tác huy
động vốn của mình để đạt được mục tiêu kinh doanh và lợi nhuận. Vậy để tăng
cường hoạt động huy động vốn của ngân hàng thì chúng ta cần phải hiểu thế nào là
tăng cường huy động vốn.
Khái niệm tăng cường có nhiều quan điểm khác nhau. Có nhiều quan điểm
cho rằng tăng cường đồng nghĩa với việc huy động được càng nhiều vốn càng tốt,
tức là nguồn vốn đó chỉ xem xét đến tính quy mô mà chưa xem xét đến tính hợp lý
của nó và bất kể nguồn vốn đó như thế nào, nhưng lại cũng có quan điểm lại cho
rằng tăng cường huy động vốn lại phải huy động được nguồn vốn với lãi suất hợp lý
mà chưa tính đến yếu tố quy mô của nguồn vốn.
Vậy thế nào là tăng cường huy động vốn tại ngân hàng thương mại?
Tăng cường công tác huy động vốn của ngân hàng phải đem lại mục tiêu là
lợi nhuận lớn nhất và bền vững cho ngân hàng ứng với khả năng mà ngân hàng có
thể đạt được. Vậy đi liền với mục tiêu đó là:


- Nguồn vốn huy động phải có quy mô lớn nhất mà ngân hàng có thể huy
động và sử dụng được.
- Nguồn vốn phải có chi phí hợp lý, đảm bảo được khả năng duy trì và lợi
nhuận cho ngân hàng.
- Tài sản được hình thành từ nguồn vốn đó phải đảm bảo được sử dụng hợp lý
( có tính tương thích) tránh được những rủi ro cho ngân hàng đặc biệt là rủi ro trong
tính thanh khoản và rủi ro trong tín dụng cho ngân hàng.
Vậy một ngân hàng thực sự đẩy mạnh tăng cường công tác huy động vốn
hiệu quả thì cần phải đạt được các yếu tố trên.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh tăng cường huy động vốn.
1.2.2.1. Quy mô, cơ cấu nguồn huy động và tốc độ tăng trưởng.
Về quy mô.

Quy mô nguồn vốn huy động là một trong số những yếu tố dùng để đánh giá
hoạt động huy động vốn của ngân hàng, nếu như một ngân hàng được đánh giá là
một ngân hàng lớn hay không phụ thuộc vào nguồn vốn kinh doanh của nó, mà
trong khi đó nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thực tế lại toàn phụ thuộc vào
hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Do đó ngân hàng nếu như huy động được
một khối lượng vốn lớn thì chắc chẳn nó sẽ giúp cho ngân hàng đảm bảo được khả
năng kinh doanh cũng như đảm bảo được khả năng tín dụng của ngân hàng.
Quy mô nguồn huy động của ngân hàng có thể được phản ánh thông qua việc
thực hiện được quy mô vốn huy động năm sau cao hơn năm trước:
Khối lượng vốn huy động năm t+1>khối lượng vốn huy động năm t
và thực hiện tốt chỉ tiêu được giao:
Khối lượng vốn huy động thực tế > Khối lượng vốn được giao
Về tốc độ tăng trưởng.

×