Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Có thể "học" được tinh thần kinh doanh? pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.7 KB, 5 trang )

1

Có thể "học" được tinh thần kinh doanh?


Một học giả Mỹ, Tiến sĩ Ron Whittaker, từng viết: "Sáng tạo là cái
không thể học được, nhưng bạn có thể học một số quy tắc để làm cho óc
sáng tạo của bạn nảy nở".

Tương tự, tinh thần kinh doanh dường như là phẩm chất "trời cho" một số
dân tộc trên thế giới, nhưng người Việt cũng có thể học một số quy tắc để
tinh thần kinh doanh của chúng ta phát triển.

Ở một diễn đàn trên mạng trao đổi về người Do Thái, hồi tháng 3, một bạn
trẻ Việt Nam đã đặt câu hỏi: "Người Việt cũng giống Do Thái ở một số điểm
như khôn ngoan, chăm chỉ kiếm tiền, sống ở nhiều nơi trên thế giới v.v
Nhưng về khả năng làm ăn khuynh đảo cả thế giới thì khoảng cách còn rất
xa. Vì sao người Do Thái giỏi thế nhỉ?".
Quả thật, trong danh sách những nhà kinh tế được giải Nobel Kinh tế học,
người gốc Do Thái chiếm hơn một phần ba, với những tên tuổi nổi tiếng
toàn thế giới như Milton Friedman, Paul Samuelson, Joseph Stiglitz (đã từng
sang Việt Nam)…
Người Do Thái được coi như những nhà buôn tài ba. Họ chiếm vị trí thống
trị về kinh tế ở Mỹ - nền kinh tế lớn nhất thế giới. Người Hoa cũng vậy, luôn
có những doanh nhân gốc Hoa giàu có ở bất kỳ một nước châu Á nào, từ Ấn
Độ cho tới Singapore và Việt Nam.
Người ta cho rằng, sở dĩ như thế là vì các dân tộc Do Thái, Ảrập, Trung Hoa
có tinh thần kinh doanh bẩm sinh. Nghe trừu tượng, nhưng tinh thần kinh
doanh bắt đầu và phát triển với những biểu hiện hết sức cụ thể, như tâm lý
thích độc lập, tự do (mà yêu tự do là tiền đề của xu hướng ham sáng tạo,
nghĩ ra cái mới); không coi tiền là cái gì nhạy cảm và khó nói, thậm chí thích


kiếm tiền và tiêu tiền một cách xứng đáng; không sợ mạo hiểm.
Tương lai đất nước gắn với tinh thần kinh doanh
2

Arthur Rock, một trong những doanh nhân đi tiên phong trong lĩnh vực đầu
tư ở Mỹ, từng phát biểu: "Tương lai của đất nước này (Mỹ) gắn chặt với các
doanh nghiệp mới". Từ "venture" - doanh nghiệp - mà ông dùng cũng có
nghĩa là "mạo hiểm". Suy rộng ra, điều Arthur Rock muốn nói là: Sự phát
triển của một quốc gia phụ thuộc vào tinh thần dám làm, dám mạo hiểm,
dám kinh doanh của người dân quốc gia đó. Nói cách khác, nó phụ thuộc
vào tinh thần kinh doanh của cả một dân tộc.
Arthur Rock tốt nghiệp thạc sĩ kinh tế tại Trường
Kinh doanh Harvard năm 1951. Ông là người đã
thực hiện hàng chục dự án đầu tư hàng triệu
USD vào các công ty ở thung lũng Silicon, trong
đó có những công ty lớn như Intel, Apple, góp
phần không nhỏ vào sự phát triển của nền công
nghệ cao nước Mỹ.
Nói về ông, người ta đánh giá Arthur Rock là
"một người có khả năng phán đoán kỳ tài, chỉ
cần một thoáng quan sát, Arthur Rock có thể
ngay lập tức phân tích rõ ràng khả năng đầu tư
vào một doanh nghiệp, kể cả một doanh nghiệp
mới được thành lập". Có thể mô tả ngắn gọn:
Ông là một nhà đầu tư chuyên nghiệp, một con
người tràn ngập tinh thần kinh doanh.
Trong cuốn Shaping the Waves, viết về những
doanh nhân thành đạt từng tốt nghiệp Trường
Kinh doanh Harvard, tác giả Jeffrey L.
Cruikshank viết: "Staples, Starbuck, Intel,

Amazon đều là những công ty lớn, những tấm gương mẫu mực về thành
công trong kinh doanh. Nhìn vào thành công của họ ngày nay, mấy ai tin
rằng những ý tưởng xoay chuyển thế giới của họ đều có thể xuất phát từ
những giấc mơ hình thành trong garage ôtô hoặc một nhà hầm nào đó".
"Những người đã dám ước mơ và thực hiện thành công ước mơ đó, về căn
bản, là các cá nhân rất khác biệt. Khi nghiên cứu về họ, người ta thấy rằng
họ không có nhiều điểm chung, ví dụ không phải ai cũng mồ côi cha mẹ, nhà
nghèo, là con đầu lòng, hay là đứa con út được cả gia đình cưng chiều Họ
chỉ có một điểm chung: tinh thần kinh doanh".

Arthur Rock - nhà đầu tư
nổi tiếng - từng tặng 25
triệu USD cho trường cũ
(Trường Kinh doanh
Harvard) đ
ể xây dựng một
trung tâm nghiên cứu đầu
tư. (Ảnh lấy từ Interent)
3

Người Việt và tinh thần kinh doanh
Trở lại câu hỏi tại sao người Việt cũng giống người Do Thái ở nhiều điểm
mà về khả năng làm ăn buôn bán thì khoảng cách còn quá xa, một trong các
câu trả lời có lẽ sẽ là: Vì tinh thần kinh doanh ở người Việt ta còn thấp.
Ngay từ trong lịch sử, chịu ảnh hưởng của đạo Khổng, người Việt đã xếp
"thương" ở dưới cùng trong các thứ bậc xã hội: sĩ – nông – công – thương.
Ngôn ngữ - tấm gương phản ánh tâm lý dân tộc - cũng cho thấy một thái độ
kỳ thị nặng nề với doanh nhân khi chúng ta dùng những từ "con buôn",
"hàng tôm hàng cá", "tư thương"… để nói về họ. (Thời nay, danh sách này
được bổ sung thêm từ "đại gia", để chỉ những người giàu sang và có thế lực,

tuy vậy vẫn hàm ý tiêu cực).
Trải qua nhiều thế hệ, ước mơ của nhiều thanh niên Việt Nam khi bước vào
đời vẫn là trở thành bác sĩ, kỹ sư (bây giờ thì thêm mơ ước làm ca sĩ, diễn
viên nổi tiếng).
Suy cho cùng, đó là tâm lý làm công ăn lương (cho Nhà nước hoặc cho một
tổ chức/ cá nhân nào đó) chứ không phải mong muốn mở ra một sự nghiệp
độc lập, mình làm chủ mình. Đây chính là triệu chứng của căn bệnh thiếu
tinh thần kinh doanh, từ lâu đã là bệnh mãn tính của người Việt.

Trường Kinh doanh Harvard (Harvard Business
School). (Ảnh lấy từ Internet)
Để chữa bệnh này, một trong những phương thuốc khả dĩ là giáo dục, áp
dụng ngay từ khi người ta còn nhỏ. Với trẻ em, đó có thể là sự khuyến khích
4

các em làm quen với tiền và các trò chơi sáng tạo. Và một nền giáo dục theo
hướng phát triển những gì "tâm lý Việt Nam" còn thiếu: dám nghĩ, dám làm,
dám mạo hiểm, không sợ bị chê cười đả kích v.v.
Các du học sinh người Việt ở Trường Kinh doanh Harvard, khi nói về thời
gian học tập tại đây, đều khẳng định: Được dạy và học theo phương pháp
ấy, sinh viên không muốn độc lập suy nghĩ cũng không được.

Một trong những môn học được chú ý là Learning Style, nghĩa là "cách
học". Trong đó, giảng viên trò chuyện với sinh viên, cảm nhận được trình
độ, tính cách của mỗi người, rồi đưa ra những cách học hiệu quả nhất cho
từng cá nhân. Đây là môn học được rất nhiều sinh viên ưa thích, bởi qua mỗi
tiết học, họ lại có thể hiểu rõ hơn về bản thân mình.

Cũng nhờ vậy, sinh viên HBS có khả năng tự học rất tốt. Họ luôn phải tự
đọc tài liệu, tự tìm hiểu vấn đề, sau đó phải thảo luận, trình bày và bảo vệ

quan điểm trước mọi người.

Người học được khuyến khích có chính kiến riêng và được tự do thể hiện,
nói một cách đơn giản là "có sai cũng không sợ". Giáo viên chỉ được coi là
những "đồng nghiệp lớn tuổi" chứ không phải người kiểm soát suy nghĩ của
sinh viên.

Quan trọng hơn, giáo viên là người truyền lửa, truyền cảm hứng cho sinh
viên. Có lẽ vì thế mà các sinh viên Việt Nam du học, khi trở về nước, dường
như luôn mang một lòng nhiệt tình cháy bỏng, muốn "làm điều gì đó", muốn
áp dụng ngay những kiến thức và kinh nghiệm mình thu được vào việc thay
đổi tình hình ở Việt Nam.

Không phải lòng nhiệt tình và mong mỏi của tất cả các du học sinh đó đều
được thỏa mãn. Cũng không phải sự mạnh dạn và quyết tâm của một cộng
đồng nhỏ có thể làm thay đổi nếp nghĩ của cả một dân tộc. Nhưng ít ra đó
cũng là những mầm mống để tạo ra một sự đổi khác. Ít ra thì cũng đã có
những người Việt Nam dám "học đi buôn".

Dù rằng, trên thực tế, những ngôi trường như Trường Kinh doanh Harvard,
Trường Kinh tế Chicago, Trường Kinh tế Columbia không dạy đi buôn,
mà dạy cho người ta "tinh thần kinh doanh", cái mà dân Việt chúng ta còn
thiếu.
5


×