Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Lãi suất cơ bản, công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.96 KB, 5 trang )

Lãi suất cơ bản, công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ

Lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương là một công cụ quan trọng,
nếu không nói là chủ yếu, của chính sách tiền tệ quốc gia, nhắm đến
những mục tiêu kinh tế vĩ mô như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định
giá cả, duy trì một tình trạng thăng bằng toàn dụng.
Ngân hàng Anh Quốc, một trong những ngân hàng trung ương lâu đời nhất
của thế giới, vừa công bố vào cuối tháng 11/2009 việc giảm thêm 50 điểm
trong lãi suất cơ bản (base rate), đưa mức lãi suất cơ bản của ngân hàng này
xuống mức thấp nhất (1,5%/năm) trong lịch sử hoạt động 315 năm của nó.
Việc giảm lãi suất này được lý giải như là một biện pháp mạnh mẽ nhằm
phục hồi tăng trưởng kinh tế và giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp. Tuy nhiên, mức
lãi suất cơ bản này không phải là một mức thấp kỷ lục của thế giới. Ngân
hàng Nhật Bản, cũng là một ngân hàng trung ương thuộc vào hàng lão làng,
đang áp dụng mức lãi suất cơ bản 0,1% từ tháng 12/2009. Trong quá khứ,
ngân hàng này đã từng áp dụng mức lãi suất cơ bản 0%.
Những dẫn chứng nêu trên cho thấy rằng lãi suất cơ bản của ngân hàng trung
ương là một công cụ quan trọng, nếu không nói là chủ yếu, của chính sách
tiền tệ quốc gia, nhắm đến những mục tiêu kinh tế vĩ mô như thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, ổn định giá cả, duy trì một tình trạng thăng bằng toàn dụng.
Ngân hàng trung ương còn sử dụng công cụ lãi suất để định hướng tín dụng
cho hệ thống ngân hàng.
Khi chính phủ thấy cần khuyến khích phát triển một khu vực kinh tế chậm
tăng trưởng (ví dụ nông nghiệp), một ngành kinh tế chiến lược (xuất khẩu)
hay một ngành công nghiệp quan trọng (năng lượng), ngân hàng trung ương
có thể áp dụng một mức lãi suất tái chiết khấu ưu đãi thấp cho các ngân hàng
thương mại từ những khoản tín dụng mà họ đã cấp phát cho những khu vực
kinh tế hay ngành kinh tế được khuyến khích.
Ngược lại, ngân hàng trung ương có thể áp dụng một mức lãi suất tái chiết
khấu rất cao, gọi là lãi suất địa ngục (hell rate) cho các khoản tín dụng ngân
hàng vào những ngành kinh tế không khuyến khích (ví dụ cho vay đầu cơ


chứng khoán hay bất động sản). Biện pháp định hướng tín dụng bằng lãi suất
sẽ giúp các ngân hàng thương mại sẵn sàng cho các doanh nghiệp hoạt động
trong những ngành được ưu đãi này vay với mức lãi suất thấp hơn mức lãi
suất tín dụng thông thường hoặc từ chối cho vay đối với những lĩnh vực
không được khuyến khích.

Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại đều biết rằng việc họ đi vay ngân
hàng trung ương là một ân huệ, không phải là một quyền. Ngân hàng trung
ương có thể từ chối cho vay một ngân hàng thương mại mà không cần nêu lý
do.
Có một số nguyên tắc quan trọng căn bản trong hoạt động tín dụng của ngân
hàng trung ương. Thứ nhất, ngân hàng trung ương không giao dịch trực tiếp
với doanh nghiệp hay cá nhân, mà chỉ giao dịch với chính phủ và các ngân
hàng, các tổ chức tín dụng. Thứ hai, ngân hàng trung ương không kinh
doanh tiền tệ, tín dụng vì lợi nhuận mà vì lợi ích chung của toàn nền kinh tế.
Hai nguyên tắc này thường được quy định rõ ràng trong hầu hết các bộ luật
về ngân hàng trung ương. Như vậy, ngân hàng trung ương chỉ thực hiện
công cụ lãi suất trực tiếp đối với hệ thống ngân hàng trong nước và thị
trường tiền tệ của nó bằng các nghiệp vụ như tái chiết khấu, tái cấp vốn, cho
vay trên thị trường mở
Một câu hỏi thường được đặt ra là mức lãi suất gọi là cơ bản do ngân hàng
trung ương ấn định phản ánh điều gì và vì sao có những sự điều chỉnh tăng
giảm? Trước hết, cần thấy rằng vì ngân hàng trung ương là một cơ quan đặc
biệt có chức năng tạo ra tiền, nên lãi suất cơ bản do nó ấn định không hề
phản ánh chi phí huy động vốn của ngân hàng trung ương và thật ra ngân
hàng trung ương không cần phải huy động vốn khi nó đã có chức năng tạo
tiền. Việc in ấn và đúc tiền tuy cũng phát sinh chi phí nhưng chi phí này
chưa bao giờ được tính như một yếu tố trong việc quy định mức lãi suất cơ
bản của ngân hàng trung ương.
Như vậy, việc ấn định lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương về bản chất

là một quyết định tài định, phản ánh nhận định của nó về tình hình kinh tế vĩ
mô của quốc gia, không phải là một tính toán dựa trên chi phí và lợi nhuận.
Vì là một công cụ tiền tệ vĩ mô, mức lãi suất cơ bản của ngân hàng trung
ương được các ngân hàng thương mại xem như một tín hiệu rõ ràng nhất của
một chính sách tiền tệ mở rộng (nhằm chống suy thoái) hay thắt chặt (nhằm
kiểm soát lạm phát).
Trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại sẽ xây dựng cho mình một hệ
thống lãi suất riêng, phù hợp với điều kiện huy động tiền gửi tiết kiệm và
cho vay của mỗi ngân hàng, với những mức lãi suất khác nhau tùy thuộc vào
thời hạn, mức độ rủi ro cao hay thấp của các khoản huy động và cho vay,
mức độ tín nhiệm của mỗi ngân hàng đối với khách hàng của mình. Thị
trường huy động tiền gửi và cho vay của các ngân hàng thương mại là một
thị trường có cạnh tranh, nhưng trong khuôn khổ do ngân hàng trung ương
điều tiết bằng công cụ lãi suất cơ bản, nhằm đảm bảo rằng sự cạnh tranh
không trở nên quá khốc liệt, đe dọa đến sự an toàn của hệ thống và đồng tiền
tiết kiệm của người dân.
Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại không chỉ huy động vốn trong dân mà
còn có thể vay mượn lẫn nhau trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thường
là với một thời hạn ngắn (có khi chỉ qua đêm) theo một mức lãi suất liên
ngân hàng (interbank rate) thay đổi liên tục mỗi ngày tùy thuộc vào nguồn
cung cầu vốn ngắn hạn trên thị trường. Ngân hàng trung ương thường xuyên
can thiệp trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng nhằm hỗ trợ thanh khoản cho
hệ thống ngân hàng đồng thời duy trì một mức lãi suất liên ngân hàng phù
hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mức lãi suất này thường được các
ngân hàng thương mại xem là lãi suất chuẩn (prime rate) để tính lãi suất cho
vay bằng cách cộng thêm vào đó một phụ phí (margin) áp dụng cho riêng
mỗi khách hàng theo một cách tính phức tạp dựa trên sự đánh giá chủ quan
của mỗi ngân hàng về các loại rủi ro liên quan đến khách hàng và tính chất
khoản vay của họ.
Như vậy, lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương là một công cụ không thể

thiếu trong việc thực thi chính sách tiền tệ nhằm vào các mục tiêu kinh tế vĩ
mô. Điều 9 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quy định nội dung
này. Tuy nhiên, một vấn đề đang gây tranh luận là điều 476 Luật Dân sự có
quy định một mức trần lãi suất trong mối quan hệ vay mượn giữa dân cư là
không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản, và lãi suất cơ bản ở đây được
hiểu là lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước.
Một vấn đề cho đến nay vẫn khó hiểu là vì sao lãi suất cơ bản, một công cụ
điều hành chính sách tiền tệ vĩ mô, lại được sử dụng để tính toán và điều
chỉnh các quan hệ vay mượn dân sự trong điều 476 và vì sao đối tượng điều
chỉnh của điều luật dân sự này lại bao gồm cả các tổ chức tín dụng, đối
tượng chịu sự điều chỉnh của Luật về các tổ chức tín dụng? Giả thiết nền
kinh tế đất nước lâm vào suy thoái nghiêm trọng, khi Ngân hàng Nhà nước
phải đưa lãi suất cơ bản xuống 0%, như nhiều ngân hàng trung ương trên thế
giới đã làm, thì làm sao có thể áp dụng mức lãi suất này để tính được việc
cho vay nặng lãi? Trên thực tế, trong những năm qua, hệ thống ngân hàng
của chúng ta đã gặp không ít khó khăn trong việc tuân thủ điều 476 Luật
Dân sự.
Ví dụ, hiện nay mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước là 8%, theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước (có lẽ cũng dựa trên điều 476 Luật Dân
sự), các ngân hàng thương mại được cho vay với lãi suất là 12% và cũng
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại được áp
dụng mức lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, tức là 18%.
Nhưng nếu điều 476 Luật Dân sự, một điều luật nhằm hạn chế việc cho vay
nặng lãi trong dân cư, điều chỉnh cả việc cho vay của các tổ chức tín dụng,
và nếu lãi suất cơ bản nói trong điều luật được hiểu là lãi suất cơ bản của
Ngân hàng Nhà nước, mức lãi quá hạn này là vi luật và bị coi là vô hiệu. Kết
quả là các doanh nghiệp vay nợ sành sỏi sẽ không vội vã thanh toán nợ vay
ngân hàng trong hạn vì chắc rằng mức lãi suất quá hạn của ngân hàng không
đối kháng được với họ, khi nội vụ được đưa ra tòa. Điều này hàm chứa nguy
cơ rất lớn đối với thanh khoản của hệ thống ngân hàng vì các khoản tín dụng

đều có rủi ro chậm thanh toán.
Mặt khác, có thể nói các ngân hàng thương mại hiện nay đều vi phạm Luật
Dân sự và đều có thể bị truy cứu về tội cho vay nặng lãi. Trên thực tế, việc
cho vay ngoài hệ thống ngân hàng còn áp dụng mức lãi cao hơn nhiều lần.
Cho vay ngày tại các chợ hiện nay có lãi suất phổ biến là 0,5%/ngày, tức
15%/tháng. Khi việc giải thích một điều luật dẫn đến việc mọi người đều vi
phạm, liệu rằng nó còn có hiệu lực chế tài?
Thật ra cả điều 9 Luật Ngân hàng Nhà nước quy định về lãi suất cơ bản và
điều 476 Luật Dân sự nhằm hạn chế cho vay nặng lãi trong dân cư đều cần
thiết. Điều cần xem lại là cách giải thích cũng như đối tượng điều chỉnh của
chúng. Lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước, một công cụ điều tiết vĩ
mô, không thể được dùng để quy định các quan hệ tín dụng dân sự ngoài hệ
thống ngân hàng.
Ngược lại, một điều luật dân sự nhằm hạn chế việc cho vay nặng lãi trong
dân cư cũng không thể và không nên điều chỉnh các tổ chức tín dụng nơi mà
lãi suất cho vay đã được neo lại một cách khắt khe bởi lãi suất cơ bản của
Ngân hàng Nhà nước. Nên chăng cần xem lại: mức lãi suất chuẩn tại điều
476 Luật Dân sự nên được hiểu là mức lãi suất bình quân vào mỗi thời điểm
của hệ thống ngân hàng thương mại và đối tượng điều chỉnh của điều này
chỉ nên bao gồm các quan hệ vay mượn dân sự của cá nhân và tổ chức ngoài
hệ thống ngân hàng?

×