Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.05 MB, 87 trang )







Báo cáo tốt nghiệp


"Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát
triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm"

2
mục lục

Nội dung Trang
- Lời mở đầu : 3
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 3
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Kết cấu khoá luận 5
- Chương I : Tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất
và chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
6
I. Hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường
6
1. Khái niệm hộ sản xuất 6
2. Vai trò của của HSX trong nền kinh tế thị trường 7
3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh
tế HSX


9
II. Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế
HSX
11
1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng 11
2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với HSX 13
3. Yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng giữa Ngân
hàng và HSX
16
III. Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với HSX
17
1. Khái niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng 17
2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đối
với HSX
18
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân
hàng đối với HSX
23
- Chương II : Thực trạng tín dụng đối với hộ sản
xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm.
27
I. Giới thiệu về NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
27
1. Đặc điểm kinh tế xã hội tác động đến kinh doanh kinh
doanh của NHNo huyện Từ Liêm
27
2. Quá trình hình thành phát triển và chức năng của NHNo &
PTNT huyện Từ Liêm
29


3
3. Đặc điểm khách hàng của NHNo & PTNT huyện Từ
Liêm
31
II. Khái quát hoạt động kinh doanh của NHNo &
PTNT Hà Tây
32
1. Huy động vốn 32
2. Hoạt động cho vay 34
III. Thực trạng tín dụng đối với HSX tại NHNo &
PTNT huyện Từ Liêm
40
1. Tình hình thực hiện quy trình tín dụng tại NHNo
huyện Từ Liêm
40
2. Kết quả cho vay thu nợ đối với kinh tế hộ tại NHNo
huyện Từ Liêm trong thời gian qua
42
IV. Đánh giá về hoạt động tín dụng đối với HSX tại
NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
58
1. Kết quả đạt được 58
2. Hạn chế trong hoạt động cho vay hộ sản xuất 62
- Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất
68
I. Định hướng về hoạt động tín dụng đối với HSX
68
1. Chính sách tín dụng đối với HSX của Nhà nước 68
2. Định hướng chung của NHNo & PTNT Việt Nam 68

3. Định hướng phát triển kinh tế tỉnh Hà Tây 69
4. Định hướng về hoạt động tín dụng đối với HSX của
NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây
70
II. Một số giải pháp cơ bản
71
1. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với
HSX
71
2. Giải pháp nhằm mở rộng cho vay HSX 81
3. Giải pháp bổ trợ 84
III. Kiến nghị
86
1. Kiến nghị với Nhà nước 86
2. Kiến nghị với chính quyền địa phương 88
3. Kiến nghị với NHNo

& PTNT Việt Nam

89
Kết luận
90
Tài liệu tham khảo
91

4



Lời nói đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu :
Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, chuyển từ nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều
tiết của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, NHNo & PTNT
huyện Từ Liêm đã đạt được những thành tựu đáng kể trong tiến trình phát
triển.
Năm đầu thành lập, Ngân hàng phải đối mặt với nhiều khó khăn
chồng chất, nguồn vốn kinh doanh nhỏ bé, khách hàng chính là các Doanh
nghiệp Nhà nước và các HTX bị giải thể hoặc thu hẹp quan hệ với Ngân
hàng do việc tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp và chính sách giao đất
sử dụng lâu dài cho các hộ gia đình. Trong thị trường hoạt động cũ bị thu
hẹp thì thị trường mới là các hộ nông dân đang trong bước đầu thử nghiệm.
Đứng trước những khó khăn trên, Ngân hàng vẫn kiên trì thực hiện
chuyển hướng trong kinh doanh , xác định đối tượng phục vụ chính là
"nông nghiệp, nông thôn và nông dân". Sự chuyển hướng kinh doanh đúng
đắn đã đem lại kết quả to lớn. Ngân hàng có mạng lưới gồm 3 chi nhánh cơ
sở hoạt động có chất lượng cao với thị trường rộng lớn. Vốn tín dụng Ngân
hàng đã giúp đỡ hàng nghìn hộ sản xuất trên địa bàn có đủ vốn sản xuất
kinh doanh góp phần phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng tích cực ra nhiều công ăn
việc làm và nâng cao thu nhập cho người nông dân.
Trong quá trình CNH - HĐH đất nước đặc biệt là quá trình CNH -
HĐH nông nghiệp, nông thôn, Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều chính
sách để phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung và hộ sản xuất nói
riêng. Trong đó, Đảng và Nhà nước có chính sách tín dụng hỗ trợ vốn cho
vay hộ nông dân phát triển. Tuy nhiên thực tế việc mở rộng cho vay hộ sản
xuất ngày càng khó khăn do tính chất phức tạp của hoạt động này, món vay
nhỏ bé, chi phí nghiệp vụ cao, khả năng rủi ro ngày càng lớn. Với chủ
trương CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn xoá đói giảm nghèo, xây dựng


5
nông thôn mới thì nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất hoạt động Ngân hàng
nhất là trong môi trường kinh doanh đầy rủi ro như khu vực nông nghiệp,
nông thôn.
Xuất phát từ tình trạng của vấn đề, đề tài : "Giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo
& PTNT huyện Từ Liêm" mang tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn quan
trọng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất, đáp ứng nhu
cầu vay vốn của hộ, góp phần thực hiện các chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài :
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hộ sản xuất và vai trò của
TDNH đối với việc phát triển kinh tế hộ sản xuất, qua đó thấy được tầm
quan trọng của việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản
xuất.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đối với hộ sản
xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm. Từ đó, tìm ra những mặt còn tồn
tại, trên cơ sở đó có những giải pháp tháo gỡ khó khăn và nâng cao chất
lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất, mạnh dạn đề xuất một số
kiến nghị để thực hiện giải pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Với tính đa dạng, phức tạp của đề tài, cho nên chỉ tập trung nghiên
cứu những vấn đề thực tiễn cụ thể trong hoạt động cho vay hộ sản xuất tại NHNo
& PTNT huyện Từ Liêm trong năm 1998 - 2000.
4. Phương pháp nghiên cứu :
- Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá, phân tích
tổng hợp, diễn giải, quy nạp, phân tích thống kê, so sánh.
- Kết hợp nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm nước ngoài vào thực tiễn

vận dụng vào NHNo & PTNT huyện Từ Liêm.
5. Kết cấu khoá luận :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương.

6
Chương I : Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng
tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
Chương II : Thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo &
PTNT huyện Từ Liêm.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần
phát triển kinh tế hộ sản xuất.



7
Chương I
Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng tín dụng
Ngân hàng đối với hộ sản xuất.

I. Hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường :
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 với đường lối đổi mới, nông
nghiệp được xác định là "mặt trận hàng đầu", tiếp tục đổi mới quản lý kinh
tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn chuyển nền nông
nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước. Chính vì vậy những năm gần đây các nhà kinh tế
bắt đầu quan tâm thực sự đến sự phát triển nông thôn, nông nghiệp và mô
hình kinh tế hộ sản xuất. Sự quan tâm nghiên cứu về hộ sản xuất của các
nhà khoa học đã đánh dấu thời kỳ thay đổi, thái độ đối với hộ sản xuất
trong hệ thống lý thuyết chính thống và hệ thống chính sách kinh tế xã hội
hiện thời.

1. Khái niệm hộ sản xuất :
Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng
ta cần thấy rằng hộ sản xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các
nước có nền sản xất nông nghiệp trên thế giới. Hộ sản xuất đã tồn tại qua
nhiều phương thức và vẫn đang tiếp tục phát triển. Chúng ta có thể xem xét
một số khái niệm khác nhau về hộ sản xuất , trong một số từ điển chuyên
ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ, hộ là tất cả những người cùng
sống trong một mái nhà, nhóm người đó cùng hộ sản xuất là hộ, hộ gia
đình.
Ngày nay hộ sản xuất đang trở thành một nhân tố quan trọng sự
nghiệp CNH - HĐH đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong qúa trình xây
dựng một nền kinh tế đa thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để
phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp với chủ trương của Đảng và
Nhà nước , NHNo & PTNT Việt Nam ban hành phụ lục số 1 kèm theo
quyết định 499A ngày 2/ 9/ 1993, theo đó thì khái niệm hộ sản xuất được
hiểu như sau : "Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản
xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự
chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất của mình". Thành phần chủ

8
yếu của hộ sản xuất bao gồm : hộ nông dân, hộ tư nhân, cá thể, hộ gia đình
xã viên.
Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn.
Hộ sản xuất hoạt động trong nhiều ngành nghề nhưng hiện nay phần lớn
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và PTNT, các hộ này tiến hành sản
xuất kinh doanh đa dạng kết hợp trồng trọt với chăn nuôi và kinh doanh
ngành nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề nói trên
đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta trong
thời gian qua.
2. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường:

Từ khi NQ 10 - Bộ chính trị ban hành, hộ nông dân được thừa nhận
là một đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ, năng
động trong kinh tế nông thôn, nhờ đó người nông dân gắn bó với ruộng đất
hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm canh, tăng vụ, vừa đổi mới cơ cấu sản
xuất, việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã khơi dậy nhiều làng nghề
truyền thống, mạnh dạn vận dụng tiến bộ KHKT trong sản xuất để có hiệu
quả kinh tế lớn nhất. Điều này càng khẳng định sự tồn tại khách quan của
hộ sản xuất với vai trò là cầu nối trung gian giữa hai nền kinh tế , là đơn vị
tích tụ vốn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết
việc làm ở nông thôn.
a. Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự
nhiên sang kinh tế hàng hoá.
Lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá đã trải qua giai đoạn đầu tiên là
kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình, tiếp
theo là giai đoạn chuyển biến từ kinh tế hàng hoá nhỏ lên kinh tế hàng hoá
quy mô lớn, đó là nền kinh tế hoạt động mua bán trao đổi bằng trung gian
tiền tệ.
Bước chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên
quy mô hộ gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu chưa trải qua thì khó có
thể phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn giải thoát khỏi tình trạng nền
kinh tế kém phát triển.
b. Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao
động, giải quyết việc làm ở nông thôn.

9
Lao động là một trong những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất ,
lao động là nguồn gốc của giá trị thặng dư, lao động góp phần làm tăng của
cải vật chất cho mọi quốc gia. Việt Nam có 80 % dân số sống ở nông thôn,
nhưng việc khai thác và sử dụng nguồn nhân lực này còn đang ở mức thấp
do trình độ thấp. Hiện nay, ở nước ta có khoảng 13 triệu lao động chưa

được sử dụng và quỹ thời gian của người lao động ở nông thôn cũng chưa
được sử dụng hết. Các yếu tố sản xuất chỉ mang lại hiệu quả thấp do có sự
mất cân đối giữa lao động, đất đai và việc làm ở nông thôn. Như vậy, để sử
dụng hợp lý nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn nước ta cần
phải phát triển kinh tế hộ sản xuất. Trên thực tế đã cho thấy trong những
năm vừa qua hàng triệu cơ sở sản xuất được tạo ra bởi các hộ sản xuất
trong khu vực nông nghiệp và nông thôn.
c. Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc
đẩy sản xuất hàng hoá.
Ngày nay, hộ sản xuất đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự
tự do cạnh tranh trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ,
các hộ sản xuất phải quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là
sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào để trực tiếp quan hệ với thị trường.
Để đạt được điều này các hộ sản xuất đều phải không ngừng nâng cao chất
lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số biện pháp
khác để kích thích cầu, từ đó mở rộng sản xuất đồng thời đạt được hiệu quả
kinh tế cao nhất.
Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có
thể dễ dàng đáp ứng được những thay đổi của nhu cầu thị trường mà không
sợ ảnh hưởng đến tốn kém về mặt chi phí. Thêm vào đó lại được Đảng và
Nhà nước có các chính sách khuyến khích tạo điều kiện để hộ sản xuất phát
triển. Như vậy với khả năng nhạy bén trước nhu cầu thị trường, hộ sản
xuất đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị trường tạo
ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển cao hơn.
3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất :
Nước ta là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống ở nông thôn,
chúng ta tiến lên CHXH dựa trên nền sản xuất thuần nông. Sớm nhận thức
rõ vai trò của nông nghiệp trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà
nước ta từng bước có những chủ trương chính sách về nông nghiệp, tạo


10
điều kiện cho kinh tế hộ phát triển làm nòng cốt để phát triển kinh tế nông
thôn.
Tháng 1/ 1981 Ban bí thư TW Đảng ban hành chỉ thị 100 về khoán
cho nông nghiệp, thực chất là giải phóng "tự do hoá" sức lao động của hàng
chục triệu hộ nông dân thoát khỏi sự giàng buộc của cơ chế tập trung.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, với đường lối đổi mới, nông
nghiệp được xác định là "mặt trận hàng đầu" tiếp tục đổi mới quản lý kinh
tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông
nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước , phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và
Nhà nước đã ban hành những chủ trương, chính sách để thực hiện định
hướng nêu trên. Nhờ đó kinh tế hộ sản xuất cần được đặt vào đúng vị trí
của nó.
Tháng 4/ 1988 - Bộ chính trị đã ban hành nghị quyết 10 nhằm cụ thể
hoá một bước quan điểm đổi mới của Đại hội 6 đối với lĩnh vực quản lý
nông nghiệp, tạo điều kiện cho việc hình thành và thúc đẩy kinh tế hộ sản
xuất phát triển. Từ đây nộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế
tự chủ trong sản xuất kinh doanh và là đơn vị kinh tế cơ sở ở nông thôn.
Sau nghị quyết 10 của Bộ chính trị, rồi đến NQ 66 của HĐBT ngày
2/ 3/ 1992 cùng luật doanh nghiệp tư nhân nghị định 29 ngày 29/ 3/ 1998,
luật công ty. thì hộ sản xuất đã được thừa nhận là một đơn vị kinh tế bình
đẳng như các thành phần kinh tế khác. Điều này được khẳng định tại điều
21 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 : "kinh tế gia đình được
khuyến khích phát triển".
Đại hội lần thứ 7 của Đảng với chủ trương phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự
quản lý vĩ mô của Nhà nước. Chủ trương đúng đắn của Đại hội 7 đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nước ta nói chung và đặc biệt
đối với kinh tế hộ gia đình nói riêng.

Tháng 6/ 1993 tại kỳ họp lần thứ 5 (khoá 7) Đảng đã ban hành nghị
quyết TW 5, tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của hộ với tư cách là một
chủ thể kinh tế ở nông thôn được luật thừa nhận quyền sử dụng đất đai (5
quyền), quyền vay vốn tín dụng, quyền lựa chọn phương án sản xuất kinh
doanh có lợi nhất, quyền tự do lưu thông tiêu thụ sản phẩm.

11
Nghị quyết TW 5 cùng các văn bản luật, NĐ của Chính phủ đã tạo
hành lang pháp lý, khơi dậy động lực cho hơn 10 triệu hộ nông dân phát
triển. Từ đó phát triển mạnh nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 với chủ trương CNH - HĐH nông
nghiệp nông thôn thì nông nghiệp nông thôn nói chung, hộ sản xuất nói
riêng đã được đặt lên vị trí quan trọng hàng đầu của sự nghiệp CNH - HĐH
đất nước. Nghị quyết TW 6 lần 1 với chủ trương "tiếp tục công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước nhất là CNH - HĐH nông nghiệp
nông thôn " đã khẳng định nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực có vai trò cực
kỳ quan trọng cả trước mắt và về lâu dài làm cơ sở để ổn định và phát triển
kinh tế xã hội. Cùng với chính sách về các thành phần kinh tế , kinh tế hộ
được khuyến khích phát triển : "kinh tế hộ gia đình tồn tại và phát triển lâu
dài, luôn luôn có vị trí quan trọng".
II. Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất:
1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng :
Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín
dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất
định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ
bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại
hình tín dụng như : Tín dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng , tín dụng
Nhà nước , tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng Ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng
nói chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các

Ngân hàng, tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân, được
thực hiện dưới hình thức tiền tệ và theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng quy định :
"Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự
có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng"
"Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử
dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho
vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ
khác"

12
Do đặc điểm riêng của mình, tín dụng Ngân hàng có được những
hình thức tín dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc
điểm tín dụng bằng tiền, vốn tín dụng Ngân hàng có khả năng đầu tư
chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực nào của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì
vậy mà tín dụng Ngân hàng ngày càng trở thành một hình thức tín dụng
quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có.
Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ "tín
dụng hộ sản xuất". Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng Ngân hàng
giữa một bên là Ngân hàng với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi
được thừa nhận là chủ thể trong mọi quan hệ xã hội, có thừa kế, quyền sở
hữu tài sản, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, có tài sản thể chấp
thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách để tham gia quan hệ tín dụng
với Ngân hàng. Đây cũng chính là điều kiện cần để hộ sản xuất đáp ứng
điều kiện vay vốn Ngân hàng.
Đối với Ngân hàng từ khi chuyển sang hệ thống Ngân hàng 2 cấp,
hạch toán kinh tế và kinh doanh độc lập, các Ngân hàng phải tự tìm kiếm
thị trường với mục tiêu an toàn và lợi nhuận. Thêm vào đó là nghị định 14/
CP ngày 2/ 3/ 1993 của thủ tướng Chính phủ, thông tư 01/ TD - NH ngày
26/ 3/ 1993 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện nghị

định 14 CP về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông lâm
ngư nghiệp. Và gần đây là quy định số 67/ 1999/ QĐ- TTG của Thủ tướng
chính phủ, văn bản số 320/ CV- NHNN14 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước thực hiện quy định trên, văn bản số 791/ NHNN - 06 của Tổng giám
đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về thực hiện một số chính sách Ngân
hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Tiếp sau đó một loạt các
thông tư, văn bản của Ngân hàng Nhà nước ra đời như văn bản số 283/ QĐ
- NHNN14 ngày 25/ 8/ 2000 về việc ban hành quy chế bảo lãnh Ngân
hàng, văn bản 284 QĐ - NHNN1 ngày 25/ 8/ 2000 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối
với khách hàng thay cho văn bản 324 cũ. Thông tư số 10 NHNN1 ngày 31/
8/ 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện giải
pháp về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng theo QĐ số 11/ 2000/
NQ- CP của Chính phủ ngày 31/ 7/ 2000. Quyết định số 06/ HĐQT -
NHNo & PTNT Việt Nam về việc quy định cho vay đối với khách hàng
mới gần đây nhất ngày 18/ 1/ 2001 thay cho quyết định 180 cũ. Từ đó đã

13
giải quyết cơ bản những khó khăn thắc mắc về cơ chế thủ tục tạo môi
trường pháp lý cho hoạt động tín dụng phát triển. Với các văn bản trên đã
mở ra một thị trường mới cho Ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Trong
khi đó hộ sản xuất đã cho thấy sản xuất có hiệu quả nhưng còn thiếu vốn để
mở rộng tiến hành sản xuất kinh doanh. Đứng trước tình trạng đó, việc tồn
tại một hình thức tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là một tất yếu và
phù hợp với cung cầu trên thị trường được môi trường xã hội, pháp luật cho
phép.
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất :
Trong nền kinh tế hàng hoá các doanh nghiệp không thể tiến hành
sản xuất kinh doanh nếu không có vốn. Nước ta hiện nay thiếu vốn là hiện
tượng thường xuyên xảy ra đối với các đơn vị kinh tế, không chỉ riêng đối

với hộ sản xuất. Vì vậy vốn tín dụng Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan
trọng, nó trở thành "bà đỡ" trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng
hoá.
Nhờ có vốn tín dụng các đơn vị kinh tế đảm bảo quá trình sản xuất
kinh doanh bình thường mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp
dụng kỹ thuật mới đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh. Riêng đối với hộ
sản xuất, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc phát triển
kinh tế hộ sản xuất.
a. Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để
duy trì quá trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển
kinh tế.
Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất cùng với sự
chuyên môn hoá sản xuất trong xã hội ngày càng cao, đã dẫn đến tình trạng
các hộ sản xuất khi chưa thu hoạch sản phẩm, chưa có hàng hoá để bán thì
chưa có thu nhập, nhưng trong khi đó họ vẫn cần tiền để trang trải cho các
khoản chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới trang thiết bị và rất nhiều khoản
chi phí khác. Trong những lúc này các hộ sản xuất cần có sự trợ giúp của
tín dụng Ngân hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất được liên tục. Nhờ có sự
hỗ trợ về vốn, các hộ sản xuất có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có
khác như lao động, tài nguyên để tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy việc
sắp xếp, tổ chức lại sản xuất , hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Từ đó nâng
cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho mọi người.

14
Như vậy, có thể khẳng định rằng tín dụng Ngân hàng có vai trò rất
quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất là cần thiết và
rất lớn, khu vực nông thôn trở thành một thị trường to lớn của tín dụng
Ngân hàng. Cũng vì thế mà thị phần của hộ sản xuất trong dư nợ của NHNo
ngày càng tăng.

b. Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn
và tập trung sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vốn tập trung sản xuất của
tín dụng Ngân hàng đã thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp
cũ. Hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề sống còn đối với các Ngân
hàng phải đảm bảo được độ an toàn và có lợi nhuận, tránh rủi ro trong cho
vay.
Bằng cách tập trung vốn vào kinh doanh, các hộ sản xuất kinh doanh
có hiệu quả, giúp cho các hộ sản xuất càng có điều kiện để mở rộng sản
xuất có hiệu quả hơn thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế và đồng thời
Ngân hàng cũng đảm bảo hạn chế được rủi ro tín dụng.
Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, Ngân
hàng phải quan tâm đến nguồn vốn đã huy động được để cho hộ sản xuất
vay. Vì vậy Ngân hàng sẽ thúc đẩy các hộ sử dụng vốn tín dụng có hiệu
quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất và lưu thông.
Trên cơ sở đó hộ sản xuất biết phải tập trung vốn như thế nào để sản xuất
góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
c. Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề
truyền thống, ngành nghề mới giải quyết việc làm cho người lao
động.
Việt Nam là một nước có nhiều làng nghề truyền thống, nhưng chưa
được quan tâm và đầu tư đúng mức. Trong điều kiện hiện nay, bên cạnh
việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH chúng ta cũng
phải quan tâm đến ngành nghề truyền thống có khả năng đạt hiệu quả kinh
tế , đặc biệt trong quá trình thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Phát huy được làng nghề truyền thống cũng chính là phát huy được nội lực
của kinh tế hộ và tín dụng Ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ cho các ngành
nghề mới thu hút được số lao động nhàn dỗi, giải quyết việc làm cho người

15

lao động. Từ đó góp phần làm phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp
gắn với công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ
ở cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Do đó, tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành
nghề kinh tế trong hộ sản xuất phát triển, tạo tiền đề để lôi cuốn các ngành nghề
này phát triển một cách nhịp nhàng và đồng bộ.
d. Vai trò của tín dụng Ngân hàng về mặt chính trị, xã hội :
Tín dụng Ngân hàng không những có vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội.
Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã
góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đó là một trong
những vấn đề cấp bách hiện nay ở nước ta. Có việc làm, người lao động có
thu nhập sẽ hạn chế được những tiêu cực xã hội. Tín dụng Ngân hàng thúc
đẩy các ngành nghề phát triển, giải quyết việc làm cho lao động thừa ở
nông thôn, hạn chế những luồng di dân vào thành phố. Thực hiện được vấn
đề này là do các ngành nghề phát triển sẽ làm tăng thu nhập cho nông dân,
đời sống văn hoá, kinh tế, xã hội tăng lên, khoảng cách giữa nông thôn và
thành thị càng nhích lại gần nhau hạn chế bớt sự phân hoá bất hợp lý trong
xã hội , giữ vững an ninh chính trị.
Ngoài ra tín dụng Ngân hàng góp phần thực hiện tốt các chính sách
đổi mới của Đảng và Nhà nước, điển hình là chính sách xoá đói giảm
nghèo. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các hộ sản xuất phát triển nhanh làm
thay đổi bộ mặt nông thôn, các hộ nghèo trở lên khá hơn, hộ khá trở lên
giầu hơn. Chính vì lẽ đó các tệ nạn xã hội dần dần được xoá bỏ như : rượu
chè, cờ bạc, mê tín dị đoan nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên môn
của lực lượng lao động. Qua đây chúng ta thấy được vai trò của tín dụng
Ngân hàng trong việc củng cố lòng tin của nông dân nói chung và của hộ
sản xuất nói riêng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
3. Yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và hộ sản xuất :

Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và hộ sản xuất một mặt cũng
giống như các quan hệ tín dụng khác trong cơ chế thị trường, nhưng mặt

16
khác đó còn là chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, có rất
nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng này.
- Chính sách của chính phủ : trên 80% dân số ở nước ta sống ở nông
thôn, hình thức sản xuất chủ yếu là làm kinh tế ở quy mô gia đình. Do vậy
sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời
sống kinh tế đất nước. Vì vậy, chính sách đối với hộ sản xuất có vị trí quan
trọng trong chính sách kinh tế quốc gia, trong đó chính sách về đầu tư vốn
có ý nghĩa quan trọng nhằm giải quyết khó khăn về vốn sản xuất kinh
doanh của hầu hết các hộ sản xuất. Các chính sách của chính phủ sẽ tạo cơ
sở để vốn tín dụng Ngân hàng tiếp cận đến các hộ sản xuất.
- Chính sách của Ngân hàng : Trong sản xuất kinh doanh , mục tiêu
hàng đầu là đạt được lợi nhuận và an toàn trong kinh doanh. Mức độ rủi ro
đầu tư trong nông nghiệp, nông thôn cao trong khi tỷ suất lợi nhuận không
cao vì chi phí lớn, do đó hạn chế nhiều trong công việc mở rộng cho vay và
giảm hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Đối với
NHNo, hộ gia đình là khách hàng truyền thống, là đối tượng phục vụ chính,
do vậy chính sách cho vay của Ngân hàng có ảnh hưởng tới quy định đến
khối lượng cho vay các hộ sản xuất.
- Sự phát triển của hộ sản xuất : Mối quan hệ giữa Ngân hàng và
khách hàng vay vốn là quan hệ 2 chiều, vì vậy khả năng sản xuất kinh
doanh của các hộ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng cho vay
của Ngân hàng đối với các hộ sản xuất. Hiện nay phần lớn hộ gia đình
năng lực sản xuất kinh doanh thấp kém do trình độ kinh nghiệm còn hạn
chế, kinh tế hộ còn trong giai đoạn tự cung, tự cấp, sản xuất nhỏ, manh
mún, sản xuất hàng hoá còn chưa phát triển , người nông dân còn chưa thực
sự đặt quá trình sản xuất của mình trong nền kinh tế hàng hoá và đối với

các nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế đó, tìm phương hướng tự sử lý để
phát triển. Cho nên, việc cho vay của Ngân hàng đối với hộ sản xuất gặp
nhiều khó khăn.
III. Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất :
1. Khái niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng :
Trong nền kinh tế thị trường., bất kỳ một loại sản phẩm nào sản xuất
ra cũng phải là những sản phẩm mang tính cạnh tranh. Điều này có nghĩa là
mọi sản phẩm sản xuất ra đều phải có chất lượng. Các nhà kinh tế đã nhận

17
xét rằng : "Chất lượng phù hợp với mục đích của người sản xuất và người
sử dụng về một loại hàng hoá nào đó" hay "Chất lượng là một sản phẩm
hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách hàng".
Tín dụng là một trong những sản phẩm chính của Ngân hàng. Đây là
hình thức sản phẩm mang hình thái phi vật chất, là dịch vụ đặc biệt. Sản
phẩm này chỉ có khả năng đánh giá được chất lượng sau khi khách hàng đã
sử dụng. Do vậy, có thể quan niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng là việc
đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển Ngân hàng và
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, chất lượng tín dụng Ngân hàng thể hiện qua các điểm sau :
- Đối với khách hàng: Tín dụng Ngân hàng đưa ra phải phù hợp với
yêu cầu của khách hàng về lãi xuất (giá cả sản phẩm), kỳ hạn, phương thức
thanh toán, hình thức thanh toán, thủ tục đơn giản thuận tiện nhưng luôn
đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với Ngân hàng : Ngân hàng đưa ra các hình thức cho vay phù
hợp với phạm vi mức độ, giới hạn phù hợp với bản thân ngân hàng để luôn
đảm bảo tính cạnh tranh, an toàn, sinh lời theo nguyên tắc trả đầy đủ và có
lợi nhuận.
2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất :
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của NHNo & PTNT Việt Nam, hộ

sản xuất được xác định là khách hàng chính của NHNo Việt Nam. Trong
quá trình cung ứng sản phẩm của mình cho hộ sản xuất, một việc làm quan
trọng và cần thiết là đánh giá được chất lượng của sản phẩm cung ứng, cụ
thể là chất lượng tín dụng hộ sản xuất , nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi ích
của Ngân hàng và khách hàng. Việc đánh giá này phải thông qua các chỉ
tiêu đánh giá chất lượng cụ thể.
2.1. Chỉ tiêu định tính :
a. Bảo đảm nguyên tắc cho vay :
Mọi tổ chức kinh tế hoạt động đề được dựa trên một nguyên tắc nhất
định. Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó ảnh
hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế , chính trị, xã hội của đất nước, do vậy
các nguyên tắc hoạt động của Ngân hàng rất chặt chẽ. Với mỗi Ngân hàng
lại có những nguyên tắc khác nhau. Nguyên tắc cho vay là một nguyên tắc

18
quan trọng đối với mỗi Ngân hàng. Để đánh giá chất lượng một khoản cho
vay, điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó có đảm bảo nguyên tắc
cho vay hay không.
Ba nguyên tắc cơ bản của cho vay là :
- Thứ nhất : Cho vay có mục đích kế hoạch.
- Thứ hai : Cho vay có đảm bảo
- Thứ ba : Cho vay phải hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Ba nguyên tắc cho vay trên là nguyên tắc tối thiểu mà bất cứ một
khoản cho vay có chất lượng nào cũng phải đảm bảo.
b. Cho vay bảo đảm có điều kiện :
Chi tiêu định tính thứ 2 để đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng
đó là cho vay đảm bảo có điều kiện. Các điều kiện để một khách hàng được
vay tại NHNo & PTNT Việt Nam.
- Một là : Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và
chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Đối với hộ sản xuất

phải thường trú tại địa bàn nơi chi nhánh NHNo & PTNT đóng trụ sở có
xác nhận hộ khẩu nơi thường trú và có xác nhận của UBND xã (phường)
nơi cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Hai là : Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Hộ sản xuất vay vốn phải có vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ. Hộ sản xuất phải kinh doanh có hiệu quả, không
có nợ quá hạn tren 6 tháng với Ngân hàng.
- Ba là : Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp : Không vi phạm pháp
luật phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
- Bốn là : Hộ sản xuất có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh
doanh khả thi có hiệu quả.
- Năm là : Hộ sản xuất thực hiện các quy định để đảm bảo tiền vay.
+ Đối với hộ vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản
+ Đối với hộ vay trên 10 triệu đồng phải thực hiện đảm bảo tiền vay
bằng tài sản, quyền sử dụng đất (bao gồm cả công trình, giá trị cây lâu năm,
thủy hải sản nuôi trồng đã đến kỳ thu hoạch gắn liền với đất).

19
Bất cứ một khoản cho vay hộ sản xuất nào đều phải xem xét đến 5
điều kiện cho vay trên để đánh giá chất lượng khoản vay.
c. Quá trình thẩm định.
Quá trình thẩm định là chỉ tiêu định tính quan trọng nhất quyết định
tới chất lượng khoản cho vay. Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để Ngân
hàng nắm được thông tin về khách hàng, về năng lực pháp luật đạo đức của
khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ của khách
hàng Đây là khâu không thể thiếu trong quá trình quyết định cho vay và
theo dõi khoản vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các quy định về
quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay của từng Ngân hàng.
Một khoản vay có chất lượng là khoản cho vay đã được thẩm định và phải
đảm bảo các bước của quá trình thẩm định. Quá trình thẩm định một khoản

cho vay hộ sản xuất rất phức tạp do đặc điểm sản xuất kinh doanh của hộ là
sản xuất kinh doanh tổng hợp. Vì vậy, việc tuân thủ quy trình thẩm định và
nội dung thẩm định cho vay là bắt buộc để một khoản cho vay đạt chất
lượng.
2.2. Chỉ tiêu định lượng.
Chất lượng tín dụng Ngân hàng là một khái niệm hoàn toàn tương
đối. Bên cạnh mặt trừu tượng mà chỉ có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định
tính thì mặt cụ thể của nó có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định lượng.
a. Doanh số cho vay hộ sản xuất :
Doanh số cho vay hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số
tiền Ngân hàng cho hộ sản xuất vay trong thời kỳ nhất định thường là một
năm.
Ngoài ra, Ngân hàng còn dùng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng
cho vay hộ sản xuất trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng trong một
năm.
D. số cho vay HSX
Tỷ trọng cho vay HSX = x 100 (%)
Tổng D. số cho vay
b. Doanh số thu nợ sản xuất :

20
Doanh số thu nợ hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số
tiền Ngân hàng thu hồi được sau khi đã giải ngân cho hộ sản xuất trong một
thời kỳ.
Để phản ánh tình hình thu nợ hộ sản xuất, Ngân hàng còn sử dụng
chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng thu hồi được trong tổng doanh số cho
vay hộ sản xuất của ngân hàng trong một thời kỳ. Chỉ tiêu này được tính
bằng công thức :
Doanh số thu nợ hộ sản xuất
x 100 (%)

Doanh số cho vay hộ sản xuất
c. Dư nợ quá hạn hộ sản xuất :
Dư nợ quá hạn hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền
Ngân hàng chưa thu hồi được sau một thời hạn nhất định kể từ ngày khoản
cho vay đến hạn thanh toán tại thời điểm đang xem xét.
Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối, Ngân hàng thường xuyên sử dụng chỉ
tiêu tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất :
Dư nợ quá hạn HSX
Tỷ lệ nợ quá hạn HSX = x 100 (%)
Tổng dư nợ HSX
Đây là chỉ tiêu tương đối được sử dụng chủ yếu để đánh giá chất
lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Hoạt động Ngân hàng nói
chung và hoạt động tín dụng Ngân hàng nói tiêng đều chứa đựng nhiều rủi
ro tác động đến lợi nhuận và sự an toàn kinh doanh của Ngân hàng. Do
vậy, việc đảm bảo thu hồi đủ vốn cho vay đúng hạn, thể hiện qua tỷ lệ nợ
quá hạn thấp là vấn đề quan trọng trong quản lý Ngân hàng liên quan đến
sự sống còn của Ngân hàng.
Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ người ta sử
dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi.
Tổng nợ khó đòi
Tỷ lệ khó đòi = x 100 (%)
Tổng nợ quá hạn
Đây cũng là một chỉ tiêu tương đối. Tỷ lệ này ở mức cao là dấu hiệu
cho thấy nguy cơ mất vốn cao do các khoản cho vay có vấn đề.
d. Vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất :

21
D. số thu nợ HSX
Vòng quay vốn tín dụng HSX =
Dư nợ bình quân HSX

Để đơn giản trong tính toán, dư nợ bình quân hộ sản xuất được tính
bằng cách lấy trung bình cộng dư nợ đầu kỳ và dư nợ cuối kỳ. Đây là một
chỉ tiêu quan trọng xem xét chất lượng tín dụng hộ sản xuất, phản ánh tần
xuất sử dụng vốn. Vòng quay càng lớn với số dư nợ luôn tăng chứng tỏ
đồng vốn Ngân hàng bỏ ra đã được sử dụng một cách có hiệu quả, tiết kiệm
chi phí, tạo ra lợi nhuận lớn cho Ngân hàng.
e. Lợi nhuận của Ngân hàng :
Lợi nhuận = Tổng thu - tổng chi - thuế
Trong tổng thu, lãi thu được từ cho vay là chủ yếu, mà đối với
NHNo hộ sản xuất là khách hàng chính của Ngân hàng, cho nên lợi nhuận
Ngân hàng là thước đo hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng cũng như chất
lượng cho vay hộ sản xuất.
f. Một số chỉ tiêu khác.
D. số cho vay HSX
Chỉ tiêu 1 =
Tổng số lượt HSX vay vốn
Chỉ tiêu này phản ánh số tiền vay mỗi lượt của hộ sản xuất. Số tiền
vay càng cao chứng tỏ hiệu quả cũng như chất lượng cho vay tăng lên.
Điều đó thể hiện sức sản xuất cũng như quy mô hoạt động sản xuất kinh
doanh của hộ sản xuất tăng lên. Đồng thời thể hiện chất lượng cho vay có
xu hướng tăng, bởi thế Ngân hàng cho một lượt hộ sản xuất cho vay nhiều
hơn mà vẫn đảm bảo khả năng thu hồi và có lãi.
Chỉ tiêu 2:
Tỷ lệ cho vay trung
- dài hạn HSX
=
Dư nợ cho vay trung dài hạn HSX
x 100 %
Tổng dư nợ HSX


Đây là chỉ tiêu tương đối phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu cần vốn
trung, dài hạn của hộ sản xuất để mở rộng sản xuất kinh doanh theo đánh
giá tỷ lệ tối thiểu là 30% tổng dư nợ (mục tiêu của NHNo & PTNT Việt
Nam). Tuy vậy tỷ lệ này có thể cao thấp tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn trung

22
dài hạn của địa phương cũng như chính sách tín dụng của từng Ngân hàng
thương mại.
Hai chỉ tiêu 1 và 2 phản ánh hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với
việc phát triển kinh tế hộ sản xuất qua đó đánh giá được chất lượng tín
dụng của Ngân hàng.
- Chỉ tiêu 3 : Tốc độ tăng trưởng dư nợ hộ sản xuất hàng năm
Đây là dấu hiệu cho thấy kết quả hoạt động tín dụng. Sử dụng kết
hợp với chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn có thể biết được chất lượng cũng như hiệu
quả của tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Từ chỉ tiêu này có thể
tính ra tốc độ tăng trưởng bình quân một giai đoạn cho đánh giá toàn diện
hơn chất lượng tín dụng một thời kỳ nào đó.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng đối
với hộ sản xuất :
Việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất có
ý nghĩa rất lớn với Ngân hàng, hộ sản xuất và nền kinh tế. Do vậy, yêu cầu
phải nâng cao chất lượng tín dụng chất lượng hộ sản xuất là một yêu cầu
thường xuyên đối với Ngân hàng. Muốn làm tốt điều này, trước hết phải
xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
3.1. Yếu tố môi trường :
Môi trường là một nhóm yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng hộ
sản xuất một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Đặc biệt trong điều kiện sản xuất
nông nghiệp ở nước ta còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên thì môi trường tự
nhiên có ảnh hưởng rất lớn.
- Môi trường kinh tế xã hội :

Môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng tín
dụng hộ sản xuất. Môi trường kinh tế ổn định và phát triển sẽ tạo điều kiện
cho hộ sản xuất làm ăn có hiệu quả, do vậy hộ sản xuất vay nhiều hơn, các
khoản vay đều được hộ sản xuất sử dụng đúng mục đích mang lại hiệu quả
kinh tế. Từ đó các khoản vay được hoàn trả đúng thời hạn cả tiền gốc và
lãi. Trên cơ sở đó chất lượng tín dụng hộ sản xuất được nâng lên.
- Môi trường chính trị pháp lý :

23
Môi trường chính trị pháp luật ổn định tạo điều kiện và cơ sở pháp lý
để hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh
của hộ sản xuất tiến hành thuận lợi. Những quy định cụ thể của pháp luật
về tín dụng và các lĩnh vực khác có liên quan đến hoạt động tín dụng là cơ
sở để xử lý, giải quyết khi xảy các tranh chấp tín dụng.
Vì vậy môi trường chính trị pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới chất
lượng tín dụng hộ sản xuất.
- Môi trường tự nhiên : Tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất
kinh doanh của hộ sản xuất. Nhất là những hộ sản xuất nông nghiệp phụ
thuộc chủ yếu vào điều kiện tự nhiên. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, sản
xuất kinh doanh xuôn xẻ thì hộ sản xuất có khả năng tài chính để trả nợ
Ngân hàng. Nhưng nếu thiên tai bất ngờ xảy ra thì hộ sản xuất sẽ bị thiệt
hại lớn về kinh tế , việc trả nợ Ngân hàng sẽ gặp nhất nhiều khó khă. Diễn
biến của tự nhiên là không thể đoán trước và khó có thể tránh được khi
thiên tai xảy ra. Cho nên môi trường tự nhiên là yếu tố ảnh hưởng lớn đến
chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
3.2. Yếu tố thuộc về khách hàng :
Ngoài yếu tố môi trường ảnh hưởng đến chất lượng hộ sản xuất thì
có rất nhiều yếu tố từ chính khách hàng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
- Trình độ của khách hàng : Bao gồm cả trình độ sản xuất và trình độ
quản lý của khách hàng. Với một trình độ sản xuất phù hợp và khả năng

quản lý khách hàng có thể đạt được kết quả sản xuất kinh doanh tốt để có
khả năng tài chính trả nợ Ngân hàng. Tuy nhiên, nếu khách hàng không có
khả năng quản lý, đồng thời trình độ sản xuất kém thì việc trả nợ Ngân
hàng là rất khó khăn. Vì vậy, trình độ của khách hàng là yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng tín dụng.
- Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích : Đây là yếu tố thuộc về chủ
quan của khách hàng. Yếu tố này Ngân hàng rất khó kiểm soát từ đầu. Việc
sử dụng vốn sai mục đích là ý định của khách hàng, ý định này có thể xuất
hiện ngay từ đầu khi vay hoặc sau khi đã vay được. Tuy nhiên, việc khách
hàng sử dụng vốn sai mục đích đã vi phạm nguyên tắc cho vay, vì vậy đã ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng.
- Lừa đảo Ngân hàng : Đây là yếu tố thuộc phạm trù đạo đức, khách
hàng cố ý lừa đảo Ngân hàng để lấy tiền. Đạo đức của khách hàng là yếu tố

24
quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản vay. Khoản vay có
được sử dụng đúng mục đích hay không, khoản vay có được hoàn trả lại
hay không là tuỳ thuộc vào hành vi đạo đức của khách hàng.
3.3. Yếu tố thuộc về Ngân hàng :
Bên cạnh yếu tố môi trường và yếu tố thuộc về khách hàng mà Ngân
hàng khó có thể kiểm soát được thì có rất nhiều yếu tố thuộc về bản thân
Ngân hàng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Những yếu tố này bản
thân Ngân hàng có thể tìm được cách hạn chế.
- Chính sách tín dụng của Ngân hàng : Là một trong những chính
sách sản phẩm quan trọng nhất của Ngân hàng. Có chính sách tín dụng
đúng đắn sẽ đưa ra được hình thức cho vay phù hợp với nhu cầu, thu hút
được khách hàng, đồng thời khuyến khích khách hàng trả nợ đúng hạn. Do
đó chính sách tín dụng của Ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng
tín dụng.
- Chấp hành quy định thể chế tín dụng : Việc chấp hành quy định thể

chế tín dụng của cán bộ làm tín dụng tốt hay không tốt là nguyên nhân để
các chỉ tiêu định tính đánh giá chất lượng Ngân hàng có được thực hiện hay
không. Mỗi cán bộ tín dụng khi cho vay đều phải tuân theo luật các tổ
chức tín dụng và các quy định thể lệ tín dụng riêng của từng Ngân hàng.
- Cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị quá lớn khiến khách hàng khó có
thể đủ khả năng tài chính để hoàn trả Ngân hàng đồng thời vi phạm điều
kiện về đảm bảo tiền vay, làm cho chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng.
- Trình độ cán bộ tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng
khoản cho vay. Chất lượng một khoản cho vay được xác định ngay từ khi
khoản cho vay được quyết định thông qua các chỉ tiêu định tính.
- Kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng chưa kịp thời, do đó không kịp
thời nắm bắt được các thông tin về một khoản cho vay, không biết được
yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng nào đã, đang và sẽ xảy ra để có
biện pháp kịp thời không làm cho chất lượng tín dụng giảm sút.
- Hệ thống thông tin ngân hàng sẽ tạo điều kiện để Ngân hàng nắm
bắt được các thông tin về Ngân hàng trước khi quyết định một khoản cho
vay. Yếu tố này rất quan trọng vì nó góp phần ngăn chặn những khoản cho
vay chất lượng không tốt ngay từ khi chưa xảy ra.
Tóm lại : Tín dụng Ngân hàng có vai trò hết sức to lớn đối với hộ
sản xuất cả về mặt kinh tế , chính trị và xã hội. Nó được coi là công cụ đắc

25
lực của Nhà nước , là đòn bẩy kinh tế , là động lực thúc đẩy hộ sản xuất
phát triển một cách toàn diện, từ đó phát huy hết được vai trò to lớn của
mình đối với quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn cũng như đối
với nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực tế cho thấy chất lượng tín dụng Ngân
hàng đối với hộ sản xuất còn nhiều vấn đề cần giải quyết và tháo gỡ. Do đó
việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là điều rất
quan trọng đối với Ngân hàng nói chung và NHNo Huyện Từ Liêm nói riêng.



×