Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1” docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.35 KB, 92 trang )







Báo cáo tốt nghiệp

“Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân
quỹ tại Bưu điện trung tâm 1”
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1: CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1 Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường
3

1.1.1 Doanh nghiệp và chức năng tài chính của doanh nghiệp 3
1.1.2 Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường
4
1.2 Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường
12
1.2.1 Sự cần thiết phải quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường
12
1.2.2 Nội dung công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp 15
1.3 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ của doanh
nghiệp


25
1.3.1 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng
thanh toán của doanh nghiệp
25
1.3.2 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng hoạt
động của doanh nghiệp
28
1.3.3 Chỉ tiêu đánh giá khả năng dự phòng những biến động bất thường 30
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý của doanh nghiệp 31
1.4.1 Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp 31
1.4.2 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp 34

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ TẠI BƯU
ĐIỆN TRUNG TÂM 1
2.1 Giới thiệu chung về Bưu điện trung tâm 1 37
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Bưu điện trung tâm1 37
2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của Bưu điện trung tâm 1 37
2.1.3 Cơ cấu tổ chức quản lý của Bưu điện trung tâm 1 38
2.1.4 Đặc điểm kinh doanh của ngành Bưu điện trong nền kinh tế thị
trường
39
2.1.5 Tình hình sản xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm 1 42
2.2 Thực trạng công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1 44
2.2.1 Ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 44
2.2.2 Tình hình quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 49
2.2.3 Phân tích tình hình tài chính theo các dòng tiền 52
2.2.4 Đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 56
2.3 Đánh giá thực trạng công tác quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung
tâm 1
61

2.3.1 Những kết quả đạt được 61
2.3.2 Những hạn chế 62
2.3.3 Nguyên nhân 63
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG
TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ TẠI BƯU ĐIỆN TRUNG TÂM 1
3.1 Định hướng phát triển của Bưu điện trung tâm 1 trong thời gian tới 66
3.1.1 Môi trường kinh doanh bưu chính viễn thông-Cơ hội và thách thức 66
3.1.2

Kế hoạch hoạt động trong năm 2005 67
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện
trung tâm 1
68
3.2.1 Áp dụng mô hình quản lý ngân quỹ thích hợp 68
3.2.2 Hoàn thiện những quy chế về quản lý ngân quỹ trong cơ chế quản lý
tài chính của Bưu điện trung tâm 1
76
3.2.3 Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ 77
3.2.4 Tăng cường xây dựng bộ máy nhân sự cho công tác quản lý ngân quỹ 78
3.2.5 Tăng cường nguồn thông tin cung cấp cho công tác quản lý ngân quỹ 78
3.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu
điện trung tâm 1
79
3.3.1 Kiến nghị với Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam 79
3.3.2 Kiến nghị với các Bộ, cơ quan quản lý tài chính của Nhà nước 81
Danh mục tài liệu tham khảo





LỜI NÓI ĐẦU

Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
luôn tiềm ẩn các rủi ro. Trong điều kiện hiện tại, khi mà xu hướng tự do hóa
và toàn cầu hóa nền kinh tế ngày càng phát triển thì nguy cơ gặp phải rủi ro
của các doanh nghiệp ngày càng lớn. Việc chủ động phòng ngừa rủi ro, đảm
bảo an ninh tài chính và khả năng phát triển bền vững của các doanh nghiệp
trở thành vấn đề thời sự, cấp thiết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của
các doanh nghiệp. Trong quá trình quản lý và điều hành hoạt động sản xuất
kinh doanh, một trong những yếu tố quan trọng tác động đến kết quả hoạt
động của doanh nghiệp là việc huy động và sử dụng tài sản bằng tiền. Do đó,
nhiệm vụ quan trọng của nhà quản lý là luôn giữ được sự cân bằng hợp lý
giữa các luồng tiền vào và luồng tiền ra của doanh nghiệp, hay nói cách khác
là luôn duy trì được một lượng tiền nhất định đủ để đáp ứng các yêu cầu của
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bưu điện trung tâm 1 là đơn vị trực thuộc Bưu điện Hà Nội, trong thời
gian qua cũng đã quan tâm đến công tác quản lý ngân quỹ, song gặp không ít
những khó khăn. Với chiến lược phát triển của ngành Bưu điện trong xu thế
hội nhập cạnh tranh, quản lý tốt ngân quỹ đã và đang là một yêu cầu đối với
Bưu điện trung tâm 1.
Vì vậy, sau một thời gian thực tập tại Bưu điện trung tâm 1, em đã chọn
đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung
tâm 1” cho luận văn tốt nghiệp của mình. Nội dung luận văn tốt nghiệp của
em được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh
tế thị trường.
Chương 2 : Thực trạng công tác quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý
ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1.
CHƯƠNG 1:

CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1 . VAI TRÒ CỦA NGÂN QUỸ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH
NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1 Doanh nghiệp và chức năng tài chính của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, nơi kết hợp các yếu tố cần thiết
để sản xuất và bán các sản phẩm, dịch vụ tạo ra với mục đích thu lợi nhuận .
Hoạt động của doanh nghiệp được đặc trưng bởi 2 dạng:
+ Sản xuất : Thực hiện chế biến các sản phẩm và dịch vụ mua vào để
tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có thể bán.
+ Trao đổi : Mua các yếu tố đầu vào (cung ứng) để phục vụ cho việc
sản xuất ra các sản phẩm, dịch vụ và đem bán (thương mại).
Hình 1.1 thể hiện hai chức năng cơ bản của doanh nghiệp là thương
mại và cung ứng-sản xuất. Hai chức năng này được gọi chung là hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.



Hình 1.1 : Dòng biến đổi vật chất của doanh nghiệp
Hoạt động trao đổi tạo ra dòng vật chất và tài chính đối ứng (Hình 1.2).
Để có thể tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có thể bán được, doanh nghiệp cần
dùng vốn để mua sắm các tài sản và sử dụng các tài sản đó để tạo ra giá trị gia tăng.





Hình 1.2: Dòng vật chất và dòng tài chính của doanh nghiệp
Tạo ra vốn và phân bổ hợp lý vốn vào các tài sản dùng trong hoạt động

sản xuất kinh doanh để tạo ra giá trị gia tăng ổn định, ngày càng lớn và phân
Trao đổi
Cung ứng
Sản xuất
Trao
đ

i
Cung

ng

Dòng vào Dòng ra
Trao
đ

i
Cung

ng

Sản xuất
Trao đổi
Cung ứng
Trao đổi
Cung ứng
Dòng vật chất


Dòng tài chính

Dòng vật chất


Dòng tài chính
chia lợi ích tạo ra cho các chủ thể liên quan là hoạt động cơ bản hình thành
nên chức năng thứ ba của doanh nghiệp là tài chính hay còn gọi là hoạt động
tài chính của doanh nghiệp.
Chức năng tài chính hay hoạt động tài chính trước hết có nhiệm vụ hỗ
trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành ổn định và
có hiệu quả bằng các tài sản dùng trong sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, hoạt
động này cũng có thể tạo ra những thu nhập ngoài sản xuất kinh doanh cho
doanh nghiệp bằng các tài sản tài chính. Hai mảng hoạt động tài chính này
cấu thành hoạt động tài chính trọn vẹn trong doanh nghiệp và có mối quan hệ
mật thiết với nhau cho dù mỗi mảng có đặc trưng riêng.
Đối với doanh nghiệp, trong giai đoạn ngắn hạn, việc đảm bảo cân
bằng giữa khả năng và nhu cầu tài trợ thường xuyên được xem là mục tiêu
chính của quản lý tài chính. Việc đảm bảo cân bằng tài chính ngắn hạn giúp
cho doanh nghiệp hoạt động ổn định, có hiệu quả, cơ sở của sự tăng trưởng
đều đặn và liên tục theo định hướng chiến lược. Vì vậy trong quản lý tài chính
ngắn hạn, quản lý ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng.
1.1.2 Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường
1.1.2.1 Khái niệm ngân quỹ
Ngân quỹ là khái niệm dùng để chỉ tiền ( bao gồm tiền mặt trong két tại
doanh nghiệp và tiền gửi ngân hàng) và các khoản tương đương tiền như
chứng khoán dễ bán. Các loại chứng khoán giữ vai trò như một “ bước đệm ”
cho tiền mặt, vì nếu số dư tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào
chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, nhưng khi cần thiết cũng có thể
chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém chi phí.
Những khoản phải thu có khả năng thu được tiền ngay khi cần cũng được coi

là một phần của ngân quỹ.
Chúng ta có thể hiểu ngân quỹ là khoản chênh lệch giữa thực thu ngân
quỹ và thực chi ngân quỹ tại một thời điểm nhất định của doanh nghiệp.
Ngân quỹ tác động tới cả đầu vào và đầu ra của hoạt động sản xuất kinh
doanh. Đây là công cụ giúp doanh nghiệp thực hiện việc thanh toán các khoản
chi, trao đổi hàng hoá… nhằm mục tiêu sinh lợi. Doanh nghiệp duy trì một
mức dự trữ tiền dương là nhằm để có phương tiện giao dịch giúp doanh
nghiệp mua sắm hàng hoá, nguyên vật liệu và thanh toán các khoản chi cần
thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong hiện tại cũng
như những khoản chi bất thường hay những nhu cầu về tiền đột xuất trong
tương lai. Tiền giúp doanh nghiệp thực hiện được điều đó vì tiền có các chức
năng chủ yếu: tiền là phương tiện lưu thông, tiền là phương tiện thanh toán,
tiền là phương tiện đo lường giá trị, tiền là phương tiện dự trữ về mặt giá trị.
1.1.2.2 Ngân sách hoạt động hàng năm và sự hình thành ngân quỹ
a) Các loại ngân sách hoạt động hàng năm của doanh nghiệp
a.1) Ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh
Ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tổng hợp
các dòng tài chính vào và ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, đó là doanh thu và các khoản chi có xuất quỹ liên quan đến hoạt động
sản xuất kinh doanh. Các dòng tài chính được thiết lập căn cứ trên giá trị phát
sinh trong từng khoảng thời gian xem xét. Việc thiết lập ngân sách hoạt động
sản xuất kinh doanh sẽ làm xuất hiện các thành phần liên quan đến tài sản lưu
động và nợ ngắn hạn. Việc thiết lập ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh
thường theo từng tháng và tập hợp thành các ngân sách theo chức năng trên
cơ sở ngân sách hoạt động của các bộ phận.
Các ngân sách chức năng trong ngân sách hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp bao gồm:
+ Ngân sách bán hàng là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ phận
bán hàng.
Ngân sách bán hàng hình thành hai dòng tài chính cơ bản:

- Dòng doanh thu phụ thuộc vào khối lượng bán ra và biểu giá
bán.
- Dòng chi liên quan đến chi phí cho hoạt động bán hàng không
tính đến chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong bán hàng.
Chính sách tín dụng đối với khách hàng của doanh nghiệp sẽ tác động
đến ngân sách bán hàng và làm xuất hiện khoản Phải thu dự tính.

























Hình 1.3 -Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh-
+ Ngân sách sản xuất là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ phận
sản xuất.
Ngân sách sản xuất chỉ bao gồm các khoản chi phí phát sinh trong quá
trình sản xuất chế biến : Chi mua nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp
Kế hoạch
bán hàng

Ngân sách
bán hàng
Tồn kho
hàng hoá
Kế hoạch
s

n xu

t

Tồn kho
NVL
Kế hoạch
cung

ng

Ngân sách
sản xuất
Doanh thu


Chi phí bán hàng
Phải thu
Giá bán, số lượng bán
Chính sách thương mại
Tồn kho đầu kỳ
Chính sách dự trữ
Số lượng sản xuất
Mức tiêu hao
T

n kho
đ

u k


Chính sách mua
Ngân sách
quản lý
Chi phí QL

Hàng tồn kho
Phải trả
Chi phí s

n xu

t

Hàng tồn kho

Phải trả
NGÂN SÁCH HOẠT ĐỘNG SXKD
và chi phí sản xuất chung, không tính đến chi phí khấu hao tài sản cố định
dùng trong sản xuất. Ngân sách sản xuất được hình thành từ chương trình sản
xuất của doanh nghiệp căn cứ vào chương trình bán hàng dự kiến có tính tới
mức tồn kho thành phẩm đầu kỳ, mức tồn kho thành phẩm cuối kỳ mong
muốn.
Ngân sách sản xuất sẽ bao gồm trong nó cả ngân sách cung ứng vì quá
trình sản xuất sẽ làm xuất hiện nhu cầu tiêu hao nguyên vật liệu. Từ mức tồn
kho nguyên vật liệu đầu kỳ, mức tồn kho nguyên vật liệu cuối kỳ mong muốn
và nhu cầu sử dụng phát sinh sẽ xác định tổng giá trị nguyên vật liệu cần mua,
phương thức cung ứng. Từ ngân sách sản xuất sẽ xác định được mức Tồn kho
và khoản Phải trả dự tính.
+ Ngân sách quản lý chung là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ
phận gián tiếp.
Ngân sách quản lý chung chỉ bao gồm các khoản chi phục vụ quản lý
và cũng không tính tới chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong quản lý.
a.2) Ngân sách đầu tư
Đầu tư là một hoạt động nằm trong chiến lược của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, việc đầu tư thường đòi hỏi một khoản tiền lớn, sẽ ảnh hưởng đến ngân
quỹ khi thực hiện các khoản chi đầu tư theo lịch giải ngân đã được hoạch
định. Trong phạm vi quản lý tài chính ngắn hạn, ngân sách đầu tư sẽ liên quan
đến dòng tài chính ra nhằm mua sắm tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh
doanh (đầu tư bên trong) , bao gồm:
Các khoản chi đầu tư hàng năm (đầu tư thay thế ).
Các khoản chi cho đầu tư phát triển ( mở rộng, hiện đại hoá ).







ĐẦU TƯ PHÁT
TRI

N

ĐẦU TƯ HÀNG NĂM
NGÂN SÁCH ĐẦU TƯ
Đầu tư thay thế Đầu tư mở rộng
hiện đại hoá
Hình 1.4 - Sơ đồ hình thành ngân sách đầu tư -

a.3) Ngân sách hoạt động tài chính
Ngân sách hoạt động tài chính liên quan đến các hoạt động vay, cho
vay và đầu tư tài chính dài hạn, góp vốn liên doanh, bao gồm các dòng tài
chính vào như thu tiền ứng với các khoản cho vay, thu tiền từ các tài sản tài
chính dài hạn, và các dòng tài chính ra như trả tiền ứng với các khoản đi vay,
trả tiền cho các tài sản tài chính dài hạn, góp vốn liên doanh.






Hình 1.5- Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động tài chính -
a.4) Ngân sách hoạt động bất thường
Ngân sách này, khi lập kế hoạch, chỉ xét đến các khoản thu và chi do
bán tài sản cố định cần thanh lý. Các khoản thu, chi bất thường khác không
được xem xét. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp thực hiện điều chỉnh các quỹ dự

phòng thì việc điều chỉnh sẽ được thể hiện ở ngân sách này:
Điều chỉnh tăng các quỹ dự phòng được xem như dòng tài chính ra tức
là khoản chi bất thường.
Điều chỉnh giảm các quỹ dự phòng được xem như dòng tài chính vào
tức là khoản thu bất thường.





THU HĐTC CHI HĐTC
NGÂN SÁCH HĐTC
Thu lãi và gốc vay
Thu từ TS tài chính
dài hạn
Trả lãi và gốc vay
Trả từ TS tài chính
dài hạn
THU BẤT THƯỜNG CHI BẤT THƯỜNG
NGÂN SÁCH HĐ BẤT
THƯỜNG
Thanh lý TSCĐ
Điều chỉnh giảm các
quỹ dự phòng
Chi phí liên quan đến
việc thanh lý TSCĐ
Điều chỉnh tăng các
quỹ dự phòng



Hình 1.6 - Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động bất thường-
b) Sự liên kết của các ngân sách hoạt động hình thành ngân quỹ
Để xác lập được trạng thái ngân quỹ cần phải liên kết các ngân sách
hoạt động bộ phận. Trước khi liên kết các ngân sách hoạt động bộ phận, cần
có sự điều chỉnh đối với ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự điều
chỉnh đối với ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ căn cứ trên chính
sách thương mại dự kiến của doanh nghiệp và chính sách của Người bán đối
với cách mua dự kiến mà doanh nghiệp lựa chọn.









Hình 1.7 -Sơ đồ liên kết các ngân sách hoạt động hình thành ngân quỹ-
Chính sách thương mại của doanh nghiệp được thể hiện ở cách thức
thanh toán áp dụng cho khách hàng. Điều này làm cho khoản thực thu trong
kỳ xem xét có thể khác biệt so với doanh thu. Việc điều chỉnh là để xác định
dòng thực thu của doanh nghiệp trong thời kỳ xem xét sau khi đã loại bỏ
lượng tiền mà doanh nghiệp cung cấp tín dụng (tín dụng thương mại) cho
khách hàng (Phải thu).Việc điều chỉnh đối với khoản thu từ bán hàng sẽ cho
thấy một phần khả năng tài trợ bên trong thực tế của doanh nghiệp từ hoạt
động sản xuất kinh doanh.
NGÂN
QUỸ
NGÂN SÁCH
HOẠT ĐỘNG

SXKD
NGÂN SÁCH
HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƯ
NGÂN SÁCH
HOẠT ĐỘNG
TÀI CHÍNH
NGÂN SÁCH
HOẠT ĐỘNG
BẤT THƯỜNG
Chính sách của Người bán cũng đòi hỏi việc điều chỉnh theo cách
tương tự. Tất nhiên nó sẽ có tác động đối với khoản chi mua của doanh
nghiệp trong thời kỳ xem xét và cho biết một phần nhu cầu tài trợ thực tế phát
sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc điều chỉnh cũng có thể phải áp dụng đối với ngân sách hoạt động
bất thường liên quan đến thanh lý tài sản cố định. Việc điều chỉnh các quỹ dự
phòng sẽ chưa thực hiện ở bước này.
Các ngân sách đầu tư và ngân sách hoạt động tài chính cũng sẽ không
điều chỉnh ở bước thiết lập ngân quỹ đầu tiên vì các ràng buộc hợp đồng đối
với các khoản vay hoặc các ràng buộc chiến lược đối với việc đầu tư trực tiếp
và đầu tư gián tiếp.
Tổng hợp các ngân sách hoạt động sẽ xác định ngân quỹ của doanh
nghiệp trong thời kỳ xem xét và là cơ sở để đưa ra các quyết định tài chính
của doanh nghiệp.
1.1.2.3 Vai trò của ngân quỹ trong hoạt động của doanh nghiệp
Chu trình tài chính của doanh nghiệp có 3 chu kỳ: Chu kỳ tạo vốn; chu
kỳ sử dụng vốn; chu kỳ phân chia thu nhập. Đối với một doanh nghiệp đang
hoạt động thì ba chu kỳ này đan xen nhau, có lúc kế tiếp, có lúc song hành và
cũng có lúc gián đoạn. Điều này tương ứng với tính chất đan xen trong việc
hình thành nhu cầu cũng như khả năng tài trợ của doanh nghiệp trong suốt

một thời kỳ nhất định. Trong giai đoạn ngắn hạn, việc đảm bảo cân bằng giữa
khả năng và nhu cầu tài trợ thường xuyên được xem là mục tiêu chính của
quản lý tài chính. Việc đảm bảo cân bằng tài chính ngắn hạn sẽ giúp cho
doanh nghiệp hoạt động ổn định, có hiệu quả, cơ sở của sự tăng trưởng đều
đặn và liên tục theo định hướng chiến lược. Vì vậy, ngân quỹ đóng vai trò rất
quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp, với mục tiêu kiểm soát quá
trình hoạt động của doanh nghiệp theo thời gian.
Các doanh nghiệp dự trữ tiền mặt vì 3 động lực chính: động lực giao
dịch; động lực dự phòng; động lực đầu cơ.
Động lực dự trữ tiền để giao dịch nghĩa là doanh nghiệp dự trữ tiền để
có thể mua sắm hàng hoá, nguyên vật liệu và thanh toán các chi phí cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ vào đặc điểm hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể cần nhiều tiền hay ít.
Đối với các doanh nghiệp bán lẻ, hầu như hoạt động nào cũng đòi hỏi cần đến
tiền. Có những thời điểm, nhu cầu tiền của doanh nghiệp rất cao, đặc biệt là
đối với các doanh nghiệp dịch vụ vào các dịp lễ tết hay các doanh nghiệp có
ngành nghề kinh doanh theo mùa vụ… Đến thời điểm này, nhu cầu tiền của
doanh nghiệp lên rất cao để mua hàng hoá, nguyên vật liệu. Ngoài ra, khi
ngân quỹ thặng dư tiền sẽ giúp doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh
cho nhà cung ứng, điều này có thể là thuận lợi cho doanh nghiệp rất nhiều vì
uy tín doanh nghiệp được nâng cao và doanh nghiệp có thể hưởng lợi thế
chiết khấu.
Doanh nghiệp giữ tiền nhằm phòng ngừa khả năng thu chi tiền trong
tương lai biến động không thuận lợi như sự thay đổi các chính sách của nhà
nước, đình công, hỏa hoạn, khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kỳ kinh doanh.
Điều đó cũng có nghĩa là nếu khả năng dự báo thu chi bằng tiền trong tương
lai của doanh nghiệp kém thì nhu cầu tiền dự phòng là cao và ngược lại, nếu
doanh nghiệp nắm rõ được dòng tiền vào ra trong thời gian tới thì nhu cầu
tiền dự phòng sẽ thấp… Doanh nghiệp sẽ không thể duy trì hoạt động bình
thường để tồn tại và cạnh tranh trên thị trường nếu không có một mức tồn quỹ

rộng rãi đủ để bù đắp sự mất mát về máy móc, nguyên vật liệu…
Ngoài ra, doanh nghiệp giữ tiền vì động lực đầu cơ nhằm chuẩn bị sẵn
sàng để lợi dụng ngay các cơ hội tốt trong kinh doanh, đầu tư khi phát sinh
những cơ hội đem lại lợi nhuận, thường là đầu tư vào các chứng khoán dễ
bán. Việc đầu tư vào chứng khoán dễ bán còn nhằm mục đích dự phòng mà
không phải giữ tiền mặt.
Như vậy, ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của một
doanh nghiệp, là phương tiện giúp doanh nghiệp duy trì được hoạt động sản
xuất kinh doanh và đảm bảo khả năng thanh toán. Doanh nghiệp sẽ phải làm
thế nào để ổn định mức cân đối ngân quỹ, tránh những trường hợp biến động
bất thường xảy ra. Điều này đòi hỏi phải quản lý tốt ngân quỹ.

1.2 CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN QUỸ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.2.1 Sự cần thiết phải quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường
Mục tiêu của quản lý tài chính là cực đại hóa giá trị của doanh nghiệp.
Một cách cụ thể, quản lý tài chính là việc thiết lập và thực hiện thủ tục phân
tích, đánh giá và hoạch định tài chính, giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết
định đúng đắn cũng như kiểm soát hữu hiệu quá trình thực hiện các quyết
định về mặt tài chính với các nguyên tắc:
 Không bao giờ để thiếu tiền đảm bảo khả năng thanh toán.
 Đưa ra các quyết định đầu tư đúng, đạt hiệu quả cao.
 Đưa ra các quyết định tài trợ hợp lý với chi phí vốn thấp.
Ngân quỹ là một bộ phận của vốn lưu động có tính lỏng cao nhất, với
hai bộ phận chủ yếu là tiền mặt và tiền gửi ngân hàng liên quan đến các
dòng tiền vào ra doanh nghiệp - có nghĩa là nó liên quan tới các khoản thu
chi bằng tiền. Bất cứ khi nào phát sinh các khoản thu chi liên quan đến tiền,
mức dự trữ tiền trong ngân quỹ đều biến động. Mặt khác, các khoản thu chi
tiền mặt lại không đồng thời và thường diễn ra bất thường, ảnh hưởng

không nhỏ tới mức dự trữ tiền. Vì vậy, để tránh những trường hợp biến
động bất thường của ngân quỹ đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lí ngân
quỹ.
1.2.1.1 Đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Doanh nghiệp luôn quan tâm tới mức dự trữ tiền vì ngân quỹ biến động
theo chiều hướng bất lợi sẽ ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của mỗi
doanh nghiệp. Như vậy, một vai trò quan trọng của quản lý ngân quỹ là giúp
cho doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán là khái
niệm dùng để chỉ khả năng đáp ứng các khoản nợ hay các khoản chi khi đến
hạn. Do sự khác biệt về thời điểm ghi nhận giữa thu nhập và chi phí với thu
và chi ngân quỹ, lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
chỉ là con số trên sổ sách kế toán, lợi nhuận này nếu không được biểu hiện
dưới hình thái tiền, thì cho dù cao đến mức nào cũng không thể hiện được khả
năng tái sản xuất mở rộng cũng như đảm bảo khả năng thanh toán doanh
nghiệp được diễn ra bình thường. Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp
không đủ tiền để trang trải các khoản nợ, khoản chi phát sinh do các dòng tiền
vào, ra doanh nghiệp không diễn ra cùng thời điểm, độ lớn, cùng chu kỳ.
Trong khi đó, việc dự đoán khi nào phát sinh các khoản thu, các khoản chi
bằng tiền, số lượng là bao nhiêu và chu kì các khoản thu, các khoản chi đó
như thế nào rất khó.
Vì vậy, khả năng thanh toán tốt có ý nghĩa quan trọng với doanh nghiệp
bởi lẽ nó quyết định tới mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng, ảnh
hưởng tới uy tín của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp thường xuyên thanh
toán đúng hạn có thể được hưởng chiết khấu hay các ưu đãi khác, duy trì được
mối quan hệ lâu dài với nhà cung cấp, có được nguồn hàng ổn định. Ngoài ra,
một doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt sẽ dễ dàng vay tiền từ ngân
hàng hay tìm kiếm các nguồn tài trợ khác cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Ví
dụ, doanh nghiệp có thể xin được hưởng chính sách tín dụng thương mại hay
phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn. Vì vậy, doanh nghiệp
cần nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lí ngân quỹ để dự báo

những trường hợp có thể dẫn đến thiếu hụt tiền, có thể đẩy doanh nghiệp vào
trạng thái khó khăn, từ đó có biện pháp khắc phục như tìm nguồn tài trợ hay
tìm cách tăng thu giảm chi. Đồng thời dự báo những trường hợp ngân quỹ có
thể thặng dư để có biện pháp sử dụng tiền nhàn rỗi, tạo thêm nguồn cho ngân
quỹ, phòng ngừa cho biến động bất thường có thể xảy ra trong tương lai.
1.2.1.2 Lựa chọn nguồn tài trợ với chi phí thấp
Khi ngân quỹ thâm hụt do phát sinh nhiều các khoản chi nhằm duy trì
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tìm cách
tạo nguồn ngắn hạn để bù đắp thâm hụt, tránh tình trạng mất khả năng thanh
toán. Doanh nghiệp có nhiều cách để tìm nguồn tài trợ ngắn hạn nhưng vì
những lí do nào đó, doanh nghiệp không thể tìm được nguồn chi phí thấp mà
phải vay các tổ chức, vay cá nhân, hay huy động từ các nguồn có chi phí cao
hơn. Nếu như doanh nghiệp có kế hoạch phòng ngừa trường hợp này, doanh
nghiệp đã có thể có biện pháp khắc phục tối ưu. Chẳng hạn, doanh nghiệp có
thể giảm các khoản phải thu khách hàng; tăng cường quan hệ tốt với nhà cung
cấp bằng cách thanh toán nhanh để có thể được hưởng các ưu đãi về giá hay
trả chậm trong tương lai; đầu tư tiền vào chứng khoán và đặc biệt là có kế
hoạch vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, hạn chế các khoản vay không
cần thiết để vay trong tương lai. Nếu doanh nghiệp không có kế hoạch chủ
động trước sẽ khiến doanh nghiệp có thể phải “vay nóng” từ các tổ chức, cá
nhân có chi phí cao, phải chịu các điều kiện ràng buộc bất lợi cho doanh
nghiệp.
Như vậy, các hình thức tài trợ với chi phí lớn khiến chi phí vốn của
doanh nghiệp cao, làm chi phí của doanh nghiệp trong tương lai tăng lên, ảnh
hưởng tới lợi nhuận đồng thời hạn chế khả năng huy động vốn của doanh
nghiệp trong tương lai. Và đặc biệt trong trường hợp doanh nghiệp không thể
tìm được nguồn tài trợ nào, doanh nghiệp sẽ có nguy cơ mất khả năng thanh
toán. Rõ ràng, nếu không có sự quản lí chặt chẽ ngân quỹ, để tình trạng thâm
hụt ngân quỹ bất lợi xảy ra, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
sẽ bị ảnh hưởng và việc tối thiểu hoá chi phí vốn sẽ không đạt được.

Đối với doanh nghiệp dịch vụ, mọi khoản chi lớn thường đã phát sinh
vào kì trước, đến kì sau, doanh nghiệp mới thực hiện cung ứng dịch vụ và
đồng thời nhận được các khoản thu bằng tiền. Như vậy, ngân quỹ của doanh
nghiệp sẽ thặng dư tiền vì thu bằng tiền của doanh nghiệp vượt trội các khoản
chi trả bằng tiền trong kỳ. Tiền để tại két của doanh nghiệp hay gửi không kì
hạn vào ngân hàng không đem lại mấy lợi nhuận. Doanh nghiệp cũng không
thể tính tới việc đầu tư dài hạn vì đây chỉ là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong
ngắn hạn; cho dù đầu tư dài hạn sẽ hứa hẹn nhiều lợi nhuận thì nó cũng tiềm
ẩn nhiều rủi ro khi doanh nghiệp có nhu cầu thanh toán. Một số doanh nghiệp
sẽ tìm cách đầu tư ngắn hạn tiền nhàn rỗi vào tài sản sinh lợi mà độ rủi ro có
thể chấp nhận. Tuy nhiên sẽ có những doanh nghiệp không đầu tư tiền nhàn
rỗi mà chỉ gửi tiền vào tài khoản ở ngân hàng bởi họ luôn duy trì một mức dự
trữ tiền rộng rãi. Như vậy, quản lí ngân quỹ tốt sẽ sẽ tạo cơ hội sinh lợi, tăng
lợi nhuận và và lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp với chi phí thấp.
1.2.1.3 Dự phòng cho những biến động bất thường
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không
tránh khỏi những biến động bất thường như thiên tai, đình công, khách hàng
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán Những tác động trên có thể trực
tiếp làm giảm các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp hay buộc doanh
nghiệp phải chi những khoản chi bất thường. Vì vậy, doanh nghiệp phải dự
trữ một khoản tiền nhất định để dự phòng cho những biến động bất thường
đó. Chi phí cho việc dự phòng những biến động bất thường đó chính là khoản
thu nhập mà doanh nghiệp có thể thu được nếu sử dụng khoản tồn quỹ đó vào
kinh doanh.
Khi xảy ra những tổn thất, khoản được doanh nghiệp sử dụng ngay để
thanh toán cho những tổn thất là ngân quỹ. Nếu mức tồn quỹ không đủ tài trợ
cho những tổn thất có nghĩa là thời điểm đó có thể doanh nghiệp đã mất khả
năng thanh toán. Vì vậy, công tác quản lý ngân quỹ đóng vai trò rất quan
trọng đối với doanh nghiệp.
1.2.2 Nội dung công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp

1.2.2.1 Dự tính thu nhập và chi phí
Để có thể dự tính được thu nhập và chi phí trong kỳ tới, doanh nghiệp
cần phải thường xuyên tiến hành nghiên cứu thị trường, xác định được nhu
cầu của thị trường về sản phẩm của đơn vị mình trong kỳ tới là bao nhiêu, xây
dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ tới như thế
nào. Từ đó doanh nghiệp có thể dự tính lượng hàng hoá, dịch vụ được cung
cấp trong từng kỳ. Ngoài ra, doanh nghiệp phải dự tính trước những biến
động trên thị trường sắp tới về cung các hàng hóa, nguyên vật liệu đầu vào để
từ đó có thể tính được các chi phí mà doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra trong kỳ.
Như vậy, hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp phải bao hàm đầy đủ thông tin
phản ánh tình hình hoạt động doanh nghiệp trong kỳ và dự tính mọi mặt hoạt
động của doanh nghiệp trong kỳ tới.
 Căn cứ vào nguồn hình thành, thu nhập của doanh nghiệp gồm:
+)Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh là khoản thu chủ yếu trong
thu nhập của doanh nghiệp. Doanh thu bán hàng là nguồn thu chủ yếu trong
thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, thời
điểm để xác định doanh thu là khi người mua chấp nhận thanh toán, không
phụ thuộc tiền đã thu được hay chưa.
Đối với doanh nghiệp dịch vụ, doanh thu từ hoạt động kinh doanh là
toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ sau khi trừ khoản
giảm giá hàng bán (nếu có chứng từ hợp lệ) được khách hàng chấp nhận thanh
toán không phân biệt đã thu được tiền hay chưa. Ngoài ra, doanh thu từ hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp còn bao gồm các khoản phí thu thêm
ngoài giá bán nếu có, phụ thu theo quy định của nhà nước mà doanh nghiệp
được hưởng đối với dịch vụ cung cấp trong kỳ.
+ )Thu nhập từ hoạt động tài chính :
Thu nhập hoạt động tài chính được xác định tại thời điểm tính lãi thu
được, không phụ thuộc tiền lãi đã thu được hay chưa.
+)Thu nhập từ hoạt động bất thường

Thời điểm để xác định thu nhập từ hoạt động bất thường là khi các đối
tác của doanh nghiệp chấp nhận thanh toán cho các khoản trên, không phụ
thuộc tiền đã thu được hay chưa.
 Căn cứ vào nguồn hình thành, chi phí của doanh nghiệp gồm:
+ )Chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm
các chi phí như: Chi phí nguyên, nhiên vật liệu, khấu hao tài sản cố định, tiền
lương và các khoản chi phí có tính chất lương, chi phí dịch vụ mua ngoài Các
chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên và gắn liền với quá trình sản
xuất sản phẩm.
Đối với doanh nghiệp thương mại dịch vụ, chi phí hoạt động sản xuất
kinh doanh bao gồm các chi phí từ khi mua hàng cho đến khi cung cấp dịch
vụ cho khách hàng và bảo hành cho khách hàng trong một khoảng thời gian
nhất định. Nói cách khác, chi phí kinh doanh dịch vụ bao gồm chi phí vận
chuyển, chi phí quản lý, chi phí bằng tiền khác
+) Chi phí cho hoạt động tài chính :
Chi phí cho hoạt động tài chính bao gồm những khoản lãi mà doanh
nghiệp chi trả cho việc đầu tư ra bên ngoài nhằm mục đích sử dụng hợp lý các
nguồn vốn, chi trả tiền vay ngân hàng, chi trả lãi cho bên góp vốn liên doanh
và các khoản chi khác có liên quan đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp
đều được coi là những khoản chi phí cho hoạt động tài chính của doanh
nghiệp.
+) Chi phí cho hoạt động bất thường
Chi phí cho hoạt động bất thường của doanh nghiệp bao gồm : Chi phí
phạt vi phạm hợp đồng, chi phí thanh lý tài sản và các chi phí cho các hoạt
động bất thường khác.
1.2.2.2 Dự tính nhu cầu tiền
Trên cơ sở thu nhập và chi phí được dự tính cho kỳ sau, nhà quản lý tài
chính cần dự tính nhu cầu tiền của doanh nghiệp. Nguồn tiền của doanh
nghiệp là những khoản doanh nghiệp thực thu được trong kỳ và mức tồn quỹ

của kỳ trước còn việc sử dụng nguồn tiền chính là việc chi trả trong kỳ.
Việc dự tính này nhằm hai mục đích: thứ nhất, giúp các nhà quản lý
nắm được nhu cầu tiền trong tương lai; thứ hai, cho biết khả năng thu được
tiền để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu. Việc dự tính các khoản thu chi là không
dễ song doanh nghiệp có thể căn cứ vào thu chi của kỳ trước, kế hoạch mở
rộng sản xuất kinh doanh kỳ này để ước lượng một cách tương đối thời điểm,
chu kỳ, khối lượng các dòng tiền vào, ra. Từ đó doanh nghiệp có thể xác định
mức cân đối tiền mặt khi có nhu cầu thu chi phát sinh.
Trước hết, doanh nghiệp cần phải dự đoán tiền thu ngân quỹ. Các
khoản thực thu ngân quỹ bao gồm: Thu tiền bán hàng trong kỳ; Thu tiền nợ
kỳ trước của khách hàng; Thu từ hoạt động tài chính; Thu từ hoạt động bất
thường. Doanh nghiệp phải xác định thời gian trả tiền trung bình của các
khoản phải thu khác nhau. Từ đó, doanh nghiệp có thể xác định được tỷ lệ
phần trăm doanh thu được chuyển thành tiền trong kỳ.
Sau khi dự tính các khoản thu vào ngân quỹ, nhiệm vụ tiếp theo là cần
dự toán các khoản chi ra từ ngân quỹ như: Thanh toán các khoản phải trả; Chi
tiền lương cho công nhân viên, nhà quản lý và chi khác; Thanh toán thuế, lợi
tức, lãi cổ phần.
Cuối cùng từ những dự báo về thực thu, thực chi ngân quỹ nhà quản lý
sẽ tìm ra chênh lệch thu chi ngân quỹ, đối chiếu với mức tồn quỹ tiền mặt tối
ưu của doanh nghiệp trong từng thời kỳ để thấy được nhu cầu tiền mặt của
doanh nghiệp trong kỳ tới.
1.2.2.3 Áp dụng phương pháp quản lý ngân quỹ thích hợp
Sau khi có được những thông tin về nhu cầu tiền, căn cứ vào kế hoạch
sản xuất kinh doanh và khả năng của doanh nghiệp, doanh nghiệp cần áp
dụng một phương pháp quản lý ngân quỹ thích hợp. Có rất nhiều phương
pháp quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp, các doanh nghiệp chủ yếu lựa
chọn hai phương pháp sau:
a) Phương pháp quản lý theo mô hình Baumol
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải tính toán

mức tiền mặt dự trữ hợp lí và hiệu quả nhất sao cho chi phí cơ hội của doanh
nghiệp là nhỏ nhất đồng thời doanh nghiệp gặp ít rủi ro thanh toán nhất. Vì
vậy, doanh nghiệp sẽ thường tìm cách đầu tư số tiền mặt nhàn rỗi vào hình
thức đầu tư ít rủi ro nhất đó là đầu tư vào tín phiếu kho bạc.
Tín phiếu kho bạc là loại chứng khoán được coi là ít rủi ro nhất và dễ
chuyển hoá thành tiền nhất. Vì thế chúng ta có thể coi chi phí cơ hội của việc
giữ tiền là lãi suất tín phiếu kho bạc. Việc dùng tiền nhàn rỗi để đầu tư vào
tín phiếu kho bạc sẽ đem lại cho doanh nghiệp khoản lợi nhất định. Tuy
nhiên, tín phiếu kho bạc không phải là phương tiện thanh toán nên khi doanh
nghiệp cần tiền mặt phải tìm cách bán tín phiếu. Điều này làm phát sinh chi
phí bán các tín phiếu kho bạc. Như vậy, chi phí cơ hội tăng lên nếu dự trữ tiền
tăng lên đồng thời chi phí bán tín phiếu sẽ giảm đi nếu số lần phải bán tín
phiếu ít đi tức là dự trữ tiền tăng lên. Do đó mức tiền dự trữ hợp lí và hiệu quả
nhất đạt được khi tổng chi phí cho việc duy trì lượng tiền đó trong ngân quỹ
là nhỏ nhất.






L
ư

ng ti

n d


tr



Chi phí c
ơ

h

i c

a d


tr


ti

n

Chi phí do d


tr


ti

n gây ra

Chi phí do thi

ế
u ti

n

đ
i

m c

c ti

u

Lượng dự trữ
T

ng chi phí do





Mức dự trữ tiền mặt tối ưu (mức tồn quỹ tối ưu) đạt được khi:
Chi phí do thiếu tiền cận biên = Chi phí cơ hội của dự trữ tiền cận biên
Khi hết tiền trong ngân quỹ doanh nghiệp mới đem bán tín phiếu nên
tại thời điểm đó, lượng tiền mặt dự trữ bằng 0. Khi doanh nghiệp bán tín
phiếu doanh nghiệp có đủ lượng tiền dự trữ tính toán. Như vậy, lượng tiền
dự trữ bình quân trong doanh nghiệp là:
lượng tiền dự trữ (tính toán)

2
Vậy chi phí cơ hội của việc giữ tiền là:
lượng tiền dự trữ (tính toán) x chi phí cơ hội của lượng tiền dự trữ
2 lượng tiền dự trữ
Chi phí cơ hội của việc dự trữ tiền cận biên là:
chi phí cơ hội của một đơn vị tiền dự trữ
2



Từ đó, ta có thể tính được lượng dự trữ tiền tối ưu là:
2 x tổng nhu cầu tiền để chi trả các hoá đơn trong năm x chi phí do mỗi lần thiếu tiền
chi phí cơ hội của một đơn vị tiền dự trữ

Theo giả định ban đầu, toàn bộ tiền nhàn rỗi sau khi đã tính lượng tiền
dự trữ hợp lí được đầu tư toàn bộ vào tín phiếu kho bạc nên áp dụng cho
trường hợp này ta suy ra được công thức tính lượng tiền dự trữ tối ưu như sau:

2 x tổng nhu cầu tiền để chi trả các hoá đơn trong năm x chi phí cho mỗi lần bán tín phiếu

Q =

Q=
==
lãi suất

Như vậy mô hình Baumol giả định việc chi trả các hoá đơn là đều đặn,
chủ động mà không tính đến sự bất thường của các dòng tiền đi ra doanh
nghiệp, và hơn thế nữa không tính đến các khoản thu bằng tiền của doanh
nghiệp cũng làm thay đổi mức dự trữ tiền mặt mà giả định khi thu về, tiền

được dùng để chuyển hoá luôn thành tín phiếu. Do đó, các nhà kinh tế học đã
xây dựng mô hình phù hợp hơn với thực tế, tức là mô hình này có tính đến cả
những khả năng tiền ra vào ngân quỹ.
b) Phương pháp quản lý theo mô hình Miller-Orr
Để khắc phục tình trạng biến động tiền mặt trong doanh nghiệp, các
nhà kinh tế học đã đưa ra mô hình kiểm soát ngân quỹ căn cứ sự biến động
của dòng vào và dòng ra với đơn vị thời gian là ngày có tên gọi là mô hình
Miller – Orr. Mô hình này cho phép nhà quản lý nắm giữ tiền ở mức độ hoàn
toàn tự do trừ khi nó đạt tới điểm giới hạn trên và giới hạn dưới.
Ta có đồ thị sau:













Giới hạn dưới
Mức tồn quỹ
theo thiết kế
Giới hạn trên
Thời gian
Lượng tiền mặt
Khoảng cách của

giớ i hạn trên và
giới hạn dưới của
mức cân đối tiền
4
3

= 3
Trong mô hình này, nhà quản lý cần xác định được 3 chỉ tiêu: Giới hạn
trên, giới hạn dưới của cân đối tiền mặt và mức tồn quỹ theo thiết kế. Tại giới
hạn trên hoặc giới hạn dưới, doanh nghiệp sẽ phải điều chỉnh mức tồn quỹ
bằng cách đầu tư ngắn hạn hoặc tài trợ cho ngân quỹ để có mức tiền mặt theo
thiết kế ban đầu. Khoảng dao động của mức cân đối tiền mặt trong mô hình
phụ thuộc các yếu tố: nếu như mức dao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày
rất lớn hoặc là chi phí cố định của việc đầu tư ngắn hạn cao thì doanh nghiệp
nên quy định khoảng dao động tiền mặt lớn. Ngược lại, nếu như lợi tức khoản
đầu tư ngắn hạn cao thì doanh nghiệp nên thu hẹp khoảng dao động tiền mặt.
Khoảng dao động tiền mặt được xác định theo công thức sau đây:




Doanh nghiệp thường thiết kế mức cân đối tiền mặt ở điểm một phần ba
khoảng cách kể từ giới hạn dưới lên giới hạn trên. Mức tiền mặt theo thiết kế
được xác định như sau:


Mô hình Miller–Orr trên đây chỉ ra rằng nếu doanh nghiệp duy trì được
mức tiền mặt theo như thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp sẽ tối thiểu hoá chi
phí giao dịch và chi phí do lãi suất gây ra.
Mô hình Miller–Orr có thể thích ứng với nhu cầu kiểm soát ngân quỹ

trong đơn vị thời gian rất ngắn (ngày) và phù hợp với một thị trường tài chính
năng động. Mô hình này xem xét mức dao động của ngân quỹ trong hành lang
giới hạn trên, giới hạn dưới của mức cân đối tiền và coi một nửa của mức dao
động này thể hiện nhu cầu cần điền đầy mức thiếu hụt tiền. Cách đặt vấn đề
này cho phép xem xét đồng thời dòng vào và ra nhưng đòi hỏi doanh nghiệp
phải dự báo được dòng vào và ra một cách chi tiết (hàng ngày là tốt nhất). Vì
3
1

Chi phí giao d

ch x ph
ươ
ng sai c

a thu
Lãi
Khoảng dao dộng tiền
3
Mức tiền theo
thiết kế
=
Mức tiền mặt
giới hạn dưới
+

×