Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Luận văn: Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.16 MB, 60 trang )

Luận văn
Đề tài: Thực trạng quan hệ kinh tế
thương mại giữa Việt Nam - Trung
Quốc .


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................................ 1
CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ ........ 3
1.1. KHÁI QUÁT CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆTTRUNG. .................................................................................................................. 3
1.1.1. Giai đoạn sau khi hai nước giành được độc lập ........................................ 4
1.1.2. Giai đoạn sau khi hai nước bình thường hố quan hệ .............................. 6
1.2. PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆT - TRUNG LÀ
MỘT XU THẾ TẤT YẾU ...................................................................................... 8
1.2.1. Vài nét về tình hình quốc tế và khu vực ...................................................... 8
1.2.2. Tình hình riêng của hai nước đầu những năm 90 ..................................... 8
1.3. NHỮNG CƠ SỞ TIỀN ĐỀ CHO SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI GIỮA HAI NƯỚC.................................................................... 11
1.3.1. Những Hiệp định và các cặp cửa khẩu biên giới được mở là cơ sở pháp lý
tạo thuận lợi cho quan hệ kinh tế, thương mại phát triển. ................................. 11
1.3.2. Chính sách về phát triển kinh tế đối ngoại của hai nước. ........................ 12
1.3.2.1. Chính sách phát triển kinh tế - thương mại của Việt Nam đối với Trung
Quốc ................................................................................................................. 12
1.3.2.2 Chính sách phát triển kinh tế - thương mại của Trung Quốc đối với việt
Nam .................................................................................................................. 14
1.3.3. Chính sách mậu dịch biên giới ở Quảng Tây: .......................................... 16
1.3.4. Chính sách về phát triển mậu dịch biên giới tỉnh Vân Nam..................... 17
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRUNG QUỐC........................................................................................................ 19
I. Thực trạng về vấn đề xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Trung Quốc. ............ 19
1. Về xuất nhập khẩu chính ngạch. ................................................................... 19
1.2. Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu............................................................. 21
1.2.1. Cơ cấu hàng xuất khẩu......................................................................... 21


1.2.2. Cơ cấu hàng nhập khẩu........................................................................ 23
II. Nhận xét đánh giá chung về quan hệ Việt nam - Trung Quốc....................... 24
1. Kết quả và thuận lợi....................................................................................... 24
2. Những tồn tại và khó khăn. ........................................................................... 25

2


III. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI
VIỆT – TRUNG. ................................................................................................... 31
1. Phát triển thương mại làm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
vùng biên giới. .................................................................................................... 31
2. Quan hệ thương mại Việt - Trung có tác động tương hỗ, thúc đẩy các hoạt
động kinh tế phát triển. ..................................................................................... 33
2.1. Thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn. ....................................... 33
2.2. Thúc đẩy phát triển công nghiệp. ............................................................. 34
2.3. Thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng khu vực biên giới. ............................... 35
2.4. Mở rộng hoạt động du lịch........................................................................ 36
2.5. Góp phần đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế và thúc đẩy sự ra đời một
số trung tâm kinh tế quan trọng. ..................................................................... 36
2.6. Cải thiện đời sống nhân dân các tỉnh biên giới phía Bắc. ........................ 37
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI HAI NƯỚC ................................................................................... 39
1. Xây dựng kế hoạch cụ thể cho phát triển kinh tế các tỉnh biên giới phía Bắc. ... 39
2. Tiếp tục xây dựng và hồn thiện chính sách ưu đãi cho phát triển kinh tế cửa
khẩu biên giới........................................................................................................ 40
3. Hồn thiện hệ thống chính sách điều hành hoạt động xuất nhập khẩu. ........ 41
4. Thu hút đầu tư trực tiếp từ phía Trung Quốc. ................................................ 44
5. Tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại. ..... 45
5.1. Đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế. ............................................................. 45

5.2. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hố nội địa. ...................................... 46
5.3. Hồn thiện hệ thống pháp luật và chính sách về kinh tế.......................... 47
5.4. Tăng cường công tác giáo dục, vận động quần chúng kết hợp với giải
quyết các chính sách xã hội. ............................................................................ 48
5.5. Tăng cường trách nhiệm của các lực lượng chức năng quản lý biên giới
cửa khẩu. ......................................................................................................... 49
5.6. Đề cao vai trị lãnh đạo của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp: ........ 51
6. Tổ chức nghiên cứu thị trường Trung Quốc. .................................................. 52
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: ............................................................... 56


DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU

Bảng 1 : Kim ngạch XNK hàng hoá hai chiều ......................................... 20
Bảng 2 : Một số mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc
trong 2 năm (2009-2010). .............................................................................. 22
Bảng 3 : Một số mặt hàng chủ yếu Việt nam nhập khẩu từ Trung Quốc
trong 2 năm (2008 - 2009) ............................................................................. 24
Bảng 4: Số liệu về hoạt động đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam các năm
2000- 2010 ........................................................................................................ 28
Bảng 5: Số người kinh doanh thương mại, dịch vụ công cộng và dịch vụ tư
nhân................................................................................................................. 32
Bảng 6 : GDP bình quân đầu người ( USD ) năm 2000 - 2010 ..................... 38


LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông “.
Quan hệ ngoại giao, kinh tế, văn hoá, thương mại giữa hai nước đã hình thành từ lâu là
một tất yếu khách quan. Đối với nhân dân hai nước, quan hệ láng giềng, quan hệ giao

lưu văn hoá và thương mại đã trở thành một quan hệ truyền thống bền vững. Những
biến động chính trị xã hội trong lịch sử có những lúc thăng trầm nhưng chưa bao giờ
làm triệt tiêu được mối quan hệ giữa nhân dân hai nước. Chính vì vậy, quan hệ hai
nước đã trở lại bình thường hố vào cuối năm 1991. Từ đó đến nay, quan hệ giữa hai
nước nói chung và trên lĩnh vực thương mại nói riêng đã phát triển ngày càng mạnh,
ngày càng bền vững và “đang trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đối
ngoại của Việt Nam.”
Bước vào thế kỷ XXI, công cuộc đổi mới và cải cách ở cả hai nước Việt Nam –
Trung Quốc đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới . Vì vậy, việc củng cố
và tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng - hai nước
theo phương châm 16 chữ vàng: “Láng Giềng Hữu Nghị, Hợp Tác Toàn Diện, Ổn
Định Lâu Dài, Hướng tới tương lai ” khơng những đáp ứng nguyện vọng và lợi ích cơ
bản lâu dài của nhân dân hai nước mà còn phù hợp vơí xu thế hồ bình và phát triển
khu vực cũng như trên thế giới .

Năm 2003, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc đạt 4, 540 tỷ
USD và Trung Quốc đã trở thành bạn hàng xuất khẩu lớn của Việt Nam. Con số
này sẽ tăng nhanh trong năm 2004 và dự kiến sẽ đạt 5 tỷ USD vào năm 2005 và
10 tỷ USD vào năm 2010.
Có được kết quả nêu trên là do sự nỗ lực của Chính phủ và doanh nghiệp
cả hai nước trong hoạt động hợp tác kinh tế - thương mại, đặc biệt là trong hoạt
động thương mại qua biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc
Phương pháp nghiên cứu mà em sử dụng trong quá trình viết báo cáo là sự kết
hợp những kiến thức đã tích luỹ trong q trình học tập với những quan sát đã thu thập
từ thực tế, kết hợp tổng hợp sách báo, các số liệu thống kê với việc đi sâu phân tích
tình hình thực tế nhằm tạo ra một hướng đi hợp lý và thống nhất để giải quyết vấn đề
đặt ra trong báo cáo này .

1



Nội dung của báo cáo gồm ba chương :
Chương I : Các vấn đề cơ bản về quan hệ kinh tế quốc tế .
Chương II : Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc .
Chương III : Phương hướng và triển vọng phát triển quan hệ thương mại giữa hai
nước .

2


CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. KHÁI QUÁT CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆTTRUNG.
Kể từ khi Việt Nam lập quốc, do nhu cầu giao lưu tự nhiên của cư dân hai nước, Vịêt
Nam và Trung Quốc đã sớm thiết lập mối quan hệ bang giao nói chung và quan hệ
kinh tế - thương mại nói riêng. Trong các giai đoạn lịch sử, hai nước đều sự chịu ảnh
hưởng của tư tưởng nho giáo, thường thiếu sự chú ý đến các hoạt động kinh tế nên
trong các bộ sử nội dung viết về vấn đề kinh tế không nhiều. Mặt khác do tình hình
chính trị của mỗi nước, đặc biệt là chiến tranh giữa các vương triều, đã gây khó khăn
làm gián đoạn mối quan hệ kinh tế giữa hai nước. Tuy nhiên, những gián đoạn, những
khoảng trống vắng trong quan hệ giữa hai nước nói chung và quan hệ kinh tế- thương
mại nói riêng cũng chỉ có ý nghĩa nhất thời vì quan hệ giao lưu bn bán giữa hai nước
đã được hình thành và phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử kể từ khi hai nước lập
quốc. Dưới các triều đại phong kiến quan hệ trao đổi buôn bán mới chỉ dừng ở phạm
vi hẹp nhưng cũng mang một ý nghĩa rất quan trọng cho sự ổn định chính trị và phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia trong quá trình lịch sử.
Trong giai đoạn từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX quan hệ kinh tế giữa hai nước có
những đặc điểm nổi bật sau đây:
- Ngay từ xa xưa quan hệ kinh tế thương mại đã vượt ra khỏi biên giới một quốc gia,
việc bn bán từ nước ngồi thường mang về lợi nhuận cao hơn, hơn nữa thông qua
hoạt động buôn bán qua biên giới làm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của bộ máy quân

chủ của hai nước.
- Chính sách xuyên suốt trong lịch sử các vương triều Việt Nam là độc lập tự chủ, luôn
áp dụng nguyên tắc “hoà hiếu với phương Bắc “, nới lỏng, cho tự do bn bán, trao
đổi hàng hố, miễn là tơn trọng, thực hiện đúng pháp luật Việt Nam .- Quan hệ kinh tế
giữa Việt Nam và Trung Quốc trong suốt hơn 20 thế kỷ khơng phải diễn ra bình lặng,
mà quan hệ kinh tế ấy có những biến động thăng trầm phụ thuộc vào quan hệ chính trị
giữa hai quốc gia.
- Mặc dù cả hai nước phong kiến Việt Nam và Trung Quốc trong nhiều thời
gian dài thực hiện chính sách “ Bế quan, toả cảng “ song các hoạt động kinh tế, nhất

3


là hoạt động trao đổi buôn bán ở vùng biên giới Việt - Trung vẫn diễn ra, vượt khỏi sự
cấm đốn của triều đình trung ương .
- Trong quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc suốt hơn 20 thế kỷ, thì phần ưu
thế, thường thuộc về các thương nhân Trung Quốc hơn là thương nhân Việt Nam. Điều
này cho thấy khả năng vươn xa của và việc tổ chức bn bán của thương nhân Việt
Nam cịn có nhiều hạn chế .
1.1.1. Giai đoạn sau khi hai nước giành được độc lập
Từ khi hai nước giành được độc lập cho đến những năm 80 của thế kỷ 20 , quan
hệ kinh tế giữa hai nước được chia ra làm 4 giai đoạn chính sau đây:
Giai đoạn 1950 - 1954:
Sau chiến thắng lợi của chiến dịch biên giới 1950, các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn,
Lạng Sơn được giải phóng đã tạo điều kiện cho giao lưu buôn bán trao đổi hàng hoá
của nhân dân hai bên biên giới. Tháng 9/1951 Chính phủ hai nước Việt - Trung đã ký
các hiệp định về mậu dịch, Hiệp định về tiền tệ và Hợp đồng xuất nhập khẩu. Đồng
thời thành lập các Ty quản lý xuất nhập khẩu ở Lạng Sơn, Cao Bằng và các Đồn quản
lý xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu biên giới. Một số công ty xuất nhập khẩu ở các
tuyến được ra đời dưới sự lãnh đạo của Bộ Công thương để làm nhiệm vụ xuất nhập

khẩu hàng hoá. Tháng 2/1953 cửa khẩu Lào Cai được mở cửa thông thương buôn bán
với Hồ Kiều của Trung Quốc. Từ dầu năm 1954 công cuộc kháng chiến chống thực
dân pháp của nhân dân ta đã tiến triển mạnh mẽ. Hội nghị toàn quốc lần thứ tư bàn về
đấu tranh kinh tế với địch họp tại Việt Bắc đã nêu rõ chủ trương tích cực đẩy mạnh
xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu các loại hàng hoá cần thiết phục vụ sản xuất
và chiến đấu. Chính phủ ta khuyến khích trao đổi một số mặt hàng như sa nhân, cà phê
với Trung Quốc. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho bn bán dân gian qua biên giới
Chính phủ ta đã ban hành nghị định 391/TTg về quản lý mậu dịch tiểu ngạch nhân dân
biên giới Việt - Trung.
Giai đoạn từ 1954 -1964
Đây là thời kỳ khôi phục và xây dựng kinh tế ở miền Bắc, ngày 10/2/1955 đã khánh
thành đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển
hành khách và hàng hố từ Thủ đơ lên biên giới phía Bắc để trao đổi hàng hoá với
Trung Quốc và các nước Xã hội chủ nghĩa khác. Ngày 7/7/1955 Chính phủ ta đã ký

4


với Trung Quốc Nghị định thư về trao đổi hàng hố giữa các cơng ty mậu dịch địa
phương vùng biên giới và Hiệp định viện trợ.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế kỳ họp khoá 8 Quốc hội Việt Nam đã quyết định chia Bộ
Thương nghiệp ra thành Bộ Nội thương và Bộ ngoại thương. Với sự thay đổi lại tổ
chức, công tác xuất nhập khẩu đã trưởng thành thêm một bước, hàng loạt các công ty
xuất nhập khẩu biên giới được thành lập với nhiệm vụ trao đổi hàng hoá và nhận hàng
viện trợ qua biên giới Việt - Trung .
Giai đoạn từ 1965 - 1975
Trong khi Việt Nam tiến hành công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược
bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thì từ những năm 1966 Trung Quốc bắt đầu
tiến hành “ Đại cách mạng văn hố vơ sản “ , cuộc đại cách mạng này kết thúc vào
năm 1976. Mặc dù thời kỳ đó tình hình xã hội Trung Quốc hỗn loạn nhưng quan hệ

giữa Chính Phủ Việt Nam và Chính Phủ Trung Quốc vẫn phát triển tốt đẹp. Việt Nam
tiếp tục củng cố thêm một bước các tổ chức ngoại thương của mình, hồn chỉnh các
chính sách chế độ về mậu dịch đối ngoại, đồng thời tăng cường sự hợp tác giúp đỡ của
phía Trung Quốc nhằm khắc phục những khó khăn trong thời chiến .
Hàng năm Chính phủ phê duyệt cho Bộ ngoại thương được phép cử đoàn đại diện
tham dự Hội chợ Quảng Châu Trung Quốc, để giao dịch với các công ty Trung Quốc
và các thương nhân của các nước khác, nghiên cứu các kinh nghiệm làm ăn và chuẩn
bị hàng xuất khẩu. Tháng 7/1965 Chính phủ Việt Nam ký với Trung Quốc Nghị định
thư về việc chuyển tải hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời chiến qua các cảng của
Trung Quốc. Chính Phủ ta đã đề nghị với Chính Phủ Trung Quốc cho phép thành lập
một số trạm tiếp nhận và điều chuyển hàng viện trợ của các nước và hàng xuất khẩu
của Việt Nam trên đất Trung Quốc ( ở Mãn Châu Lý, Nam Ninh, Cơn Minh, Hồng
Phố, Trạm Giang). Từ 1967 đến 1975 Chính phủ ta và Trung Quốc lần lượt ký các
Hiệp định, Nghị định thư và thư trao đổi về việc Chính phủ Trung Quốc viện trợ
khơng hồn lại, viện trợ bệnh viện, lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho Việt
Nam; viện trợ kinh tế và quân sự, viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho Việt Nam; cung cấp
vật tư, cung cấp thiết bị lẻ cho đài phát thanh. Có thể nói rằng hoạt động xuất nhập
khẩu trong thời kỳ này tập trung chủ yếu vào việc vận chuyển hàng viện trợ từ Trung

5


Quốc và các nước anh em khác phục vụ cho cơng cuộc kháng chiến chống Mỹ giải
phóng miền Nam.
Giai đoạn từ 1976 - 1978
Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ cao cả là giải phóng miền Nam, Việt Nam đã tiến
hành tổng tuyển cử trong cả nước bầu ra Quốc hội của cả nước Việt Nam thống nhất.
Cũng trong thời gian đó cuộc “ đại cách mạng văn hố vơ sản “ kết thúc, Trung Quốc
thực sự bước vào thời kỳ cải cách mở cửa. Trong giai đoạn này Việt Nam và Trung
Quốc tiếp tục ký các Hiệp định trao đổi hàng hoá và thanh toán.

Mặc dù mậu dịch biên giới Việt - Trung có nhiều lợi thế đối với nhân dân vùng biên
của hai nước, không thị trường nào có thể so sánh được, đó là thị trường gần, vị trí núi
liền núi, sơng liền sơng, nhân dân hai nước có quan hệ truyền thống lâu đời, hàng hố
hai bên bổ sung cho nhau. Nhưng từ năm 1978 trở về trước bn bán qua biên giới
Việt - Trung cịn giới hạn ở mức nhỏ bé không đáng kể , chủ yếu là các hoạt động mua
bán dân gian tự phát do nhu cầu sinh hoạt thông thường điều tiết. Phía Việt Nam bán
sang Trung Quốc một số hàng nơng lâm thổ sản, muối biển, gia súc... . Phía Trung
Quốc bán sang Việt Nam một số hoa quả tươi, một số hàng cơng nghiệp nhẹ tiêu dùng
như vải vóc, quần áo may sẵn, một số đồ gia dụng, công cụ sản suất ...
Mậu dịch biên giới Việt - Trung từ năm 1978 trở về trước chưa thể phát triển mạnh
được chủ yếu là vì nền kinh tế của hai nước chưa phát triển. Kinh tế vùng biên giới của
hai nước đều là kinh tế miền núi, mang nặng tính tự cung tự cấp, lạc hậu, phân tán, cư
dân chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số văn hoá chậm phát triển.
1.1.2. Giai đoạn sau khi hai nước bình thường hoá quan hệ
Từ sau năm 1978, quan hệ hữu nghị của hai nước có phần lắng xuống, khu vực biên
giới trở thành những điểm nóng về an ninh, chính trị và trật tự an tồn xã hội đã phải
đóng cửa hàng loạt các cửa khẩu biên giới. Quan hệ kinh tế thương mại bị ngừng trệ,
đã có ảnh hưởng khơng nhỏ đến tốc độ phát triển kinh tế của hai nước và đặc biệt là
kinh tế khu vực cửa khẩu biên giới.
Sau nhiều nỗ lực cố gắng của cả hai bên, quan hệ giữa hai nước đã khởi sắc và trở lại
bình thường hố vào cuối năm 1991. Từ đó cho đến nay, quan hệ giữa hai nước nói
chung và quan hệ kinh tế - thương mại nói riêng, đã phát triển ngày càng mạnh, ngày

6


càng bền vững và đang trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại
của cả hai nước.
Từ khi hai nước bình thường hố đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu của hai bên đã
tăng lên nhanh chóng, hàng hoá trao đổi qua các cửa khẩu biên giới Việt -Trung hết

sức nhộn nhịp, thị trường ở đây đã sớm trở thành nơi sôi động nhất của nước ta, đặc
biệt là ở các cửa khẩu Quảng Ninh, Lạng Sơn , Cao Bằng và Lào Cai. Quan hệ kinh tế
- thương mại giữa hai nước từ năm 1991 trở lại đây không ngừng phát triển với qui mô
khá lớn, tuy nhiên vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của cả hai nước. Theo số liệu
thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng trị giá kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước
năm 1991 chỉ đạt 37,7 triệu USD đến năm 1993 đã là 221,2 triệu USD và đặc biệt năm
2002 đạt trên 3,6 tỷ USD, tăng 97 lần so với năm 1991. Về cơ cấu hàng hoá xuất nhập
khẩu ngày càng mở rộng, ngoài những mặt hàng xuất khẩu truyền thống như dầu thô,
cao su, hải sản... hai bên đã bổ sung một số mặt hàng có thế mạnh khác. Trong những
năm gần đây, Việt Nam đã đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến như sản
phẩm cà phê hoà tan, hạt điều đã qua chế biến, dầu ăn và một số hàng tiểu thủ công
nghiệp và hàng tiêu dùng khác cũng đã và đang dần chiếm được thị trưởng ở Trung
Quốc. Về phía Trung Quốc áp dụng chính sách mậu dịch biên giới, hỗ trợ và đặc biệt
ưu đãi cho thương mại biên giới nhằm khai thác triệt để thị trường các nước láng giềng
cho tiêu thu hàng hoá tiêu dùng của Trung Quốc. Cũng do thành công trong phương
thức buôn bán biên mậu biên giới, trong những năm qua, hàng hoá của Trung Quốc đã
chiếm được thị trường của Việt Nam. Có thể nói, ở đâu cũng có hàng hố của Trung
Quốc.
Qua nghiên cứu lịch sử quan hệ giữa hai nước nói chung và quan hệ kinh tế - thương
mại nói riêng cho thấy rằng, sự ổn định về an ninh, chính trị là một nhân tố hết sức
quan trọng trong quan hệ nhiều mặt giữa hai nước. Như đã biết, Trung Quốc là một
quốc gia đơng dân nhất thế giới, có nhiều nét tương đồng về kinh tế, chính trị, văn hố,
xã hội với Việt Nam. Bản thân nền kinh tế Việt Nam ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
trước đây đã có sự giúp đỡ của Trung Quốc. Chính vì vậy, mở rộng quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, đồng thời tạo sự ổn định
về quan hệ chính trị giữa hai nước là vấn đề hết sức cần thiết.

7


1.2. PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆT - TRUNG LÀ

MỘT XU THẾ TẤT YẾU
1.2.1. Vài nét về tình hình quốc tế và khu vực
Tình hình khu vực cũng như quốc tế vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 có
những thay đổi cực kỳ sâu sắc. Sự tan rã của Liên Xô vào tháng 9/1991 đã đánh dấu sự
kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh. Từ đây thế giới bước vào một thời kỳ mới. Các nước
lớn đều tiến hành điều chỉnh chiến lược toàn cầu và chính sách đối ngoại của mình.
Hồ bình và phát triển đã trở thành trào lưu chính của thời đại. Trên thế giới, các nước
dù lớn hay nhỏ đều tranh thủ mơi trường quốc tế hồ bình để tập trung lực lượng cho
nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế của nước mình.
Tình hình quốc tế trên đây đã có những tác động mạnh mẽ đến tình hình khu vực châu
Á nói chung và Đơng Nam Á nói riêng. Trong khu vực Đơng Nam Á, xu thế hồ hỗn
giữa các nước và nhóm nước trong khu vực với các nước lớn đã xuất hiện. Các nước
trong khu vực cũng điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình cho phù hợp với tình
hình mới. Đặc biệt mối quan hệ giữa hai nhóm nước Đơng Dương và ASEAN ( 5 nước
trước đây ) cũng như quan hệ giữa các nước này với Trung Quốc đã từng bước được
cải thiện. Từ năm 1989, lần lượt các nước Lào, Indônêxia... đã bình thường hố và
quan hệ với Trung Quốc; cịn các nước Xingapo, Brunây cũng đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với Trung Quốc. Như vậy, sự kết thúc của chiến tranh lạnh đã làm cho
những xung đột về chính trị và hệ tư tưởng trong khu vực giảm đi rất nhiều, đối thoại
thay cho đối đầu. Mở rộng giao lưu kinh tế, văn hố khơng chi trở thành xu thế chung
giữa các nước trong khu vực, mà còn là đòi hỏi tất yếu trong công cuộc xây dựng kinh
tế ở mỗi quốc gia.
1.2.2. Tình hình riêng của hai nước đầu những năm 90

Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có hồn cảnh địa lý gần gũi,
có truyền thống văn hố tương đồng, gắn bó với nhau. Trải qua hàng nghìn năm lịch
sử, Việt Nam và Trung Quốc chia sẻ nhiều giá trị chung của nền văn minh phương
đông. Việt Nam tiếp thu nhiều giá trị về văn hố và tơn giáo Trung hoa cổ đại: đạo
Khổng, thơ Đường của Trung Quốc được trân trọng ở Việt Nam.


8


Nhân dân Việt Nam và Trung Quốc có mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp, truyền thống, đã
trải qua thử thách của thời gian và những thành tích đạt được trong những năm qua
tạo tiền đề tốt đẹp cho sự phát triển hơn nữa mối quan hệ Việt - Trung.

Những

yếu tố quan trọng thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước trong thời gian qua.
Trước hết, Việt Nam - Trung Quốc có nét tương đồng về văn hố, có phong tục tập
qn Á Đơng tương đối giống nhau. Có thể nói, sự tương đồng về văn hố và sự gần
gũi về phong tục tập quán nảy sinh từ nền văn minh lúa nước là nhân tố hết sức quan
trọng tạo nên truyền thống láng giềng hoà mục, hữu hảo, gần gũi và dễ thông cảm lẫn
nhau trong giao lưu, quan hệ giữa nhân dân hai nước Việt - Trung từ bao đời nay.
Thứ hai, hai nước Việt Nam - Trung Quốc núi liền núi, sơng liền sơng và có chung
biên giới lãnh hải Vịnh Bắc Bộ và biển Đông. Yếu tố địa lý này khác với biên giới
giữa Trung Quốc với Thái Lan, Lào và Mianma. Đây là yếu tố thuận lợi tạo dựng nên
mối quan hệ giao lưu văn hố, thơng thương kinh tế, bn bán và giúp đỡ lẫn nhau
cuộc đấu tranh cách mạng giữ nước của mỗi bên. Nhân dân các dân tộc thiểu số sống
hai bên biên giới từ bao đời nay đã hình thành quan hệ thân tộc. Mối giao hồ láng
giềng thân thiện đó đã tạo nên tình cảm gắn bó “ Tắm chung một dịng sơng”, “ Nghe
chung tiếng gà gáy “, “gặp nhau như anh em một nhà”.
Thứ ba, về thể chế chính trị, Việt Nam và Trung Quốc có thể chế chính trị giống
nhau, đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, trung thành với Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, không
chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Hai nước đều kiên trì xây dựng nhà nước pháp quyền
dân chủ nhân dân và chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Đặc biệt trong hoàn cảnh CNXH tạm
thời đang trong giai đoạn khó khăn, Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã và đang gánh vác trọng trách bảo vệ vai trò lãnh đạo bền vững của Đảng
Cộng Sản và sức sống mạnh mẽ của CNXH .

Thứ tư, về kinh tế, Hai nước Việt - Trung đều có tiềm năng to lớn trong nhiều lĩnh vực
hợp tác kinh tế, mậu dịch và đầu tư vì lợi ích chung và lợi ích riêng của mỗi bên. Hai
nước đã có chung đường biên giới trên bộ, trên biển là điều kiện thuận lợi cho hai bên
thông thương mậu dịch, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Trung Quốc là thị trường
rộng lớn, đầy tiềm năng, có sức tiêu thụ lớn của của một thị trường trên 1,2 tỷ dân.
Việt Nam là quốc gia thuộc hàng trung bình trên thế giới, sấp xỉ 80 triệu dân, tài
nguyên thiên nhiên nhiên phong phú, nguyên liệu sản xuất dồi dào. Đó là những yếu tố

9


bổ sung, hỗ trợ cho nhau vì chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước và tiến trình
tham gia hợp tác, hội nhập kinh tế khu vực, toàn cầu.
Trong bối cảnh chung của tình hình Quốc tế và khu vực nêu trên, tình hình riêng của
Việt Nam và Trung Quốc cũng có những thay đổi theo chiều hướng thuận lợi.
Về phía Việt Nam, trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình quốc tế và khu vực, Đại hội
đảng VI Đảng Cộng Sản Việt Nam họp tháng 12 năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới.
Một thành tựu về đổi mới tư duy của Đại hội Đảng VI là đã rút ra 4 bài học cơ bản có
ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và bảo vệ tổ quốc,
trong đó bài học thứ 3 là “ Phải kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại trong điều kiện mới “. Cũng trong Đại hội Đảng VI, Đảng ta xác định “ Việt Nam
sẵn sằng là bạn của tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của nhau”. Trong quan hệ đối ngoại , Đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng
mối quan hệ với các nước láng giềng, Việt Nam sẵn sàng đàm phán để giải quyết
những vấn đề thuộc quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Về phía Trung Quốc, sau một thời gian dài bị đình trệ do những sai lầm “tả” khuynh,
Hội nghị Trung ương 3 khoá XI Đảng Cộng Sản Trung Quốc họp cuối tháng 12 năm
1978 đã quyết định dịch chuyển trong tâm cơng tác của tồn Đảng từ chỗ lấy đấu tranh
giai cấp làm chính sang lấy xây dựng kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm, mở đầu cho
công cuộc cải cách mở cửa. Để phục vụ cho công cuộc cải cách ở trong nước, trong

lĩnh vực đối ngoại, Trung Quốc đã tiến hành những điều chỉnh lớn trong quan hệ với
các nước lớn trên thế giới như Mỹ, Nga, Nhật và Tây Âu. Trung Quốc cũng từng bước
thực hiện bình thường hoá quan hệ và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước láng
giềng. Trong quan hệ với Việt Nam, Trung Quốc cũng thể hiện những thiện chí của
mình đối với việc bình thường hố quan hệ giữa hai nước.
Như vậy với một mục tiêu chung là bình thường hố quan hệ, ngày 4/9/1990 tại Tứ
Xuyên đã diễn ra cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước để bàn
về vấn đề bình thường hố quan hệ giữa hai nước và một số vấn đề khác mà hai bên
cùng quan tâm. Sau nhiều lần đàm phán hai nước đã đi đến thống nhất và khẳng định:
“ Việc bình thường hố quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc phù hợp với lợi ích cơ
bản và lâu dài của nhân dân hai nước và cũng có lợi cho hồ bình, ổn định và sự phát
triển của khu vực “. Về kinh tế, hai bên nhất trí thúc đẩy sự hợp tác giữa hai nước

10


trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật và văn hố theo ngun tắc
bình đẳng cùng có lợi.
Có thể nói, cuộc gặp cấp cao này đã đưa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc bước sang
một giai đoạn mới, với tính chất và nội dung hết sức mới trên cơ sở 5 nguyên tắc: Tôn
trọng chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, khơng xâm phạm lẫn nhau, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hồ bình.
1.3. NHỮNG CƠ SỞ TIỀN ĐỀ CHO SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI GIỮA HAI NƯỚC.
1.3.1. Những Hiệp định và các cặp cửa khẩu biên giới được mở là cơ sở pháp lý tạo
thuận lợi cho quan hệ kinh tế, thương mại phát triển.
Với quyết tâm xây dựng mối quan hệ kinh tế lâu dài, bền vững, từ tháng 11 năm 1991
đến nay, Chính phủ nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và nước Cộng Hoà
Nhân Dân Trung Quốc đã cùng nhau ký kết nhiều Hiệp định kinh tế thương mại quan
trọng như: Hiệp định thương mại giữa hai nước, Hiệp định tạm thời giải quyết công
việc vùng biên giới( hai hiệp định này được ký tại Bắc Kinh trong chuyến đi thăm

chính thức Trung Quốc lần thứ nhất của Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn
Kiệt ngày 5 tháng 11 năm 1991); Hiệp định hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc(
ký tại Hà Nội nhân dịp Phó thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham
sang thăm Việt Nam, tháng 2 năm 1992); Hiệp định về hợp tác kinh tế kỹ thuật; Hiệp
định về hợp tác khoa học kỹ thuật được ký tại Hà Nội nhân dịp Thủ tướng Trung Quốc
Lý Bằng sang thăm chính thức Việt Nam đầu tháng 12 năm 1992; Hiệp định về thanh
toán và hợp tác giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng nhân dân Trung
Quốc được ký vào ngày 26 thán 5 năm 1993 tại Bắc Kinh; Hiệp định giữa Chính phủ
Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về hàng hoá quá cảnh vào ngày 9 tháng 4 năm
1994 tại Hà Nội; Hiệp định về thành lập Uỷ ban hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam
- Trung Quốc; Hiệp định về bảo đảm chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu; Hiệp định
về vận tải đường bộ, bộ ba Hiệp định này được ký ngày 19 tháng 11 năm 1994 tại Hà
Nội nhân chuyến đi thăm chính thức Việt Nam của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước
Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc Giang Trạch Dân; Hiệp định về mua bán hàng hố ở
vùng biên giới giữa Chính phủ nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Chính
phủ nước Cộng Hồ Nhân Dân Trung Quốc ký ngày 7 tháng 11 năm 1998 tại Bắc

11


Kinh; Hiệp định về biên giới đường bộ được ký kết ngày 23 tháng 2 năm 1999 nhân
dịp Thủ tướng Chu Dung Cơ sang thăm Việt Nam .
Với chủ trương hồ bình, ổn định cùng phát triển đặc biệt là phát triển kinh tế thương
mại, hai bên quyết định mở 21 cặp cửa khẩu đó là: Đồng Đăng - Bằng Tường, Hữu
Nghị - Hữu Nghị Quan, Móng Cái - Đơng Hưng, Lào Cai - Hà Khẩu, Tà Lùng - Thuỷ
Khẩu, Ma Lu Thàng - Kim Thuỷ Hà và Thanh Thuỷ - Thiên Bảo là các cửa khẩu Quốc
tế dành cho những người mang Hộ chiếu và thị thực Xuất nhập cảnh, Giấy thơng hành
xuất nhập cảnh cũng như hàng hố xuất nhập khẩu; các cặp cửa khẩu khác được mở
nhờ vào sự nỗ lực của cả hai bên, các cặp cửa khẩu này được mở cho những người
mang giấy thông hành xuất nhập cảnh và hàng hố bn bán trao đổi tiểu ngạch của cư

dân biên giới. Ngoài các cửa khẩu nêu trên, hiện nay trên tuyến biên giới Việt - Trung
cịn có 59 cặp đường mịn truyền thống và 13 chợ biên giới phục vụ cho các hoạt động
giao lưu kinh tế giữa hai nước. Để tranh thủ khai thác lợi thế của chính sách khai phá
miền tây của phía Trung Quốc, tỉnh Lào Cai đã và đang xây dựng trung tâm thương
mại Kim Thành, chắc chắn đây sẽ là điểm thu hút một lượng lớn hàng hoá xuất nhập
khẩu qua biên giới Việt - Trung tỉnh Lào Cai.
Những hiệp định và văn bản ký kết, cùng với các cặp cửa khẩu được khai thông trên
biên giới Việt - Trung đã tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các ngành, các
địa phương biên giới của hai nước phát triển quan hệ hợp tác kinh tế và mậu dịch, mở
ra một thời kỳ mới cho giao lưu kinh tế qua biên giới Việt - Trung.
1.3.2. Chính sách về phát triển kinh tế đối ngoại của hai nước.
1.3.2.1. Chính sách phát triển kinh tế - thương mại của Việt Nam đối với Trung Quốc
Trong những năm đầu sau khi hai nước Việt Nam - Trung Quốc bình thường
hố quan hệ( năm 1991), hoạt động giao lưu bn bán hàng hố đã bắt đầu có sự tăng
trưởng nhưng cịn ở qui mơ nhỏ, khơng ổn định. Về chính sách quản lý hoạt động kinh
tế đối ngoại của nhà nước ta còn nhiều bất cập chưa phù hợp với thực tiễn của hoạt
động kinh tế thương mại giữa hai nước; chính sách quản lý xuất nhập khẩu cịn dựa
trên cơ chế cấp giấy phép chuyến đối với hoạt động xuất nhập khẩu do đó đã làm hạn
chế hoạt động giao lưu thương mại, khơng khuyến khích được các thành phần kinh tế
tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, khiến các thành phần kinh tế tham gia vào
hoạt động xuất nhập khẩu còn ở phạm vi hẹp. Thực tiễn cho thấy, cơ chế này một mặt

12


đã làm hạn chế phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu theo thông lệ và tập quán
quốc tế mặt khác lại khuyến khích các thành phần kinh tế kinh doanh theo phương
thức tiểu ngạch biên giới, phương thức này lại hoàn toàn phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế biên mậu biên giới của Trung Quốc( sẽ được đề cập ở phần sau).
Nhìn chung trong giai đoạn đầu sau khi hai nước bình thường hố quan hệ, Nhà nước

ta chưa ban hành đầy đủ chính sách khung về bn bán qua biên giới nên chưa có cơ
chế, chính sách cụ thể để quản lý điều hành hoạt động xuất nhập khẩu ở các cửa khẩu
biên giới. Trong điều kiện như vậy, hoạt động giao lưu kinh tế thương mại qua biên
giới Việt - Trung ta còn chịu thua thiệt hơn so với Trung Quốc.
Để đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế đối ngoại nói chung và phát triển quan
hệ kinh tế - thương mại với Trung Quốc nói riêng, ngày 15/12/1995, Chính phủ đã ban
hành nghị định số 89/NĐ về bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép chuyến đối với hoạt động
xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp được tự do kinh doanh xuất nhập khẩu theo phạm vi
ngành hàng trong giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ Thương Mại cấp. Quyết
định này tuy đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động xuất nhập khẩu nhưng chưa
thực sự khuyến khích được các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất nhập
khẩu. Đứng trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, năm 1997 Chính phủ đã
ban hành luật thương mại và hàng loạt các văn bản pháp qui khác nhằm điều chỉnh cơ
chế quản lý hoạt động kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại. Trong đó nghị định số
57/NĐ-TTg của Chính phủ ban hành năm 1997 đã khuyến khích mọi thành phần kinh
tế tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, tháo gỡ mọi trở ngại pháp lý đối với hoạt
động xuất nhập khẩu, từ thời điểm này các thành phần kinh tế đều được tham gia vào
hoạt động xuất nhập khẩu, đồng thời, Nhà nước đã ban hành các chính sách ưu đãi đặc
biệt đối xuất khẩu và hạn chế dần nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng, những mặt hàng
mà trong nước đã sản xuất được. Có thể nói, đây là bước đột phá có tính chất quyết
định trong chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của nhà nước ta.
Cùng với sự cải cách mạnh mẽ trong cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại, Chính phủ đã
ban hành một số chính sách ưu đãi đối với khu vực kinh tế cửa khẩu biên giới. Đặc
biệt, các quyết định 53/QĐ-TTg ngày 19/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về chính
sách đối với khu kinh tế cửa khẩu; Quyết định 186/2001/QĐ-TTg ngày 7/12/2001 về
phát triển kinh tế-xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi biên giới phía Bắc thời kỳ

13



2001 - 2005 là những cơ sở tiền đề quan trọng cho việc phát triển quan hệ kinh tế
thương mại Việt - Trung. Theo nội dung của quyết định 53/2001/QĐ-TTg của Chính
phủ, nhà nước đặc biệt ưu đãi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực cửa khẩu bằng
nguồn vốn vay ưu đãi nhà nước, cho phép các tỉnh biên giới có số thu ngân sách dưới
50 tỷ đồng/năm thì được đầu tư trở lại 100% để xây dựng cơ sở hạ tầng, có số thu từ
50 tỷ đồng trở lên thì được đầu tư trở lại 50 tỷ đồng và 50% số thu còn lại. Đối với
thương mại du lịch cũng được dặc biệt quan tâm, các hoạt động thương mại được
hưởng các ưu đãi về buôn bán biên giới theo các văn bản nhà nước ta đã ký kết với các
nước láng giềng. Về đầu tư trong nước và nước ngoài vào khu kinh tế của khẩu ngoài
quyền được hưởng các ưu đãi hiện hành về thuế, các doanh nghiệp đầu tư còn được
giảm thêm 50% giá thuê đất và mặt nước so với mức giá cho thuê đất, mặt nước đang
áp dụng tại khu kinh tế của khẩu đó. Với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở 6 tỉnh
đặc biệt khó khăn miền núi phía bắc thời kỳ 2001 - 2005, quyết định số 186/2001/QĐTTg đã giải quyết được nhiều vần đề bức xúc trong phát triển kinh tế các tỉnh miền núi
phía Bắc, đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế
và xã hội, tập trung quy hoạch và huy động mọi nguồn lực để phát triển giao thông,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt phát huy lợi thế cửa khẩu, các di tích lịch sử và
danh lam thắng cảnh để phát triển ngành thương mại, du lịch, dịch vụ tạo động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của tồn vùng.
1.3.2.2 Chính sách phát triển kinh tế - thương mại của Trung Quốc đối với việt Nam
Trung Quốc có một hệ thống chính sách đối ngoại khá chặt chẽ, đặc biệt là chính sách
biên giới mềm, coi nặng lợi ích cục bộ, dân tộc. Hoạt động mậu dịch biên giới đối với
các nước có chung đường biên giới đặc biệt là Việt Nam được quản lý một cách chặt
chẽ và hệ thống từ Chính phủ cho tới các địa phương, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan hữu quan theo đúng tinh thần mà Quốc Vụ Viện đưa ra là :


Khẩn trương định ra biện pháp quản lý đồng bộ, tích cực ủng hộ mậu dịch biên

giới.



Tăng cường sự lãnh đạo và quản lý dối với mậu dịch biên giới, thúc đẩy mậu dịch

biên giới phát triển lành mạnh.


Điều chỉnh, quy phạm hoá các biện pháp chính sách mậu dịch biên giới theo hướng

thể chế hố kinh tế thị trường Xã hội Chủ Nghĩa.

14




Thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế khu vực biên giới, tăng cường đoàn kết

dân tộc, phồn vinh và ổn định vùng biên giới, củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị
láng giềng với các nước xung quanh .
Trong quan hệ buôn bán với các nước láng giềng, đặc biệt là với Việt Nam, Trung
Quốc xây dựng chiến lược biên mậu biên giới, đồng thời tiến hành hai hình thức bn
bán chính ngạch và biên mậu, áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế, nhằm phát huy
mọi lợi thế về địa lý để phát triển kinh tế vùng biên giới. Với chính sách thương mại
trên, vào đầu những năm 1990, Trung Quốc bắt đầu có sự thay đổi về chính sách đối
ngoại với Việt Nam. Tiếp theo sự tăng cường về quan hệ chính trị, Trung Quốc bắt đầu
coi trọng hợp tác kinh tế và thương mại với Việt Nam, nhất là sau khi Việt Nam ra
nhập ASEAN thì Trung Quốc coi Việt Nam là đối tác quan trọng trong khu vực. Với
chiến lược lâu dài, Trung Quốc không muốn Việt Nam mạnh lên, nhưng trước xu
hướng phát triển của thế giới đã buộc Trung Quốc phải suy xét, tính tốn vừa khai thác
được thị trường Việt Nam, vừa thông qua thị trường việt Nam để thâm nhập vào các

thị trường khác trong ASEAN nhất là Lào và Campuchia.
Tóm lại, Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống chính sách điều hành hoạt động kinh
tế thương mại với Việt Nam theo các định hướng cơ bản sau:


Triệt để áp dụng hình thức bn bán biên mậu, Chính phủ Trung Quốc dành nhiều

ưu đãi về thuế quan cho các Tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam. Hàng hoá
của các doanh nghiệp mậu dịch tiểu ngạch biên giới được miễn 50 % thuế nhập khẩu
và thuế giá trị gia tăng; hàng hoá của cư dân biên giới nhập khẩu qua biên giới.


Xây dựng hoàn chỉnh chiến lược khai thác kinh tế Vịnh Bắc Bộ với dự kiến xây

dựng vòng cung kinh tế kết nối Dương Phố - Khâm Châu( Quảng Tây) với Hải Phòng(
Việt Nam ). Trung Quốc xây dựng mạng lưới giao thông đường sắt, đường bộ kết nối
tồn khu vực, tăng cường thăm dị, khai thác Vịnh Bắc Bộ.


Trung Quốc chủ trương sử dụng thị trường Việt Nam để bổ sung cho Tây Nam,

đồng thời sử dụng“ chính sách biên giới mềm“ để kìm hãm kinh tế Việt Nam với các
nội dung như sau:


Lợi dụng biên giới trên bộ, trên biển để xuất hàng tồn kho, hàng kém phẩm chất

vào Việt Nam, đồng thời thu hút nguyên liệu, khoáng sản, lương thực, thực phẩm.

15



Một mặt Trung Quốc khuyến khích, tạo mọi điều kiện để xuất khẩu hàng hoá



(chủ yếu là hàng tiêu dùng chất lượng bình thường và thấp) sang Việt Nam. Mặt khác
lại sử dụng các biện pháp hạn chế bằng hạn ngạch, ép giá để gây sức ép với hàng xuất
khẩu của Việt Nam.
Như ta đã biết Trung Quốc có 2 tỉnh ( khu tự trị ) biên giới Quảng Tây và Vân Nam
tiếp giáp với Việt Nam. Đối với 2 tỉnh này, ngay từ khi bình thường quan hệ giữa hai
nước Trung Quốc đã áp dụng chiến lược“ Biên giới mềm “, mọi hoạt động thương mại
biên giới được chỉ đạo tập trung thống nhất ở cơ quan đầu mối là Ban biên mậu, cơ
quan này có đủ quyền hạn để quản lý , chỉ đạo toàn bộ các hoạt động có liên quan đến
biên giới.
1.3.3. Chính sách mậu dịch biên giới ở Quảng Tây:
Các chính sách hiện hành của Trung Quốc có liên quan đến mậu dịch biên giới ở
Quảng Tây gồm có:
-

Thơng tư của Quốc Vụ Viện về vấn đề liên quan đến mậu dịch biên giới .

-

Biện pháp quản lý hợp tác kinh tế kỹ thuật đối ngoại đối với mậu dịch tiểu ngạch

biên giới và khu vực biên giới của Bộ Kinh tế mậu dịch đối ngoại và Tổng cục Hải
quan.
-


Biện pháp thực thi quản lý nhập khẩu sản phẩm cơ điện mậu dịch tiểu ngạch biên

giới của Ban xuất nhập khẩu cơ điện cơ điện nhà nước.
-

Thơng tri của Chính phủ nhân dân Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây Trung

Quốc quán triệt về vấn đề liên quan đến mậu dịch biên giới của Quốc Vụ Viện.
-

Quy định tạm thời về quản lý mậu dịch hỗ thị đối với cư dân vùng biên giới Quảng

Tây.
-

Quy định của địa khu Nam Ninh về mậu dịch biên giới.

-

Biện pháp quản lý mậu dịch hỗ thị của cư dân vùng biên giới và mậu dịch tiểu

ngạch biên giới của Chính phủ nhân dân Thành phố Bằng Tường .
Các chính sách hiện hành nói trên có những quy định rất thuận lợi cho việc xây dựng
khu mậu dịch biên giới đó là:
-

Quy định về miễn thuế nhập khẩu đối với cư dân vùng biên với trị giá dưới 1000

nhân dân tệ mỗi người mỗi ngày.
-


Quy định giảm thuế nhập khẩu mậu dịch tiểu ngạch biên giới.

16


-

Miễn đối ngạch xuất khẩu và giấy phép .

-

Quy định miễn thuế xuất nhập khẩu trong điều khoản hợp tác kinh tế kỹ thuật.

Những quy định và chính sách tạo thuận lợi nói trên đã thúc đẩy sự phát triển trung
tâm mậu dịch Pò Chài - Quảng Tây, làm cho Pị Chài trở thành một trong những điểm
thực hiện chính sách biên mậu thành công nhất của Trung Quốc .
1.3.4. Chính sách về phát triển mậu dịch biên giới tỉnh Vân Nam.
Nhằm quán triệt Thông tư quy định bổ sung và phát triển hơn nữa mậu dịch biên giới
của Bộ mậu dịch và hợp tác kinh tế đối ngoại và Tổng cục Hải quan, đồng thời củng
cố và phát triển hơn nữa mối quan hệ hợp tác mậu dịch kinh tế với Việt Nam, Chính
quyền nhân dân Tỉnh Vân Nam và các ngành hữu quan đã quán triệt và thực hiện
thơng tư nói trên với các nội dung chủ yếu sau đây:
-

Về quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu: Cục biên mậu tỉnh chịu trách nhiệm phân

phối hạn ngạch xuất khẩu đối với những hàng hoá nhà nước quản lý trọng điểm, Cục
biên mậu tỉnh chịu trách nhiệm phân phối hạn ngạch xuất khẩu cho doanh nghiệp biên
mậu trong hạn ngạch xuất khẩu mà Bộ Mậu dịch hợp tác đối ngoại cấp, Hải quan cửa

khẩu căn cứ giấy phép để làm thủ tục kiểm tra. Nhà nước quản lý hạn ngạch nhập khẩu
hàng hoá sản xuất từ các nước láng giềng, Cục biên mậu tỉnh tiến hành phân phối hạn
ngạch nhập khẩu trên cơ sở hạn lượng đã được Bộ mậu dịch và kinh tế đối ngoại cấp
cho cả năm, Hải quan căn cứ giấy phép để kiểm tra hang nhập khẩu tại cửa khẩu.
Về quản lý dự án hợp tác kinh tế kỹ thuật đối ngoại: Doanh nghiệp tiến hành hợp
tác kinh tế kỹ thuật như cơng trình bao thầu, hợp tác lao động, tư vấn thiết kế ... và ký
hợp đồng đối ngoại phải báo cáo Cục biên mậu tỉnh để xin giấy phép phê duyệt. Hàng
hoá do các nước láng giềng sản xuất được mang về theo hạng mục hợp tác kinh tế kỹ
thuật với các nước láng giềng, ngồi xe ơtơ và linh kiện thì doanh nghiệp được nhập
khẩu theo hạng mục, không phải xin giấy phép. Hàng hố thuộc diện quản lý chính
ngạch nhập khẩu theo dự án kinh tế kỹ thuật với 3 nước Việt Nam, Mianma, Lào do
Vụ mậu dịch và hợp tác kinh tế đối ngoại phê duyệt .
Về quản lý doanh nghiệp biên mậu: Doanh nghiệp sản xuất, lưu thông xin đăng ký
kinh doanh mậu dịch tiểu ngạch biên giới phải có đủ các điều kiện sau:
+ Phải được cơ quan quản lý hành chính cơng thương đăng ký pháp nhân
+ Doanh nghiệp phải đăng ký vốn pháp định trên 500.000 nhân dân tệ trở lên

17


+ Doanh nghiệp phải có tài sản cố định ở khu vực biên giới trên 1 triệu nhân dân tệ
-

Quản lý chợ biên giới: Chính quyền nhân dân tỉnh phê duyệt thành lập chợ biên

giới trên cơ sở báo cáo của Châu biên giới. Hàng hoá của cư dân biên giới nhập khẩu
qua chợ biên giới nếu trị giá dưới 3.000 nhân dân tệ được miễn thuế nhập khẩu.
-

Quản lý hành chính mậu dịch biên giới: Chính quyền Châu, Chính quyền Huyện


cửa khẩu chỉ đạo các cơ quan quản lý như Hải quan, Công thương, Thuế vụ, Thương
kiểm, Kiểm dịch động vật, thực vật tiến hành kiểm tra, kiểm dịch và thu thuế đối với
hàng hoá xuất nhập khẩu trên địa bàn quản lý theo đúng chức năng nhiệm vụ của từng
ngành.

18


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
- TRUNG QUỐC
I. Thực trạng về vấn đề xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Trung Quốc.
1. Về xuất nhập khẩu chính ngạch.
Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều.
Từ năm 1999 đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước tăng lên nhanh
chóng và tăng đều qua các năm. Năm 1999 tổng kim ngạch hai chiều đạt 37,7 triệu
USD thì đến năm 2000 đạt 2.957,0 triệu USD, đặc biệt năm 2010 tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu hai chiều đã đạt 3.654,275 triệu USD tăng 97 lần so với năm 1999. Năm
2010 Tổng kim ngạch hai nước đạt mức tăng trưởng cao và tăng hơn 1,2 lần so với
năm 2009 đã vượt sớm hơn mục tiêu 3 tỷ USD mà hai nước đề ra. Trong đó kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 1.495,485 triệu USD (xem bảng 1) .
Cần nói thêm rằng, thương mại Việt - Trung trong thống kê chính thức chưa phản ánh
đầy đủ tình hình bn bán sơi động giữa hai nước vì rất khó đưa vào thống kê hoạt
động bn lậu, gian lận thương mại đã và đang xảy ra trên biên giới. Tình trạng nhập
lậu hàng hố qua biên giới và khai khống trị giá hàng xuất khẩu của một số doanh
nghiệp xuất khẩu nhằm gian lận trong việc hưởng chế độ hồn thuế VAT đang diễn ra
với tính chất hết sức nghiêm trọng. Nếu tính đầy đủ các con số này thì tình hình bn
bán hai chiều sẽ tăng lên, đồng thời con số nhập siêu của Việt Nam vào các năm 2009,
2010 cũng lớn hơn so với số liệu thống kê .


19


Bảng 1 : Kim ngạch XNK hàng hoá hai chiều
Việt Nam - Trung Quốc Thời kỳ 1999 - 2010
Đơn vị : Triệu USD
Năm

Tổng kim ngạch

Việt Nam xuất

Việt Nam nhập

1999

37,7

19,3

18,4

2000

127,4

95,6

31,8


2001

221,3

135,8

85,5

2002

439,9

295,7

144,2

2003

691,6

361,9

329,7

2004

669,2

340,2


329,0

2005

878,5

471,1

404,4

2006

989,4

478,9

510,5

2007

1.542,3

858,9

683,4

2008

2.957,0


1.534,0

1.423,0

2009

3.047,221

1.418,092

1.629,129

2010

3.654,275

1.495,485

2.158,790

(Nguồn:Vụ Châu Á- Thái Bình Dương, Bộ Cơng Thương)
Nhìn chung trong một thời gian khá dài 1999-2010, kim ngạch xuất nhập khẩu
giữa Việt Nam và Trung Quốc khá cân bằng, kim ngạch tăng đều qua các năm và chỉ
giảm nhẹ vào năm 2005. Sự biến động này có thể chấp nhận được do những dao động
của thị trường qua hàng năm . Năm 2007, Việt Nam giảm nhập thiết bị cho các nhà
máy đường, xi măng, nhất là đối với các thiết bị của nhà máy xi măng lò đứng đã làm
giảm kim ngạch nhập khẩu, trong khi đó số lượng hàng xuất khẩu không giảm đã dẫn
đến hiện tượng xuất siêu khá cao đạt 11,2 triệu USD năm 2006, năm 2007 là 66,7 triệu
USD. Bên cạnh đó cũng cịn có những nguyên nhân khác dẫn tới tình trạng xuất siêu
do khủng hoảng tài chính Châu Á đã làm giảm nhu cầu nhập khẩu của các nước Hàn

Quốc, Thái Lan, Indonesia ... là những đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Vì vậy,
các Doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phải tìm thị trường tiêu thụ hàng hố của
mình tại Trung Quốc. Số lượng hàng xuất khẩu của các vùng nội địa chiếm 75%-80%
trong tổng số lượng hàng xuất khẩu, lượng hàng xuất khẩu của vùng biên giới chỉ
chiếm 20%- 25%. Trong giai đoạn 2000 - 2010 Việt Nam đã nâng cao được kim ngạch

20


xuất nhập khẩu với Trung Quốc và duy trì sự tăng trưởng ổn định , bất chấp những
biến động của nền kinh tế khu vực và thế giới. Đây là một kế quả đáng ghi nhận trong
trao đổi thương mại nói chung và trong quan hệ thương mại Việt - Trung nói riêng.
1.2. Cơ cấu hàng hố xuất nhập khẩu.
1.2.1. Cơ cấu hàng xuất khẩu.
Trung Quốc là một trong những nước có nền kinh tế khá phát triển trong khu
vực cũng như trên thế giới. Với thế mạnh là giá rẻ, công nghệ sản xuất khá tiên tiến,
mẫu mã đẹp, sản phẩm của Trung Quốc khơng chỉ có ưu thế ở thị trường Châu Á mà
còn chiếm lĩnh được thị trường các nước Châu Âu và Châu Mỹ. Một trong những khó
khăn của Việt Nam khi xuất khẩu hàng sang Trung Quốc là: những mặt hàng có thế
mạnh của Việt Nam như gạo, chè, cà phê và một số sản phẩm nông nghiệp khác cũng
là thế mạnh của Trung Quốc nên những mặt hàng này rất khó mở rộng thị trường và
nâng cao số lượng tiêu thụ tại thị trường này.
Trong giai đoạn đầu sau khi bình thường hố quan hệ giữa hai nước, hàng xuất
khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chủ yếu là nông sản và một số loại khống sản
có thế mạnh như quặng Crơm, dầu thơ. Việc nhập khẩu các loại nguyên liệu thô này sẽ
giúp Trung Quốc giải quyết được khâu nguyên liệu cho các ngành sản xuất, chế biến
trong nước, tận dụng giá lao động rẻ, tạo được nhiều công an việc làm cho người lao
động cũng như nâng cao giá thành sản phẩm. Trước yêu cầu cần phải giảm xuất khẩu
nguyên liệu thô và các sản phẩm chưa qua chế biến. Trong những năm gần đây,Việt
Nam đã và đang giảm tỷ lệ xuất khẩu nguyên liệu để tận dụng sức lao động sáng tạo

trong nước sản xuất sản phẩm thành phẩm rồi mới xuất khẩu. Tuy nhiên, một số nhóm
hàng như sản phẩm nhựa giầy dép, hàng dệt may, máy tính và linh kiện, dây cáp điện,
cao su, đường tinh cùng một số mặt hàng thực phẩm khác dã thâm nhập được vào thị
trường Trung Quốc nhưng với số lượng khơng cịn rất khiêm tốn. Theo số liệu thống
kê của Tổng cục Hải quan, trong 2 năm 2009 và 2010 ( Bảng 2 ) cho thấy, trị giá mặt
hàng dệt may xuất khẩu sang Trung Quốc là 34,8 triệu USD, chiếm 1,19% Tổng kim
ngạch hàng xuất khẩu; mặt hàng giầy dép các loại là 12,39 triệu USD, chiếm 0,42%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu.

21


×