Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Luận văn: Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế Việt Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.81 KB, 32 trang )


Trang 1


Luận văn
Đề tài: Vai trò của thị trường chứng
khoán đối với nền kinh tế Việt Nam

Trang 2
MỤC LỤC


Trang
Lời nói đầu
1
Phần I: Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán
2
I/ Chứng khoán và thị trường chứng khoán
2
1. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên thế giới
2
2. Khái niệm
3
II/ Cơ cấu và hoạt động của thị trường chứng khoán
7
1. Thị trường sơ cấp
7
2. Thị trường thứ cấp
8
3. Sở giao dịch chứng khoán
9


4. Những nguyên tắc cơ bản về hoạt động của thị trường chứng khoán
11
5. Giao dịch trên thị trường chứng khoán
13
III/ Vai trò của thị trường chứng khoán
14
Phần II: Sự hình thành thị trường chứng khoán tại Việt Nam 17
I/ Tính tất yếu của việc hình thành thị trường chứng khoán tại Việt nam
17
1. Do yêu cầu của nền kinh tế
17
2. Do yêu cầu của nhà nước
18
III/ Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay
18
1. Thực trạng
18
2. Những thuận lợi cho sự hình thành một thị trường chứng khoán thực sự tại Việt
Nam
19
3. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
20
4. Hàng hoá ở thị trường chứng khoán
21
5. Những vấn đề còn tồn tại
22
Phần III: Định hướng và giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt
Nam
24


Trang 3
I/ Định hướng phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam
24
II/ Giải pháp để khắc phục những hạn chế giải quyết vấn đề về hàng hoá trên thị
trường chứng khoán
26
Kết luận
29
Tài liệu tham khảo
30

Trang 4
LỜI NÓI ĐẦU

Đường lối kinh tế và chiến lược phát triển kinh tế của nước ta là "Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa " (trích Báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII và trình đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng) đòi hỏi phải có nguồn lực lớn mà cụ thể là huy
động được nguồn vốn lớn cho sự phát triển kinh tế đất nước. Phát triển thị trường
chứng khoán, tìm ra các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán đã đáp ứng
được nhu cầu cấp bách về nguồn vốn hiện nay.


Trang 5
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN

I. CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên thế
giới.
Thị trường chứng khoán là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện đại. Đến
nay, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển đều có thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán đã trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được
trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường.
Vào khoảng giữa thế kỷ 15 ở tại những thành phố trung tâm buôn bán của
phương tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để thương lượng việc
mua bán, trao đổi các loại hàng hoá như: nông sản, khoáng sản, ngoại tệ và giá
khoán động sản … Điểm đặc biệt là trotng những cuộc thương lượng này các
thương gia chỉ dùng lời nói để trao đổi với nhau, không có hàng hoá, ngoại tệ, giá
khoán động sản hay bất cứ một loại giấy tờ nào. Những cuộc thương lượng này
nhằm thống nhất với nhau các "Hợp đồng" mua bán, trao đổi thực hiện ngay, kể cả
những hợp đồng cho tương lai 3 tháng, 6 tháng hoặc một năm sau mới thực hiện.
Những cuộc trao đổi này lúc đầu chỉ có một nhóm nhỏ, dần dần số người tăng
lên. Đến cuối thế kỷ 15 "khu chợ riêng" này trở thành một "thị trường" và thời gian
họp chợ rút xuống hàng tuần và sau đó là hàng ngày. Trong các phiên chợ này họ
thống nhất với nhau những quy ước cho các cuộc thương lượng. Dần dần những
quy ước đó được tu bổ hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc đối với
những người tham gia. Từ đó thị trường chứng khoán bắt đầu hình thành.
Phiên chợ đầu tiên năm 1453 tại đai Vanber của Bỉ sau đó được xuất hiện ở Anh
năm 1773, ở Đức 1778, ở Mỹ 1792, ở Thụy sĩ 1876, ở Nhật 1878, ở Pháp 1801, ở
Hương Cảng 1946, ở Inđônêxia 1925, ở Hàn Quốc 1956, ở Thái Lan 1962, ở
Malaysia và Philipin 1963.

Trang 6
Quá trình hình thành và phát triển của các thị trường chứng khoán thế giới đã trải
qua những bước thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng vào những năm 1975 - 1913 cùng
với sự phát triển thịnh vượng của nền kinh tế. Cũng có lúc thị trường chứng khoán
rơi vào đêm đen như ngày thứ năm đen tối tức ngày 29/10/1929 rồi ngày thứ hai

đen tối năm 1987, vừa qua tháng 7/97 thị trường chứng khoán ở các nước Châu Á
sụt giá, mất lòng tin bắt đầu từ Thái Lan. Đến nay thị trường chứng khoán các
nước đang phát triển mạnh mẽ về số lượng thị trường chứng khoán lên đến 160 sở
giao dịch, chất lượng hoạt động thị trường ngày càng đáp ứng cho số đông những
nhà đầu tư trong và ngoài nước, tiến tới một thị trường chứng khoán hội nhập khu
vực và quốc tế.
Hiện nay thị trường chứng khoán đã phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước công
nghiệp hàng đầu Mỹ, Nhật, Anh, Đức, Pháp… Bên cạnh đó hơn 40 nước phát triển
đã thiết lập thị trường chứng khoán cũng đã hình thành ở các nước láng giềng Việt
Nam như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philipin và Inđônêxia và Việt Nam cũng
đã có trung tâm giao dịch thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh.
(7/2000).
2. Các khái niệm
a. Chứng khoán:
Chứng khoán là các loại công cụ tài chính dài hạn, bao gồm các loại cổ phiếu và
trái phiếu.
Cổ phiếu là loại chứng chỉ xác nhận việc góp vốn của một người vào công ty cổ
phần. Cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu của người này đối với công ty cổ phần,
người sở hữu được gọi là cổ đông, cổ đông có các quyền hạn và trách nhiệm đối
với công ty cổ phần, được chia lời (cổ tức) theo kết quả kinh doanh của công ty cổ
phần: được quyền bầu cử, ứng cử vào ban quản lý, ban kiểm soát. Cổ phiếu có thể
được phát hành vào lúc thành lập công ty, hoặc lúc công ty cần thêm vốn để mở
rộng, hiện đại hoá sản xuất kinh doanh.
Một đặc điểm của cổ phiếu là cổ đông được chia cổ tức theo kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty. Cổ đông có thể được hưởng lợi nhuận nhiều hơn

Trang 7
giá trị của cổ phiếu và cũng có thể bị mất trắng khi công ty làm ăn thua lỗ. Cổ
đông không được quyền đòi lại số vốn mà người đó đã góp vào công ty cổ phần,
họ chỉ có thể thu lại tiền bằng cách bán cổ phiếu đó ra trên thị trường chứng khoán.

Trái phiếu là chứng chỉ xác nhận quyền làm chủ một món nợ của chủ sở hữu trái
phiếu đối với đơn vị phát hành. Trái phiếu là loại chứng khoán mà lãi suất vay nợ
đã được xác định rõ ngay khi phát hành do đó nó có lợi tức cố định và chỉ được
hoàn trả khi đến hạn thanh toán ghi trên trái phiếu mà người phát hành phải thực
hiện. Trái phiếu do các doanh nghiệp có thể là quốc doanh, tư doanh hay cổ phần
phát hành. ở Việt Nam hình thức vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu đã xuất
hiện ở một vài nơi. Ví dụ như việc phát hành trái phiếu huy động vốn cho đầu tư
mở rộng sản xuất của nhà máy xi măng Hoàng Thạch vào cuối năm 994, một số
doanh nghiệp khác cũng có hình thức huy động vốn này để vay của cán bộ công
nhân viên trong doanh nghiệp.
Kỳ phiếu là chứng chỉ của nhà nước phát hành với mục đích vay vốn của các tổ
chức kinh tế xã hội, các tầng lớp dân cư để bù đắp vào thâm hụt của ngân sách Nhà
nước. Trong vài năm trở lại đây, kho bạc nhà nước đã phát hành kỳ phiếu kho bạc
rộng rãi trong cả nước.
b. Thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán (tiếng latinh là Bursa - nghĩa là cái ví tiền) là nơi mà
cung và cầu của các loại chứng khoán gặp nhau để xác định giá cả. Số lượng của
từng loại chứng khoán được giao dịch trên thị trường.
Cụ thể hơn thị trường chứng khoán có thể được định nghĩa như là nơi tập trung
các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho người muốn sử dụng những nguồn tiết
kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả. Nói cách khác thị trường chứng
khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn đầu tư này, có thêm nhiều vốn hơn
để đưa vào sản xuất trong nền kinh tế vì vậy có thể làm cho nền kinh tế tăng
trưởng và tạo nên sự thịnh vượng.
Theo định nghĩa nêu trên, thị trường chứng khoán không phải là cơ quan mua
vào hoặc bán ra các loại chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ là nơi giao

Trang 8
dịch, ở đó việc mua bán chứng khoán được thực hiện bởi những người môi giới
chứng khoán. Như vậy thị trường chứng khoán không phải là nơi giao dịch (mua -

bán) chứng khoán của những người muốn mua hay bán chứng khoán mà là của
những nhà môi giới. Nếu một người muốn mua hay bán chứng khoán, người này
sẽ thông qua người môi giới chứng khoán của anh ta trên thị trường chứng khoán
để tiến hành việc mua bán chứ không trực tiếp tham gia mua bán. Giá cả chứng
khoán được hình thành một cách khách quan theo hệ thống bán đấu giá hai chiều.
Người môi giới mua khác được với giá thấp nhất, người môi giới bán cạnh tranh
với những người môi giới bán khác để bán được giá cao nhất. Vì thế mà thị trường
chứng khoán là thị trường có tính tự do cao nhất trong các loại thị trường.
c. Phân loại thị trường chứng khoán.
Về phương diện pháp lý thị trường chứng khoán gồm có:
Thị trường chứng khoán (TTCK tập trung) là thị trường hoạt động theo đúng các
qui luật pháp định, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng biểu hay
được biệt lệ.
Chứng khoán đăng biểu là loại chứng khoán đã được cơ quan có thẩm quyền cho
phép bảo đảm, phân phối và mua bán qua trung gian các kinh kỷ và công ty kinh
kỷ, tức là đã hội đủ các tiêu chuẩn đã định.
Chứng khoán biệt lệ là loại chứng khoán được miễn giấy phép của cơ quan có
thẩm quyền, do chính phủ trong các cơ quan công quyền, thành phố, tỉnh quận,
huyện, thị phát hành và bảo đảm.
Thị trường chứng khoán chính thức có địa điểm và thời biểu mua bán rõ rệt và
giá cả được tính theo thể thức đấu giá công khai, có sự kiểm soát của hội động
chứng khoán. Thị trường chứng khoán chính thức chủ yếu được thể hiện bằng các
sở giao dịch chứng khoán.
Thị trường chứng khoán phi chính thức: (TTCK phi tập trung) là thị trường mua
bán chứng khoán bên ngoài sở giao dịch chứng khoán, không có địa điểm tập trung
những người môi giới, những người kinh doanh chứng khoán như ở sở giao dịch

Trang 9
chứng khoán. ở đây không có sự kiểm soát từ bên ngoài, không có ngày giờ hay
thủ tục nhất định mà do sự thoả thuận của người mua và người bán.

d. Chỉ số chứng khoán:
Khi nói đến thị trường chứng khoán không thể không nói đến chỉ số chứng
khoán. Người ta thường coi chỉ số chứng khoán là chiếc "phong vũ biểu" của thị
trường chứng khoán mà ở dạng này hay dạng khác người ta dùng chỉ số chứng
khoán để thể hiện sự phát triển của thị trường và các thành phần của nó. Các chỉ số
này thường được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và các tờ nhật
báo lớn ở các nước chỉ số chứng khoán phản ánh tình hình hoạt động của các công
ty trên thị trường. Nếu các công ty làm ăn có lãi, giá chứng khoán của các công ty
đó sẽ tăng và làm tăng theo chỉ số chứng khoán. Ngược lại, chỉ số chứng khoán sẽ
giảm. Dựa vào chỉ số chứng khoán, các nhà đầu tư có thể xác định được hiệu quả
của một cổ phiếu hoặc một danh mục các chứng khoán để đầu tư vào.
Bất kỳ một thị trường chứng khoán nào cũng có một chỉ số chứng khoán của
riêng nó. Ví dụ thị trường chứng khoán New york có chỉ số Dow Jones, thị trường
chứng khoán Tokyo áp dụng chỉ số Nikkei, Hong Kong áp dụng chỉ số Hang -
xieng, Singapore áp dụng chỉ số "Strai taime"…
Một loại chỉ số chứng khoán được nhiều người biết đến nhất là chỉ số Dow Jones
ra đời cách đây vừa tròn 100 năm (896). Chỉ số này được coi như một cột mốc của
thị trường chứng khoán thế giới. Chỉ số này do hai nhà kinh tế Mỹ Edward David
Jones và Charles Hery Dow đề xuất đo lường mức độ biến động của thị giá cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán New York. Chỉ số Dow Jones bao gồm 65 loại
cổ phiếu được chia thành 3 nhóm chỉ số bình quân nhỏ như sau:
+ Chỉ số Dow Jones công nghiệp bao gồm giá cổ phiếu của 30 công ty hàng đầu
ngành công nghiệp công lại rồi chia cho 1504 (con số này có khi có giảm).
+ Chỉ số Dow Jones vận tải bao gồm giá cổ phiếu của 20 công ty hàng đầu ngành
giao thông vận tải cộng lại chia cho 2785 (con số này có khi tăng).
+ Chỉ số Dow Jones dịch vụ công cộng bao gồm giá cổ phiếu của 15 công ty
hàng đầu ngành dịch vụ công cộng.

Trang 10
Để biết được tình hình phát triển kinh tế gần đây người ta xác định thêm một số

tiêu chuẩn khác. Đó là các điểm giới hạn và điểm liệt. Chẳng hạn điểm giới hạn
của chỉ số Dow Jones là 800, điểm liệt là 700. Nếu chỉ số Dow Jones hàng ngày
vượt quá 800 điểm chung trong nền kinh tế đang đi lên, nếu dưới 800 điểm cho
biết có nguy cơ xảy ra suy thoái kinh tế.
II. CƠ CẤU VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
Thị trường chứng khoán chính thức được thể hiện bằng sở giao dịch chứng
khoán. Thông thường một thị trường chứng khoán bao gồm hai thị trường cùng
tham gia (cấu trúc thị trường chứng khoán) là thị trường sơ cấp và thị trường thứ
cấp.
1. Thị trường sơ cấp:
Là thị trường cấp một hay thị trường phát hành, hàm ý chỉ nơi diễn ra hoạt động
giao dịch mua bán những chứng khoán mới phát hành lần đầu, kéo theo sự tăng
thêm qui mô đầu tư vốn. Nguồn cung ứng vốn chủ yếu tại thị trường này là nguồn
tiết kiệm của dân chúng như của một số tổ chức phi tài chính. Thị trường sơ cấp là
thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành.
2. Thị trường thứ cấp.
Còn gọi là thị trường cấp hai hay thị trường lưu thông, là nói đến nơi diễn ra hoạt
động giao dịch mua bán chứng khoán đến tay thứ hai, tức là việc mua bán tiếp thu
sau lần bán đầu tiên. Nói cách khác, thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại
các loại chứng khoán đã được phát hành qua thị trường sơ cấp.
Điểm khác nhau căn bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp không phải
là sự khác nhau về hình thức mà là sự khác nhau về nội dung, về mục đích của
từng loại thị trường. Bởi lẽ, việc phát hành cổ phiếu hay trái phiếu ở thị trường sơ
cấp là nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư và tiết kiệm vào công cuộc phát triển
kinh tế. Còn ở thị trường thứ cấp, dù việc giao dịch rất nhộn nhịp có hàng chục,
hàng trăm thậm chí hàng ngàn tỉ đô la chứng khoán được mua đi bán lại, nhưng
không làm tăng thêm qui mô đầu tư vốn, không thu hút thêm được các nguồn tài

Trang 11
chính mới. Nó chỉ có tác dụng phân phối lại quyền sở hữu chứng khoán từ chủ thể

này sang chủ thể khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp gộp lại được gọi là thị trường chứng
khoán. Hai thị trường này tồn tại quan hệ mật thiết với nhau được ví dụ như hai
bánh xe của một chiếc xe, trong đó thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề, thị trường
thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì sẽ chẳng có chứng khoán
để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp
thì việc hoán chuyển các chứng khoán thành tiền sẽ bị khó khăn, khiến cho người
đầu tư sẽ bị thu nhỏ lại, hạn chế khả năng huy động vốn trong nền kinh tế.
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý
thuyết. Trong thực tế tổ chức thị trường chứng khoán không có sự phân biệt đâu là
thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp. Nghĩa là, trong một thị trường
chứng khoán vừa có giao dịch của thị trường sơ cấp vừa có giao dịch của thị
trường thứ cấp. Vừa có việc mua bán chứng khoán theo tính chất mua đi bán lại.
Tuy nhiên, điểm cần chú ý là phải coi trọng thị trường sơ cấp, vì đây là thị trường
phát hành là hoạt động tạo vốn cho đơn vị phát hành đồng thời phải giám sát chặt
chẽ thị trường thứ cấp, không để tình trạng đầu cơ lũng đoạn thị trường để đảm
bảo thị trường chứng khoán trở thành công cụ hữu dụng của nền kinh tế.
3. Sở giao dịch chứng khoán:
Thị trường chứng khoán chính thức được tổ chức theo hình thức Sở giao dịch
chứng khoán.
a. Các hình thức tổ chức sở giao dịch chứng khoán.
Hiện nay trên thế giới có 3 hình thức tổ chức sở giao dịch chứng khoán.
Thứ nhất: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức theo hình thức "Câu lạc bộ"
tự nguyện của các thành viên. Trong hình thức này, các thành viên của sở giao
dịch (hội viên) tự tổ chức và tự quản lý sở giao dịch chứng khoán theo pháp luật
không có sự can thiệp của nhà nước. Các hội viên của Sở giao dịch bầu ra Hội
đồng quản trị và Hội đồng quản trị bầu ra ban điều hành.

Trang 12
Thứ hai: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới hình thức một công ty cổ

phần có các cổ đông là các công ty thành viên. Đây là hình thức phổ biến nhất hiện
nay. Sở giao dịch chứng khoán tổ chức dưới hình thức này được hoạt động theo
luật công ty cổ phần, phải nộp thuế cho nhà nước và chịu sự giám sát của một cơ
quan chuyên môn do chính phủ lập ra. Cơ quan chuyên môn này là cơ quan quản
lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Quản lý và điều hành sở
giao dịch chứng khoán là Hội đồng quản trị do các công ty chứng khoán thành
viên bầu ra và ban điều hành sở giao dịch chứng khoán do Hội đồng quản trị đề cử.
Thứ ba: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần
nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của nhà nước. Đây là hình thức phổ
biến ở hầu hết các nước Châu á. Cơ cấu tổ chức và quản lý điều hành cũng tương
tự như hình thức trên nhưng trong thành phần Hội đồng quản trị có một số thành
viên do uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám sát điều hành. Sở giao dịch
chứng khoán quốc gia bổ nhiệm.
b. Quản lý và điều hành sở giao dịch chứng khoán
Uỷ ban chứng khoán quốc gia là cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng
khoán do chính phủ thành lập. Uỷ ban chứng khoán quốc gia có nhiệm vụ xác
định loại doanh nghiệp nào được phép phát hành chứng khoán và loại chứng khoán
nào được mua bán. Uỷ ban này cấp giấy phép và kiểm tra hoạt động của các công
ty môi giới và thực hiện các công việc quản lý nhà nước khác.
Hội đồng quản trị và ban điều hành sở giao dịch chứng khoán quản lý và điều
hành sở giao dịch chứng khoán. Tất cả các quyết định đều được Hội đồng quản trị
đưa ra. Hội đồng này bao gồm các công ty chứng khoán thành viên của sở giao
dịch chứng khoán, các thành viên liên doanh thậm chí có một số không phải là
thành viên của sở giao dịch chứng khoán do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa
vào. Hội đồng quản trị có quyền quyết định nhưng thành viên nào được phép buôn
bán tại sở giao dịch, những loại chứng khoán nào đủ tiêu chuẩn được phép niêm
yết tại phòng giao dịch. Hội đồng này có quyền đình chỉ hoặc huỷ bỏ việc niêm yết
một chứng khoán nào đó. Hội đồng quản trị có quyền kiểm tra quá trình kinh
doanh của các thành viên sở giao dịch. Nếu phát hiện vi phạm, Hội đồng quản trị


Trang 13
có quyền phạt hoặc đình chỉ việc kinh doanh của thành viên trong một thời gian
nhất định hoặc trục xuất không cho phép mua bán trên sở giao dịch. Nếu phát hiện
vi phạm, Hội đồng quản trị có quyền phạt hoặc đình chỉ việc kinh doanh của thành
viên trong một thời gian nhất định hoặc trục xuất không cho phép mua bán trên sở
giao dịch chứng khoán nữa.


c. Thành viên sở giao dịch chứng khoán.
Thành viên sở giao dịch chứng khoán có thể là các cá nhân hoặc các công ty
chứng khoán. Để trở thành thành viên của sở giao dịch chứng khoán trước hết
công ty phải được công ty có thẩm quyền của nhà nước cấp giấy phép hoạt động.
Phải có số vốn tối thiểu theo quy định, có chuyên gia kinh tế, pháp lý đã được đào
tạo về phân tích và kinh doanh chứng khoán. Ngoài ra công ty còn phải thoả mãn
các yêu cầu của từng sở giao dịch chứng khoán cụ thể. Một công ty chứng khoán
có thể là thành viên của nhiều sở giao dịch chứng khoán khác nhau nhưng không
được là thành viên của thị trường chứng khoán phi tập trung và ngược lại công ty
chứng khoán có thể thực hiện một hay nhiều nghiệp vụ khác nhau trên thị trường
chứng khoán.
d. Giám sát thị trường chứng khoán.
Để đảm bảo cho các giao dịch được công bằng đảm bảo lợi ích của các nhà đầu
tư, sở giao dịch chứng khoán có một bộ phận chuyên theo dõi giám sát các giao
dịch chứng khoán để ngăn chặn kịp thời các vi phạm trong giao dịch chứng khoán.
Nhiệm vụ chủ yếu của các bộ phận giám sát là kiểm tra theo dõi và ngăn chặn kịp
thời các hoạt động tiêu cực như gây nhiễu giá, giao dịch tay trong, giao dịch lòng
vòng, giao dịch có dàn xếp trước.
4. Những nguyên tắc cơ bản về hoạt động của thị trường chứng khoán.
a. Nguyên tắc trung gian mua bán chứng khoán.
Hoạt động mua bán chứng khoán không phải trực tiếp diễn ra giữa những người
muốn mua và bán, chứng khoán thực hiện mà do các nhà trung gian môi giới thực


Trang 14
hiện. Đây là nguyên tắc trung gian căn bản cho tổ chức và hoạt động của thị trường
chứng khoán.
Nguyên tắc trung gian nhằm đảm bảo cho các loại chứng khoán là chứng khoán
thực và thị trường hoạt động lành mạnh, đều đặn hợp pháp và phát triển, bảo vệ lợi
ích của người đầu tư. Vì những nhà đầu tư không thể xét đoán một cách nhanh
chóng và chính xác giá trị thực sự của từng loại chứng khoán và cũng không dự
đoán được chính xác xu hướng biến động của nó. Vì vậy nếu người môi giới có
thái độ không khách quan trong hoạt động trung gian sẽ gây thiệt haị cho các nhà
đầu tư.
Xét về tính chất kinh doanh, môi giới chứng khoán có 2 loại: Môi giới chứng
khoán và thương gia chứng khoán.
Môi giới chứng khoán chỉ thương lượng mua bán chứng khoán theo lệnh của
khách hàng và ăn hoa hồng.
Thương gia chứng khoán còn gọi là người kinh doanh chứng khoán.
Nói chung các công ty môi giới chứng khoán tại các thị trường chứng khoán
đều đồng thời thực hiện 2 nghiệp vụ là người môi giới vừa là người kinh doanh
nhưng tại thị trường chứng khoán New York, London từ lâu người ta đã phân biệt
2 loại môi giới này và có luật lệ không chỉ hoạt động của thương gia chứng khoán.
b. Nguyên tắc định giá của mua bán chứng khoán.
Giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán do các nhà môi giới đưa ra. Mỗi
nhà môi giới định giá mỗi loại chứng khoán tại từng thời điểm tuỳ theo sự xét
đoán, kinh nghiệm và kỹ thuật dựa trên lượng cung cầu loại chứng khoán đó trên
thị trường.
c. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán.
Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai hoá. Thông
tin về các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, tình hình tài
chính và kết quả kinh doanh của các công ty phát hành, số lượng chứng khoán và
giá cả của từng loại chứng khoán đều được thông báo công khai trên thị trường.

Khi kết thúc một cuộc giao dịch, số lượng mua bán và giá cả thống nhất lập tức

Trang 15
được thông báo ngay. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán nhằm
đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán không bị "hớ" trong mua bán
chứng khoán.
Tất cả các nguyên tắc trên đều được thể hiện bằng văn bản pháp quy từ luật đến
qui chế, điều lệ của mỗi thị trường chứng khoán nhằm bảo vệ quyền lợi của người
mua chứng khoán và của các thành viên trên thị trường chứng khoán.
5. Giao dịch trên thị trường chứng khoán.
Các chứng khoán được giao dịch trên thị trường theo lô chẵn hoặc lô lẻ. Trên sàn
giao dịch, có nhiều loại lệnh khác nhau được nhà đầu tư sử dụng tùy theo mục đích
của từng người. Để mua hay bán chứng khoán, các nhà đầu tư sẽ đưa ra các lệnh
thuê các công ty môi giới chứng khoán thực hiện hộ.
* Lệnh thị trường: Đây là loại lệnh thông dụng nhất. Các công ty môi giới căn
cứ vào giá thị trường hiện tại của loại chứng khoán mà nhà đầu tư yêu cầu thực
hiện để tiến hành giao dịch, xong họ cũng phải xem xét để mua hoặc bán sao cho
có lợi nhất cho khách hàng của họ, các khách hàng biết chắc lệnh sẽ được thực
hiện nhưng không biết chắc giá cả là bao nhiêu.
* Lệnh giới hạn: Lệnh này thường được đưa ra bởi các nhà đầu tư có hiểu biết
chút ít về thị trường chứng khoán và kinh tế. Trong lệnh có giới hạn về giá bán
thấp nhất và giá mua cao nhất mà công ty môi giới trên sàn giao dịch được phép
thực hiện. Đối với lệnh mua thì giá mua thường thấp hơn giá thị trường hiện đại
còn lệnh bán có giá thường cao hơn giá thị trường. Do vậy lệnh giới hạn thường
không được thực hiện ngay mà được thực hiện trong một thời gian nhất định cho
đến khi hết thời hạn và huỷ bỏ. Trong khi chưa bị huỷ bỏ mà lệnh chưa được thực
hiện thì nhà đầu tư vẫn có thể tăng giảm giá giơí hạn (giá mua, giá bán).
* Lệnh ngừng: Đây là lệnh đặc biệt mà các nhà đầu tư dùng để bảo vệ thu nhập
của họ tránh thua lỗ khi có sự tăng giảm giá cả. Lệnh ngừng bán có giá đặt ra cao
hơn giá thị trường hiện tại còn lệnh ngừng mua có giá đặt ra thấp hơn thị trường

hiện tại.
Các lệnh trên khi đấu giá sẽ được ưu tiên theo thứ tự.

Trang 16
- Ưu tiên về giá: Giá đặt mua cao nhất và giá đặt bán thấp nhất được ưu tiên.
- Ưu tiên về thời gian: Trong cùng một mức giá lệnh nào được đưa ra trước sẽ
được ưu tiên.
- Ưu tiên về số lượng: Khi có nhiều lệnh cùng thoả mãn hai điều kiện trên, lệnh
nào có số lượng chứng khoán nhiều hơn sẽ được ưu tiên.
Trên thị trường chứng khoán phi tập trung, hoạt động mua bán chứng khoán cũng
diễn ra khá đơn giản. Khi một khách hàng muốn mua một số lượng chứng khoán
nhất định, anh ta sẽ đưa lệnh cho công ty chứng khoán đang quản lý tài sản của
anh ta yêu cầu giao dịch hộ. Thông qua hệ thống viễn thông công ty môi giới sẽ
liên lạc với tất cả các nhà tạo thị trường của loại chứng khoán này để biết được giá
chào bán thấp nhất của loại chứng khoán này sau đó công ty này thông báo lại cho
khách hàng biết và nếu khách hàng chấp nhận, công ty sẽ thực hiện lệnh và giao
dịch của khách hàng được thực hiện.
III. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
Thị trường chứng khoán đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh
tế các nước trên thế giới. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển đến một mức độ nhất
định sẽ cần tới thị trường chứng khoán để hỗ trợ cho quá trình phát triển.
Trong thập kỷ vừa qua các thị trường chứng khoán trên thế giới đã phát triển hết
sức mạnh mẽ. Tổng giá trị cổ phiếu được yết giá trên các thị trường này tăng từ
4.700 tỷ USD năm 1985 lên 15200 tỷ USD năm 1995. Trong đó giá trị cổ phiếu
giao dịch trên thị trường chứng khoán ở các nước đang phát triển tăng nhanh từ
3% năm 1983 lên 17% tổng lượng giao dịch toàn thế giới năm 1995.
Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán có tác động tích cực tới sự
phát triển của các quốc gia. Thực tế cho thấy thị trường chứng khoán đã thúc đẩy
phát triển kinh tế ở nhiều nước một cách có hiệu quả thông qua việc góp phần tạo
ra vốn khả dụng. Thực vậy, đa số các dự án đầu tư cần phải sử dụng vốn dài hạn

thì mới đạt hiệu quả cao trong khi các nhà tiết kiệm lại không muốn mất quyền
kiểm soát món tiết kiệm của họ trong thời gian dài. Thị trường chứng khoán hoạt
động trôi chảy sẽ cho phép khắc phục được mâu thuẫn này khiến cho các hoạt

Trang 17
động đầu tư trên thị trường hấp dẫn, thuận tiện và có lãi suất cao hơn so với gửi
tiết kiệm vì người tiết kiệm có thể mua một loại chứng khoán nào đó rồi lại đem
bán một cách nhanh chóng ít phí tổn khi cần tiền mặt hoặc để đầu tư vào một loại
chứng khoán khác mà họ thích. Việc trao đổi này diễn ra trên thị trường thứ cấp
trong khi đó các doanh nghiệp vẫn được sử dụng nguồn vốn dài hạn thường xuyên
và ổn định. Như vậy, thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản đầu tư
dài hạn phát triển, làm cho các khoản đầu tư sinh lợi nhiều hơn mà thị trường
chứng khoán khuyến khích được nhiều vốn hơn vào nền kinh tế góp phần đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thị trường chứng khoán cũng hỗ trợ cho hệ
thống ngân hàng trong nhiều lĩnh vực. Về cơ bản, thị trường chứng khoán bổ sung
cho hệ thống ngân hàng trong việc cung cấp vốn vay trung và dài hạn. Hệ thống
ngân hàng với chức năng chủ yếu là "tạm ứng" vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt
động tín dụng: Nhân tố tiền gửi của dân cư mà học nhân được lên nhiều. Tiền được
cho vay qua các hoạt động tín dụng cần được thu về. Tuy vậy bao giờ cũng có
phần vốn vay kém hiệu quả không thu hồi được vẫn nằm trong lưu thông, làm cho
mức gia tăng tiền tệ cao hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Điều đó có nghĩa là một
lượng tiền tăng thêm không có lượng hàng hoá dịch vụ tăng theo tương ứng ngày
càng gây ra lạm phát trong nền kinh tế. Do vậy hệ thống ngân hàng chỉ có thể cấp
tín dụng trung và dài hạn cho nền kinh tế một cách hạn chế nếu không sẽ dẫn đến
tình trạng chuyển hoá vốn quá mức, không những đe doạ an toàn của các ngân
hàng mà còn gây nguy cơ lạm phát. Trong bối cảnh đó, thị trường chứng khoán là
nơi bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng cho các khoản đầu tư phát
triển. Trên thị trường sơ cấp vốn được chuyển trực tiếp từ người có vốn sang người
cần vốn thông qua việc phát hành lần đầu các loại chứng khoán. Trên thị trường
thứ cấp sau đó, chứng khoán đã phát hành có tác dụng như "gây tiếp sức" để người

đầu tư mới tiếp sức cho người đầu tư cũng thông qua việc mua bán lại chứng
khoán. Đó là quá trình biến các khoản tiết kiệm ngắn hạn thành nguồn nuôi dưỡng
và duy trì các khoản đâù tư dài hạn trên cơ sở tham gia tích cực và tự nguyện của
các nhà đầu tư.
Như vậy thị trường chứng khoán hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng trong việc cấp
các khoản tín dụng trung và dài hạn góp phần làm giảm áp lực lạm phát, sự phân

Trang 18
tích ở trên đã chỉ ra rằng thị trường chứng khoán có vai trò tích cực và không thể
thiếu trong nền kinh tế.

Trang 19
PHN II: S HèNH THNH TH TRNG CHNG KHON
TI VIT NAM.

I. TNH TT YU CA VIC HèNH THNH TH TRNG CHNG
KHON TI VIT NAM.
1. Do yờu cu ca nn kinh t.
Thc t cho thy tt c cỏc nc cú th trng chng khoỏn, khi nn kinh t th
trng ra i thỡ cha cú th trng chng khoỏn. Th trng chng khoỏn ch ra
i khi nn kinh t th trng ó phỏt trin mc nht nh v ũi hi phi hỡnh
thnh mt t chc no ú cú kh nng tip thờm sc mnh cho th trng - ú l
th trng chng khoỏn vi vic cung cp vn cho nn kinh t. Cú th núi nn kinh
t hng hoỏ phỏt trin lm ny sinh th trng chng khoỏn v th trng chng
khoỏn n lt nú li tip thờm ngun lc thỳc y nn kinh t hng hoỏ phỏt
trin.
"Trong nn kinh t nc ta hin nay, ch yu mi cú hỡnh thc giao lu vn giỏp
tip nờn cha huy ng v thu hỳt cú hiu qu ti u ngun vn cũn khỏ tim tng
ca t nc. Do ú, cựng vi s phỏt trin, hon thin th trng liờn ngõn hng,
nõng cao trỡnh giao lu vn giỏn tip, cn phi thỳc y s phỏt trin mnh m

hỡnh thc giao lu vn trc tip"
*
.
Giao lu vn trc tip l hỡnh thc giao lu vn ch yu thụng qua phng thc
thu hỳt vn bng phỏt hnh cỏc phng tin tớn dng, nh trỏi phiu, c phiu.
Phng thc giao lu vn trc tip cú nhiu u im ni bt hn phng thc
giao lu vn giỏn tip. Do vy, trong iu kin nc ta hin nay, cựng vi vic
hon thin t chc giao lu vn giỏn tip phi ng thi phỏt trin mnh giao lu
vn trc tip nhm lm phong phỳ th trng tin vn v i mi c ch giao lu
vn theo hng hin i. Ch khi no c hai hỡnh thc giao lu vn trờn cựng tn
ti, phỏt trin v b sung cho nhau thỡ th trng tin t - tớn dng mi tng bc

*
Theo thị trờng tài chính tiền tệ số 12: tháng 6/2000

Trang 20
được cải tiến, thị trường chứng khoán mới xuất hiện và hoạt động có hiệu quả
trong một thị trường tiền tệ - tín dụng hoàn chỉnh, nhờ đó mà thu hút được mọi
nguồn vốn tiềm tàng trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.
2. Do yêu cầu của nhà nước.
Để hoàn thiện nhiệm vụ của mình nhà nước luôn phải chi tiêu mà nguồn thu chủ
yếu của nhà nước từ thuế thường không trang trải hết các hoạt động của nhà nước.
Nhà nước buộc phải vay vốn trong dân cư và các tổ chức tín dụng bằng cách phát
hành kỳ phiếu. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ giúp cho quá trình phát hành này
được thuận lợi hơn.
Như ở phần trên em đã trình bày, thị trường chứng khoán cũng có tác động tích
cực trong việc giảm áp lực lạm phát. Đặc biệt từ năm 1993, nhà nước ta đã có chủ
trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tức là chuyển các doanh nghiệp
quốc doanh sang hình thức cổ phần. Quá trình này diễn ra còn chậm nếu thị trường
chứng khoán hình thành thì sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp

nhà nước diễn ra nhanh hơn.
Nhu cầu về một thị trường chứng khoán tại Việt Nam ngày càng trở nên bức thiết
do những lý do mà em đã nêu trên nên chắc chắn trong tương lai gần Việt Nam sẽ
có một thị trường chứng khoán theo đúng ý nghĩa của nó để đáp ứng các nhu cầu
của nền kinh tế.
III. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY.
1. Thực trạng.
Tại thành phố Hồ Chí Minh hiện đã có 80 doanh nghiệp cổ phần trong đó có 24
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh công thương nghiệp dịch vụ, 22 ngân hàng
thương mại và 2 công ty tài chính với số vốn cổ phần lên tới 250 tỷ đồng. Các
doanh nghiệp này ngoài việc phát hành cổ phiếu, một số đơn vị (chủ yếu là các
ngân hàng và các công ty tài chính) đã phát hành các loại kỳ phiếu trung hạn.
Ngoài ra các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển quốc doanh, kho
bạc nhà nước cũng đã phát hành các loại kỳ phiếu có mục đích… tất cả các loại kỳ

Trang 21
phiếu, cổ phiếu nói trên đều có thể tham gia thị trường chứng khoán, do vậy có thể
nói rằng Việt Nam hiện nay đã có thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã hình thành và đi vào hoạt động. Đến ngày
31/8/2000 đã có hai phiên giao dịch. Hiện nay mới chỉ có 2 công ty cổ phần niêm
yết cổ phiếu là công ty điện lạnh (REE) và công ty vật liệu bưu chính viễn thông
(SACOM) cho nên hàng hoá cần cho thị trường rất ít.
Nói chung lại, thị trường chứng khoán Việt Nam mới chỉ tồn tại ở mức độ rất sơ
khai, chưa thực sự là thị trường chứng khoán với đúng ý nghĩa của khái niệm thị
trường chứng khoán đã được mọi người nhìn nhận.
2. Những thuận lợi cho sự hình thành một thị trường chứng khoán thực sự
tại Việt Nam.
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đã có những tiến triển cơ bản tạo điều kiện thuận
lợi cho sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán. Chúng ta đã đạt

được những thành tựu đáng khích lệ. Lạm phát đã giảm từ 67% năm 1992 xuống
còn 14,4% năm 1994 và 12,7% năm 1995. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân
trong 5 năm trở lại đây luôn được duy trì ở mức 9%, nền kinh tế đã bắt đầu ổn
định. Thu nhập của dân cư đã tăng và trong nội bộ nền kinh tế đã có tích luỹ.
Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, chính sách một giá tạo điều kiện cho
hàng hoá lưu thông thuận tiện giữa các khu vực trong nước. Lãi suất tín dụng và
lãi suất tiết kiệm đã được ấn định trên cơ sở tương quan giữa cung và cầu vốn trên
thị trường. Quy luật cung cầu và quy luật giá trị đang phát huy những tác động tích
cực tới nền kinh tế.
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển khá nhanh. Số doanh nghiệp
cổ phần và liên doanh thu hút nhiều vốn trong nước cũng như vốn đầu tư nước
ngoài cũng tăng nhanh. Sự ra đời của các cổ phiếu, trái phiếu do các công ty cổ
phần, các doanh nghiệp nhà nước, phát hành tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường
chứng khoán ra đời.

Trang 22
Thêm vào đó, nền kinh tế thị trường cũng đang làm tiến triển dần thói quen và
nếp nghĩ của dân chúng sẽ được công nhận vì nó đáp ứng được nhu cầu của người
đầu tư vốn. Người sử dụng vốn và cả của nhà nước.
Các yếu tố trên đây tạo thuận lợi cho sự ra đời của thị trường chứng khoán và
khẳng định là thị trường chứng khoán sẽ được công nhận vì nó đáp ứng được nhu
cầu của người đầu tư vốn, người sử dụng vốn và cả của nhà nước.
3. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.
Ai có thể tham gia thị trường chứng khoán.
Mọi người dân trong cả nước đều có thể tham gia mua, bán chứng khoán qua sáu
công ty chứng khoán theo nguyên tắc: Giao dịch chứng khoán là qua trung gian
như: Công ty CKCP Bảo Việt (Hà Nội); Công ty chứng khoán Thăng Long (HN);
Công ty CKCP Sài Gòn; Công ty CKCP Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu
(TPHCM); Công ty CKCP Bình Dương; Công ty TNHHCK Ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam. Các công ty chứng khoán có vốn điều lệ từ 6 tỷ đồng đến 55

tỷ đồng chuyên môi giới chứng khoán tự doanh bảo lãnh, phát hành, quản lý danh
mục đầu tư lưu ký. Chỉ đại diện các công ty chứng khoán mới được giao dịch trực
tiếp trên hệ thống máy tính, khách hàng muốn làm quen và thông thạo tình hình thị
trường chứng khoán cần lựa chọn, tìm cho mình một công ty chứng khoán cung
cấp thông tin, tư vấn và làm môi giới mua bán CP.
Ai cũng có thể tham gia phiên giao dịch với số tiền tối thiểu 10.000đ. Hiện nay
mệnh giá CP phát hành thấp nhất là 100.000đ nhưng phiên giao dịch đầu tiên có
thể do công ty phát hành CP với mệnh giá 100000đ nhằm tạo điều kiện cho người
ít tiền cũng có thể mua được.
Để tham gia thị trường chứng khoán người mua cần đăng ký mở tài khoản tiền
mặt tại ngân hàng được chỉ định thanh toán chứng khoán và một tài khoản chứng
khoán cũng tại ngân hàng này. Người bán cũng vậy, thị trường giao dịch chứng
khoán sẽ mở cửa từ 8h sáng đến 15h chiều các ngày thứ 2,4,6 hàng tuần. Khi
phiên giao dịch được mở (thí dụ vào 8h sáng ngày 20/7) người mua cầm sổ tài
khoản đến các công ty chứng khoán hoặc văn phòng đại diện công ty bán chứng

Trang 23
khoán. Khách hàng có thể ra lệnh mua bán trước phiên giao dịch và được thông
tin liên tục qua Internet, điện thoại, Fax… về kết quả mua bán trong phiên giao
dịch về giá CP của mình bán ra, giá các loại CP ở từng thời điểm.
4. Hàng hoá ở thị trường chứng khoán.
Câu hỏi đưa ra hàng hoá ở thị trường chứng khoán Việt Nam là gì?
Đó là CP và trái phiếu, đó là hai loại chứng khoán cơ bản, cổ phiếu là chứng
khoán vốn (người đầu tư là chủ sở hữu), trái phiếu là chứng khoán nợ (người đầu
tư là chủ nợ), giá trái phiếu thường ít biến động hơn so với giá cổ phiếu do tiền lãi
thu được từ trái phiếu là cố định, còn cổ phiếu có thể tăng giảm tùy thuộc lợi
nhuận của doanh nghiệp. Biên độ giá chứng khoán không vượt quá +5% (Với CP)
là 1,8% với trái phiếu người đầu tư vào chứng khoán không phải trả một khoản
thuế nào.
Nhà đầu tư (người mua) bằng lòng với lợi nhuận thấp nhưng ổn định thường

chọn trái phiếu làm đối tượng đầu tư. Ngược lại ai dám mạo hiểm, chấp nhận rủi ro
để lấy một tiềm năng lợi nhuận lớn sẽ chọn cổ phiếu.
Theo uỷ ban chứng khoán nhà nước hiện cả nước có 370 công ty cổ phần trong
đó có trên 100 công ty có khả năng niêm yết trên thị trường chứng khoán. Tuy
nhiên để tạo lòng tin của công chúng, hàng hoá trong thời gian đầu đòi hỏi chất
lượng và ổn định. Vì vậy công ty CP cơ điện lạnh REE và công ty CP cáp và vật
liệu viễn thông SACOM và có thể thêm cổ phiếu của công ty giao nhận và kho vận
ngoại thương Trasimex Thành phố HCM và công ty XNK chế biến nông sản Long
An được niêm yết. Ngoài ra sẽ có thêm vài trăm tỉ đồng trái phiếu của nhà nước
cũng được mua bán.
Điều kiện để các công ty có cổ phiếu tham gia giao dịch là 2 - 3năm liền có lãi,
tình hình tài chính lành mạnh được kiểm toán xác nhận, có đủ 10 tỷ đồng vốn trở
lên.
Trên cơ sở ấy, vụ quản lý phát hành của Uỷ ban chứng khoán nhà nước sẽ quyết
định cổ phiếu của công ty có được tham gia giao dịch hay không.
5. Những vấn đề còn tồn tại.

Trang 24
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, hiện nay vẫn còn tồn tại các khó khăn cản trở
sự hình thành thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
Nhìn toàn cảnh, nền kinh tế vẫn chưa đạt thật sự ổn định, nguy cơ lạm phát vẫn
còn làm các nhà quản lý kinh tế đau đầu. Hiệu quả của sản xuất trong nước còn
thấp nhất là ở các doanh nghiệp nhà nước. Các sản phẩm nội địa của ta đang phải
cạnh tranh chật vật với các sản phẩm của nước ngoài. Sự thua lỗ của nhiều doanh
nghiệp quốc doanh và sự quản lý cồng kềnh của các ngành ngân hàng tài chính gây
nên khó khăn và tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư.
Xét riêng về các khó khăn đối với sự hình thành thị trường chứng khoán, em thấy
còn những tồn tại lớn tập trung ở các điểm sau:
Thứ nhất: Hàng hoá (các loại chứng khoán) để giao dịch trên thị trường chứng
khoán chưa đủ tiêu chuẩn về chất lượng cũng như chưa đủ về khối lượng để giao

dịch khi thị trường chứng khoán chính thức được hình thành số lượng và giá trị cổ
phiếu hiện nay còn quá nhỏ chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường chứng khoán
khi nó ra đời. Các loại trái phiếu tuy có đa dạng nhưng phần lớn là các trái phiếu
ngắn hạn không phải là đối tượng chính để mua bán trên thị trường chứng khoán.
Thứ hai: Hệ thống ngân hàng tuy đã đổi mới nhưng chưa mạnh cần tiếp tục phát
triển để đáp ứng các yêu cầu về thanh toán, chuyển giao, lưu trữ và thực hiện các
dịch vụ khác.
Thứ ba: Chưa có khung pháp lý đồng bộ và đầy đủ cho sự hoạt động của thị
trường chứng khoán. Hiện nay mặc dù đã có luật công ty, luật dân sự… Chúng ta
vẫn thiếu các văn bản pháp luật về chứng khoán và kinh doanh chứng khoán. Các
văn bản có liên quan về phát hành chứng khoán, kiểm toán, kế toán tuy đã có
nhưng chưa đồng bộ để có khả năng bao quát toàn bộ hoạt động của thị trường
chứng khoán. Thêm vào đó là việc chấp hành không nghiêm chỉnh luật pháp đã
kéo theo những hậu quả tiêu cực làm giảm lòng tin trong dân chúng về hiệu lực
của pháp luật.
Đây là khó khăn có ý nghĩa đặt biệt quan trọng khi mà khó khăn này chưa được
khắc phục thì việc tổ chức một thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh là
không thể có được.

Trang 25
Thứ tư: Việt Nam chưa tổ chức được một hệ thống định chế tài chính hoạt động
kinh doanh và đầu tư chứng khoán. Một khi chưa có các tổ chức này thì không thể
hình thành được một thị trường chứng khoán hoạt động theo đúng nguyên tắc của
thị trường.
Thứ năm: Thiếu cán bộ, kể cả cán bộ quản lý giám sát hoạt động của thị trường
chứng khoán và cán bộ trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Lâu nay đã có tới
hàng nghìn cán bộ từ nhiều cơ quan đã đi khảo sát về thị trường chứng khoán,
nhưng chưa có đội ngũ được đào tạo cơ bản về quản lý và kinh doanh trên thị
trường chứng khoán.
Như vậy, để thành lập được một thị trường chứng khoán hoạt động tốt cần phải

tiến hành một khối lượng các công việc chuẩn bị rất lớn, đồng bộ trên nhiều lĩnh
vực khác nhau của nền kinh tế. Chúng ta cũng cần tuyên truyền, giáo dục các kiến
thức cơ sở về thị trường chứng khoán cho nhân dân, củng cố lòng tin của họ bằng
các luật, qui định chặt chẽ và khẩn trương đào tạo đội ngũ cán bộ chứng khoán và
thiết lập hệ thống thông tin kinh tế tài chính rộng lớn.

×