Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Luận văn: Vai trò của hoạt động Nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.11 KB, 33 trang )



1



Luận văn
Vai trò của hoạt động Nhập khẩu đối
với nền kinh tế quốc dân


2

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU

I. KHÁI NIỆM , PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ CỦA KINH DOANH NHẬP
KHẨU ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN.
1. Khái niệm về hoạt động Nhập khẩu .
Ngày nay trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, mỗi quốc gia
trên hành tinh chúng ta không thể sống một cách riêng rẽ được mà phải cuấn
theo dòng xoáy của nền kinh tế thế giới, tham gia vào các quan hệ đầu tư quốc
tế, dịch vụ quốc tế và thương mại quốc tế …
Trong đó kinh doanh quốc tế có vai trò rất quan trọng đối với quá trình hội
nhập kinh tế thế giới của mỗi quốc gia, đúng như các nhà kinh tế học chủ nghĩa
trọng thưong đã nói “ Thương mại là hòn đá thử vàng đối với sự phồn vinh
của mỗi quốc gia”
Tiền đề cơ bản đầu tiên của thương mại quốc tế đó là sự khác biệt về điều
kiện tự nhiên giữa các quốc gia dẫn đến mỗi quốc gia có lợi thế trong việc sản
xuất một sản phẩm nào đó và họ phải trao đổi với nhau nhằm đạt được sự cân
bằng giữa phần dư thừa hàng hoá này và thiếu hụt hàng hoá kia. Tiếp theo là sự
phát triển không đồng đều giữa các quốc gia dẫn đến sự khác nhau về điều kiện


tái sản xuất. Điều đó dẫn đến các quốc gia phải mở rộng phạm vi trao đổi quốc
tế. Sự phát triển kinh tế dẫn tới sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc
và vượt ra khỏi biên giới quốc gia dẫn đến quá trình chuyên môn hoá và hợp tác
hoá sản xuất trên phạm vi quốc tế.
Như vậy, do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển và sự
chuyên môn hoá trong sản xuất hàng hoá, mỗi quốc gia sẽ tập trung vào việc sản
xuất ra một số mặt hàng có có lợi thế hơn các quốc gia khác, nhưng nhu cầu của
con người thì đa dạng, đòi hỏi nhiều mặt hàng , họ muốn tìm được mặt hàng phù


3

hợp với thị hiếu và khả năng thanh toán của mình. Chính vì vậy, xuất hiên
những luồng hàng hoá dịch chuyển từ nước này sang nước khác đó chính là
nguồn gốc của thương mại quốc tế .
Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật ,đặc biệt trong
lĩnh vực công nghệ thông tin và giao thông vận tải, sự chuyên môn hoá sản xuất
ngày càng sâu và rộng, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng đa dạng đã thúc
đẩy thương mại quốc tế ngày càng phát triển và trở thành một bộ phận quan
trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia. Trong đó, thương mại
quốc tế bao gồm hai bộ phận là xuất khẩu hàng hoá- dịch vụ và nhập khẩu hàng
hoá- dich vụ.
Nói đến thương mại quốc tế không thể không nói đến hoạt động nhập khẩu
hàng hoá- dịch vụ. Vì theo lý thuyết “Lợi thế So sánh” của David Ricardo thì bất
cứ một nước nào cũng có thể tham gia vào thương mại quốc tế bằng việc
chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng có
lợi hơn nước khác và Nhập khẩu về những hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng
ít lợi thế hơn nước khác. Vì vậy, khi tham gia vào hoạt động Nhập khẩu các
quốc gia có điều kiện để hoà nhập vào nền kinh tế quốc dân tiếp thu sự phát
triển và nền văn minh nhân loại tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh

doanh trong nước. Như vậy kinh doanh Nhập khẩu là hoạt động mua hàng hoá -
dịch vụ từ nước ngoài theo nguyên tắc của thị trường quốc tế nhằm phục vụ nhu
cầu trong nước hoặc tái xuất khẩu nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Nhập
khẩu thể hiện sự gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của mỗi quốc
gia. Ở một giới hạn nhất định, nó còn quyết định tới sự sống còn của nền kinh tế
đặc biệt là khi nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới đang sống dưới một
mái nhà chung.


4

2. Phân loại hoạt động Nhập khẩu.
Theo như định nghĩa thì Nhập khẩu là việc mua hàng hoá, dịch vụ từ nước
ngoài về phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước hoặc tái xuất trên cơ sở tuân
theo các thông lệ thị trường quốc tế, về bản chất thì sẽ có một luồng hàng hoá -
dịch vụ từ nước ngoài chảy vào nước Nhập khẩu và có một luồng tiền tương ứng
chảy ra. Các Doanh nghiệp tham gia kinh doanh nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi
nhuận . Nhưng trên thực tế , các qui ttrình nghiệp vụ Nhập khẩu rất phức tạp , ta
có thể căn cứ vào cách thức tổ chức và mục đích hoạt động kinh doanh Nhập
khẩu để phân chia thành các hình thức khác nhau.
2.1 Nhập khẩu tự doanh.
Đây là hình thức kinh doanh mà Doanh nghiệp được cấp giấy phép nhập
khẩu trực tiếp đứng tên ra để ký kết và thực hiện các hợp đồng ngoại thương
bằng chính nguồn vốn của mình, sau đó trực tiếp thiết lập hệ thống kênh phân
phối bán hàng nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Đây là hình thức Nhập khẩu chủ yếu mà các Doanh nghiệp áp dụng hiện
nay vì nó đảm bảo sự thống nhất giữa các khâu của quá trình Nhập khẩu nhằm
đạt được kết quả của toàn bộ Doanh nghiệp .
2.2 Nhập khẩu uỷ thác .
Là hoạt động Nhập khẩu trong đó người mua hàng không trực tiếp đứng tên

mình ký kết hợp đồng ngoại thương mà phải ký một hợp đồng uỷ thác với
Doanh nghiệp ngoại thương để uỷ thác cho Doanh nghiệp đó đứng ra ký kết và
thực hiện hợp đồng ngoại thương đó bằng chính nguồn vốn của người được uỷ
thác (Nhà Nhập khẩu ) và bên uỷ thác sẽ phải trả cho bên kia một khoản tiền
nhất định tuỳ theo sự thoả thuận của hai bên, khoản tiền đó gọi là phí uỷ thác
thông thường mức phí uỷ thác chiến 1% - 2% tổng giá trị hợp đồng.


5

 Nghĩa vụ của bên uỷ thác nhập khẩu: bên uỷ thác phải dựa vào
đơn hàng kèm theo, xác nhận của ngân hàng Ngoại thương Việt nam về
khả năng thanh toán, tham gia vào các giao dịch mua hàng, khi hàng về
phải mở hàng trong vòng một tháng và nếu phát hiện hàng không đúng
hợp đồng hoặc hàng tổn thất, phải để nguyên trạng đồng thời mời Công ty
giám định tới lập biên bản giám định đồng thời phải trả phí uỷ thác.
 Nghĩa vụ của bên nhận uỷ thác nhập khẩu: Bên nhận uỷ thác phải
ký hợp đồng nhập khẩu với điều kiện có lợi cho bên uỷ thác; thực hiện các
thủ tục hải quan, kiểm tra chất lượng hàng hoá, báo tin hàng về …và giúp
đỡ mọi mặt để bên uỷ thác có thể nhận hàng; tiến hành các biện pháp hạn
chế tổn thất nếu hàng về có hư hỏng, tổn thất.
3. Vai trò của hoạt động Nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
3.1 Nhập khẩu góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội
Nhập khẩu cùng với xuất khẩu là hai bộ phận của hoạt động kinh tế đối
ngoại, là chiếc cầu nối giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Thông
qua hoạt động xuất nhập khẩu, một nước phát huy được những thế mạnh của
mình và khắc phục những điểm bất lợi của nền sản xuất trong nước góp phần
nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ngay từ thủa xa xưa, ông cha ta đã nói: “ phi thương bất phú” có nghĩa là
muốn giáu có thì không có con đường nào khác ngoài buôn bán thương mại. Cơ

sở lý luận khoa học của quan điểm này được xuất phát từ quan điểm của chủ
nghĩa trong thương thế kỷ 17. Người ta cho rằng, “Thương mại là cục đá thử
vàng đối với sự phồn thịnh của mỗi dân tộc” một nước muốn trở nên giàu có
không thể không phát triển thương mại với phần còn lại của thế giới.
Để giải thích được những lợi thế của thương mại quốc tế nói chung và của
hoạt động nhập khẩu nói riêng, nhiều nhà Kinh tế học đã đưa ra những học


6

thuyết khác nhau. Tiêu biểu là: học thuyết “ Lợi thế tuyệt đối” của Ađamsmith;
học thuyết “ Lợi thế tương đối” của David Ricardo và học thuyết Hecksher -
Ohlin.
Dưới đây chúng ta lần lợt xem xét từng học thuyết để thấy rõ được lợi ích
của thương mại quốc tế .
 Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Ađamsmith :
Quan điểm của Ađamsmith cho rằng một nước chỉ sản xuất các loại hàng
hoá sử dụng tốt nhất các loại tài nguyên của nó, tức là mỗi nước, do điều kiện
thiên nhiên ưu đãi sẽ có những nguồn lực để sản xuất ra những loại hàng hoá
mà chi phí sản xuất ra chúng rẻ hơn so với bất kỳ nước nào trên thế giới. Khi
đó nó sẽ chuyên môn hoá vào việc sản xuất những mặt hàng đó để xuất khẩu
và mua về những mặt hàng mà việc sản xuất ra chúng có nhiều bất lơị hơn các
nước khác. Như vậy, theo quan điểm này thì một nước chỉ có thể tham gia
thương mại quốc tế khi chúng có lợi thế trong viêc sản xuất một mặt hàng nào
đó.
Tuy vậy, lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần nhỏ thương mại
giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Hiện nay, phần lớn
thương mại quốc tế diễn ra giữa các nước phát triển với nhau, không thể giải
thích được bằng lý thuyết lợi thế tuyệt đối. trong các cố gắng để giải thích các
cơ sở của thương mại quốc tế, lợi thế tuyệt đối chỉ là một trường hợp của lợi

thế so sánh.
 Lý thuyết Lợi thế tương đối ( Lợi thế so sánh) của David
Ricardo:
Qui luật Lợi thế tương đối phát biểu rằng: Nếu mỗi quốc gia thực hiện
chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng mà nước đó có lợi thế so sánh thì
tổng sản lượng của tất cả các mặt hàng sẽ tăng lên và tất cả sẽ trở nên sung túc


7

hơn. Trong trường hợp một nước tỏ ra kém hiệu quả hơn so với nước khác trong
việc sản xuất ra tất cả các mặt hàng thì nước đó vẫn tồn tại cơ sở dẫn đến chuyên
môn hoá sản xuất và trao đổi, cụ thể là quốc gia thứ nhất sẽ tập trung vào sản
xuất và xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế tuyệt đối lớn hơn, tức là mặt hàng
lợi thế so sánh và nhập khẩu mặt hàng có lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn. Quốc gia
thứ hai sẽ tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có bất lợi tuyệt
đối nhỏ nhất và nhập khẩu những mặt hàng có bất lợi tuyệt đối lớn nhất. Như
vậy, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc
sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào
thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích.
 Lý thuyết Heckscher - Ohlin.
Học thuyết này căn cứ vào sự khác biệt về tính phong phú và giá cả tương
đối của các yếu tố sản xuất để qui về sự khác biệt về giá cả tương đối của hàng
hoá, sau đó sẽ được chuyển thành sự khác biệt về giá cả tuyệt đối của hàng hoá.
Học thuyết này có nội dung như sau: “ Một nước sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà
việc sản xuất ra nó cần sử dụng nhiếu yếu tố rẻ và tương đối sẵn có của nước đó
và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó cần nhiều yếu tố đắt và
tương đối khan hiếm ở nước đó”.
3.2 Nhập khẩu thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá Hiện
đại hoá đất nước.

Nước ta cũng như nhiều nước khác đó là có sức mạnh về tài nguyên thiên
nhiên và lao động nhưng trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ lại rất lạc hậu do
đó, nhập khẩu sẽ là nhân tố giúp ta tháo bỏ những vướng mắc mà các nước
nghèo thường gặp phải, phương châm đó là vay mượn công nghệ của các nước
phát triển trong thời kỳ Công nghiệp hoá. Xu thế nhập khẩu bổ sung để thoả
mãn nhu cầu trong nước cũng là một điều tất yếu, thông qua đó nước ta có thể


8

từng bước thay đổi hoàn thiện cơ cấu tiêu dùng của nhân dân theo hướng hiện
đại hoá. Điều đó cũng đồng thời dẫn tới việc phải nâng cao kỹ thuật công nghệ
để phục vụ sản xuất trong nước. Do vậy Nhà nước ta đã đề ra chính sách nhập
khẩu vật tư thiết bị máy móc, kỹ thuật công nghệ của nước ngoài, từ đó tạo công
nghệ nguồn để phát triển kỹ thuật mới ngay trong nước. Có thể nói, Nhập khẩu
có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại
hoá đất nước. Điều đó cũng đồng thời nâng cao kỹ thuật sản xuất trong nước.
Nước ta hiện nay vẫn là một nước chậm phát triển, nền kinh tế vẫn còn dựa
vào sản xuất nông nghiệp là chính. Để thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế từ Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ sang cơ cấu Công nghiệp -
Nông nghiệp - Dịch vụ, và phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành nước
công nghiệp thì quá trình Công nghiệp hoá Hiện đại hoá hiện nay của chúng ta
cần phải đi theo một hướng mới đó là tận dụng các thành tựu khoa học của nhân
lọai, ngòai việc phát huy một cách có hiệu qủa nỗ lực của đất nước. Giải pháp cơ
bản để thực hiện mục đích này là mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại cũng như
đa dạng hoá các hình thức kinh doanh quốc tế như việc : tạo điều kiện hình
thành các liên doanh; thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI); xây dựng
các chiến lược nhập khẩu máy móc thiết bị, các sáng kiến kỹ thuật, nguyên vật
liệu quý hiếm…Nhằm tranh thủ vốn, kỹ thuật tiến tạo tiền đề cho Công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá đất nước.

3.3 Nhập khẩu là chiếc cầu nối giữa thị trường trong nước và
thị trường quốc tế.
Tình hình kinh tế thế giới hiện nay, các nước không ngừng mở rộng, thống
nhất thị trường quốc tế thì sự phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ kinh tế quốc tế
càng lớn mạnh.Việc hình thành các trung tâm thương mại, các khu vực mậu dịch


9

tự do đã phá bỏ rào cản thương mại giữa các quốc gia, hàng hoá được tự do di
chuyển trên thế giới.
Quan hệ cung cầu trên thị trường không phải lúc nào cũng ở điểm cân bằng
tối ưu mà nhiều khi do tác động của cả các nhân tố chủ quan lẫn khách quan gây
nên những biến động trên thị trường hàng hoá. Trong điều kiện hiện nay khi mà
tất cả các quốc gia đều tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế và tập
trung phát triển nghành hàng có lợi thế của mình. Trong khi đó nhu cầu của con
người ngày càng đa dạng. Chính vì vậy mà hàng loạt nhu cầu không thể đáp ứng
bằng các nguần sản xuất trong nước. Điều này tất yếu dẫn đến việc nhập khẩu
hàng hoá mang tính chu kỳ và tương đối ổn định.
Nhập khẩu là một biện pháp để giải quyết sự mất cân đối giữa sản xuất và
tiêu dùng, giữa cung và cầu hàng hoá - dịch vụ, nghĩa là nó góp phần làm cho
quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra thường xuyên và ổn định. Chúng ta có thể
nhập khẩu hàng hoá về phục vụ tiêu dùng trực tiếp trong nước nhưng trong thế
giới ngày nay người ta đang chú trọng vào nhập khẩu những nguyên vật liệu quí
hiếm, máy móc thiết bị, công nghệ, phát minh khoa học về phục vụ sản xuất và
nâng cao trình độ công nghệ trong nước. Nhập khẩu máy móc và công nghệ còn
phục vụ chiến lược lâu dài là tiến tới làm chủ khoa học công nghệ góp phần
nâng cao năng suất lao động.
Nhập khẩu còn là một công cụ để chính phủ thực hiện điều tiết giá cả thị
trường nội địa nhằm loại bỏ những tác động không lành mạnh của cơ chế thị

trường như tình trạng đầu cơ ép giá.
Tóm lại, thông qua những học thuyết trên ta đã thấy rõ được vai trò vô cùng
quan trọng của thương mại quốc tế đối với bất kỳ nề kinh tế nào. Trong thực tế
sự phát triển kinh tế thế giới những năm qua đã chứng minh , nền kinh tế mở sẽ
tạo điều kiện để các quốc gia sớm hoà nhập vào nền kinh tế thế giới phát huy


10
triệt để lợi thế của nước mình nhằm đẩy nhanh sự nghiệp Công nghiệp hoá -
Hiện đại hoá nền kinh tế đất nước.
II. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
Hoạt động Nhập khẩu là một quá trình bao gồm nhiều khâu phức tạp, có liên
quan chặt chẽ tới nhau, được bắt đầu từ việc nghiên cứu thị trường và kết thúc là
tiếp nhận và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu.
Để đạt được mục tiêu nhập khẩu là mua đúng hàng bao gồm: đúng về giá cả
hàng hoá; đúng về qui cách phẩm chất; đúng về khối lượng; đúng về thời gian…
Thì nhiệm vụ của người quản lý hoạt động Nhập khẩu là vô cùng quan trọng đòi
hỏi phải giám sát từ việc nghiên cứu thị trường xem xét xem cần phải mua hàng
hoá gì, số lượng là bao nhiêu, khi nào thì mua…Trong khâu kiểm định và tiếp
nhận hàng hoá phải kiểm tra xem hàng hoá có đảm bảo về số lượng không, chất
lượng như thế nào, tàu giao hàng có đúng tiến độ không. Trong từng nội dung
của hợp đồng nhập khẩu đòi hỏi phải nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng và đặt chúng
trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Như vậy vai trò quản lý giám sát hoạt
động nhập khẩu là vô cùng quan trọng và được thể hiện trong từng nội dung của
quá trình nhập khẩu như sau:
1. Nghiên cứu thị trường
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với nền sản xuất hàng hoá,
ta có thể hiểu thị trường trên hai giác độ: thị trường là tổng thể các quan hệ hàng
hoá - tiền tệ hoặc thị trường là tổng khối lượng cầu có khả năng thanh toán và
khối lượng cung có khả năng đáp ứng ở một mức giá nhất định .

Theo quan điểm Maketting hiện đại thì Doanh nghiệp không thể bán những
gì mình có mà phải bán những gì khách hàng cần , để làm được điều đó đòi hỏi
Doanh nghiệp phải tổ chức điều tra nghiên cứu thị trường , phân tích nhu cầu,
sở thích của thị trường, phân tích nhu cầu, sở thích của khách hàng, trên cơ sở


11
đó để đưa ra những biện pháp ứng sử phù hợp đáp ứng tối đa nhu cầu khách
hàng , nhất là đối với các Doanh nghiệp nhập khẩu thì nghiên cứu thị trường
càng trở nên quan trọng .
Thị trường quốc tế chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau, thường
là đa dạng và phong phú rất nhiều hơn so với thị trường nội địa. Các nhân tố này
có thể mang tính vĩ mô như môi trường tự nhiên - kinh tế, môi trường xã hội,
hoặc các nhân tố vi mô như tập quán , phương thức sản xuất, phương thức hoạt
động của thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Việc xác định rõ nhân tố
này giúp Doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu thị trường với các nội dung như
sau:
1.1 Tìm hiểu thị trường trong nước
Công việc đầu tiên của nghiên cứu thị trường là phải xác định được nhu cầu
của thị trường và trả lời được câu hỏi :
* Thị trường đang cần hàng gì?
Trong thời dại ngày nay, khi mà khả năng sản xuất đã vượt quá nhu cầu tiêu
dùng thì chúng ta không thể bán những gì mình có mà phải bán những gì khách
hàng cần . Điều đó đòi hỏi nhà kinh doanh phải điều tra thăm giò, phân tích nhu
cầu của khách hàng trong nước về mặt hàng , về qui cách phẩm chất , kiểu dáng
, giá cả, màu sắc , bao gói sản phẩm,…Từ đó tìm ra được mặt hàng phù hợp để
cung cấp cho khách hàng. Đối với nhà kinh doanh thì mục tiêu chủ yếu là lợi
nhuận do đó ta không thể cung cấp một mặt hàng ở bất kỳ một mức giá nào đó,
mà ta phải xem xét xem ở một mức giá có khả năng cạnh tranh với các đối thủ
khác nhưng vẫn đảm bảo lợi nhuận mục tiêu cho doanh nghiệp.

*Tình hình sản xuất, cung ứng và tiêu thụ hàng hoá đó trên thị trường như
thế nào?


12
Việc xác định khả năng sản xuất trong nước đòi hỏi ta phải tìm hiểu xem có
những Doanh nghiệp nào hiện đang sản xuất hoặc kinh doanh Nhập khẩu mặt
hàng đó trong nước, số lượng hàng năm là bao nhiêu, khả năng cũng như uy tín
của nhà cung cấp đó có lớn hay không.
Bên cạnh đó, ta phải tìm hiểu khả năng tiêu dùng để biết được mặt hàng đó
đã thoả mãn nhu cầu khách hàng hay chưa ( về số lương, chất lượng, dịch vụ, )
và kết thúc là phải phác hoạ lên được đường cung - cầu hàng hoá đó trên thị
trường nội địa để xác định được một khối lượng nhất định và mức giá phù hợp
* Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống sản phẩm ?
Chu kỳ sống của sản phẩm được chia làm 4 giai đoạn đó là:
Giai đoạn thâm nhập ( T1 )
Giai đoạn pháp triển ( T2 )
Giai đoạn bão hoà (T 3 )
Giai đoạn diệt vong ( T4)
Hình 1 Biểu đồ chu kỳ sống sản phẩm






T1 T2 T3 T4
Doanh nghiệp phải biết được mặt hàng định kinh doanh đang ở giai đoạn
nào của chu kỳ sống từ đó đưa ra các chiến lược Marketting phù hợp nhằm đạt
được mục tiêu kinh doanh đề ra.



13
 Trước hết ta phải nghiên cứu chính sách của Nhà nước kinh tế đối
ngoại nói chung và đối với hoạt động kinh doanh Nhập khẩu nói riêng, bởi vì
nó có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh của mỗi Doanh nghiệp. Chính
sách ngoại thương bao gồm:
+ Chính sách thị trường: là việc qui định các Doanh nghiệp trong nước sẽ
được hợp tác làm ăn với những đối tác ở quốc gia nào, khi làm ăn với những đối
tác đó thì sẽ được hưởng lợi ích gì từ phía Nhà nước.
+ Chính sách mặt hàng: là việc qui định xem các Doanh nghiệp xuất nhập
khẩu được phép kinh doanh những mặt hàng nào, mặt hàng nào khuyến khích
kinh doanh, mặt hàng nào hạn chế và mặt hàng nào cấm kinh doanh.
+ Chính sách hỗ trợ: là hàng loạt các biện pháp và công cụ mà Chính phủ sử
dụng để hỗ trợ nhằm mục đích thúc đẩy nền ngoaị thương phát triển theo định
hướng và mục tiêu mà Chính phủ đề ra.
Các chính sách đó được qui định trong các văn bản pháp luật như: luật
thương mại, luật Doanh nghiệp, luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài, …sự tác động
của những chính sách này tạo ra những khó khăn và thuận lợi đối với hoạt động
kinh doanh của Doanh nghiệp.
 Dự đoán xu hướng biến động của giá cả
Xu hướng biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới rất phức
tạp, bởi vì nó chịu sự tác động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội. Để có
thể dự đoán được sự biến động của giá hàng hoá đó trước hết ta phải dựa vào
kết quả nghiên cứu thị trường trong nước cũng như thị trường thế giới về hàng
hoá, đánh giá đúng sự tác động của môi trường vi mô và vĩ mô tới lượng cung -
cầu, giá cả của hàng hoá,
Các nhân tố ảnh hưởng tới giá cả hàng hoá là:



14
+ Nhân tố mang tính chu kỳ: có hai nhân tố làm giá cả thay đổi mang tính
chu kỳ đó là chu kỳ nền kinh tế và tính thời vụ của hàng hoá.
Sự vận động có tính chất qui luật của nền kinh tế thị trường có tác động lớn
đến giá cả hàng hoá. Nến kinh tế biến động theo chu kỳ hết hưng thịnh đến suy
thoái, các chu kỳ đó cứ lặp đi lặp lại, tuy nhiên khoảng cách giữa các thời kỳ suy
thoái thì luôn biến đổi. Khi nền kinh tế hưng thịnh thì giá cả ổn định, nhu cầu
tăng và ngược lại.
Yếu tố thời vụ cũng tác động làm giá cả thay đổi, Đối với một số loại hàng
hoá khi vào thời vụ chính thì cung tăng do đó giá cả có xu hướng giảm., ngược
lại có những hàng hoá giá cả tăng lên vào một mùa nhất định còn ở thời điểm
khác thì lại không có người mua.
+ Nhân tố cạnh tranh: Cạnh tranh làm cho giá cả biến động theo xu hướng
khác nhau, tuỳ theo vào đối tượng tham gia cạnh tranh là người mua hay người
bán. cạnh tranh gay gắt sẽ có tác động làm giảm giá cả hàng hoá hình thành giá
bình quân trên thị trường.
+ Nhân tố lạm phát: Lạm phát làm giá cả hàng hoá tăng lên. Đây chính là
yếu tố tác động rất mạnh đến giá cả hàng hoá, khi mà giá trị của đồng tiền giảm
thì lạm phát tăng nhanh và giá cả có biến động lớn.
 Khách hàng mục tiêu của Doanh nghiệp là ai?
Khách hàng mục tiêu là tập hợp những người tiêu dùng, các tổ chức có nhu
cầu sử dụng các sản phẩm mà Doanh nghiệp nhập khẩu dự định cung cấp và họ
có khả năng thanh toán ở một mức giá nhất định.
Trên cơ sở việc phân đoạn thị trường, ta sẽ tìm ra những đoạn thị trường mà
ở đó chứa đựng tập hợp khác hàng mục tiêu của Doanh nghiệp. Ta có thể phân
đoạn thị trường dựa trên một số tiêu thức như : thu nhập đầu người, lứa tuổi,


15
giới tính, tập quán, lĩnh vực sản xuất kinh doanh ( đối với khách hàng là các tổ

chức).
1.2 Nắm vững thị trường nước ngoài.
Một trong những đặc điểm của kinh doanh quốc tế là phải tiến hành hoạt
động kinh doanh ở môi trường rộng lớn và hoàn toàn xa lạ, luôn biến động
không ngừng, chịu đựng sự chi phối của nhiều yếu tố. Vì vậy, nghiên cứu thị
trường nước ngoài là cần thiết cho hoạt động kinh doanh quốc tế nói chung và
hoạt động kinh doanh Nhập khẩu nói riêng.
 Nghiên cứu nguồn hàng cung cấp trên thế giới.
Cũng một sản phẩm đó nhưng có thể có nhiều cung cấp khác nhau đòi hỏi
chúng ta phải tìm hiểu kỹ từng nguồn cung cấp, đánh giá những mặt mạnh và
điểm yếu của họ trên cơ sở phân tích các đặc điểm sau
+ Qui cách, phẩm chất hàng hoá như thế nào.
+ Khả năng sản xuất, cung ứng ra sao.
+ Mối quan hệ giữa Doanh nghiệp nhập khẩu với nhà cung cấp đó có thân
thiện hay không.
+ Phương thức thanh toán, giao nhận hàng hoá như thế nào…
 Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu trên thế giới( giá cả biểu hiện
bằng tiền của giá trị hàng hoá) tuy nhiên trong ngoại thương giá cả lại càng phức
tạp do hàng hoá được mua bán giữa các nước khác nhau, chi phí vận chuyển,
bảo hiểm cao, tỷ giá hối đoái luôn biến động, chính sách thuế quan của các nước
khác nhau nên giá cả hàng hoá cũng có những biến động nhất định. Đòi hỏi nhà
nhập khẩu phải nắm được giá cả của hàng hoá định nhập và xu hướng biến động
của nó.
Cấu thành giá cả hàng hoá nhập khẩu bao gồm các nhân tố sau:
+ Giá vốn hàng nhập khẩu.


16
+ Giá bao bí, đóng gói.
+ Chi phí kiểm định hàng hoá nhập khẩu.

+ Chi phí bốc dỡ, vận chuyển.
+ Chi phí bảo hiểm.
+ Thuế xuất nhập khẩu .
+ Các chi phí khác tuỳ theo điều kiện giao dịch, giá hàng hoá nhập khẩu còn
phụ thuộc vào điều kiện cơ sở giao hàng, thông thường trong ngoại thương
người ta thường dùng hai điều kiện cơ sở giao hàng là FOB & CIF. Vì vậy để so
sánh giá cả hàng hoá người ta phải đưa chúng về cùng một điều kiện cơ sở giao
hàng theo Công thức sau.

FOB + F
CIF =
1+( 1- R )
Trong đó:
- CIF Là tiền hàng, bảo hiểm và cước phí
- FOB là giá giao tại boong tàu.
- F là cước phí vận chuyển.
- R là xuất phí bảo hiểm.
2. Lựa chọn đối tác giao dịch.
Sau khi nghiên cứu thị trường cho phép đơn vị kinh doanh có thể lựa chọn
thị trường, thời cơ thuận lợi lựa chọn phương thức mua bán và điều kiện giao
hàng thích hợp. Tuy nhiên trong một số trường hợp thì kết quả kinh doanh còn
phụ thuộc nhiều vào đối tác giao dịch. Trong cùng một hợp đồng như nhau
nhưng việc giao dịch với đối tác này thì thành công nhưng với đối tác khác thì
thất bại. Do đó nhiệm vụ quan trọng của Doanh nghiệp là phải phân tích tìm


17
hiểu kỹ về đối tác với mục đích là tìm được nhà cung cấp khả thi nhất, có lợi cho
Doanh nghiệp nhất.
Một nhà cung cấp hay được ưa chuộng là người cung cấp chiều theo khách

hàng của mình, anh ta cung cấp hàng với chất lượng rõ ràng và giao hàng đúng
hẹn như đã hứa, với một giá cả phải chăngđáp ứng được những đòi hỏi không
biết được trước chẳng hạn như khối lợng buôn bán đột ngột tăng- giảm; các thay
đổi về tiêu chuẩn kỹ thuật; các vấn đề về dịch vụ và các yêu cầu chính đáng
khác. người cung cấp tốt thực hiện bước đầu là việc đề xuất các cách tốt hơn
trong việc phục vụ khách hàng và cố giắng tìm ra các cách mới trong việc mở
rộng các sản phẩm có tính kinh tế.
Người cung cấp tốt sẽ báo trước ngay từ đầu về thời điểm khan hiếm nguyên
liệu, các cuộc đình công và tất cả những gì ảnh hưởng tới hoạt động của họ. Anh
ta sẽ cung cấp các chuyên gia công nghệ và tác nghiệp khi khách hàng yêu cầu.
Anh ta vẫn giữ được sự cạnh tranh trên cơ sở liên tục.
Cụ thể các yếu tố có thể dùng để xác định một nhà cung cấp có triển vọng là:
- Tình hình sản xuất kinh doanh của đối tác: lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
phạm vi kinh doanh, chất lượng sản phẩm, giá cả, khả năng cung cấp lâu dài,
thường xuyên, cung cấp dịch vụ sau bán hàng.
- Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật của đối tác cho thấy ưu thế của
đối tác trên thương trường, thực trạng khả năng cung cấp của họ.
- Thái độ, quan điểm kinh doanh của đối tác uy tín và mối quan hệ với bạn
hàng khác của đối tác.
- Tình hình chính trị của nước đối tác: Đây là vấn đề quan trọng, nhất là trên
Thế giới xảy ra nhiều biến động và xung đột lớn về chính trị, nó làm ảnh hưởng
không tốt đến quá trình nhập khẩu.


18
3. Đàm phán và ký kết hợp đồng.
3.1 Đàm phán.
Đàm phán là việc các chủ thể kinh doanh trao đổi ý kiến nhằm đi tới thống
nhất các nhận định, thống nhất các quan niệm, thống nhất cách ứng sử những
vấn đề nảy sinh trong quan hệ buôn bán giữa hai hay nhiều bên. Nhờ vậy, đàm

phán thực chất là việc thoả thuận để phân chia lợi ích giữa các bên trên cơ sở
thoả thuận về các vấn đề sau:
- Tên hàng.
- Phẩm chất hàng hoá.
- Số lượng.
- Bao bì, đóng gói.
- Giá cả.
- Thanh toán, bảo hiểm
- Phạt hợp đồng, bồi thường thiệt hại.
- Điều kiện trọng tài.
* Trong đàm phán kinh doanh quốc tế người ta có thể áp dụng ba hình thức
là:
 Đàm phán giao dịch qua thư tín: Ngày nay thư từ và điện tín vẫn
còn là phương tiện chủ yếu để giao dịch quốc tế những cuộc tiếp xúc ban đầu
nhầm thiết lập mối quan hệ làm ăn thường thông qua thư tín và sau naỳ việc
duy trì mối quan hệ giữa các bên cũng phải thông qua thư tín thương mại.
Ưu điểm của phương pháp này là tiết kiệm chi phí và một lúc có thể tiếp xúc
với nhiều đối tác.
Nhược điểm là phương pháp này đòi hỏi nhiều thời gian chờ đợi, đôi khi bỏ
lỡ mất cơ hội kinh doanh.


19
 Đàm phán qua điện thoại: Các bên trao đổi thoả thuận với nhau
thông qua đàm thoại trực tiếp tạo điều kiện cho người giao dịch tiến hành các
công việc kinh doanh kịp thời đùng tiến độ. Nhược điểm của phương pháp
này là chi phí tốn kém, không thăm giò được quan điểm thái độ của đối tác.
 Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: là việc các bên trực tiếp
gặp gỡ nhau tại một địa điểm nhất định để thoả thuận, trao đổi những vấn đề
liên quan tới quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng ngoại thương.

Ưu điểm của hình thức đàm phán này là đẩy nhanh tốc đội giải quyết vấn đề,
tạo điều kiện cho việc hiểu biết và duy trì mối quan hệ giữa các bên tốt hơn.
Nhược điểm là chi phí cao, tốn kém thời gian.
* Các bước đàm phán:
Đối với Doanh nghiệp nhập khẩu, thông thờng đàm phán trải qua các bước
sau.
 Hỏi giá( inquiry): Về phương diện pháp luật thì đây là lời thỉnh
cầu bước vào giao dich. Nhưng xét về phương diện thương mại thì đây là
việc người mua đề nghị người bán báo cho mình về giá cả hàng hoá và các
điều kiện mua hàng.
 Chào hàng(offer): Luật pháp coi đây là lời đề nghị ký kết hợp
đồng và như vậy phát giá chào hàng có thể do người bán hoặc ngừơi mua
đưa ra. Nhưng trong thương mại thì chào hàng, là việc người bán thể hiện rõ
ý định bán hàng của mình. Chào hàng có hai loại là chào hàng cố định và
chào hàng tự do.
+ Chào hàng cố định (firm offer): là việc chào bán một lô hàng nhất định
cho một người mua, có nêu rõ thời gian mà người chào hàng bị ràng buộc trách
nhiệm về lời đề nghị của mình. Trong thời gian hiệu lực của chào hàng, nếu


20
người mua chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó thì hợp đồng coi như được giao
kết.
+ Chào hàng tự do (free offer): là loại chào hàng mà người bán không ràng
buộc trách nhiệm của mình . việc chào hàng tự do cần phải làm rõ bằng cách
ghi “ chào hàng không cam kết” hoặc “ chào hàng ưu tiên cho người mua trứơc.
cùng một lúc, với cùng một lô hàng người ta có thể chào bán tự do cho nhiều
khách hàng khác nhau. Việc khách hàng chấp nhận hoàn toàn các điều kiện của
chào hàng tự do không có nghĩa là hợp đồng đã được ký kết.
 Hoàn giá: là việc mặc cả về giá cả hoặc về các điều kiện dao

dịch . khi người được chào hàng không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó ,
mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị mới này là trả giá (bid) . khi có sự trả
giá, chào hàng trước coi như bị huỷ bỏ. Trong buôn bán quốc tế, mỗi lần
giao dịch thường trải qua nhiều lần trả giá mới đi đến kết thúc. Như vậy,
hoàn giá bao gồm nhiều sự trả giá.
 Đặt hàng(order): là lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía
người mua đưa ra dưới hình thức đặt hàng.
Trong đặt hàng người mua nêu cụ thể về hàng hoá định mua và tất cả những
nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng.
Trong thực tế, người ta chỉ đặt hàng với các khách hàng có quan hệ thường
xuyên. Bởi vậy, ta thường gặp những đặt hàng chỉ nêu: tên hàng, qui cách phẩm
chất, số lượng, thời hạn giao hàng và một vài điều kiện riêng biệt đối với lần đặt
hàng đó. Về những điều kiện khác, hai bên áp dụng điều kiện chung đã thoả
thuận với nhau hoặc theo những điều kiện của hợp đồng đã ký kết trong lần giao
dịch trước.
 Chấp nhận (acceptance): là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều
kiện chào hàng (hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra. Khi đó hợp đồng


21
được thành lập. Một chấp nhận muốn có hiệu lực về mặt pháp luật, cần phải
đảm bảo điều kiện dới đây:
+ Phải được chính người nhận giá chấp nhận;
+ Phải đồng ý hoàn toàn vô điều kiện mọi nội dung của chào hàng ( hoặc đặt
hàng);
+ Phải chấp nhận trong thời gian hiệu lực của chào hàng;
+ Chấp nhận phải được truyền đạt đến người phát ra đề nghị.
 Xác nhận(confirmation): hai bên mua và bán, sau khi đã thống
nhất với nhau về kinh doanh giao dịch, có khi cẩn thận ghi lại mọi điều đã
thoả thuận, gửi cho đối phương. Đó là văn kiện xác nhận, văn kiện do bên

bán gửi thường gọi là giấy xác nhận bán hàng, do bên mua gửi là giấy xác
nhận mua hàng. xác nhận thường được lập thành hai bản, bên lập xác nhận
ký trước rồi gửi cho bên kia. Bên kia ký xong giữ lại một bản rồi gửi trả lại
một bản. việc xác nhận cũng có thể thực hiện bằng một văn bản có chữ ký
của hai bên, gọi là bản hợp đồng hoặc là bản thoả thuận(Agreement).
Hình 2: Qui trình đàm phán được thể hiện theo sơ đồ sau.



3.2 Ký kết hợp đồng ngoại thương
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp
đồng mua bán ngoại thương. Ở các nước tư bản phát triển, hợp đồng có thể được
lập dưới hình thức văn bản hoặc hình thức miệng, hoặc hình thức mặc nhiên.
Nhưng ở nước ta hợp đồng nhất thiết phải làm dới hình thức văn bản.
Khi ký kết hợp đồng các bên cần chú ý một số đặc điểm như sau:
HỎI GIÁ ĐẶT
HÀNG
CHẤP
NHẬN
HOÀN
GIÁ
XÁC
NHẬN


22
- Cần có sự thoả thuận thống nhất với nhau tất cả mọi điều khoản cần thiết
trước khi ký kết. Một khi đã ký kết rồi thì việc thay đổi một điều khoản nào đó
sẽ rất khó khăn và bất lợi.
- Văn bản hợp đồng thường do một bên dự thảo. trước khi ký kết, bên kia

cần xem xét kỹ lưỡng, cẩn thận đối chiếu với những thoả thuận đã đạt được
trong đàm phán, tránh việc đối phương có thể thêm vào hợp đồng một cách khéo
léo những điểm chưa thoả thuận và bỏ qua không ghi vào những điều đã thống
nhất.
- Hợp đồng cần được trình bày rõ ràng, sáng sủa, cách trình bày phản ánh
đúng nội dung đã thoả thuận, không để tình trạng mập mờ, có thể suy luận ra
nhiều cách.
- Những điều khoản trong hợp đồng phải xuất phát từ đặc điểm của hàng hoá
định mua bán, từ những điều kiện, hoàn cảnh tự nhiên, xã hội… của nước người
bán, người mua, từ đặc điểm quan hệ giữa hai bên. Trong hợp đồng không có
những điều khoản trái với luật lệ hiện hành ở nước người bán và nước người
mua.
- Người đứng ra ký kết hợp đồng phải là người có thẩm quyền .
- Ngôn ngữ dùng soạn thảo hợp đồng là thứ ngôn ngữ mà cả hai bên cùng
thông thạo.
- Một hợp đồng ngoại thương gồm các phần sau đây:
+ Số hợp đồng.
+ Ngày tháng và nơi ký kết hợp đồng.
+Tên, địa chỉ các bên ký kết.
+ Các điề khoản hợp đồng bao gồm các điều khoản sau:
+ Tên hàng, qui cách phẩm chất , số lượng, bao bì, ký mã hiêu.
+ Giá cả, đơn giá, tổng giá trị hàng hoá.


23
+ Phương thức vận chuyển.
4. Tổ chức thực hiện hợp đồng ngoại thương.
Sau khi tất cả các công việc từ khâu nghiên thị trường và lựa chọn đối tác,
đàm phán các điều khoản hợp đồng và kết thúc là việc ký kết hợp đồng nhập
khẩu, các điều khoản của hợp đồng ký kết nói lên được phần nào triển vọng về

kết quả kinh doanh . Để đạt được mục tiêu kinh doanh đề ra đòi hỏi khả năng tổ
chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của các Doanh nghiệp . Cụ thể là cá nhân
viên trực tiếp thực hiện hoạt động nhập khẩu phải tổ chức thực hiện hợp đồng
một cách tốt nhất, vừa đảm bảo chất lượng hàng hoá nhập khẩu vừa đảm bảo
đúng tiến độ thời gian đề ra. Một yêu cầu nữa của quá trình thực hiện hợp đồng
nhập khẩu là phải tuân thủ đúng pháp luật( luật pháp quốc gia và luật pháp quốc
tế mà nước nhập khẩu tham gia ) và các thông lệ quốc tế
Đối với các đơn vị kinh doanh nhập khẩu, nội dung của quá trình tổ chức
thực hiện hợp đồng bao gồm các bước sau:
Hình 3: Qui trình tổ chức thực hiện hợp đồng






4.1 Xin giấy phép nhập khẩu.
Giấy phép nhập khẩu là một công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý hoạt
động nhập khẩu, vì thế sau khi ký kết hợp đồng nhập khẩu Doanh nghiệp nhập
khẩu phải tiến hành xin giấy phép nhập khẩu để thực hiện hợp đồng đó. Việc
XIN GI

Y PHÉP
NHẬP KHẨU
M


TH
Ư


TÍN
DỤNG (L/C) NẾU
THANH TOÁN
B

NG L/C

THUÊ TÀU
LƯU CƯỚC
MUA B

O
HIỂM HÀNG
HOÁ
LÀM TH

T

C
THANH TOÁN
NHẬN HÀNG

LÀM TH

T

C
HẢI QUAN
KHI


U N

I VÀ GI

I
QUYẾT KHIẾU NẠI



24
cấp giấy phép nhập khẩu do hai cơ quan có thẩm quyền cấp đó là: Bộ Thương
mại và Tổng cục Hải quan.
- Bộ Thương mại cấp giấy phép nhập khẩu những mặt hàng mậu dịch.
- Tổng cục Hải quan cấp giấy phép nhập khẩu những mặt hàng phi mậu
dịch.
Hiện nay trong xu thế tự do hoá thương mại, nhiều nước đã giảm bớt số mặt
hàng phải xin giấy phép nhập khẩu chuyến. Ở nước ta, theo nghị định 89/Chính
phủ ngày 25/12/95, kể từ ngày 1/2/96 trở đi chỉ còn 9 nhóm hàng phải xin cấp
giấy phép nhập khẩu theo chuyến.
 Điều kiện để một Doanh nghiệp được cấp giấy phép nhập khẩu
là:
- Thành lập theo đúng pháp luật, và cam kết tuân tủ các qui định của luật
hiện hành.
- Doanh nghiệp có mức vốn lưu động tối thiểu ở thời điểm đăngký kinh
doanh là 200 000 USD, riêng những Doanh nghiệp ở các tỉnh miền núi và các
tỉnh , vốn lưu động tối thiểu là 10 000 USD.
Doanh nghiệp muốn được cấp giấy phép nhập khẩu phải nộp lệ phí 1 000
000 đồng trước khi nhận giấy phép.
4.2 Mở L/C.
Trong thương mại quốc tế hiện nay có nhiều phương thức thanh toán như:

tín dụng chứng từ; phương thức nhờ thu; phương thức điện chuyển tiền…Nhưng
sử dụng rộng rãi nhất vẫn là phương pháp tín dụng chứng từ.
Vì vậy, nếu trong hợp đồng ngoại thương qui định phương thức thanh toán
là tín dụng chứng từ thì việc đầu tiên là phải mở L/C theo đúng như qui định
trong hợp đồng. Thời gian mở L/C phụ thuộc thời gian giao hàng, nếu như hợp
đồng không qui định thời gian cụ thể thì thông thường thời gian này là 15 - 20


25
ngày trước khi giao hàng. Cơ sở để mở L/C phụ thuộc vào các điều khoản của
hợp đồng. Đơn vị nhập khẩu dựa vào cơ sở đó làm đơn xin mở L/C theo mẫu
của ngân hàng.
4.3 Thuê tàu – lưu cước.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, việc ai thuê tàu, thuê tàu tính theo hình
thức nào được tiến hành dựa trên ba căn cứ : Điều khoản hợp đồng, đặc điểm
hàng hoá, điều kiện vận tải. Nếu điều kiện cơ sở giao hàng là FOB thì bên nhập
khẩu phải thuê tàu để chở hàng, nếu điều kiện cơ sở giao hàng là CIF thì bên
nhập khẩu không phải thuê tàu mà nghĩa vụ đó thuộc về phía Xuât khẩu.
Tuỳ theo đặc điểm của hàng hoá kinh doanh, Doanh nghiệp lựa chọn
phương thức thuê tàu cho phù hợp: thuê tàu chợ hay tàu chuyến. Nếu nhập khẩu
không thường xuyên hoặc khối lượng lớn thì nên thuê tàu chuyến. nếu nhập
khẩu khối lượng nhỏ thì nên thuê tàu chợ.
4.4 Mua bảo hiểm hàng hoá.
Hàng hoá chuyên trở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế, bảo
hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương.
Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng hảo hiểm bao hoặc là hợp đồng bảo hiểm
chuyến. khi mua bảo hiểm bao, Doanh nghiệp ký kết hợp đồng từ đầu kỳ, mỗi
khi giao hàng xuống vận chuyển chỉ cần gửi đến Công ty bảo hiểm một thông
báo bằng văn bản gọi là:”Giấy báo bắt đầu vận chuyển”. Khi mua bảo hiểm
chuyến, Doanh nghiệp gửi đến Công ty bảo hiểm một văn bản gọi là: “ Giấy yêu

cầu bảo hiểm” . trên cơ sở đó Doanh nghiệp và Công ty bảo hiểm đàm phán ký
kết hợp đồng bảo hiểm.
Doanh nghiệp có thể lựa chọn nhiều hình thức bảo hiểm theo điều kiện bảo
hiểm loại A, B, C. Để lựa chọn điều kiện bảo hiểm thích hợp cần căn cứ vào tính

×