Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Luận văn: Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.62 KB, 56 trang )

Luận văn
Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các
doanh nghiệp Hà Nội

1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, khơng một quốc gia
nào có thể phát triển mà không mở cửa nền kinh tế của mình. Xuất khẩu là một
trong những cách thức mở cửa nền kinh tế được nhiều quốc gia áp dụng nhất,
xuất khẩu có vai trị quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia. Vì thế
nhiều quốc gia xem việc thúc đẩy xuất khẩu là rất quan trọng. Thúc đẩy xuất
khẩu giúp các nước trên thế giới có thể khai thác triệt để tiềm năng, thế mạnh
của mình, đồng thời giảm thiểu được những bất lợi từ đó tạo ra được nhiều hàng
hố hơn, giúp người tiêu dùng có thể được tiêu dùng nhiều hơn với giá cả thấp
hơn. cũng nhờ đó các quốc gia trên thế giới có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ hơn,
giảm dần chênh lệch giữa các quốc gia, góp phần làm cho quá trình phân cơng
lao động quốc tế được thuận lợi hơn.
Đối với Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu đóng vai trị quan trọng trong việc
thực hiện đường lối cơng nghiệp hố - hiện đại hoá đất nước. Đây là một hướng
đi đúng đắn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi mà thị trường trong nước ngày
càng chật hẹp và sức cạnh tranh từ hàng hoá ngoại nhập ngày càng tăng. Nhờ
thúc đẩy xuất khẩu doanh nghiệp có thể:
+ Có cơ hội mở rộng thị trường: được hoạt động trên thị trường thế giới rộng
lớn, nhu cầu phong phú và đa dạng, sức tiêu thụ hàng hoá cao, khả năng thu
được nhiều lợi nhuận hơn.
+ Cơ hội mở rộng mối quan hệ làm ăn kinh doanh với các đối tác nước
ngồi, có thêm điều kiện học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng để hồn thiện hoạt động
kinh doanh của mình.
+ Góp phần cải thiện đời sống người công nhân, giảm tỉ lệ thất nghiệp, gia


tăng kim ngạch xuất khẩu.
Ngày 01/01/2007 Việt Nam chính thức tham gia vào tổ chức thương mại thế giới
WTO, rào cản thương mại được dỡ bỏ, cơ hội kinh doanh được mở rộng, nhiều
nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam. Hoàn thiện việc thực
hiện chiến lược kinh doanh hợp lý đủ sức cạnh tranh được với doanh nghiệp
trong và ngoài nước là yếu tố sống còn đối với mỗi doanh nghiệp Việt Nam.
2


A: Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu, hệ thống những vấn đề trong việc Xuất
khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội – thực trạng và phương hướng
phát triển, hiệu quả trong việc thúc đẩy sự ảnh hưởng của nó.
Đánh giá những khó khăn và hạn chế trong việc phát triển ngành Công nghệ
thông tin và Xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội. Trên cơ sở đó
để có những giải pháp khắc phục những vấn đề còn tồn tại.

B: Phương pháp nghiên cứu
Bằng việc thu thập số liệu sơ cấp và thứ cấp, từ Internet, sách báo, tạp chí,
các báo cáo tổng kết chiến lược của ngành Cơng nghệ thông tin trong những
năm qua, sử dụng những số liệu để xử lý, phân tích và đánh giá số liệu trong quá
khứ, làm cơ sở rút ra những nhận xét xác đáng, tìm ra giải pháp khắc phục khó
khăn.

C: Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về xuất khẩu phần mềm của các doanh
nghiệp của thành phố Hà Nội. Nghiên cứu tổng quan về xuất khẩu khơng đi sâu
vào khía cạnh nghiệp vụ xt khẩu, nghiên cứu ở cấp độ ngành sản phẩm.

D: Nội dung nghiên cứu

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3
chương:
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của
các doanh nghiệp Hà Nội

3


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU:………………………………………………………………….
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp
1.1: Đặc điểm sản phẩm phần mềm
1.1.1: Khái niệm và phân loại sản phẩm phần mềm
1.1.2: Quá trình sản xuất sản phẩm phần mềm
1.1.3: Đặc trưng sản phẩm phần mềm
1.2: Một số lý thuyết áp dụng trong xuất khẩu phần mềm
1.2.1: Lý thuyết lợi thế so sánh
1.2.2: Lý thuyết lợi thế cạnh tranh
1.2.3: Lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu
1.3: Đặc điểm một số thị trường nhập khẩu phần mềm của Việt Nam
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
2.1: Tổng quan về các doanh nghiệp sản xuất phần mềm của Hà Nội
2.1.1: Thực trạng trình độ và nguồn lực sản xuất phần mềm
2.1.2: Thực trạng nguồn lực cho sản xuất phần mềm
2.1.3: Lợi thế và hạn chế của các doanh nghiệp sản xuất phần mềm của Hà Nội
2.2: Phân tích thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
2.2.1: Kim ngạch xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
2.2.2: Thị trường xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội

2.2.3: Khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà
Nội
2.2.4: Cơ chế, chính sách của Thành phố Hà Nội trong thúc đẩy xuất khẩu phần
mềm
2.3: Đánh giá thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của
các doanh nghiệp Hà Nội
4


3.1: Phương hướng phát triển sản xuất và xuất khẩu phần mềm của các doanh
nghiệp Hà Nội
3.1.1: Cơ hội và thách thức trong xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà
Nội
3.1.2: Phương hướng phát triển sản xuất phần mềm
3.1.3: Phương hướng xuất khẩu phần mềm
3.2: Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
3.3: Kiến nghị

5


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU PHẦN MỀM CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP
1.1: Đặc điểm sản phẩm phần mềm
1.1.1: Khái niệm và phân loại sản phẩm phần mềm
Khái niệm:
Phần mềm được hiểu là chương trình, là tài liệu mơ tả chương trình, tài liêu
hỗ trợ, nội dung thơng tin số hố.

- Chương trình là một tập hợp của các lệnh, câu lệnh được mô tả bằng bất kỳ
ngôn ngữ, mã hay hệ thống ký hiệu nào và được thể hiện hoặc lưu trữ trong các
vật mang tin (có hoặc khơng kèm theo các thông tin liên quan), được dùng trực
tiếp hoặc dùng gián tiếp sau khi qua một hoặc cả hai khâu sau:
 Tái tạo sang một vật mang tin khác; làm cho một dụng cụ có khả năng xử
lý thơng tin thực hiện một chức năng nào đó.
 Chuyển đổi sang môt ngôn ngữ, mã, hệ thôngs ký hiêu khác.
- Tài liệu mơ tả chương trình và tài liệu hỗ trợ là tài liệu được thể hiện dưới bất
kỳ dạng nào có nội dung mơ tả chương trình, giới thiệu, hướng dẫn cách cài đặt,
sử dụng, nâng cấp, sửa lỗi hoặc các hướng dẫn khác liên quan đến sử dụng và
khai thác chương trình.
- Nội dung thơng tin số hố bao gồm:
 Cơ sở dữ liệu là tập hợp dữ liệu được sắp xếp và lưu trữ dưới dạng điện
tử số hoá.
 Sưu tập tác phẩm số hoá là sưu tập tác phẩm được lưu trữ dưới dạng điện
tử số hoá.

6


* Mặc dù chúng ta không thể định nghĩa nhưng khái niệm sản phẩm phần
mềm được hiểu như là một hệ thống chương trình thực hiện một nhiệm vụ
tương đối độc lập nhằm phục vụ cho một ứng dụng cụ thể trong cuộc sống của
con người (và có thể được thương mại hoá).
Sản phẩm phần mềm là là phần mềm được sản xuất và được thể hiện hay lưu
trữ ở bất kỳ một dạng vật thể nào có thể được mua bán hoặc chuyển giao cho
đối tượng khác sử dụng. Ví dụ các sản phẩm phần mềm:
 Hệ điều hành: MS – DOS, OS/2, Unix OS…
 Hệ điều hành mạng máy tính: Unix, Novell Netware, Windows NT… và
các ứng dụng trên mạng LAN, WAN, Internet/Intranet (các Browsers, các

dịch vụ khai thác Internet…).
 Các ngơn ngữ lập trình (chương trình dịch): Turbo Pascal, Turbo C…
 Hệ quản trị cơ sở dữ liệu: Microsoft Foxpro, Microsoft Access, Oracle…
 Microsoft Windows và các ứng dụng trên Windows.
 Các trò chơi (Games)
Dưới đây là bảng tóm tắt q trình tiến hố của sản phẩm phần mềm:
Xử lý theo lô (Batch Processing)
Thời kỳ đầu tiên

Phần mềm được viết theo đơn đặt

1950 – 1960

hàng
Đa người dùng (Multiusers)

Thời kỳ thứ hai

Thời gian thực (Real Time)
Cơ sở dữ liệu (Database)

1969 – 1970

Phần mềm sản phẩm)
Hệ thống xử lý phân bổ (Distributed
processing system)
Thời kỳ thứ ba

Thông minh (Intelligence)
Phần cứng giá thành hạ


1970 – 1990

Hiệu quả tiêu thụ
Hệ thống để bàn (Desktop – Personal

7


– Notebook Computers)
Lập trình hướng tới đối tượng
(Object oriented programming)
Thời kỳ thứ tư

Lập

1990 trở đi

trình

trực

quan

(Visual

programming)
Hệ chun gia (Expert system)
Mạng thơng tin toàn cầu (Worldwide
communication network)

Xử lý song song (Paralell processing)


Phân loại:
- Phần mềm nhúng là phần mềm được nhà sản xuất thiết bị cài sẵn vào thiết bị
và chúng được sử dụng ngay cùng với thiết bị mà không cần có sự cài đặt của
người sử dụng hay người thứ ba.
- Phần mềm đóng gói là sản phẩm phần mềm có thể sử dụng được ngay sau
khi người sử dụng hoặc nhà cung cấp dịch vụ cài đặt vào các thiết bị hay hệ
thống. Các phần mềm này thường được cung cấp qua dạng đĩa mềm, đĩa CD;
qua bất kể vật mang tin nào khác hay thông qua mạng máy tính. Phần mềm đóng
gói thường được phân ra hai loại: phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng.
Ví dụ: hệ điều hành, các công cụ phát triển, các ngôn ngữ lập trình, xử lý
văn bản, bảng tính, diệt virus, kế tốn, dạy học, quản lý tài chính, quản lý vật tư,
các phần mềm tính tốn khoa học kỹ thuật, đồ hoạ, v.v…
- Phần mềm chuyên dụng là sản phẩm phần mềm được phát triển theo yêu cầu
cụ thể và riêng biệt của khách hàng. Phần mềm chuyên dụng có thể được phát
triển từ đầu hoặc được thiết kế theo yêu cầu của khách hàng dựa trên cơ sở các
phần mềm có sẵn trên thị trường.
- Sản phẩm thơng tin số hố là nội dung thơng tin số hố được lưu trữ trên
một vật thể nào đó.
1.1.2: Q trình sản xuất sản phẩm phần mềm
8


Về mặt thiết kế
Tùy theo mức độ phức tạp của phần mềm tạo ra, người thiết kế phần mềm sẽ
ít dùng đến các phương tiện để tạo ra mẫu thiết kế theo ý muốn (chẳng hạn như
các sơ đồ khối, các lưu đồ, các thuật toán và các mã giải), sau đó mẫu này được
mã hóa bằng các ngơn ngữ lập trình và được các trình dịch chuyển thành các

khối lệnh “module” và các tập khả thi. Tập hợp các tệp khả thi và các khối lệnh
làm thành một phần mềm. Thường khi một phần mềm được tạo thành, để cho
hồn hảo thì phần mềm đó phải được điều chỉnh hay sửa chữa từ khâu thiết kế
cho đến khâu tạo thành phiên bản phần mềm một số lần. Một phần mềm thơng
thường sẽ tương thích với một hay nhiều hệ điều hành, tùy theo cách thiết kế,
cách viết mã nguồn và ngơn ngữ lập trình được dùng.
Về mặt sản xuất phần mềm
Việc phát triển và đưa ra thị trường của một phần mềm là đối tượng nghiên
cứu của bộ môn cơng nghệ phần mềm kĩ thuật phần mềm hay cịn gọi là công
nghệ phần mềm “Software Engineering”. Bộ môn này nghiên cứu các phương
pháp tổ chức, cách thức sử dụng nguồn tài ngun, vịng quy trình sản xuất,
cùng với các mối quan hệ với thị trường, cũng như liên hệ giữa các yếu tố này
với nhau. Tối ưu hóa quy trình sản xuất phần mềm cũng là đối tượng được xét
của bộ mơn.
Có thể mơ tả q trình sản xuất một sản phẩm phần mềm trải qua các giai
đoạn bằng hình sau:

Bước 1: Người đặt hàng

Bước 2: Thiết kế của chủ trì đề

tài(Cơng ty cơng viên)

9


Bước 3: Sản phẩm của người

Bước 4: Sau khi sửa sai với


lập trình

những sáng kiến cải tiến

Bước 5: Triển khai đến khách

Bước 6: Ước mơ của người sử

hàng

dụng

1.2: Một số lý thuyết áp dụng trong xuất khẩu phần mềm
1.2.1: Lý thuyết lợi thế so sánh
* Lý thuyết của Adam Smith
Lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối ra đời vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế
kỷ XIX, người đề xướng đầu tiên là David Hume (1752) tiếp đến là Adam
Smith (1723 – 1790) và sau đó được tục phát triển bởi những người kế tục của
ông. Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản
xuất, khi sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau. Lợi thế tuyệt đối
trong việc sản xuất một loại sản phẩm có thể do các lợi thế tự nhiên hoặc các lợi
thế có được do kỹ thuật và sự lành nghề.

10


Theo lý thuyết lợi thế so sánh tuyệt đối thì các quốc gia nên chun mơn
hố sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó bán những hàng
hoá này sang quốc gia khác để đổi lấy các sản phẩm mà nước ngồi có lợi thế
hơn. bằng việc chun mơn hố sản xuất những sản phẩm có lợi thế tuyệt đối cả

hai quốc gia đều có lợi khi quan hệ thương mại với nhau.
Ví dụ: Nước Mỹ có điều kiện tự nhiên thuận lợi trong việc trồng lúa mỳ,
ngược lại nước Anh có nhiều thuận lợi trong sản xuất vảI vóc. Khi đó nước Mỹ
sẽ chuyên mơn hố sản xuất lúa mỳ cịn nước Anh sẽ chun mơn hố sản xuất
vải vóc. Nước Anh sẽ sản xuất được nhiều vải vóc hơn và nước Mỹ cũng sẽ sản
xuất được nhiều lúa mỳ hơn so với khi hai nước đó cịn ở tình trạng tự cung tự
cấp. Nước Mỹ sẽ tiến hành trao đổi một phần lúa mỳ để đổi lấy một lượng vải
vóc của nước Anh. Người ta cũng chứng minh được rằng cả hai nước Mỹ và
Anh sẽ cùng được hưởng lợi nhờ quan hệ thương mại lẫn nhau.
* Lý thuyết của David Ricardo hay còn gọi là lý thuyết về lợi thế so sánh
Nhược điểm của lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối của Adam Smith là
không lý giải được hoạt động thương mại khi một trong hai nước có lợi thế tuyệt
đối sản xuất tất cả các mặt hàng. David Ricardo đã phát triển và đưa ra một lý
thuyết tổng quát hơn về thương mại so với lý thuyết của Adam Smith đó là Lý
thuyết lợi thế so sánh. Lý thuyết này được trình bày trong tác phẩm “Những
nguyên lý của kinh tế chính trị học 1817”. Theo David Ricardo thương mại giữa
hai quốc gia dựa trên lợi thế tương đối, lợi thế tương đối hay còn gọi là lợi thế so
sánh đề cập tới việc các quốc gia có thể sản xuất ra khối lượng các mặt hàng
giống nhau khi sử dụng các nguồn lực như nhau nhưng với chi phí khác nhau.
Do sự khơng đồng đều về lợi thế tuyệt đối, nếu mỗi nước chun mơn hố
vào sản xuất mặt hàng có lợi thế tuyệt đối hơn và dùng một phần để trao đổi với
nước khác bằng mặt hàng có lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn thì cả hai nước sẽ cùng
thu được lợi ích thơng qua thương mại.
Ví dụ:
Có 2 nước X và Y và cùng có 2 loại hàng dệt may và lúa mỳ.
Chi phí sản xuất hàng dệt may của nước X và Y là: a
11


Chi phí sản xuất lúa mỳ của nước X và Y là: b

+ Nếu a< b thì nước X nên chun mơn hóa vào sản xuất và nhậo khẩu hàng
dệt may và ngược lại nước Y chun mơn hố vào sản xuất và xuất khẩu lúa mỳ.
Sau quá trình chuyên mơn hố và thương mại, tổng sản phâmr hàng dệt may và
lúa mỳ mà 2 nước sản xuất đều tăng lên về số lượng hàng hoá mà người dân của
mỗi nước có thể tiêu dùng đều được cải thiện.
* Lý thuyết của Haberler về lợi thế so sánh
Lợi thế tương đối là một khái niệm rất quan trọng của kinh tế học. Hạn chế
của David Ricardo ở chỗ mới chỉ đề cập đến khái niệm lợi thế tương đối trên cơ
sở lý thuyết về lao động, trong khi đó lao động lại chỉ là một yếu tố của sản
xuất. Haberler đã đưa ra cách giải thích tồn diện hơn dựa trên lý thuyết về chi
phí cơ hội. Theo Haberler, chi phí cơ hội của hàng hố là số lượng các hàng hoá
khác phải cắt giảm để nhường lại đủ các ngồn tài nguyên để sản xuất thêm một
đơn vị hàng hố thứ nhất. Một nước có lợi thế tương đối về sản xuất một mặt
hàng nào đó so với nước khác khi nó có thể sản xuất mặt hàng đó với chi phí cơ
hội thấp hơn so với nước khác.
Ví dụ: ở 2 nước X và Y khi khơng có thương mại quốc tế thì X phải bỏ đI
2/3 số đơn vị của vải để sản xuất thêm một đơn vị của thép. Cịn ngược lại, chi
phí cơ hội về thép ở nước Y là 1 thép = 2 vải. Vởy là nước X có lợi thế về sản
xuất thép cịn nước Y có lợi thế tương đối trong sản xuất vải. Theo lập luận của
lý thuyết này thì mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh với một một quốc gia khác
trong việc sản xuất một sản phẩm khi mà chi phí cơ hội để sản xuất…
1.2.2: Lý thuyết lợi thế cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh tồn tại khi có sự phù hợp giữa những khả năng đặc biệt
của một hãng với những nhân tố quyết định thành công trong ngành, điều này
cho phép hãng hoạt động tốt hơn các đối thủ cạnh tranh khác. Có 2 cách cơ bản
để đạt được lợi thế cạnh tranh. Thứ nhất, lợi thế cạnh tranh có thể đạt được khi
một hãng theo đuổi một chiến lược chi phí thấp, điều này cho phép hãng chào
bán những sản phẩm với giá thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh
tranh cũng có thể đạt được bởi một chiến lược phân biệt sẩn phẩm, do vậy khách
12



hàng nhận thức được những lợi ích duy nhất nên họ đồng tình với một mức giá
chênh lệch so với đối thủ cạnh tranh. Chú ý rằng cả hai chiến lược này đều có
tác động như nhau: làm tăng giá trị nhận thức của khách hàng.
Chất lượng của một chiến lược của một hãng cuối cùng sẽ được đánh giá
bởi kết quả - doanh số bán hàng, lợi nhuận, hoặc một vài chỉ số đo lường khác.
Những kết quả này lần lượt phụ thuộc vào mức độ giá trị tạo ra cho khách hàng:
giá trị mà khách hàng nhận thức được càng lớn thì chiến lược càng tốt. Tóm lại,
lợi thế cạnh tranh có thể đạt được bằng cách tạo ra giá trị nhiều hơn so với đối
thủ cạnh tranh và giá trị được xác định bởi khách hàng.
Michael Porter đã phát triển một nền móng cho những chiến lược kinh
doanh tổng hợp dựa trên 2 hình thức lợi thế cạnh tranh: chi phí thấp và sự khác
biệt. Sự kết hợp giữa 2 hình thức này với phạm vi của thị trường mục tiêu (phạm
vi rộng hoặc hẹp) hay độ rộng sản phẩm hỗn hợp (hẹp hoặc rộng) sẽ mang lại 3
chiến lược chung: dẫn đầu chi phí, khác biệt hoá và trọng tâm hoá.
Chiến lược dẫn đầu về chi phí: Mục đích của cơng ty trong việc theo đuổi
sự dẫn đầu về chi phí hộăc chiến lược chi phí thấp là hoạt động tốt hơn (có lợi
thế hơn) các đối thủ cạnh tranh bằng việc thực hiện các chính sách và biện pháp
để có thể sản xuất hàng hố hoặc dịch vụ ở chi phí thấp hơn các đối thủ. Trong
môi trường quốc tế, cần đánh giá chiến lược này theo 2 phương diện: phương
diện Marketing và phương diện sản xuất.
Về phương diện Marketing, việc tìm kiếm các thị trường mới cho phép
tăng cầu tiềm năng và đạt được mức sản xuất tối ưu nhất. Để quá trình này tạo ra
được tác động tối ưu, cần phải thiết kế những sản phẩm theo tiêu chuẩn tồn cầu
hoặc ít ra là theo tiêu chuẩn châu lục. Chúng ta cũng biết rằng việc tung sản
phẩm ra thị trường quốc tế sẽ cho phép kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm và do
đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hiệu ứng kinh nghiệm. Trong
trường hợp đòi hỏi chi phí để thích ứng với điều kiện đặc thù, cần phải tính tốn
và so sánh giữa chi phí đầu tư đặc biệt và khả năng sinh lời.

Về phương diện sản xuất, việc dịch chuyển sản xuất để hưởng chi phí nhân
công thấp trong một số khu vực của thế giới đã trở nên khá quen thuộc. Chính
13


vì vậy, việc tìm kiếm một tổ chức sản xuất hợp lý nhất trở thành phương tiện tạo
nên lợi thế cạnh tranh. Thực vậy, tổ chức quốc tế về sản xuất gắn liền với quy
mô tối ưu tương ứng với khối lượng sản xuất cho phép giảm chi phí trung bình ở
mức tối thiểu. Nếu quy mơ tối ưu ngang bằng với khối lượng của từng thị trường
thì cơng ty có thể xây dựng mỗi nhà máy cho từng thị trường và lựa chọn chiến
lược đa quốc gia. Trong trường hợp quy mô tối ưu cao hơn khối lượng của từng
thị trường, phải xây dựng nhà máy chuyên môn hốa cho nhiều thị trường (nhất là
các thị trường trong khu vực). Nếu quy mô tối ưu nhỏ hơn khối lượng của từng
thị trường, chỉ nên xây dựng một nhà máy duy nhất cung cấp cho thị trường thế
giới.
Hợp nhất hay liên kết sản xuất xuyên quốc gia là một vấn đề cơ bản của
chiến lược khối lượng/chi phí. Có 3 giải pháp về tổ chức: thứ nhất, tổ chức sản
xuất đa quốc gia trong đó các đơn vị sản xuất khơng chun mơn hố sẽ sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm cho thị trường nhất định. Thứ hai, toàn cầu hoá bằng hợp
nhất theo chiều ngang xuyên quốc gia, điều này sẽ dẫn đến việc chun mơn hố
theo sản phẩm hoặc dòng sản phẩm của mỗi đơn vị sản xuất; mỗi đơn vị đều có
nhiệm vụ thoả mãn nhu cầu của thị trường thế giới hoặc châu lục. Thứ ba, tồn
cầu hố bằng hồ nhập hay liên kết theo chiều dọc xuyên quốc gia. Thực chất đó
là sự phân chia q trình sản xuất và bố trí các giai đoạn sản xuất khác nhau trên
nhiều thị trường. Mỗi đơn vị có trách nhiệm thực hiện một giai đoạn sản xuất.
Chiến lược khác biệt hố: Mục đích của chiến lược khác biệt hoá là để đạt
được lợi thế cạnh tranh bằng việc tạo ra sản phẩm – hàng hoá hoặc dịch vụ – mà
được người tiêu dùng nhận thức là độc đáo nhất theo nhận xét của họ. Khả năng
của một cơng ty khác biệt hố sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của người tiêu
dùng theo cách mà các đối thủ cạnh tranh khơng thể có, nghĩa là nó có thể đặt

giá cao hơn – giá cao hơn đáng kể so với mức trung bình của ngành. Khác với
chiến lược nhấn mạnh chi phí (dựa vào ưu thế cạnh tranh bên trong hay khả
năng làm chủ chi phí), chiến lược khác biệt hố dựa vào ưu thế cạnh tranh bên
ngồi, tức là mức độ hoàn thiện của sản phẩm. Chiến lược khác biệt hố cũng có
thể thựcc hiện thơng qua dịch vụ cung ứng con người và hình ảnh. Nhiều công
14


ty áp dụng chiến lược khác biệt hoá dựa trên sự thay đổi “chuỗi giá trị”. Căn cứ
vào chuỗi giá trị, nếu cơng ty có lợi thế trong việc thực hiện các hoạt động cơ
bản hỗ trợ cuối nguồn, chiến lược khác biệt hoá tỏ ra hữu hiệu nhất.
Khả năng khác biệt hoá mạnh mẽ cho phép doanh nghiệp thoát khỏi áp lực
cạnh tranh. Trên thị trường quốc tế, nhiều doanh nghiệp đã thành cơng nhờ khả
năng khác biệt hố mạnh mẽ so với các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, để chiến
lược khác biệt hoá đem lại kết quả mong muốn, sự khác biệt hoá về sản phẩm
hay nhãn hiệu của công ty phải được nhận thức và bền vững. Để làm được điều
này công ty cần phải thực hiện những cố gắng to lớn về giao tiếp, truyền tin. Nói
cách khác, sự thành cơng của chiến lược khác biệt hoá phụ thuộc phần lớn vào
chất lượng và hiệu quả. Phương thức này cho phép nâng cao khả năng khác biệt
hoá so với cạnh tranh, đặc biệt đối với lĩnh vực dịch vụ.
Chiến lược trọng tâm hoá: chiến lược trọng tâm hoá dựa trên lợi thế cạnh
tranh là tập trung các nguồn lực cho phép phát huy tối đa năng lực của công ty.
Chiến lược này được thực hiện hoặc thơng qua khả năng khác biệt hố, hoặc chi
phí thấp hoặc cả hai.
Về phương diện Marketing, khi công ty tấn công thị trường thế giới điều
quan trọng trước tiên là phải tiến hành phân đoạn thị trường để thực hiện tồn
cầu hố. Cơng ty càng hoạt động trên một đoạn thị trường hẹp bao nhiêu thì
càng phải phát triển mạnh mẽ thị trường về mặt địa lý. Như vậy phân đoạn thúc
đẩy q trình tồn cầu hố tình hình này rất điển hình trong một thế giới mà
cơng nghệ mới xuất hiện thường xuyên. Thực vậy thị trường hẹp và mới phát

triển địi hỏi chi phí nghiên cứu và phát triển rất lớn nên cần thiết phải thu hồi
vốn đầu tư nhanh để giảm thiểu rủi ro: công ty hoặc là phát triển quốc tế hoặc là
bị thất bại. Tuy nhiên, khi các hoạt động quốc tế phát triển cơng ty cần thiết phải
tăng cường kiểm sốt thị trường, tức là kiểm sốt hình ảnh trên tất cả các thị
trường. Việc lựa chọn định hướng chiến lược này thường đòi hỏi ưu tiên các giải
pháp thâm nhập thị trường với mức độ làm chủ hoàn toàn.
Về phương diện sản xuất, chiến lược trọng tâm hố vẫn theo đuổi lơgic chi
phí tối thiểu. Chính vì vậy việc dịch chuyển các cơ sở sản xuất sang những nước
15


có các yêu tố đầu vào phong phú và rẻ là một sự lựa chọn thường thấy khi mà
khối lượng và các điều kiện kinh tế cho phép. Ràng buộc quan trọng nhất là phải
đảm bảo giữ vững hình ảnh chun mơn hố; hình ảnh nhãn hiệu của cơng ty
cũng cần xuất hiện và được củng cố tại các địa điểm sản xuất nước ngoài.
1.2.3: Lý thuyết về chuỗi giá trị tồn cầu
Một hậu quả khơng thể tránh khỏi trong việc mở rộng hoạt động Marketing
toàn cầu là sự tăng trưởng cạnh tranh trên toàn thế giới. Từ ngành này sang
ngành khác cạnh tranh toàn cầu là một nhân tố quyết định tác động đến thành
công, trong một vài ngành các cơng ty tồn cầu gần như ngăn cản tất cả các
công ty khác tham gia vào thị trường của họ.
Thí dụ: Cơng nghiệp chất tẩy tại đó 3 cơng ty – Colgate, Unilever, và
Procter&Gamble – chiếm số lượng ngày càng tăng trên thị trường chất tẩy.
Nhiều cơng ty có thể làm ra được một sản phẩm tẩy rửa chất lượng nhưng những
kỹ năng cần phải có trong mẫu bao bì có chất lượng, lại đang tràn ngập trong
cạnh tranh khu vực từ thị trường này sang thị trường khác. Tác động của cạnh
tranh tồn cầu mang lại lợi ích cao cho những người tiêu dùng trên khắp thế
giới. Trong ví dụ trên về cơng nghiệp chất tẩy tại Trung Mỹ, khách hàng thường
có được lợi ích. ở Trung Mỹ giá chất tẩy đã giảm do kết quả của cạnh tranh toàn
cầu. Cạnh tranh toàn cầu làm mở rộng lĩnh vực sản xuất và tăng cường khả năng

theo đó người tiêu dùng sẽ nhận được những gì họ muốn.
Mặt trái của cạnh tranh tồn cầu là tác động của nó lên các nhà sản xuất
hàng hoá và dịch vụ. Cạnh tranh toàn cầu tạo ra giá trị cho người sử dụng nhưng
nó cũng làm giảm số lượng việc làm. Khi một công ty ở bên kia thế giới đưa lại
cho khác hàng một sản phẩm tốt hơn với giá thấp hơn thì cơng ty này lại tước
đoạt từ nhà cung ứng nội địa một khách hàng. Trừ phi nhà cung ứng nội địa có
thể tạo ra những giá trị mới và tìm kiếm những khách hàng mới, nếu khơng cơng
việc và khả năng của nhân công công ty nội địa sẽ bị đe doạ. Chính sách thương
mại của một quốc gia cuối cùng là nhiệm vụ của chiến lược cạnh tranh. Một
quốc gia thành công trong việc chuyển đổi các nguồn lực bao gồm cả lao động

16


lên những mức sử dụng cao hơn và tốt hơn thì có thể chấp nhận sự giảm sút số
lượng cơng việc sản xuất được trả lương tốt.
Chúng ta xem xét 2 trường hợp hoạt động của một hãng hoặc một ngành:
Trường hợp thứ nhất là một hãng và ngành nội địa, khơng có bất kỳ một hoạt
động mang tính quốc tế nào. Trường hợp thứ hai là những hãng và ngành cơng
nghiệp tồn cầu. Giữa hai thái cực này có rất nhiều các mức độ đa dạng về
những ngành, những hãng đa quốc gia và mang tính quốc tế. Những hãng này có
đặc điểm là tự lập hoặc hầu hết là tự lập những công ty trực thuộc tại một số
nước. Hoạt động của đơn vị này tại bất kỳ quốc gia nào thường là độc lập với
hoạt động của những đơn vị ở những quốc gia khác. Những công ty trực thuộc ở
nước ngoài thuộc bất cứ một hãng nào nhất thiết phải trở thành những hãng
“trong nước” của quốc gia mà tại đó chúng đang hoạt động. Khơng có một chiến
lược hồ nhập tồn cầu thay vào đó sẽ có những chiến lược quốc gia độc lập.
Các hãng toàn cầu phải hoà nhập những chiến lược toàn cầu mà những chiến
lược này tách bạch những hoạt động của một đơn vị tại một quốc gia bất kỳ với
một số mức độ hoạt động của những đơn vị ở các quốc gia khác.

Có 4 khía cạnh liên quan đến biểu tượng quốc gia, có tác dụng đóng góp
hoặc làm giảm giá trị việc tạo ra lợi thế cạnh tranh của những hãng, của những
quốc gia đó. Những biểu tượng này được xem như là “viên kim cương” quốc
gia:
Các điều kiện về nhân tố nguồn lực: Dưới hình thức đơn giản nhất các
điều kiện nhân tố ám chỉ đất đai, lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và cơ sở
hạ tầng của một quốc gia. Những nhân tố này được tạo ra trong một quốc gia bởi
tầm quan trọng đặc biệt của mình, chúng được phân biệt với những thứ khác mà
quốc gia đó thừa kế. Có 5 loại nhân tố: nguồn nhân lực, nguồn vật chất, nguồn
tri thức, nguồn vốn và cơ sở hạ tầng.
Nguồn nhân lực: Số lượng nhân viên làm việc, kỹ năng mà họ có được,
mức lương, và đạo đức làm việc của lực lượng lao động, tất cả tạo thành nguồn
nhân lực của một quốc gia. Một đất nước với lượng cung lớn về nhân cơng trả
lương thấp có được lợi thế rõ ràng trong việc sản xuất đòi hỏi kỹ năng thấp, sản
17


phẩm cần nhiều lao động. Mặt khác những quốc gia như vậy thường xuyên gặp
phải bất lợi khi nó tiến hành sản xuất những sản phẩm tinh vi đòi hỏi khả năng
kỹ năng nhân cơng cao mà khơng có sự kiểm sốt trên phạm vi rộng.
Nguồn lực vật chất: Tính khả dụng, số lượng, chất lượng và trị giá đất đai,
nước, kháng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác xác định nguồn lực vật chất
của một quốc gia. Quy mơ và vị trí của một quốc gia cũng được bao gồm trong
phạm trù này bởi vì khoảng cách gần thị trường và nguồn cung cấp cũng như chi
phí vận tải được xem là mối quan tâm chiến lược. Những nhân tố này rõ ràng là
những lợi thế hoặc bất lợi quan trọng đối với những ngành công nghiệp phụ
thuộc vào tài nguyên thiên nhiên.
Nhân tố tri thức: Tính khả dụng về sự hiểu biết của một lượng dân cư đáng
kể liên quan đến thị trường, khoa học, công nghệ của một quốc gia, nghĩa là
quốc gia đó được trời ban cho nguồn tri thức. Những nhân tố này hết sức quan

trọng để đạt được thành công trong sản xuất sản phẩm và dịch vụ tinh vi và để
tiến hành kinh doanh trong thị trường phức tạp.
Nhân tố nguồn vốn: Các quốc gia thường thay đổi khả năng sử dụng, số
lượng , chi phí và các hình thức sử dụng vốn của các ngành công nghiệp. Tỷ lệ
tiết kiệm, lãi suất, luật thuế và thâm hụt ngân sách Chính phủ của một quốc gia,
tất cả đều tác động đến khả năng sử dụng các nhân tố này. Lợi thế, đối với
những ngành chi phí vốn thấp thường tốt hơn những ngành khác ở những quốc
gia với chi phí vốn tương đối cao, đơi khi mang tính quy ết định.
Nguồn lực về cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống ngân hàng, hệ
thống chăm sóc sức khoẻ, hệ thống giao thông vận tải, hệ thống liên lạc và khả
năng sử dụng cũng như chi phí sử dụng những hệ thống này của một quốc gia.
Nhiều ngành công nghiệp tinh vi đã phải phụ thuộc nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng
nâng cao để có được sự thành công. Lợi thế cạnh tranh sẽ được mang lại cho
một ngành công nghiệp quốc gia nếu một loạt các nhân tố hỗn hợp được sử dụng
đối với ngành đó thúc đẩy việc theo đuổi một chiến lược chung: sản xuất với chi
phí thấp hoắc san xuất sản phẩm hay dịch vụ với sự khác biệt. Lợi thế cạnh tranh

18


cũng có thể được các quốc gia tạo ra nếu những quốc gia này gặp những bất lợi
về nhân tố đã lựa chọn.
Ví dụ: Sự thiếu hụt lực lượng lao động cố thể buộc các hãng phát triển
những hình thức cơ giới hố, với hình thức này sẽ mang lại lợi thế cho các hãng.
Chi phí vận tải cao có thể thúc đẩy các hãng phát triển những nguyên liệu mới
mà chúng không đắt khi vận chuyển.
Các điều kiện về cầu: bản chất của các điều kiện về cầu nội địa đối với
những sản phẩm hay dịch vụ của một hãng hoặc một ngành là rất quan trọng bởi
chúng xác định nên tỷ lệ và áp lực đối với việc cải tiến và đổi mới do các hãng
thực hiện trong một quốc gia. đây cũng là nhân tố hoặc là giúp “đào tạo” các

hãng có sức cạnh tranh ở tầm cỡ thế giới hoặc là bị thất bại hoàn toàn trong việc
chuẩn bị để có thể tham gia cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Một số đặc điểm
về cầu nội địa là đặc biệt quan trọng đối với lợi thế cạnh tranh, chẳng hạn như:
kết cấu cầu nội địa, quy mơ và hình thức tăng trưởng cầu nội địa…
Kết cấu nội địa được xác định bằng cách các hãng nhận thức, nắm rõ và đáp
ứng được những nhu cầu của người mua. Lợi thế cạnh tranh có thể đạt được khi
cầu nội địa mang lại cho các doanh nghiệp trong nước một bức tranh tốt hơn về
những nhu cầu của người mua vào thời gian đầu so với các đối thủ cạnh tranh
nước ngoài. Lợi thế này càng được thúc đẩy khi chính những người mua nội địa
buộc các doanh nghiệp quốc gia họ phải đổi mới nhanh chóng và thường xuyên.
Nền tảng của lợi thế này bắt nguồn từ chỗ, khi các doanh nghiệp trở nên nhạy
cảm hơn và đáp ứng nhanh hơn nhu cầu nội địa và nếu nhu cầu ở thị trường nội
địa phản ánh hoặc mơ phỏng trước nhu cầu thế giới thì các doanh nghiệp quốc
gia có thể giữ vững vị trí dẫn đầu trên thị trưịng.
Quy mơ và mơ hình tăng trưởng cầu nội địa càng trở nên quan trọng khi kết
cấu cầu nội địa là phức tạp và phản ánh trước được nhu cầu bên ngoài. Nừu cầu
nội địa phản ánh một cách đúng đắn hoặc mô phỏng trước được nhu cầu bên
ngồi và nếu các doanh nghiệp khơng chỉ dừng ở việc phục vụ thị trường nội địa
thì sự tồn tại của các đơn vị sản xuất và các chương trình quy mơ lớn sẽ là một
lợi thế cạnh tranh tồn cầu.
19


Sự tăng trưởng thị trường nội địa một cách nhanh chóng là một điều khuyến
khích khác nữa để đầu tư vào và chấp nhận những công nghệ mới một cách
nhanh hơn và để xây dựng nên các đơn vị sản xuất có hiệu quả và quy mơ lớn.
Một cầu nội địa mới, đặc biệt là nếu nó mơ phỏng trước được nhu cầu thế giới,
sẽ mang lại cho các doanh nghiệp trong nước lợi thế nhanh hơn so với các đối
thủ cạnh tranh khi tham gia vào nước ngoài. Một điều quan trọng hơn nữa là sự
bão hoà thị trường mong đợi, điều này sẽ đặt áp lực lên một công ty là phải mở

rộng những thị trường quốc tế và tiếp tục đổi mới. Bão hoà thị trường đặc biệt
quan trọng nếu nó xảy ra đồng thời với sự tăng trưởng nhanh chóng của các thị
trường nước ngồi.
Các ngành cơng nghiệp hỗ trợ và có mối tương quan: Việc hiện diện của các
ngành công nghiệp cạnh tranh quốc tế của một quốc gia trên thị trường có mối
liên quan hoặc hỗ trợ trực tiếp cho những ngành khác, có thể đưa lại cho những
ngành này một lợi thế cạnh tranh. Các ngành công nghiệp cung ứng cạnh tranh ở
tầm quốc tế cung cấp những sản phẩm đầu vào cho những ngành sản xuất sản
phẩm cuối cùng đến lượt mình những ngành sản xuất sản phẩm cuối cùng sẽ
cạnh tranh ở tầm quốc tế về mặt giá cả và chất lượng. Những ngành sản xuất sản
phẩm cuối cùng sẽ dễ dàng tiếp cận với những sản phẩm đầu vào và với những
công nghệ để sản xuất ra chúng, và với những cơ cấu quản lý và cơ cấu tổ chức
nhằm làm cho những ngành này trở nên cạnh tranh hơn. Những lợi thế tương tự
cũng được mang lại khi có những ngành cơng nghiệp có mối tương quan quốc tế
trong một quốc gia. Những cơ hội này được sử dụng để phối hợp và chia sẻ
những hoạt động của dây chuyền đơn vị sản xuất.
Cạnh tranh, cơ cấu và chiến lược của hãng: Sự khác nhau giữa loại hình
quản lý, kỹ năng tổ chức và triển vọng chiến lược tạo ra những lợi thế và bất lợi
cho các hãng trong việc cạnh tranh giữa các ngành khác nhau cũng như tạo ra sự
khác biệt trong cường độ cạnh tranh nội địa.
Ví dụ: Tại Đức loại hình quản lý và cơ cấu của cơng ty có xu hướng sắp xếp
theo trật tự. Giám đốc điều hành thường tiến thủ từ vị trí có kiến thức về cơng

20


nghệ và thường hầu hết là thành công khi tham gia vào những ngành đòi hỏi cơ
cấu tuân thủ kỷ luật cao như hố họcvà cơng nghệ máy chính xác.
Có lẽ tác động mạnh nhất đến lợi thế cạnh tranh là từ những cuộc cạnh
tranh khốc liệt trong nước. Cạnh tranh trong nước thúc đẩy tính năng động của

ngành và tạo ra áp lực tiếp theo cho việc cải tiến và đổi mới. Cạnh tranh khốc
liệt khu vực buộc các doanh nghiệp phải phát triển các sản phẩm mới, cải tiến
các sản phẩm hiện có, giảm chi phí và giá cả, phát triển công nghệ mới và cải
tiến chất lượng và dịch vụ. Cạnh tranh khốc liệt đối với các doanh nghiệp nước
ngoài sẽ thiếu hụt mất sức mạnh này. Cạnh tranh trong nước sẽ phải đấu tranh
với nhau không chỉ vì thị phần mà cịn vì tài năng của nhân viên và uy tín trên
thị trường nội địa. Cuối cùng cạnh tranh nội địa mạnh mẽ sẽ đẩy các hãng tới
việc tìm kiếm thị trường quốc tế để hỗ trợ cho việc mở rộng quy mô và đầu tư.
Việc thiếu vắng các cuộc cạnh tranh đáng kể sẽ tạo ra sự tự bằng lòng với bản
thân của các doanh nghiệp nội địa và cuối cùng gây hậu quả làm cho các doanh
nghiệp trở nên phi cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Cơ hội: Cơ hội đóng vai trị trong việc phân loại môi trường cạnh tranh. Cơ
hội thường xuất hiện ngồi tầm kiểm sốt của các doanh nghiệp, các ngành cơng
nghiệp và chính phủ. Liên quan đến vấn đề này là những mặt như chiến tranh và
thời kỳ hậu chiến, những tiến bộ công nghệ mới quan trọng, những cuộc chuyển
đổi đột ngột nhân tố hay chi phí đầu vào như là khủng hoảng dầu lửa, thay đổi
đột ngột tỷ giá hối đối…
Cơ hội quan trọng bởi vì chúng tạo ra những sự gián đoạn lớn trong công
nghệ mà điều này cho phép các quốc gia và các doanh nghiệp khơng có khả
năng cạnh tranh lại có thể vượt qua nhiều đối thủ cạnh tranh lâu đời và trở nên
cạnh tranh, thậm chí là cả những người dẫn đầu ngành, trong lĩnh vực kinh
doanh đã thay đổi.
Ví dụ: Việc phát triển công nghệ vi điện tử cho phép nhiều hãng vượt qua
các doanh nghiệp Đức và Mỹ đang chiếm ưu thế về công nghệ cơ học điên tử
truyền thống.

21


Chính phủ: Rất nhiều người cho rằng chính phủ là yếu tố quyết định chính

lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Trên thực tế chính phủ khơng phải là yếu tố
quyết định nhưng lại có ảnh hưởng quan trọng tới những yếu tố quyết định.
Chính phủ tác động tới các điều kiện về cầu, vừa gián tiếp thông qua chính sách
tài chính và chính sách tiền tệ và vừa trực tiếp bởi vai trị vốn có của nó như là
người mua các sản phẩm và dịch vụ. Chính phủ tác động lên các nguồn lực như
người ban hành các chính sách về lao động, giáo dục, phát triển vốn, các nguồn
tài nguyên thiên nhiên và tiêu chuẩn sản phẩm. Chính phủ tác động tới cạnh
tranh và mơi trường cạnh tranh bởi vai trị của nó như là người ban hành các quy
định về thương mại chẳng hạn như chỉ ra cho các ngân hàng và đàm thoại với
các công ty về cái gì họ có thể và khơng thể làm. Bằng cách tăng cường những
yếu tố quyết định trong những ngành mà tại đó một quóc gia có lợi thế cạnh
tranh, chính phủ cải tiến cạnh tranh của các doanh nghiệp quốc gia. Mặt khác
chính phủ có thể cải tiến hoặc làm yếu đi lợi thế cạnh tranh nhưng chính phủ
khơng thể tạo ra lợi thế cạnh tranh.
Chính những chiến lược cạnh tranh này sẽ định hướng cho các hoạt động
Marketing quốc tế của cơng ty. Nói cách khác việc xác lập chiến lược Marketing
quốc tế hỗn hợp trên thị trường quốc tế của một cơng ty địi hỏi phải tuân theo
và thể hiện được các chiến lược cạnh tranh đã lựa chọn.
1.3: Đặc điểm một số thị trường nhập khẩu phần mềm của Việt Nam
1.3.1: Ấn Độ
Trong vài năm trở lại đây ta có thể thấy Ấn Độ đang tự khảng định mình
và đã có những thành cơng nhất định, tuy nhiên bên cạnh đó, nó cịn tồn tại
những khó khăn mà Ấn Độ phải đương đầu. Đầu tiên, ta cần nhìn nhận những
con số mà Ấn Độ đã đạt được từ năm 2005 - 2008. Tổng doanh số các sản phẩm
phầm mềm ( cả dùng trong nước và xuất khẩu )đạt khoảng 3tỷ USD vào năm
2005. Thị trường phần mềm toàn cầu vào khoảng 400- 500tỷ USD. như vậy thị
phần về phần mềm chiếm không quá 1%. Số máy tính trên đầu người là 1,5PC/
1000 dân cũng quá thấp . Tuy nhiên trong những năm tới thì sẽ có khả năng
cạnh tranh cao trên thị trường phần mềm thế giới. Bởi vì hiện nay đang có chiến
22



lược đầu tư khá rầm rộ cho ngành công nghệ cao này chủ yếu là sản xuất phần
mềm dịch vụ để xuất khẩu chứ khơng phải ở dạng đóng gói. Vào năm 2008 thì
đã chiếm khoảng 40% phần mềm xuất khẩu nhưng chủ yếu ở dạng sản phẩm
dịch vụ , xuất khẩu ở dạng phần mềm đóng gói, các Cơng ty có khả năng làm
nhưng trở ngại lớn nhất là khi đưa sản phẩm ra thị trường thế giới rất khó khăn.
Các Cơng ty phần mềm Ấn Độ khơng gần gũi với thị trường phần mềm đóng gói
nước ngồi. Thị trường trong nước là hướng dẫn tồi cho các nhà phát triển phần
mềm do nhiều nhu cầu khác nhau, bên cạnh đó ưu thế về chi phí gia cơng thấp
đang giảm dần mặc dù sản xuất phần mềm không tốn nhiều chi phí nhưng tốn
khơng ít để tiếp thị, quảng cáo thu hút sự chú ý của khách hàng. Tờ Economics (
đưa ra con số của các Công ty phần mềm chi 40- 50% doanh số cho khâu tiếp thị
và bán hàng của các Công ty phần mềm lớn như Microsoft lên tới hàng tỷ USD.
Một điểm yếu nữa đó là các Cơng ty phần mềm của chưa có uy tín trên thị
trường phần mềm đóng gói, chưa có một hãng tên tuổi nào của Ấn Độ làm việc
này, thì khó bán được lượng hàng lớn. Hơn nữa việc hỗ trợ khách hàng, bảo trì,
cập nhật sản phẩm trên thị trường nước ngồi cũng tốn khơng ít tiền.
Bên cạnh đó kinh nghiệm trên thế giới đã chỉ ra rằng dù có thành cơng đi
nữa thì cũng chỉ đạt từ 1- 5% mà thơi, điều này địi hỏi đầu tư lớn điều mà
Ấn Độ khó có thể làm được. Từ những nguyên nhân nêu trên, nhiều Công ty của
Ấn Độ đã bằng lịng gia cơng cho các Cơng ty nước ngồi với giá hạ, đồng thời
với việc từng bước tìm ra thị trường phần mềm tạm gọi là đóng gói. Các sản
phẩm này thường là đóng g một nửa, như các sản phẩm mang tính tiếp thị
hoặc làm cơ sở để phát triển tiếp. Hướng đi cho vấn đề này là liên kết với các
Cơng ty nước ngồi. Hiện nay thị trường phần mềm xuất khẩu của Ấn Độ đã
được thực hiện ở trên 40 quốc gia, tuy nhiên thị trường lớn nhất thì chủ yếu tập
trung vào Mỹ ( bảng 2). Mỹ là thị trường xuất khẩu chính của Ấn Độ cũng có
thể do đây là thị trường phần mềm lớn nhất thế giới hiện nay, chiếm hơn 50 %
tổng phần mềm bán ra trong năm 2008 .

1.3.2: Mỹ

23


Hoa Kỳ một cường quốc về kinh tế. Nền kinh tế Hoa Kỳ đã có những
bước nhảy vọt trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Họ lần lượt vượt qua các
quốc gia phát triển khác và vươn lên trở thành quốc gia đứng đầu về kinh tế
cũng như trong khoa học và kỹ thuật trên thế giới. Trong vài chục năm trở lại
đây Hoa Kỳ bắt đầu là nước đi tiên phong trong lĩnh vực công nghệ thông tin,
nước khởi sướng cho sự phát triển vượt bậc của ngành công nghệ cao, ngành
công nghệ phần mềm. Các Công ty sản xuất phần mềm của Mỹ chiếm vị trí độc
quyền trong lĩnh vực này chi phối hầu như toàn bộ thị trường thế giới. Sự lớn
mạnh của Công ty Microsof là một minh chứng họ cịn có thủ phủ Siticol nổi
tiếng tập trung những chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực sản xuất phần mềm.
Công ty Microsof hầu như năm nào cũng cho ra đời những phiên bản mới,
chiếm vị trí độc quyền trong thời kỳ quá dài. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành
công nghiệp phần mềm đã đem lại cho nền kinh tế Mỹ sự lớn mạnh , duy trì vị
trí về kinh tế trên thế giới đưa lại lợi nhuận khổng lồ, tạo ra nhiều việc làm và
thúc dẩy các ngành khác phát triển. hiện nay ở Mỹ ngành công nghệ thông tin đã
phát triển vượt bậc, xu thé tin học hoá đang diễn ra, hầu như mọi lĩnh vực đều
được trang bị tin học, có khoảng 60% số người đang làm tin học,phần mềm
chiém khoảng 50% trên thị trường thế giới.
Ngành công nghiệp phần mềm của Mỹ có được vị trí như vậy là do Mỹ đã
biết đầu tư vào trí tuệ, vào phát triển ngành cơng nghệ cao dựa vào tri thức này
từ rất sớm có vốn và khuyến khích được tài năng của con người họ đã lơi cuốn
được khá nhiều chun gia có trình độ cao từ các nước có nền kinh tế đang phát
triển sang làm việc. Chính phủ Mỹ cũng có những chính sách nhằm định hướng
đúng đắn cho cácc cơng ty phần mềm và tạo diều kiện ưu đãi, thuận lợi cho
những Cơng ty này để có thể phát triển mạnh mẽ. chính vì thế chỉ trong vài chục

năm trở lại đây thì các Cơng ty phần mềm của Mỹ đã chiếm lĩnh được thị trường
thế giới.
1.3.3: Trung Quốc
Trung Quốc cũng được xem là một quốc gia xây dựng khá thành công
ngành công nghiệp này, ngay cả ấn Độ một quốc gia với nền công nghệ thông
24


tin khá phát triển phải xem Trung Quốc như nơi học tập. Thị trường khổng lồ ở
Trung Quốc với số dân đơng nhất thế giới sau khi mở cửa thì đã thu hút đâù tư
nước ngoài lớn nhất trong số các nước đang phát triển. Hiện nay Trung Quốc đã
có hơn 3000 công ty phần mềm, đã xuất hiện nhiều liên doanh phần mềm. Ngày
24/4/2000, Oracle Corp đã chính thức công bố việc thành lập liên doanh phát
triển phần mềm của họ ở Trung Quốc đang bước vào giai đoạn cuối. Theo ông
P.W.Pong Giám đốc công ty Oracle Trung Quốc, đầu tiên liên doanh này sẽ có
20 lập trình viên người Trung Quốc (4). Về mặt trình độ các lập trình viên Trung
Quốc chẳng kém gì người ấn Độ. Bên cạnh oracle là IBM, cũng đang phối hợp
với một đối tác trong nước là trường Đại học Qinghua ở Bắc Kinh để phát triển
phần mềm. Theo những nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào những nước đang
phát triển như Trung Quốc có lợi thế lớn về giá cả khi khai thác trình độ lập
trình. Sau khi có những chính sách khuyến khích đầu tư nước ngồi thì đầu tư
vào phần mềm lỉên tục tăng khaỏng 20% hàng năm từ 1989 và khơng có dấu
hiệu suy giảm với tiềm năng thị trường với một lực lựơng lớn kỹ sư và chuyên
viên tin học chuyên nghiệp, thêm vào đó là giá công thấp Trung Quốc dường
như sẽ trở thành nhà sản xuất chính các thiết bị cũng như các phần mềm tiếng
hoa. Tuy nhiên Trung Quốc có một nền giáo dục chưa cao so với các nước phát
triển, họ cũng khơng có tỷ lệ đáng kể các nhà khoa học, các kỹ sư, lập trình viên
so với tổng dân số (5). Nhưng do dân số đông nên số lượng các chuyên viên là
rất lớn. Chẳng hạn vào năm 2005 Trung Quốc có 2.172.000 chuyên viên làm
phần mềm chỉ sau Mỹ 3.060.000, nhưng hơn ấn Độ 1.117.000 và Nhật Bản là

1.977.000. Vì thế mà các nhà sản xuất phần mềm có thể tìm được các chuyên
viên làm việc với đồng lương thấp hơn nhiều so với các nước phát triển. Từ
những lợi thế trên mà Trung Quốc đã phát triển ngành công nghệ thông tin khá
mạnh, đã vươn lên trở thành một trong những nước có nền cơng nghệ thơng tin
hàng đầu thế giới, đang trở thành đối thủ cạnh tranh chính của Mỹ. Tuy nhiên thị
trường phần mềm, một ngành công nghệ cao, quan trọng trong ngành công nghệ
thông tin lại chiếm tỷ trọng nhỏ chỉ khoảng 25% tổng thị trường công nghệ
thông tin, tuy nhiên tốc độ tăng vẫn đạt 20%. Thị trường sản phẩm phần mềm
25


×