Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.87 KB, 68 trang )

1




Báo cáo tốt nghiệp

"Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
thanh toán không dùng tiền mặt tại Sở giao dịch Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam "
2

Mục lục
1.1 Sự cần thiết khách quan và vai trò của thanh toán không dùng tiền
mặt trong nền kinh tế thị trường 5
1.1.1 Sự cần thiết khách quan của thanh toán không dùng tiền mặt 5
1.1.2 Vai trò của TTKDTM trong nền kinh tế thị trường 6
1.2 Những quy định mang tính nguyên tắc trong TTKDTM 8
1.2.1 Mở và sử dụng tài khoản thanh toán 8
1.2.2 Đảm bảo khả năng thanh toán 9
1.2.3 Thực hiện lệnh thanh toán 10
1.2.4 Phí dịch vụ thanh toán 10
1.2.5 Chứng từ thanh toán 10
1.2.6 Trách nhiệm của Ngân hàng 10
1.3 Sơ lược về quá trình phát triển TTKDTM ở Việt nam 11
1.4 Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt 12
1.4.1 Thanh toán bằng séc 13
Có TK Tiền gửi của người thụ hưởng 17
Nợ TK Liên hàng đi 17
Nợ TK Tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi 17
1.4.2 Thanh toán bằng UNC- chuyển tiền 18


1.4.3 Uỷ nhiệm thu (UNT) 19
1.4.4 Thư tín dụng (TTD) 20
BNNg 21
1.4.5 Thẻ thanh toán 22
Chương 2 25
2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn 28
Nguồn trích: Bảng cân đối kế toán 1999, 2000, 2001 29
2.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn 30
Nguồn trích: Bảng cân đối kế toán 1999, 2000, 2001 30
2.1.2.3 Công tác kế toán- thanh toán 31
2.1.2.4 Kết quả tài chính 32
2.2 Thực trạng công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt
nam 33
2.2.1 Tình hình thanh toán chung 33
2.2.2 Tình hình vận dụng các hình thức thanh toán 35
2.3. Nhận xét về công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHN
o
& PTNT
Việt Nam 44
2.3.1. Những kết quả đạt được 44
3
2.3.2. Những tồn tại cần khắc phục 45
2.3.3. Nguyên nhân 46
Chương 3 49
3.1. Định hướng hoạt động của sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam . 49
3.1.1. Một số chỉ tiêu của kế hoạch kinh doanh năm 2002 49
3.1.2. Phương hướng thực hiện 49
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM tại
Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam 52
3.2.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý 53

3.2.2. Không ngừng hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng 54
3.2.3. Đối với thanh toán bằng tiền mặt và KDTM 54
3.3. Kiến nghị về việc cải tiến các hình thức TTKDTM hiện có và đưa
vào áp dụng các hình thức thanh toán hiện đại 56
3.3.1. Đối với hình thức thanh toán séc 56
3.3.2. Đối với hình thức thanh toán bằng UNC 58
3.3.4. Đối với hình thức thanh toán TTD 60
3.3.5. Đối với hình thức thẻ thanh toán 60
Kết luận 64
Danh mục tài liệu tham khảo 64
Mục lục 66
Trang 66
Chương 1 66
1.1.1 Sự cần thiết khách quan của thanh toán không dùng tiền mặt 3
66
Chương 2: 66
2.1 Khái quát chung về hoạt động của sở giao dịch NHNo & PTNT Việt
Nam 24 67
2.2 Thực trạng công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt
nam 32 67
2.2.2 Tình hình vận dụng các hình thức thanh toán 34
67
2.3 Nhận xét về công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT
Việt nam 43 67
Chương 3: 67







4
lời mở đầu

Lịch sử và phát triển của hệ thống Ngân hàng cho thấy Ngân hàng luôn giữ
một vai trò quan trọng trong hoạt động của nền kinh tế. Trọng trách to lớn, riêng
có mà lịch sử đã đặt lên vai hệ thống Ngân hàng đó là phải làm thật tốt trung tâm
tiền tệ - tín dụng và thanh toán cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế, vai trò trung gian thanh toán của Ngân hàng ngày càng
tỏ rõ tính ưu việt và sự linh hoạt của nó.
Ngày nay, khi nói tới thanh toán không dùng tiền mặt là nói đến một mật
nghiệp vụ, hoạt động mạnh mẽ và quan trọng của Ngân hàng.Thanh toán không
dùng tiền mặt có vai trò to lớn góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn tiền tệ
trong nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển từ đó góp phần
ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Với tầm quan trọng như vậy, việc tìm các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt là một việc làm cần
thiết đối với không riêng Ngân hàng nào.
Trên cơ sở những luận điểm đã trình bày, qua quá trình thực tế tại Sở giao
dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, em lựa chọn đề
tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thanh toán không
dùng tiền mặt tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam " cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời mở đầu,kết luận, nội dung của chuyên đề được kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt
(TTKDTM)
Chương 2: Thực trạng công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHN
o
và PTNT
Việt Nam.

Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM.

nội dung
chương 1: những vấn đề cơ bản về
thanh toán không dùng tiền mặt
5

1.1 Sự cần thiết khách quan và vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt
trong nền kinh tế thị trường
1.1.1 Sự cần thiết khách quan của thanh toán không dùng tiền mặt
Như chúng ta đã biết, sự ra đời và phát triển của lưu thông tiền tệ gắn liền với
quá trình ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sở dĩ như vậy là
do yêu cầu của quá trình trao đổi hàng hoá mà tiền tệ đã ra đời với vai trò làm
trung gian trao đổi các loại hàng hoá được thực hiện dễ dàng, nhanh chóng góp
phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Quá trình tái sản xuất xã hội là một quá trình liên hoàn và không ngừng mở
rộng, trong đó tồn tại các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá dịch vụ do đó không
thể không có hoạt động thanh toán.
Khi nền sản xuất còn ở trình độ thấp, thanh toán tiền tệ chỉ bó hẹp trong phạm
vi và khối lượng nhỏ, việc thanh toán được thực hiện bằng việc chi trả tiền mặt, sự
vận động của vật tư hàng hoá gắn liền với sự vận động của một khối lượng tiền
mặt nhất định. Thanh toán bằng tiền mặt lúc này tỏ ra là phương thức thanh toán
hữu hiệu nhất, nó được thực hiện rất linh hoạt tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên
mua bán mà ít gặp trở ngại.
Tuy nhiên, khi sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao hơn, khối lượng
sản phẩm sản xuất nhiều hơn thì trao đổi hàng hoá không chỉ bó hẹp trong phạm vi
một vùng mà mở rộng ra cả nước và quốc tế.
Lúc này, thanh toán bằng tiền mặt đã bộc lộ những hạn chế nhất định như chi
phí tốn kém trong việc in ấn, bảo quản, vận chuyển, kiểm đếm, không đáp ứng các
nhu cầu thanh toán lớn, ở xa và nó trở nên không an toàn. Chính vì vậy, đòi hỏi

phải có một hình thức thanh toán mới để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế,
thanh toán không dùng tiền mặt ra đời.
Thanh toán không dùng tiền mặt ( TTKDTM ) là sự vận động của tiền tệ qua
chức năng phương tiện thanh toán nhằm phục vụ các quan hệ thanh toán giữa các
tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội bằng cách trích chuyển vốn tiền tệ từ tài
khoản này sang tài khoản khác, bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung
gian của Ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác.
6
TTKDTM ra đời là kết quả tất yếu của quá trình phát triển ngày càng cao của
quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, nó nhanh chóng chiếm ưu thế và trở thành
một phần không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. TTKDTM ra đời đã
khắc phục được nhược điểm của thanh toán bằng tiền mặt. Có thể nói, TTKDTM
mang lại hiệu quả cao, thể hiện một nền kinh tế đã và đang phát triển, các mối
quan hệ về kinh tế, tài chính đã mở rộng, hoạt động của hệ thống Ngân hàng ngày
càng đa dạng và phong phú. Việc phát triển các hình thức TTKDTM và hiện đại
hoá các nghiệp vụ ngân hàng là minh chứng hiện thực cho sự tồn tại và phát triển
hợp logic cũng như vai trò, vị trí của hệ thống Ngân hàng trong nền kinh tế quốc
dân.
Như vậy, có thể nói TTKDTM là phương tiện thanh toán không thể thiếu
được, nó là nấc thang phát triển tất yếu của các quan hệ thanh toán trong nền kinh
tế thị trường và chính nó đã, đang và sẽ đáp ứng tối đa yêu cầu của nền kinh tế
hiện đại.

1.1.2 Vai trò của TTKDTM trong nền kinh tế thị trường
Ngày nay, TTKDTM là một phần không thể tách rời các doanh nghiệp, các cá
nhân và các tổ chức đoàn thể. Trong nền kinh tế thị trường, TTKDTM được thực
hiện trôi trảy sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho tất cả các đối tác tham gia cũng
như cho toàn xã hội.
- TTKDTM góp phần tăng nhanh tốc độ vận động của vật tư, hàng hoá và tiền
vốn, qua đó thúc đẩy quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Như chúng ta đã

biết, bất kỳ một chu kỳ sản xuất nào cũng đều bắt đầu và kết thúc bằng khâu thanh
toán- từ việc mua các yếu tố đầu vào đến việc tiêu thụ các yếu tố đầu ra. Việc đẩy
nhanh tốc độ thanh toán qua Ngân hàng giúp khách hàng rút ngắn được thời gian
trong khâu lưu thông do đó rút ngắn thời được thời gian qua một vòng chu chuyển
vốn, tăng nhanh tốc độ của quá trình sản xuất.
- Tăng tỷ trọng TTKDTM sẽ góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong
lưu thông từ đó tiết kiệm được chi phí của xã hội và của Ngân hàng. Cụ thể đó là
những chi phí trong việc in ấn, vận chuyển, bảo quản, kiểm đếm tiền mặt… Nhờ
vậy, có thể sử dụng các nguồn vốn tiết kiệm được để đầu tư mở rộng sản xuất, xây
7
dựng Cơ sở hạ tầng nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, TTKDTM còn
góp phần hạn chế đến mức thấp nhất các tệ nạn xã hội như tham ô, hối lộ, trộm
cắp…, ngăn chặn hoạt động "rửa tiền", làm tiền giả hay đầu cơ, tích trữ…
-TTKDTM tạo điều kiện để Ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi mở rộng
tín dụng và phát triển dịch vụ Ngân hàng.
Như chúng ta đã biết, nghiệp vụ tín dụng và nghiệp vụ thanh toán luôn có mối
quan hệ ràng buộc hữu cơ với nhau, chỉ khi thực hiện tốt mối quan hệ này thì Ngân
hàng mới có điều kiện phát triển được. TTKDTM đòi hỏi các doanh nghiệp phải
có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng và số dư trên tài khoản tiền gửi phải đảm bảo
khả năng thanh toán khi cần thiết. Các tổ chức kinh tế và cá nhân mở tài khoản tiền
gửi thanh toán ở Ngân hàng có quyền sử dụng toàn bộ số tiền đó vào bất cứ lúc
nào và Ngân hàng phải có trách nhiệm thoả mãn nhu cầu đó. Tuy nhiên, có sự
không ăn khớp giữa những người có nhu cầu rút tiền và gửi tiền vào, do đó hình
thành một số dư tương đối lớn và ổn định về nguồn vốn ngắn hạn cho Ngân hàng.
Mặt khác, Ngân hàng hoàn toàn có kế hoạch một cách tương đối chính xác nhu cầu
rút tiền mặt của khách hàng trong từng thời kỳ. Như vậy, ngoài phần dự trữ tiền
mặt để đảm bảo khả năng chi trả, thanh toán kịp thời cho khách hàng, số còn lại,
Ngân hàng có thể sử dụng để đầu tư, mở rộng tín dụng của mình. Thực tế, khối
lượng tiền gửi thanh toán chiếm tỷ trọng khá cao trong toàn bộ nguồn vốn của
Ngân hàng, tạo thuận lợi cho Ngân hàng trong việc giảm lãi suất cho vay. Bản chất

của nguồn vốn này không phải gửi vào Ngân hàng để lấy lãi mà để sử dụng một
cách chủ động, kịp thời trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ giữa các đơn vị và
cá nhân . Làm tốt công tác thanh toán qua Ngân hàng, thu hút nhiều khách hàng
gửi tiền vào Ngân hàng để thanh toán là điều kiện tốt để mở rộng khối lượng tín
dụng với lãi suất thấp.
- Thông qua TTKDTM, tạo điều kiện để NHTW xây dựng và điều hành
CSTT một cách thuận lợi. Sở dĩ như vậy là do yêu cầu bắt buộc chủ thể tham gia
TTKDTM phải có tài khoản tại NH, vì thế thông qua tình hình biến động số dư
trên tài khoản của các khách hàng, Ngân hàng sẽ thu thập những thông tin cần thiết
về tình hình tài chính, tình hình thanh toán của khách hàng cũng như những thông
tin về dòng lưu chuyển tiền tệ… Từ đó, Ngân hàng có thể thực hiện việc quản lý
8
và điều hành CSTT một cách thuận lợi bằng việc đưa ra những chính sách phù hợp
trong từng thời kỳ.
Như vậy, TTKDTM là rất cần thiết trong nền kinh tế thị trường khi mà Ngân hàng
Thương mại và các doanh nghiệp thực sự kinh doanh tự chủ bởi khi đó tính năng
động, sáng tạo và yếu tố hiệu qủa luôn đặt đúng vị trí của nó.

1.2 Những quy định mang tính nguyên tắc trong TTKDTM
Muốn tổ chức và và thực hiện công tác TTKDTM trong nền kinh tế, ngoài tổ
chức Cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán cần phải nghiên cứu
sâu sắc lý luận xã hội, chế độ thể lệ thanh toán khoa học, thực tiễn đảm bảo công
tác thanh toán được thực hiện thuận tiện, an toàn, chính xác và nhanh chóng. Hiện
nay, TTKDTM được thực hiện trên cơ sở: Nghị định số 30/CP ngày 09.05.1996
của Chính phủ ban hành về quy chế phát hành và sử dụng séc; Thông tư số 07/TT-
NH1 ngày 27.12.1996 của Ngân hàng Nhà nước Việt nam hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 30/CP; Quyết định số 371/1999/QĐ- NHNN1 ngày 19.10.1999 của
Thống đốc NHNN Việt nam về việc ban hành, sử dụng và thanh toán thẻ Ngân
hàng và Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20.09.2001 của Chính phủ về hoạt
động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Nội dung của văn

bản pháp quy được tóm tắt thành những quy định có tính nguyên tắc sau:

1.2.1 Mở và sử dụng tài khoản thanh toán
- Mở tài khoản thanh toán:
Tài khoản thanh toán là tài khoản do người sử dụng dịch vụ thanh toán mở tại
các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để thực hiện giao dịch thanh toán theo
quy định của NHNN.
Người sử dụng dịch vụ thanh toán có quyền tự lựa chọn Ngân hàng hoặc các
tổ chức khác được phép cung cấp dịch vụ thanh toán để mở tài khoản và thực hiện
giao dịch thanh toán.
- Sử dụng tài khoản và uỷ quyền
+ Chủ tài khoản có quyền sử dụng số tiền trên tài khoản thanh toán phù hợp
với quy định của NHNN và pháp luật khác có liên quan.
9
+ Chủ tài khoản có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của Nghị định này và pháp
luật khác có liên quan trong việc sử dụng tài khoản thanh toán.
+ Chủ tài khoản được uỷ quyền cho người khác bằng văn bản sử dụng tài
khoản theo quy định của pháp luật. Người được uỷ quyền có quyền hạn và nghĩa
vụ như chủ tài khoản trong phạm vi uỷ quyền và không được uỷ quyền lại cho
người thứ ba.
- Sử dụng và uỷ quyền sử dụng của đồng chủ tài khoản
Ngoài các quy định về sử dụng tài khoản và uỷ quyền sử dụng tài khoản, việc
sử dụng tài khoản của đồng chủ tài khoản còn phải tuân theo các quy định sau:
+ Mọi giao dịch thanh toán chỉ được thực hiện khi có sự chấp thuận của tất cả
những người là đồng chủ tài khoản.
+ Đồng chủ tài khoản được uỷ quyền cho người khác sử dụng tài khoản trong
phạm vi quyền và nghĩa vụ của mình. Việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản
theo quy định của pháp luật.
- Điều kiện, thủ tục mở và sử dụng tài khoản thanh toán: Loại tài khoản, tính
chất tài khoản, điều kiện, thủ tục mở và sử dụng tài khoản thanh toán do tổ chức

cung ứng dịch vụ thanh toán quy định phù hợp với quy định của NHNN và các quy
định khác của Pháp luật.
Ngoài những quy định trên, tài khoản thanh toán còn có thể bị phong toả hoặc
đóng trong một số trường hợp đã được quy định rõ do có sự thoả thuận giữa hai
bên hoặc do những nguyên nhân khách quan bên ngoài. Tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán được quyền quyết định việc đóng tài khoản khi chủ tài khoản vi phạm
pháp luật trong thanh toán hoặc vi phạm thoả thuận với tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán hoặc khi tài khoản có số dư thấp và không hoạt động trong một thời
gian nhất định theo quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.

1.2.2 Đảm bảo khả năng thanh toán
Người sử dụng dịch vụ phải đảm bảo có đủ tiền trên tài khoản thanh toán mà
mình đã lập trừ trường hợp có thoả thuận thấu chi với tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán.

10
1.2.3 Thực hiện lệnh thanh toán
Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ, kịp thời
lệnh thanh toán phù hợp với quy định hoặc thoả thuận của tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán đối với người sử dụng dịch vụ thanh toán nhưng không trái pháp
luật.

1.2.4 Phí dịch vụ thanh toán
Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được quyền thu phí của người sử dụng
dịch vụ thanh toán.

1.2.5 Chứng từ thanh toán
Tất cả các chứng từ thanh toán của chủ thể thanh toán đều phải lập trên mẫu
in sẵn do Ngân hàng in và nhượng bán. Những chứng từ đó phải lập đủ liên, viết rõ
ràng, không tẩy xoá và phải nộp vào Ngân hàng theo đúng quy định. Các Ngân

hàng có quyền từ chối thanh toán hoặc không chấp nhận thanh toán trong trường
hợp chủ thể thanh toán vi phạm một trong những quy định của chế độ thanh toán
hiện hành.

1.2.6 Trách nhiệm của Ngân hàng
Các Ngân hàng có trách nhiệm hướng dẫn cho khách hàng làm các thủ tục
thanh toán, giám sát khả năng chi trả của khách hàng, cung ứng đầy đủ và kịp thời
các loại giấy tờ cần thiết cho khách hàng theo chế độ quy định. Các Ngân hàng có
trách nhiệm thông báo và đối chiếu thường xuyên với các chủ tài khoản về số dư
tài khoản tiền gửi.
Khi nhận được các chứng từ thanh toán của khách hàng gửi đến, các Ngân
hàng phải kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản trước khi thực hiện
thanh toán và có quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ tiền. Ngân hàng
phải thanh toán kịp thời, nhanh chóng và đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng.
Nếu do thiếu sót gây thiệt hại cho khách hàng thì Ngân hàng phải bồi thường vật
chất cho bên bị hại và tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo luật định. Khi
11
thực hiện dịch vụ thanh toán cho khách hàng, Ngân hàng được thu phí theo quy
định của Thống đốc NHNN .
Trên đây là một số quy định có tính nguyên tắc cơ bản nhằm mục đích vừa
đảm bảo cho quá trình thanh toán được thực hiện đúng đắn, vừa đảm bảo cho sự
kiểm soát bằng đồng tiền của hệ thống Ngân hàng đối với các hoạt động của chủ
thể thanh toán có hiệu qủa.

1.3 Sơ lược về quá trình phát triển TTKDTM ở Việt nam
Xuất phát từ nhận thức sâu sắc về sự cần thiết khách quan cũng như vai trò
của TTKDTM trong nền kinh tế nên ở nước ta ngay từ khi hệ thống Ngân hàng
mới ra đời, TTKDTM đã được tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, trong thời kỳ bao cấp,
hệ thống Ngân hàng nước ta hoạt động hoàn toàn mang tính chất hành chính,
không quan tâm đến hiệu quả kinh tế nên TTKDTM cũng được thực hiện bằng

các biện pháp hành chính, áp đặt và quan liêu, thể hiện ở chỗ:
- Buộc các đơn vị, tổ chức kinh tế phải mở tài khoản ở một Ngân hàng duy
nhất, phải tập trung thanh toán qua Ngân hàng .
- Kỹ thuật công nghệ thanh toán lạc hậu, hình thức đơn điệu, kém hiệu quả.
Vì vậy, TTKDTM ở thời kỳ này không phát huy được tác dụng, tốc độ luân
chuyển vốn chậm, tâm lý người dân không thích thanh toán chuyển khoản mà
thích thanh toán bằng tiền mặt.
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, chính phủ, NHNN
đã có nhiều biện pháp nhằm cải tiến cơ bản TTKDTM, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền…Sau mười năm thực hiện công cuộc đổi mới,
hoạt động Ngân hàng nói chung và công tác thanh toán nói riêng đặc biệt là
TTKDTM đã đạt được những thành tích đáng khích lệ. Đó là từng bước hiện đại
hoá, quốc tế hoá hoạt động thanh toán theo chương trình đổi mới công nghệ Ngân
hàng, bao gồm chương trình trước mắt và chương trình lâu dài.
- Hiện đại hoá hoạt động thanh toán thông qua việc cải tiến đồng loạt các
nghiệp vụ thanh toán của hệ thống Ngân hàng, áp dụng rộng rãi công nghệ tin học
trong thanh toán ở tất cả các cấp Ngân hàng.
12
- Về hình thức thanh toán đã dần đa dạng hoá cho phù hợp với kinh tế thị
trường như séc, UNC, UNT …
- Hiện nay, đã thực hiện việc nối mạng thông tin thanh toán trong hệ thống
Ngân hàng thương mại quốc doanh và một phần Ngân hàng thương mại cổ phần.
Nối mạng thông tin giữa các Ngân hàng thương mại với Ngân hàng Nhà nước.
Xây dựng dự án phát triển các hệ thống thanh toán bao gồm thanh toán bù trừ,
thanh toán chuyển tiền liên ngân hàng …
Tuy nhiên, công tác TTKDTM còn nhiều hạn chế và yếu kém đó là :
- Thanh toán tiền mặt trong nền kinh tế còn chiếm tỷ trọng lớn. Sự buông
lỏng trong tổ chức TTKDTM cùng với chế độ quản lý chứng từ chưa nghiêm đã là
những sơ hở cho tệ tham nhũng và lãng phí trong chi tiêu, làm ảnh hưởng không
nhỏ đến tiềm lực phát triển kinh tế của đất nước.

- Nhìn chung, các thể thức thanh toán hiện hành ở nước ta vẫn còn mang dáng
dấp, nội dung của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, một số hình thức thanh toán
còn phiền hà về thủ tục, chậm chễ trong luân chuyển hay sự an toàn chưa cao …
- Những năm qua chúng ta đã hình thành một số thể thức thanh toán mới như
thẻ thanh toán nhưng còn hạn chế nếu không muốn nói là hình thức. Việc đổi mới
công nghệ thanh toán có sự chuyển biến mạnh mẽ về nội dung lẫn cơ sở vật chất
thế nhưng tác dụng chưa tương xứng với chi phí bỏ ra, số liệu thông tin còn chậm
chế, sai sót còn nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
Từ những thực trạng trên, đòi hỏi ngành Ngân hàng không ngừng đổi mới
hơn nữa theo hướng phát huy ưu thế sẵn có đồng thời đưa vào áp dụng những
phương thức, hình thức, kỹ thuật thanh toán mới, hiện đại nhằm đáp ứng một cách
tốt nhất các yêu cầu về : an toàn, nhanh chóng, chính xác và đảm bảo quyền lợi của
các bên tham gia. Từ đó phát huy mạnh mẽ vai trò của TTKDTM trong nền kinh tế
thị trường và hoà nhập mau chóng vào công nghệ thông tin của thế giới.

1.4 Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
Hiện nay, trên thế giới đã nghiên cứu và áp dụng nhiều hình thức TTKDTM
rất đa dạng và phong phú. Nhưng ở mỗi nước tuỳ theo mô hình kinh tế, trình độ
quản lý, tuỳ theo mức độ hoàn thiện và hiệu năng của hệ thống Ngân hàng người ta
13
lựa chọn một số hình thức và cụ thể hoá cho phù hợp với điều kiện, đặc thù của
mỗi nước.
Ơ nước ta hiện nay, nền kinh tế cơ bản đã chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Vị trí, vai trò và chức năng của doanh nghiệp, của Ngân hàng thương mại, của
Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi theo mô hình kinh tế thị trường. Chính vì vậy,
chế độ TTKDTM cũng được hoàn thiện hơn để phù hợp với thực tiễn.
TTKDTM được quy định trong Nghị định số 64/ 2001/ NĐ - CP ngày
20.9.2001 của Chính phủ bao gồm những hình thức sau :
1. Hình thức thanh toán bằng séc
2. Hình thức thanh toán bằng UNC - chuyển tiền

3. Hình thức thanh toán bằng UNT
4. Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng
5. Hình thức thanh toán bằng thẻ thanh toán

1.4.1 Thanh toán bằng séc
Séc là một thể thức thanh toán quan trọng không thể thiếu được trong
TTKDTM hiện nay. Mặc dù đã ra đời từ rất sớm và ngày càng có nhiều công cụ
thanh toán hiện đại nhưng thanh toán bằng séc vẫn giữ vị trí quan trọng trong các
thể thức TTKDTM .
Theo Nghị định số 30/ CP : Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập
trên mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy địn yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích
tiền từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên tờ séc
hay người cầm tờ séc đó.
Séc là loại chứng từ thanh toán được áp dụng rộng rãi ở tất cả các nước trên
thế giới, quy định sử dụng séc đã được chuẩn hoá trên Luật thương mại quốc gia
và Công ước quốc tế.
Theo Nghị định số 30/ CP quy định rõ ở Việt nam được phép lưu hành các
loại séc vô danh vá séc ký danh được phép chuyển nhượng thông qua thủ tục ký
hậu chuyển nhượng. Nghị định số 30/ CP ra đời đã đánh dấu một bước chuyển
biến có ý nghĩa kinh tế lớn trong việc sử dụng séc ở Việt nam. Theo quy định này,
14
séc không còn là một công cụ chuyển khoản đơn thuần mà còn phát huy được vai
trò là một công cụ lưu thông.
Séc được dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ … hoặc
được dùng để rút tiền mặt tại các chi nhánh Ngân hàng. Tất cả các khách hàng mở
tài khoản tại Ngân hàng đều có quyền sử dụng séc để thanh toán. Thời hạn hiệu lực
của séc là 15 ngày kể từ ngày chủ tài khoản phát hành séc đến ngày người thụ
hưởng nộp séc vào Ngân hàng ( gồm cả ngày chủ nhật và ngày lễ ). Trường hợp
nếu ngày kết thúc thời hạn hiệu lực của tờ séc là ngày nghỉ, ngày lễ thì thời hạn đó
được lùi vào ngày làm việc kế tiếp.

Ơ Việt Nam hiện nay có 2 loại séc thanh toán : Séc chuyển khoản và Séc bảo
chi.
<1>. Séc chuyển khoản
Séc chuyển khoản là lệnh trả tiền của người phát hành séc đối với Ngân hàng
phục vụ mình về việc trích một khoản tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả
cho người được hưởng có tên trong tờ séc.
Séc chuyển khoản chỉ được áp dụng trong phạm vi thanh toán giữa các khách
hàng có tài khoản ở cùng một chi nhánh nhưng các chi nhánh này có tham gia giao
nhận chứng từ trực tiếp cho nhau theo quy định hiện hành (thanh toán bù trừ ), thời
gian hiệu lực của tờ séc tối đa là 10 ngày làm việc.Khác với séc lĩnh tiền mặt, khi
phát hành séc thanh toán chuyển khoản, chủ tài khoản phải gạch hai đường song
song chéo góc hoặc viết chữ "chuyển khoản " ở góc phía trên bên trái mặt trước tờ
séc trước khi giao người thụ hưởng.
Về nguyên tắc, séc chuyển khoản phải được phát hành trên cơ sở số dư tài
khoản tiền gửi hiện có tại Ngân hàng. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ để thanh
toán, séc sẽ bị Ngân hàng từ chối thanh toán, chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm
thanh toán tờ séc đó và những khoản tiền phạt chi phí phát sinh liên quan đến việc
khiếu nại và khởi kiện.
- Sơ đồ luân chuyển séc chuyển khoản:
+ Thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản ở cùng một Ngân hàng
1

Người trả tiền Người thụ hưởng
15
3 2 4



(1): Người trả tiền phát hành séc và giao cho người thụ hưởng.
(2): Người thụ hưởng tiếp nhận séc, sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ

của tờ séc sẽ lập 3 liên bảng kê nộp séc cùng tờ séc nộp vào Ngân hàng xin thanh
toán.
(3): Ngân hàng kiểm tra tờ séc, nếu đủ điều kiện thì tiến hành trích tài khoản
tiền gửi của người trả tiền và báo Nợ cho họ.
(4): Ngân hàng ghi Có vào tài khoản của bên thụ hưởng và báo Có cho họ.
+ Thanh toán khác Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn









(1): Người trả tiền phát hành séc giao cho người thụ hưởng.
(2): Người thụ hưởng sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc sẽ lập
3 liên bảng kê nộp séc cùng tờ séc nộp vào Ngân hàng phục vụ mình xin thanh
toán ( Người thụ hưởng cũng có thể nộp trực tiếp bảng kê nộp séc kèm theo tờ séc
vào Ngân hàng phục vụ người trả tiền để đòi tiền).
(3): Ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra ( Nếu lập bảng kê có gì sai sót hoặc có
các tờ séc không hợp lệ, quá thời hạn hiệu lực thanh toán thì từ chối thanh toán)
sau đó chuyển các tờ séc và bảng kê nộp séc cho Ngân hàng phục vụ người trả
tiền.
Ngân hàng phục vụ
Người trả tiền Người thụ hưởng
Ngân hàng phục vụ
người trả tiền
Ngân hàng phục vụ
người thụ hưởng

2’
1
2 6 4
5
3
16
(4): Ngân hàng phục vụ người trả tiền sau khi kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp
của tờ séc và số dư tài khoản tiền gửi của chủ tài khoản sẽ tiến hành trích tài khoản
của người trả tiền và báo Nợ cho họ.
(5): Ngân hàng phục vụ người trả tiền dùng các liên bảng kê nộp séc lập
chứng từ thanh toán bù trừ và chuyển cho Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để
thanh toán cho người thụ hưởng.
(6): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng tiếp nhận các bảng kê nộp séc (
thông qua thanh toán bù trừ ) sẽ ghi Có vào tài khoản cho người thụhưởng và báo
cho họ.

<2>. Séc bảo chi
Séc bảo chi là một loại séc thanh toán được Ngân hàng đảm bảo khả năng chi
trả bằng cách trích trước số tiền trên tờ séc từ tài khoản tiền gửi của người trả tiền
sang tài khoản " Đảm bảo thanh toán séc " nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của
tờ séc đó.
Séc bảo chi có phạm vi thanh toán rộng hơn séc chuyển khoản. Ngoài việc sử
dụng để thanh toán giữa các chủ thể mở tài khoản tại cùng một chi nhánh Ngân
hàng hoặc hai Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trên cùng địa bàn séc bảo
chi còn được sử dụng để thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản tại các chi
nhánh trong cùng hệ thống trong phạm vi cả nước.



- Sơ đồ luân chuyển thanh toán toán séc bảo chi

+ Trường hợp hai chủ thể thanh toán mở tài khoản tại cùng một chi nhánh
Ngân hàng





Người trả tiền Người thụ hưởng
Ngân hàng phục vụ
1 3
2
5 4
17

(1) : Người trả tiền làm thủ tục bảo chi séc ( lập hai liên giấy "Yêu cầu bảo
chi séc" kèm tờ séc đã ghi đủ các yếu tố nộp vào Ngân hàng để xin bảo chi séc ).
Ngân hàng đối chiếu giấy yêu cầu và tờ Séc, số dư tài khoản của người phát hành,
nếu đủ điều kiện thì tiến hành trích tiền từ tài khoản tiền gửi chuyển vào tài khoản
" Đảm bảo thanh toán Séc". Sau đó đóng dấu "Bảo chi" lên tờ séc và giao séc cho
khách hàng.
(2): Người trả tiền giao Séc cho người thụ hưởng để nhận hàng hoá, dịch vụ.
(3): Người thụ hưởng lập bảng kê nộp Séc kèm các tờ Séc nộp vào Ngân hàng
xin thanh toán.
(4): Ngân hàng kiểm tra ký hiệu mật trên tờ séc và các yếu tố cần thiết khác,
tiến hành ghi Có vào tài khoản của người thụ hưởng và báo Có cho họ.
(5): Ngân hàng tất toán tài khoản " Đảm bảo thanh toán Séc"
+ Trường hợp hai chủ thể thanh toán mở tài khoản khác Ngân hàng có tham
gia thanh toán bù trừ
Về cơ bản, quy trình luân chuyển chứng từ trong trường hợp này giống như
Séc chuyển khoản, tuy nhiên có sự khác nhau về tài khoản hạch toán:

Nếu hai đơn vị mở tài khoản ở khác Ngân hàng, khác hệ thống có tham gia
thanh toán bù trừ thì tại Ngân hàng phục vụ, đơn vị thụ hưởng sau khi kiểm soát đủ
điều kiện sẽ hạch toán:
Nợ TK Thanh toán bù trừ Ngân hàng thành viên
Có TK Tiền gửi của người thụ hưởng
Trường hợp thanh toán khác Ngân hàng, cùng hệ thống và khác địa bàn hạch
toán:
Nợ TK Liên hàng đi
Có TK Tiền gửi của người thụ hưởng
Tại Ngân hàng phục vụ đơn vị phát hành séc ( đơn vị mua) khi nhận được các
chứng từ kèm séc bảo chi từ Ngân hàng khác chuyển đến thì sẽ hạch toán
Nợ TK Tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi
Có TK Liên hàng đến
(hoặc TK thanh toán bù trừ)
18

1.4.2 Thanh toán bằng UNC- chuyển tiền
UNC ra đời từ khá sớm, cùng với tiến bộ Khoa học kỹ thuật, nó được sử dụng
ngày một rộng rãi với các ưu thế nổi bật: an toàn, hiệu quả và đặc biệt thuận tiện
dưới sự trợ giúp của các thành tựu phát triển trong lĩnh vực Công nghệ tin học (
UNC có thể được xử lý dưới dạng các chứng từ điện tử).
Đơn vị trả tiền sau khi nhận được hàng hoá, dịch vụ cung ứng, trong thời gian
nhất định phải lập các UNC gửi đến Ngân hàng để trích tài khoản chuyển trả cho
đơn vị thụ hưởng. Tuỳ theo phạm vi và tổ chức thanh toán, đơn vị phải lập từ 3-4
liên với đâỳ đủ nội dung và các yếu tố cần thiết. Khi lập và nộp UNC vào Ngân
hàng, đơn vị trả tiền phải đảm bảo đủ số dư trên tài khoản để đảm bảo chi trả. Nếu
chứng từ hợp lệ, tài khoản đủ tiền, trong phạm vi một ngày làm việc, Ngân hàng
phải hoàn tất UNC đó. Nếu chứng từ không hợp lệ, hợp pháp, tài khoản không đủ
số dư thì Ngân hàng không thanh toán.
- Quy trình thanh toán: trường hợp hai chủ thể mở tài khoản ở hai Ngân hàng

khác nhau.






(1): Người trả tiền lập 4 liên UNC nộp vào Ngân hàng phục vụ mình để trích
tài khoản của mình trả tiền cho người thụ hưởng.
(2): Ngân hàng kiểm tra thủ tục lập UNC, số dư tài khoản tiền gửi của khách
hàng, nếu đủ điều kiện thanh toán thì tiến hành trích tài khoản tiền gửi của người
trả tiền, báo Nợ cho họ và chuyển tiền sang Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng
để thanh toán cho người thụ hưởng.
(3): Khi nhận được chứng từ thanh toán do Ngân hàng phục vụ người trả tiền
chuyển đến, Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng dùng các liên UNC để ghi Có
vào tài khoản tiền gửi của người thụ hưởng và báo Có cho họ.
Người trả tiền Người thụ hưởng
Ngân hàng phục vụ
người trả tiền
Ngân hàng phục vụ
người thụ hưởng
2 1 3
2’
HH, DV
19
Trường hợp bên thụ hưởng không có tài khoản tiền gửi thì Ngân hàng phục
vụ bên thụ hưởng ghi Có TK "Chuyển tiền phải trả" và báo cho bên thụ hưởng đến
nhận tiền.

1.4.3 Uỷ nhiệm thu (UNT)

UNT là giấy uỷ nhiệm đòi tiền do người thụ hưởng lập và gửi vào Ngân hàng
phụcvụ mình nờ thu hộ tiền theo số lượng hàng hoá đã giao, dịch vụ đã cung ứng.
UNT được sử dụng rộng rãi trong việc thanh toán các hoá đơn định kỳ cho
người cung ứng dịch vụ công cộng như điện, nước, điện thoại … bởi nó thường
được dùng cho các giao dịch thanh toán có giá trị nhỏ nên các UNT chiếm tỷ lệ
không đáng kể trong tổng các giao dịch TTKDTM.
UNT được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản trong cùng
một chi nhánh Ngân hàng hoặc các chi nhánh Ngân hàng cùng hệ thống hoặc khác
hệ thống. Khách hàng mua và bán phải thống nhất thoả thuận dùng hình thức UNT
đối với những điều kiện cụ thể đã ghi trong hợp đồng kinh tế, đồng thời phải thông
báo bằng văn bản cho Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng biết làm căn cứ để thực
hiện các UNT. Sau khi giao hàng hoặc hoàn tất dịch vụ cung ứng, bên thụ hưởng
lập giấy UNT theo mẫu của Ngân hàng, kèm theo hoá đơn gửi tới Ngân hàng phục
vụ mình hoặc gửi trực tiếp đến Ngân hàng phục vụ bên trả tiền yêu cầu thu hộ. Khi
nhận được giấy UNT trong vòng một ngày làm việc, Ngân hàng bên trả tiền trích
tài khoản của khách hàng mình trả ngay cho bên thụ hưởng để hoàn tất việc thanh
toán.
- Quy trình thanh toán UNT ( trường hợp các chủ thể thanh toán mở tài khoản
tại 2 chi nhánh Ngân hàng cùng hoặc khác hệ thống )







Người trả tiền Người thụ hưởng
Ngân hàng phục vụ
người trả tiền
Ngân hàng phục vụ

người thụ hưởng
3
2
1 5
4
20

(1): Sau khi giao hàng hoăc cung ứng dịch vụ, người thụ hưởng lập 4 liên
UNT kèm chứng từ giao hàng nộp vào Ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ tiền (
Bên thụ hưởng cũng có thể nộp trực tiếp UNT vào Ngân hàng phục vụ bên trả tiền
để đòi tiền ).
(2): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng sau khi nhận được bộ chứng từ do
người thụ hưởng gửi đến sẽ tiến hành ký tên, đóng dấu ghi vào sổ theo dõi UNT và
gửi bộ chứng từ này cho Ngân hàng phục vụ người trả tiền.
(3): Ngân hàng phục vụ người trả tiền sau khi nhận được bộ chứng từ sẽ kiểm
tra các yếu tố cần thiết và làm thủ tục trích tài khoản tiền gửi của bên trả tiền và
báo Nợ cho họ.
(4): Ngân hàng phục vụ người trả tiền chuyển tiền đến Ngân hàng phục vụ
người thụ hưởng để thanh toán cho người thụ hưởng.
(5): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng ghi Có vào tài khoản của người thụ
hưởng và báo Có cho họ.

1.4.4 Thư tín dụng (TTD)
TTD là hình thức thanh toán theo sự thoả thuận giữa hai bên bán và mua
trong điều kiện bên bán đòi hỏi bên mua phải có đủ tiền để chi trả phù hợp với giá
trị hàng hoá mà bên bán đã giao theo hợp đồng hay đơn đặt hàng đã ký.
TTD thường dùng để thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở hai Ngân
hàng khác nhau, có thể cùng hoặc khác hệ thống ( trường hợp khác hệ thống thì
nơi Ngân hàng bên bán đóng trụ sở phải có Ngân hàng cùng hệ thống với Ngân
hàng mở TTD và tham gia thanh toán bù trừ với Ngân hàng bên bán). Mỗi TTD

chỉ được dùng để thanh toán cho một người thụ hưởng. Thời hạn hiệu lực của một
TTD là 3 tháng kể từ ngày Ngân hàng bên mua nhận mở TTD. Mức tiền tối thiểu
cuả một TTD là 10 triệu đồng.
- Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán TTD



Người trả tiền Người thụ hưởng
1 7 3 4b
4a
5
21


BNNg


(1): Người trả tiền lập 5 liên giấy mở TTD yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình
trích tài khoản tiền gửi (hoặc vay Ngân hàng ) một số tiền bằng tổng giá trị hàng
hoá, dịch vụ đặt mua để lưu ký vào một tài khoản riêng gọi là tài khoản " Đảm bảo
thanh toán TTD "
(2): Ngân hàng phục vụ bên trả tiền mở TTD cho người trả tiền và chuyển
ngay 2 liên TTD cho Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để báo cho người thụ
hưởng biết.
(3): Khi nhận được 2 liên giấy mở TTD do Ngân hàng phục vụ bên trả tiền
gửi đến, Ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng tiến hành kiểm tra thủ tục mở TTD
như: ký hiệu mật, chữ ký của Ngân hàng mở TTD . Sau khi ghi ngày nhận, ký tên,
đóng dấu đơn vị lên các liên giấy mở TTD sẽ gửi 1 liên cho bên thụ hưởng để làm
căn cứ giao hàng ( còn một liên lưu lại và mở sổ theo dõi TTD đến.
(4a): Bên thụ hưởng phải đối chiếu với hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng,

nếu đầy đủ các yếu tố cần thiết thì giao hàng và yêu cầu người nhận hàng ký vào
hoá đơn giao hàng.
(4b): Căn cứ vào hoá đơn, chứng từ giao hàng, bên thụ hưởng lập 4 liên bảng
kê hoá đơn, chứng từ giao hàng nộp vào Ngân hàng phục vụ mình để xin thanh
toán.
(5): Khi nhận được bộ chứng từ do bên thụ hưởng nộp vào, Ngân hàng kiểm
tra thủ tục lập bảng kê hoá đơn, chứng từ giao hàng , thời hạn hiệu lực của TTD, số
tiền bên thụ hưởng đề nghị thanh toán, sau đó, tiến hành ghi Có cho tài khoản tiền
gửi người thụ hưởng và báo Có cho họ.
(6): Căn cứ vào bảng kê hoá đơn, chứng từ giao hàng, Ngân hàng bên thụ
hưởng lập giấy báo Nợ liên hàng để ghi Nợ TK Liên hàng đi và gửi cho Ngân hàng
phục vụ bên trả tiền để xin thanh toán.

Ngân hàng mở
Thư tín dụng
Ngân hàng phục vụ
người thụ hưởng
2
6
22
(7): Ngân hàng phục vụ bên trả tiền tất toán tài khoản " Đảm bảo thanh toán
TTD "

1.4.5 Thẻ thanh toán
Việc áp dụng hình thức thanh toán bằng thẻ được thực hiện theo quyết định
số 371/ 1999/QĐ- NHNN1 ngày 19.10.1999 của Thống đốc NHNN Việt nam.
Thẻ thanh toán là một công cụ thanh toán do Ngân hàng phát hành và bán cho
khách hàng của mình để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ hay
lĩnh tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động.
Ơ một số nước, các hãng hay các Công ty kinh doanh lớn cũng phát hành thẻ thanh

toán để thu tiền bán hàng của mình. Thẻ thanh toán có nhiều loại nhưng có một số
loại thẻ sau được sử dụng phổ biến:
- Thẻ ghi Nợ: Người sử dụng loại thẻ này không phải lưu ký tiền vào tài
khoản " Đảm bảo thanh toán thẻ". Căn cứ để thanh toán thẻ là số dư tài khoản tiền
gửi của chủ sở hữu thẻ tại Ngân hàng và hạn mức thanh toán tối đa do Ngân hàng
phát hành thẻ quy định. Hạn mức của thẻ được ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ
điện tử hoặc được ghi vào dải băng từ nếu là thẻ từ.
Ơ Việt nam, thẻ ghi Nợ được quy định là thẻ loại A, loại thẻ này áp dụng cho
những khách hàng có quan hệ tốt, thường xuyên và có tín nhiệm với Ngân hàng.
- Thẻ ký quỹ thanh toán : là loại thẻ mà để được sử dụng thẻ, khách hàng phải
lưu ký một số tiền nhất định vào tài khoản " Đảm bảo thanh toán thẻ" thông qua
việc tính tiền gửi hoặc nộp tiền mặt. Số tiền ký quỹ là hạn mức của thẻ và được ghi
vào bộ nhớ của thẻ. Thẻ này quy định là thẻ loại B, áp dụng rộng rãi cho mọi
khách hàng.
- Thẻ tín dụng: áp dụng với những khách hàng có đủ điều kiện được Ngân
hàng đồng ý cho vay tiền để mua thẻ. Mức tiền cho vay được coi như hạn mức tín
dụng và được ghi vào bộ nhớ của thẻ, khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong
phạm vi hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng chấp thuận.
Thẻ thanh toán dù dưới hình thức nào cũng phải có đầy đủ các yếu tố: Tên
chủ thẻ, tên Ngân hàng phát hành thẻ, số thẻ, nhãn hiệu thương mại và thời hạn sử
dụng thẻ.
23
Trong thanh toán thẻ bao gồm các chủ thể sau:
- Ngân hàng phát hành thẻ: là Ngân hàng bán thẻ cho khách hàng và chịu
trách nhiệm thanh toán số tiền do người sử dụng trả cho người thụ hưởng. Ngân
hàng phát hành thẻ có thể uỷ nhiệm cho một số chi nhánh Ngân hàng phát hành và
quản lý thẻ.
- Người sử dụng thẻ: là người trực tiếp mua thẻ tại Ngân hàng và dùng thẻ để
mua hàng hoá, dịch vụ.
- Người tiếp nhận thẻ thanh toán bằng thẻ: là các doanh nghiệp cung ứng

hàng hoá, dịch vụ cho người sử dụng thẻ.
- Ngân hàng đại lý thanh toán : là các chi nhánh Ngân hàng do Ngân hàng
phát hành thẻ quy định, Ngân hàng đại lý thanh toán có trách nhiệm thanh toán cho
người tiếp nhận thanh toán bằng thẻ khi nhận được biên lai thanh toán.
Quy trình thanh toán thẻ:






(1a): Khách hàng lập và gửi đến Ngân hàng phát hành thẻ giấy đề nghị phát
hành thẻ thanh toán ( Nếu là thẻ ký quỹ thanh toán, khách hàng phải nộp thêm
UNC trích tài khoản của mình hoặc nộp tiền mặt để lưu ký tiền vào tài khoản thẻ
thanh toán tại Ngân hàng phát hành thẻ).
(1b): Căn cứ với đề nghị phát hành thẻ của khách hàng, sau khi kiểm tra thủ
tục lập chứng từ và các điều kiện sử dụng thẻ của khách hàng, nếu thấy đủ điều
kiện, Ngân hàng sẽ phát hành thẻ để cấp cho khách hàng và hướng dẫn khách hàng
sử dụng thẻ khi thanh toán. Ngân hàng phát hành thẻ phải quản lý và giữ bí mật
tuyệt đối mật mã sử dụng thẻ của khách hàng.
(2): Chủ sở hữu thẻ giao thẻ cho cơ sở tiếp nhận thẻ để kiểm tra, đưa thẻ vào
máy thanh toán thẻ, máy tự động ghi số tiền thanh toán và in biên lai thanh toán .
Chủ sở hữu thẻ Cơ sở tiếp nhận thẻ
Ngân hàng phát hành
thẻ
Ngân hàng đại lý
thanh toán thẻ
1b 1a
2
1a

3
4 5
6
24
(3): Cơ sở tiếp nhận thẻ giao thẻ và một biên lai thanh toán cho chủ sở hữu
thẻ.
(4): Cơ sở tiếp nhận thanh toán thẻ lập bảng kê biên lai thanh toán và gửi cho
Ngân hàng đại lý thanh toán để thanh toán.
(5): Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ với Ngân hàng phát hành thẻ qua thủ tục
thanh toán giữa các Ngân hàng.
Người sử dụng thẻ có thể rút tiền mặt nhưng mỗi lần không quá 5 triệu đồng
và mỗi ngày thẻ chỉ rút một lần. Nếu mất thẻ, người sử dụng phải thông báo ngay
bằng văn bản cho Ngân hàng phát hành thẻ biết để thông báo cho Ngân hàng đại lý
thanh toán thẻ báo cho cơ sở tiếp nhận thẻ biết. Khi sử dụng hết hạn mức hoặc hết
thời hạn sử dụng của thẻ, nếu có nhu cầu, người sử dụng thẻ phải đến Ngân hàng
phát hành thẻ làm thủ tục sử dụng tiếp. Trong phạm vi 10 ngày làm việc, kể từ
ngày viết hoá đơn cung ứng hàng hoá, dịch vụ, người tiếp nhận thẻ phải nộp biên
lai vào Ngân hàng đại lý để đòi tiền, nếu quá thời hạn trên, Ngân hàng không chấp
nhận thanh toán. Trong phạm vi 1 ngày làm việc, kể từ khi nhận được biên lai
thanh toán, Ngân hàng đại lý phải thanh toán cho người tiếp nhận thanh toán thẻ.
Như vậy, ta thấy rằng TTKDTM với rất nhiều hình thức, có vị trí và vai trò
rất quan trọng đối với nền kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra là trong công tác thanh
toán còn một số tồn tại đòi hỏi ta phải xem xét tuỳ từng Ngân hàng cụ thể để có thể
đưa ra những biện pháp hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM .












25



















Chương 2
Thực trạng công tác TTKDTM tại
sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam

2.1 Khái quát chung về hoạt động của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam

2.1.1 Sự hình thành và phát triển của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt
nam
Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam ( trước đây được gọi là Sở kinh doanh
Hối đoái) thành lập ngày 28.9.1994 theo quyết định số 129/QĐ- NHNo của Tổng
giám đốc NHNo & PTNT Việt nam. Đến 13.5.1999, Sở kinh doanh Hối đoái được
đổi tên thành Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam theo quyết định số
232/QĐ/HĐQT-02 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt nam.

×